Hoài Liên dịch
từ bản tiếng Đức Ansichten Eines Clowns
Chương 11

Tôi vào buồng tắm, rót vào bể một ít dầu tắm - Monika Silvs đã để sẵn một lọ dầu trên ván kệ - và mở vòi nước nóng. Tắm có tác  dụng cũng gần như ngủ, cũng như ngủ có tác dụng gần tốt như làm  "việc ấy". Đấy là công thức của Marie, và khi tôi nghĩ đến "việc ấy",  bao giờ cũng là bằng từ của em. Tôi không thể hình dung được  Marie làm "việc ấy" với Zỹpfner; trong đầu óc tôi không có khả năng  sinh ra loại hình ảnh ấy, và vì thế không bao giờ tôi thực sự muốn  lục lọi quần áo của Marie. Ngược lại tôi có thể tưởng tượng thấy em  ngồi đánh cờ tào cáo với Zỹpfner, điều đó làm tôi điên người. Có thể  nào em làm với hắn cái việc mà em làm với tôi mà lại không để hắn  coi em là một con người phụ bạc hoặc là một gái điếm. Không thể  được, kể cả việc phết bơ vào các lát bánh mì cho hắn. Chỉ nghĩ đến  Marie cầm lên điếu thuốc hút dở của Zỹpfner ở gạt tàn để hút nốt,  tôi đã điên tiết rồi. Tôi cố tự nhủ, sau khi nghĩ kĩ là Zỹpfner không  hút thuốc và có lẽ thích chơi cờ chiếu tướng hơn, ý nghĩ đó cũng  không an ủi tôi chút nào. Nhất định là em phải làm một cái gì đó  với hắn, khiêu vũ hoặc chơi bài, hoặc người nọ đọc sách cho người  kia nghe, và rồi họ phải nói chuyện với nhau, về thời tiết, về tiền  nong? Tóm lại điều duy nhất em có thể làm cho hắn mà không bắt  buộc phải nghĩ đến tôi, là việc chuẩn bị các bữa ăn cho hắn. Em rất  ít khi chuẩn bị bữa ăn cho tôi vì thế trong trường hợp ấy không thể  nói là phản bội hay hủ hóa được. Có lẽ tôi đã sẵn sàng gọi telephon  cho Sommerwild, nhưng hãy còn quá sớm. Tôi thực có ý định lôi  hắn ra khỏi giường vào lúc hai giờ ba mươi sáng để đưa hắn vào  một cuộc nói chuyện dông dài về nghệ thuật. Tám giờ tối, thời gian  này còn quá tử tế đối với hắn, dù trước hết chỉ để hỏi xem đã có bao  nhiêu nguyên tắc hắn nhồi nhét cho Marie, và sau đó dưới dạng nào  Zỹpfner sẽ trả công cho hắn: thánh giá tu viện cấp cao thế kỉ XIII  hay bức tranh Đức Mẹ rênan thế kỉ XIV? Tôi cũng nghĩ đến cách  khử hắn. Cách tốt nhất để khử một tay duy mĩ là sử dụng một văn  hóa phẩm có giá trị, để dẫu gần chết, hắn vẫn có thể phẫn nộ trước tội ác như vậy đối với nghệ thuật. Một bức tranh Đức Mẹ không đáp  ứng được yêu cầu này: vừa quá quý giá, vừa quá bền chắc, tay duy  mĩ vẫn có thể chết mà vẫn còn hi vọng giữ được nó nguyên vẹn. Một  bức họa thường không đủ nặng, cùng lắm thì bộ khung có thể được  việc, nhưng tay duy mĩ còn có thể tự an ủi được khi hắn nghĩ là bức  họa chưa bị ảnh hưởng. Có một cách giải quyết khác: cạo hết mầu ở  bức họa có giá trị đi, và dùng tấm vải vẽ ấy bóp nghẹt hoặc thắt cổ  Sommerwild. Không hẳn là một vụ ám sát hoàn toàn, nhưng ít ra  cũng là một vụ giết người hoàn toàn duy mĩ. Không phải lúc nào  cũng dễ dàng đưa được sang thế giới bên kia một tay táo tợn như hắn. Sommerwild cao lớn, người dong dỏng, "nhân vật đáng kính"  với bộ tóc bạc trắng và vẻ mặt "nhân từ", lại còn là một tay leo núi,  tự hào đã từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới và được  thưởng huy chương bạc trong một cuộc thi thể thao. Vậy đây là một  đối thủ cứng cựa và đã được rèn luyện tốt. Nhất thiết phải tìm ra  bằng được một văn hóa phẩm thật đẹp, làm bằng chất kim loại,  bằng đồng hoặc bằng vàng, kể cả bằng đá cẩm thạch; nhưng tôi khó  có thể khởi đầu bằng việc đi Rome để xoáy một thứ đạo cụ như ý  muốn trong một Viện bảo tàng Vatican.
Trong khi bể tắm ngập đầy nước, tôi bỗng nghĩ đến Blothert,  thành viên quan trọng của câu lạc bộ, tôi mới chỉ gặp có hai lần.  Hắn gần như là "cánh tay phải" của Kinkel, cũng làm chính trị,  nhưng xuất thân từ một giới khác hẳn. Blothert đối với Zỹpfner như là Kinkel đối với Fredebeul: một kiểu phó và "thừa kế tinh thần".  Nhưng gọi cho Blothert thì còn ngu ngốc hơn là húc đầu vào tường.  Chỉ những bức tranh Đức Mẹ barốc của Kinkel là có thể làm thức  tỉnh ở hắn dấu hiệu hơi rõ hơn của sự sống. Cái cách chúng so sánh  những bức tranh với nhau cho thấy về bản chất hai tay này căm  ghét nhau đến thế nào. Blothert là chủ tịch một hội mà Kinkel sẵn  sàng muốn thay thế. Là bạn học cùng lớp, chúng mày tao chi tớ với  nhau từ hồi nhỏ. Gặp Blothert có hai lần, tôi đã thấy hãi hùng. Vóc  người tầm thước trung bình, tóc hoe, trông hắn như hai nhăm tuổi.  Nếu hắn cảm thấy bị quan sát, hắn nhăn mặt và trước khi mở  miệng nói gì là hắn bắt đầu nghiến răng kèn kẹt đến ba mươi giây; trong bốn từ hắn thốt ra ít nhất có hai từ bao giờ cũng là  "capitaliste" hoặc "catholon"(1), và lúc ấy người ta mới nhận ra là  hắn đã ngoài năm mươi tuổi: người ta có thể nói đây là một chàng  trai già khọm đi vì một tật xấu bí ẩn. Một nhân vật đến là độc địa!  Bị một loại chứng cơ cứng, đôi khi đang nói, hắn bắt đầu ấp úng:  "ca-ca-ca", trông đến thảm hại, cho đến lúc hắn có thể bật tiếp ra  được: "... pitaliste" hoặc "...tholon". Marie đã nói với tôi về hắn,  khẳng định trí thông minh sắc sảo của hắn. Sự khẳng định mà tôi  chưa bao giờ thấy được chí ít một sự chứng minh xác thực. Chỉ có  một lần tôi nghe hắn nói ra được khoảng hai mươi từ, hôm người ta  tranh luận về án tử hình... Hắn tuyên bố hoàn toàn tán thành và  điều duy nhất làm tôi ngạc nhiên về hắn là việc hắn không buồn giả  vờ chống lại. Hắn đã tỏ ra hân hoan khi phát biểu, nhưng rồi lại  một lần nữa lúng túng trong những ca-ca-ca của hắn, cứ như với  mỗi tiếng "ca" hắn lại chặt một đầu người. Hắn đã nhìn tôi nhiều  lần, và mỗi lần lại tỏ vẻ ngạc nhiên, như muốn kìm mình khỏi thốt  ra một "không thể tưởng tượng được!". Nhưng hắn không thể không  lắc đầu. Tôi cho là đối với hắn một người không phải là tín đồ Cơ  Đốc giáo thì đơn giản là không thể tồn tại được. Và tôi nghĩ rằng  nếu người ta lặp lại án tử hình thì hắn sẽ không bỏ lỡ cơ hội ca tụng  việc hành quyết tất cả những người không phải là tín đồ Cơ Đốc  giáo. Hắn có một bà vợ, các đứa con và máy telephon. Nhưng, tóm  lại, có lẽ tốt nhất là nên gọi lại một lần nữa cho mẹ tôi. Như vậy chỉ  là để gợi lại hình ảnh Marie mà bỗng nhiên tôi nhớ ra Blothert.  Hẳn là hắn thường lui tới chỗ em - hắn có một số liên hệ với Liên  đoàn quốc gia - và ý nghĩ về việc hắn phải nằm trong số những  khách thường xuyên lui tới chỗ Marie không thể không làm tôi lo  lắng. Tôi gắn bó sâu sắc với Marie và sự diễn cảm kiểu hướng đạo  của em "em phải đi con đường mà em phải theo" có thể tôi phải hiểu  như một công thức về sự vĩnh biệt của một nữ tín đồ ở vào những  tuổi ban đầu sắp được ném vào miệng sư tử? Thế rồi nghĩ đến  Monika Silvs, tôi biết rằng cuối cùng tôi sẽ chấp nhận tình thương  của cô ta. Cô thật xinh, thật tử tế đối với tôi, cô còn tỏ ra chưa ở vào  đúng vị trí của cô so với Marie giữa những hội viên của câu lạc bộ.
Dù cô bận rộn trong việc bếp núc - có hôm tôi đã giúp cả cô nướng  bánh mì - dù cô cười, khiêu vũ hoặc chải tóc, tất cả những gì cô làm  đều tỏ ra thật tự nhiên... dù tôi không thích những loại tranh cô vẽ.  Cần phải nói rằng bị Sommerwild hết sức phỉnh phờ nên cô chỉ thể  hiện những bức tranh Đức Mẹ. Có lẽ tôi sẽ cố gắng cắt bỏ chuyện đó  ra khỏi đầu óc của cô. Bởi vì cuối cùng, lòng tin tưởng và sự hiểu  biết hội họa không nhất định đã đủ để có thể vẽ nên được một bức  tranh đẹp. Cần phải để cho trẻ em và các tu sĩ sùng đạo nhiệm vụ  vẽ các bức tranh Đức Mẹ, dù họ không tự coi mình là nghệ sĩ.  Nhưng liệu tôi có thuyết phục được Monika rời bỏ công việc ấy  không? Chỉ mới là một người mê nghệ thuật thôi, còn trẻ, hai mươi  hai hay hai mươi ba tuổi đời, chắc là còn trinh bạch và đấy chính là  điều làm tôi kinh hãi! Nhưng bỗng nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ rất  tồi: phải chăng các tay Cơ Đốc giáo đã dành cho tôi vai trò của  Siegfried? Rồi điều gì sẽ xảy ra? Cô đã sống thân thiết với tôi từ  nhiều năm, cho đến ngày những nguyên tắc đạo đức ước thúc cô phải  trở về Bonn và lấy Von Severn ở đấy. Tôi gạt bỏ ý nghĩ ấy, nó làm tôi  thấy xấu hổ. Monika tốt đến mức tôi không muốn cô là đối tượng của  những ý nghĩ xấu xa nảy sinh ở tôi. Trường hợp thuận tiện với cả  hai, tôi sẽ phải bắt đầu gạt bỏ ảnh hưởng của Sommerwild khỏi đầu  óc cô, cái tên bảnh bao của các phòng khách xã hội thượng lưu ấy,  giống như cha tôi. Mặc dù cha tôi không có ý định nào khác hơn là  hành động gần như một kẻ bóc lột nhân loại, vả chăng ông lại thực  hiện được đầy đủ ý định ấy. Còn Sommerwild bao giờ cũng gây ra  cho tôi ấn tượng về một giám đốc một trạm bán nước khoáng hoặc  một phòng hòa nhạc, trưởng "phòng giao dịch" một nhà máy đóng  giày, ca sĩ thời thượng, thậm chí ngay cả chủ bút một tờ tạp chí thời  trang, hiểu là "đúng mốt". Mỗi tối chủ nhật, hắn đọc một bài thuyết  giáo ở nhà thờ St Corbinian. Marie đã kéo tôi đến đấy hai lần. Tôi  không hiểu tại sao các cấp trên của Sommerwild lại cho phép hắn  phô trương một cách khó chịu đến như vậy. Tôi rất muốn đọc riêng  rẽ Rilke(1), Hotmannsthal(2) và Newman(3), nhưng không muốn người ta cho ăn một món hổ lốn đem cả ba trộn vào có vị rượu mật ong. Tôi  ngồi nghe vã mồ hôi trong suốt cả buổi thuyết giáo. Hệ thần kinh  sinh dưỡng của tôi không thể chịu đựng được một số thể loại quái gở.  "Cái gì tồn tại cứ tồn tại, cái gì bay lượn cứ bay lượn", một loại thành  ngữ đủ để gieo rắc trong tôi nỗi kinh hoàng. Cái ông mục sư to lớn,  hơi thiển cận, đứng trên bục ấp úng những chân lí tôn giáo khó hiểu  của ông ta nhưng không có tham vọng tuyên bố "lời cuối cùng" còn  làm tôi thích thú hơn. Marie buồn vì thấy những lời thuyết giáo của  Sommerwild không thuyết phục được tôi. Nhưng đấy chưa phải là  điều khó chịu nhất đối với tôi: quả nhiên sau buổi thuyết giáo, khi  chúng tôi vào ngồi ở một quán cà phê gần nhà thờ St Corbinian,  chẳng mấy chốc quán này đã đầy người, họ cũng vừa nghe  Sommerwild thuyết giáo, ai nấy mặt mày rạng rỡ. Rồi đích thân vị  Tổng giám mục bước vào, một vòng người vây quanh ông ta, trong  đó có hai chúng tôi. Lúc đó người ta còn nhai lại hai, ba hoặc đến  bốn lần cái bài ca não nuột hắn vừa mới tuôn ra từ trên bục cao.  Khi ấy tôi thấy một nữ diễn viên trẻ, đẹp như một bông hoa, với bộ  tóc dài mượt vàng óng bao quanh một khuôn mặt thiên thần mà  Marie rỉ tai tôi là đã "ba phần tư" quy đạo, đến cúi hôn vào chân  của Sommerwild. Tôi cho đúng là hắn đã không làm gì hết để ngăn  lại cử chỉ của cô ta.
Tôi đóng vòi nước bể tắm, cởi quần áo, kéo qua khỏi đầu sơmi và  áo gilê vứt chúng vào góc buồng và vừa cởi xong quần áo thì có tiếng  chuông telephon. Tôi biết chỉ có một người có thể quay chuông  mạnh mẽ đến như thế, hùng tráng đến như thế: Zohnerer, ông bầu  của tôi. Rất khổ là ông ta có cái kiểu nói áp mồm vào máy, đến nỗi  tôi vẫn lo là nước bọt từ mồm ông ta có thể bắn vào tôi. Nếu để tỏ ra  thân ái thì mở đầu ông phải nói với tôi: "Tối hôm qua anh thật tuyệt  vời!" Như vậy, không cần biết là trong trường hợp nào. Nhưng nếu  muốn tỏ ra không bằng lòng, ông ta sẽ mở đầu bằng: "Này, Schnier,  dù sao anh cũng không phải là Chaplin!" Như thế hoàn toàn không có nghĩa là ông nghĩ rằng tài nghệ của tôi thua kém Chaplin, nhưng  đơn giản là tôi không nổi tiếng đến mức có thể tự cho phép mình  một vài sự ngông cuồng làm cho ông, Zohnerer, phải phẫn nộ. Hôm  nay, có thể ông ta sẽ không nói điều gì khó chịu, sẽ không thông báo  với tôi, theo thói quen của ông mỗi lần tôi hủy bỏ một buổi biểu  diễn, là ngày tận thế đã đến gần. Ông ta cũng sẽ không gọi tôi là  tên "cuồng loạn phản lệnh". Offenbach, Bamberg và Nỹremburg(1) hẳn là đã hủy hợp đồng của họ, ông sắp sửa liệt kê các khoản chi  phí tính vào sổ nợ của tôi. Chuông telephon vẫn réo lên, mạnh mẽ  và hùng tráng, và tôi thoáng đã có ý định đem máy telephon nhét  xuống dưới đệm đivăng; tuy nhiên, nghĩ lại, tôi khoác áo tắm vào, đi  ra phòng khách và đứng sững một lúc trước máy telephon. Thần  kinh và khả năng chịu đựng của các ông bầu vượt qua mọi thử  thách; đối với họ một công thức như "tính nhạy cảm nghệ sĩ" có  quyền lực không kém gì "công ty vô danh bia Dormund", và người  ta sẽ chỉ tốn nước bọt nếu thật muốn tranh luận một cách nghiêm  túc về nghệ thuật và về những người nghệ sĩ với những người như họ. Họ biết thừa là người nghệ sĩ kém ý thức trách nhiệm nhất còn  có tinh thần trách nhiệm gấp nghìn lần, so với một ông bầu có tinh  thần trách nhiệm nhất, nhưng họ có một thứ vũ khí mà người nghệ  sĩ không thể chống lại được: họ biết chính xác là anh ta không có  thể làm được điều gì khác ngoài việc: vẽ tranh, đi khắp nước làm  diễn viên hài, ca hát hoặc tạc "sự vĩnh cửu" vào đá cẩm thạch hoặc  đá hoa cương. Mọi nghệ sĩ đều như những người phụ nữ không có  khả năng làm gì khác hơn là yêu thương và ngả vào vòng tay của  một tên ngu xuẩn đầu tiên bắt gặp. Có thể thấy trước, nghệ sĩ và  phụ nữ là những con người dễ bị bóc lột nhất, mà mọi ông bầu thì  đều ít nhiều mang tâm hồn của tên ma cô. Tiếng chuông telephon  dứt khoát là của tên ma cô. Koster đúng là đã báo cho ông Zohnerer  biết việc tôi rời khỏi Bochum, vì vậy ông ta biết chắc là lúc này có  thể tóm được tôi ở nhà. Tôi buộc dải áo choàng bông của tôi lại và  nhấc ống nghe lên. Mùi da sặc sụa phả ngay vào mặt tôi.
- Alô, Schnier, cái kiểu gì để phải đợi lâu đến như vậy, có ý gì hả?
- Tôi vừa mới có ý định khiêm tốn tắm một cái. Như thế có trái  với các điều khoản thỏa thuận của chúng ta không?
- Anh bạn thân mến, trò hài hước của anh không có giá trị bằng  sợi dây thừng để treo cổ đâu!
- ở đâu nhỉ, sợi dây thừng? Nó đã treo lủng lẳng rồi à?
- Hãy để đấy những biểu tượng và chúng ta đi vào việc, đồng ý  chứ?
- Không phải tôi là người đầu tiên dùng biểu tượng.
- Ai nói trước không quan trọng! ông ta hét to. Điều đó không  ngăn cản trên bình diện nghệ thuật anh có vẻ hoàn toàn có ý định  muốn tự sát!
- Ông Zohnerer thân mến, tôi nói nhẹ nhàng, ông có thể để miệng  ông ra xa ống nói một chút được không, tôi thấy hơi bia phả vào  mặt tôi.
Ông ta bắt đầu rủa tục rồi vừa cười vừa tuyên bố:
- Theo tôi, tính láo xược của anh có vẻ còn nguyên vẹn... nhưng  chúng ta đương nói về chuyện gì nhỉ?
- Về nghệ thuật. Nhưng nếu ông muốn thì chúng ta sẽ nói về  chuyện làm ăn.
- Trong trường hợp ấy, chúng ta gần như không còn gì để nói với  nhau nữa. Nên hiểu tôi, Schnier, tôi không có ý định bỏ rơi anh, anh  hiểu chứ?
Sự kinh ngạc như khóa miệng tôi lại.
- Chúng tôi sẽ rút anh ra khỏi chu trình trong thời gian sáu  tháng, ông ta nói tiếp, sau đó tôi sẽ lại giúp anh tiến hành công  việc. Tôi hi vọng cái tên nhóc bẩn thỉu ở Bochum không xen vào việc  của anh một cách quá mức?
- Có đấy! Hắn lừa đảo tôi... một chai rượu trắng và tiền chênh  lệch giữa một vé tàu hạng nhất với một vé tàu hạng nhì Bochum -  Bonn.
- Anh phạm vào một hành động ngu ngốc khi chấp nhận việc  giảm bớt tiền thù lao. Hợp đồng là hợp đồng. Nhưng sự thất bại của anh giải thích sự đầu hàng ấy.
- Zohnerer, tôi nói khẽ, có thật ông có tình người không, vậy thì...
- Thôi đừng đùa cợt nữa! Tôi rất mến anh, Schnier. Nếu anh chưa  nhận ra, thì đúng là anh còn ngốc hơn tôi tưởng đấy, hơn nữa anh  còn có giá, nói theo kiểu thương mại. Nhưng trước hết hãy thôi cái  chuyện bí tỉ trò trẻ ấy đi.
Ông ta có lí: trò trẻ là từ chính xác.
- Nhưng cái đó đã giúp tôi đứng vững.
- Thế là thế nào?
- Về tâm lí.
- Vô lí! Bỏ ngay cái chuyện tâm lí ấy ra ngoài đi. Đồng ý là chúng  ta có thể kiện Mayenco về việc hủy bỏ hợp đồng và còn có thể có cơ  may thắng cuộc nữa... nhưng tôi không tán thành. Ngừng hoạt  động trong thời gian sáu tháng, sau đó lại tiến hành công việc.
- Thế trong thời gian đó, tôi được coi như sống bằng gì?
- Chà! Anh có thể moi ở ông bố của anh cái gì đó?
- Nếu không được?
- Lúc ấy chịu khó tìm ra cho được một cô bạn nhỏ có thể bao anh  trong thời gian cần thiết.
- Tôi đi làm trò ở các chợ còn hơn, từ nông thôn ra thị trấn và từ  thị trấn về nông thôn.
- Tỉnh lại đi, anh bạn! ở các thị trấn và ở nông thôn người ta cũng  đọc báo, và lúc này tôi không thể nào tìm ra được cho anh một tối  biểu diễn ở một hội thanh niên với tiền thù lao hai mươi mác một  tối đâu.
- Ông đã thử chưa?
- Còn hơn thế! Tôi không rời khỏi telephon trong suốt một ngày  để làm việc cho anh. Con số không, không có gì làm tinh thần công  chúng sa sút hơn là một diễn viên hài chỉ đáng để thương hại. Như thế một anh hầu bàn trong quán cà phê phải ngồi trong ghế di động  đến phục vụ rượu cho anh. Anh ảo tưởng quá đấy, hãy tin ở tôi.
- Còn ông không à? Và như hắn không trả lời, tôi tấn công luôn:  ông không thấy là chính ông đã ảo tưởng khi ông nghĩ là tôi có khả  năng bắt đầu hoạt động trở lại trong vòng sáu tháng?
- Có lẽ thế, nhưng đây là cơ hội duy nhất của chúng ta. Tất nhiên  như vậy còn hơn là phải đợi mất một năm.
- Một năm, tôi nói, ông có biết nó biểu thị gì không?
- Ba trăm sáu mươi nhăm ngày, ông ta trả lời miệng lại dính chặt  vào telephon.
Hơi thở của ông ta làm tôi muốn buồn nôn.
- Thế nếu tôi dùng tên gọi khác, tôi nói, với một cái mũi khác và  những tiết mục khác? Tôi có thể vừa hát vừa đệm đàn ghi ta và có  thể còn làm trò tung hứng nữa?
- Phi lí! Anh hát như bò rống và tung hứng chỉ như một tay  không chuyên. Tôi nói là phi lí, ở anh có cái chất của một diễn viên  hài có tài, có thể còn là rất có tài, nhưng tôi không muốn nghe nhắc  đến anh trong ba tháng, trong thời gian đó anh phải bỏ ra tám giờ  một ngày để tập luyện. Đến lúc đó anh sẽ cho tôi biết về những tiết  mục của anh... cũ hoặc mới. Nhưng hãy bắt đầu làm việc và bỏ cái  chuyện uống rượu đáng nguyền rủa ấy đi!
Tôi giữ im lặng và lại nghe thấy ông ta thở rồi hút thuốc.
- Hãy cố tìm ra một con người thông cảm... như cô gái đã ra đi với  anh ấy.
- Một con người thông cảm...
- Phải, đúng thế, còn lại đều là chuyện tầm phào. Và nhất là  không nên tự huyễn hoặc mình cho là có thể tự xoay xở lấy được  không cần đến tôi, rồi đi trình diễn ở một vài cái hội hạng bét. Cái  trò ấy chỉ có thể kéo dài không quá ba tuần: một vài trò hề trước  một công chúng là những người lính cứu hỏa, sau đó đi vào hàng  chìa mũ ra. Nhưng tôi muốn nói trước với anh là tất nhiên tôi sẽ  biết ngay và tôi sẽ tức khắc cưa cụt chân anh đấy.
- Thật là độc ác!
- Về mặt độc ác, tôi là người bạn trung thành nhất mà anh có thể  tìm thấy được. Nhưng hãy tin rằng, nếu anh định đi tắt, thì chỉ hai tháng là cùng, sự nguy kịch sẽ đến với anh. Tôi biết việc của tôi.  Anh có nghe tôi nói không?
Tôi im lặng.
- Anh vẫn nghe đấy chứ? Ông ta nhắc lại giọng dịu đi.
- Có.
- Tôi thành thật mến anh, Schnier, anh biết đấy. Và chúng ta đã làm việc tốt với nhau. Nếu không, anh tưởng tôi chịu chơi sang tốn  tiền chi cho một cuộc nói chuyện bằng telephon như cuộc nói  chuyện này hay sao?
- Bây giờ là hơn bảy giờ và cái trò đùa này chỉ tốn cho ông có hai  mác rưỡi.
- Nếu không phải là ba. Nhưng tôi muốn nói với anh là vào giờ  này anh sẽ không thể tìm ra được ở đâu một người đại lí đã có thể  làm được việc nhiều cho anh đến như vậy đâu... Vậy, đúng như thế  nhé: sau ba tháng anh sẽ đến tìm tôi với ít nhất sáu tiết mục nhất  thiết hoàn hảo. Và trong khi chờ đợi, hãy moi cho được ở ông bố của  anh tất cả những gì anh có thể moi được. Chào!
Và ông ta gác máy luôn. Tôi đứng như trời trồng; ống nghe trên  tay, còn nghe thấy âm tố, tôi chờ đợi thêm và còn do dự một lúc  trước khi đặt ống nghe xuống. Zohnerer đã phỉnh phờ tôi nhiều lần  nhưng hắn không bao giờ nói dối tôi. ở thời kì tôi có khả năng kiếm  được hai trăm hai mươi mác một tối, hắn đã kiếm cho tôi những hợp  đồng một trăm tám mươi mác và chắc chắn hắn đã vớ bẫm trên  lưng tôi. Chỉ sau khi gác máy tôi mới nhận ra điều này: Zohnerer là  người đối thoại tôi còn muốn chuyện trò lâu hơn cả. Tôi không thể  tin là không còn giải pháp nào khác ngoài việc chờ đợi trong sáu  tháng. Có thể có một gánh xiếc nào đó sẵn sàng tuyển dụng tôi: tôi  người nhẹ nhõm, không bị chóng mặt và với một sự tập dượt tối  thiểu tôi có thể nhanh chóng làm một vài trò nhào lộn. Hoặc còn có  thể, tại sao lại không nhỉ, đóng các vở kịch ngắn cùng với một diễn  viên hài nào đó? Marie vẫn khẳng định là có "đối xứng" những tiết  mục của tôi sẽ làm tôi đỡ chán hơn. Và Zohnerer hẳn chưa khai  thác hết các khả năng của tôi. Tôi quyết định sau này sẽ gọi lại cho  hắn. Trở lại buồng tắm, tôi cởi áo choàng ra, quẳng nốt quần áo còn mang trên mình vào đám sơmi và gilê ở góc buồng và ngâm mình  xuống nước. Tắm nước nóng dễ chịu không khác gì được ngủ một  giấc. Trong các chuyến đi biểu diễn, ngay cả khi không kiếm được  bao nhiêu, bao giờ tôi cũng thuê phòng có buồng tắm. Marie coi sự  xa xỉ này có từ nguồn gốc tư sản của gia đình tôi. Không đúng, ở  nhà tôi, người ta tiết kiệm nước nóng không kém gì mọi thứ khác.  Tắm nước lạnh, phải, tha hồ, vì mẹ tôi cũng cho việc tắm nước nóng  là một sự xa xỉ. Và về điểm này, Anna, mặc dầu làm ngơ trước mọi  chuyện, cũng rất cố chấp. Cần phải nói là ở trường I.R.9 của chị,  tắm nước nóng được coi là một loại tội lỗi chết người.
Trong khi tắm, tôi cũng thấy đau khổ vì thiếu vắng Marie. Rất  nhiều lần, khi tôi tắm, em nằm trên giường đọc sách cho tôi nghe:  có một lần em đọc cho tôi nghe, trong Cựu Ước, toàn bộ câu chuyện  về Salomon và hoàng hậu Saba(1), một lần khác câu chuyện về cuộc  chiến đấu của những người Maccabées(1), và đôi khi một đoạn trong  tác phẩm của Thomas Wolfe(2) Look homeword, Angel(3). Và giờ đây,  tôi nằm một mình, bị ruồng bỏ, trong cái bể tắm han gỉ nực cười  này. Nền buồng tắm lát gạch men màu đen, nhưng bể tắm, hộp xà  phòng, tay vòi hương sen và hố tiêu đều một màu gỉ sắt. Tôi cảm  thấy thiếu tiếng nói của Marie. Sau khi suy nghĩ kĩ, tôi cho là em  không thể đọc Kinh Thánh với Zỹpfner mà không tự thấy mình là  một kẻ phản bội hoặc một gái điếm. Hẳn là em phải nhớ đến khách  sạn Dusseldorf, ở đấy em đã đọc cho tôi nghe sự tích về Salomon và  hoàng hậu Saba cho đến lúc tôi ngủ thiếp đi trong bể tắm. Những  tấm thảm màu lục trong phòng chúng tôi ở khách sạn Dusseldorf,  làn tóc đen của Marie, tiếng nói của em!... Rồi em đến đem cho tôi  điếu thuốc lá đã châm sẵn, và tôi ôm hôn em.
Vùi đầu dưới tấm đệm mút tôi nghĩ đến Marie. Em không thể  làm được cái gì với cái tay Zỹpfner và cũng không thể trước mặt hắn em không nghĩ đến tôi. Kể cả việc vặn lại nút hộp thuốc đánh răng  của hắn. Đã biết bao nhiêu lần chúng tôi cùng dùng bữa điểm tâm  với nhau, Marie và tôi! Dè sẻn hay dồi dào, ngắn ngủi hay kéo dài,  từ sớm tinh mơ hay rất muộn vào cuối buổi sáng, với nhiều mứt hoa  quả hay không có. Cứ nghĩ đến chuyện em có thể cùng dùng bữa  điểm tâm với Zỹpfner cũng vào giờ giấc ấy trước khi hắn lên xe đi  đến cơ quan Cơ Đốc giáo của hắn, là tôi đã gần như là một người  sùng đạo: "Tôi cầu nguyện cho không bao giờ có... không bao giờ có  bữa điểm tâm ngắn ngủi của em cùng với Zỹpfner! Tôi cố tình hình  dung ra hắn: tóc màu nâu, mặt sáng sủa, thân hình cân đối, kiểu  người Alcibiade(1) của đạo Cơ Đốc Đức, có phần ít tín ngưỡng hơn.  Theo Kinkel nói, hắn thuộc "phái trung dung nhưng dù sao cũng  ngả sang hữu hơn là sang tả". Tôi thấy như những chuyện trung -  hữu, trung - tả bao giờ cũng là điểm chính kéo dài các cuộc trao đổi  giữa họ. Để cho được hoàn toàn trung thực, cần phải cộng thêm  Zỹpfner vào bốn tín đồ Cơ Đốc mà tôi đã nhắc đến: Giáo hoàng  Jean, Alec Guinness, Marie, Gregory... thêm Zỹpfner. Chắc chắn là,  mọi vấn đề về khuynh hướng tách riêng ra, kéo Marie ra khỏi một  hoàn cảnh tội lỗi, việc ấy đối với hắn phải là một gánh nặng nếu ta  cân nhắc kĩ. Những cuộc đi dạo chơi của họ, tay cầm tay, chưa hề  bao giờ mang tính cách nghiêm túc. Sau này, khi tôi nói về chuyện  ấy với Marie, em có đỏ mặt thật, nhưng không hề hổ thẹn; có nhiều  lí do khiến họ thành bạn bè với nhau: bố mẹ của cả hai người đều bị  bọn Quốc xã truy nã, cùng chung một tôn giáo, và cuối cùng là "cách  sống của anh ta, anh thấy không. Em vẫn còn rất mến anh ấy".
Nước tắm của tôi đã nguội. Tôi tháo bớt ra một phần nước rồi mở  vòi nước nóng và đổ thêm vào một ít dầu tắm. Lúc ấy tôi nghĩ đến  bố tôi, ông có lợi tức ở hãng sản xuất loại dầu này. Tôi có mua thuốc  lá, xà phòng, giấy viết thư, một bộ áo liền quần của trẻ em hoặc các  thỏi xúc xích: cũng là bổ từ thu lợi trong công việc kinh doanh các  mặt hàng ấy. Tôi đoán là ông có cả lợi tức trong hai xentimet rưỡi  thuốc đánh răng mà ngẫu nhiên tôi dùng. Nhưng ở nhà chúng tôi,  người ta cấm không được nói chuyện tiền nong. Khi Anna tính toán việc chi tiêu, muốn đưa sổ ra cho mẹ tôi xem, bà kêu lên: "Lại  chuyện tiền nong... sao mà ghê tởm!". Người ta cho chúng tôi rất ít  tiền bỏ túi. May mắn là chúng tôi có họ hàng đông đúc, và khi cần  tập hợp mọi lực lượng, có từ năm mươi đến sáu mươi ông chú, bà cô  tới. Vậy là một số trong họ - biết tính hà tiện điển hình của mẹ tôi -  đã có lòng tốt tuồn cho chúng tôi một ít tiền. Khổ một cái là mẹ của  mẹ tôi lại xuất thân quý tộc: dòng dõi Von Hohenbrode, và hiện nay  bố tôi vẫn còn tự coi là người con rể mà người ta chỉ "hạ cố" chấp  nhận, trong khi bố vợ của ông, đã lấy một Von Hohenbrode, lại chỉ  mang một cái tên đơn giản là Tuhler. Ngày nay những người Đức  hãy còn mê say giới quý tộc hơn cả năm 1910. Thật là điên khi  những người gọi là thông minh lại chạy vạy như những người tù  khổ sai đi xây dựng cho mình những mối quan hệ trong giới quý tộc.  Có một hôm tôi cũng đã buộc phải nhắc nhở ủy ban Trung ương của  mẹ tôi sự tình này, đấy cũng là vấn đề về đẳng cấp chủng tộc. Đến  một người biết điều như ông nội tôi cũng còn đau khổ vì họ nhà  Schnier hụt không được mang danh hiệu quý tộc. Chuyện xảy ra  vào mùa hè năm 1918, công việc đã chắc ăn, gần lúc quyết định,  Hoàng đế chỉ còn việc kí sắc lệnh thì ngài chuồn mất. Hẳn là lúc đó  ngài còn bận nhiều việc khác... cho nên điều đó đã không bao giờ  xảy ra. Cho đến bây giờ, đã sau gần một thế kỉ, ở nhà chúng tôi  người ta vẫn không quên mỗi khi có cơ hội kể lại câu chuyện về sự  "hầu như quý tộc" của nhà Schnier. Cha tôi luôn luôn nhắc lại:  "Người ta đã tìm thấy bản sắc lệnh nằm trong tấm lót tay của  Hoàng đế". Tôi lấy làm lạ là tại sao người ta không nghĩ đến chuyện  đưa mảnh giấy ấy đến Doorn(1) để ngài kí vào. Nếu là tôi, tôi sẽ gửi  đi một phu trạm để giải quyết vấn đề theo một phong cách xứng  hợp.
Tôi lại gợi lại hình ảnh của Marie: Marie mở va li của chúng tôi  ra khi tôi đã nằm vào bể tắm; Marie đứng trước gương, tháo găng  tay và vuốt tóc; Marie lấy ra chiếc mắc áo từ trong tủ, treo quần áo  vào, rồi đặt lại tất cả vào tủ (tiếng kèn kẹt của các mắc áo trên thanh  treo bằng đồng); rồi Marie xếp đặt các đôi giầy, tiếng lộp cộp nhẹ của  những gót giầy, tiếng va vào nhau của đế giầy; Marie đặt các ống thuốc đánh răng, lọ, bình lên mặt tấm kính bàn trang điểm: lọ kem  bôi mặt lớn, lọ thuốc bôi móng tay nhỏ, hộp phấn và ống son bôi môi  để thẳng đứng (tiếng động nhỏ của kim loại).
Tôi bỗng thấy tôi nằm khóc trong bể tắm và phát hiện ra một  hiện tượng vật lí: những giọt nước mắt của tôi có vẻ lạnh. Cho đến  nay tôi vẫn thấy là nước mắt nóng. Những tháng qua, tôi đã hơn  một lần khóc với những giọt nước mắt nóng... khi tôi say rượu. Lúc  ấy nghĩ đến Henriette, đến cha tôi và nghĩ đến Léo, người em quy  đạo, tôi ngạc nhiên thấy nó còn chưa gọi cho tôi.
-------------------------------
(1) Capitaliste, catholon: nhà tư bản, tín đồ Cơ Đốc giáo... (có ý giễu cợt).
(1) Rilke (1875-1926): nhà thơ áo viết bằng tiếng Đức, thể hiện tình cảm cô đơn, buồn thảm, hoang mang, băn  khoăn về cuộc đời và cái chết, tìm thấy trong cái chết ý nghĩa của cuộc sống phù du và coi nghệ thuật, thơ là một  thứ tôn giáo, cứu cánh của cuộc sống.
(2) Hotmannsthal (1874-1929): nhà văn, nhà thơ áo viết bằng tiếng Đức. Sáng tác bộc lộ những khuynh  hướng trái ngược: tư tưởng nhân đạo tư sản, truyền thống văn hóa Thiên Chúa giáo, khuynh hướng suy đồi; vào giai đoạn sau của cuộc đời sáng tác chán ghét thực tế của xã hội đế quốc, tìm cách thoát li vào dĩ vãng, truyền  thống Thiên Chúa giáo và tạo một nền sân khấu tôn giáo (canh tân bi kịch cổ điển Hi Lạp, kịch của Anh thời kì  Trung cổ về đời Chúa Jêsu, kịch barốc áo.
(3) Newman (1801-1890): Hồng y giáo chủ và nhà thần học người Anh. Tác giả cuốn Ngữ pháp của sự tán  đồng.
(1) Các thành phố ở Tây Đức.
(1) Con và người kế nghiệp của David, vua Israel, (970-931) trước Công nguyên, nổi tiếng về sự khôn ngoan,  đã được hoàng hậu Saba đến thăm khi Salomon còn là hoàng tử.
(1) Maccabées (hay Maccabée): giáo sĩ Do Thái đạo quân của Maccabée chống lại vua Antiochos IV Epiphane  năm 166 trước Công nguyên. Maccabée có hai người em đều bị ám sát. Người em thứ hai trước khi bị ám sát đã đòi được sự độc lập cho Judée, trung tâm xứ sở Do Thái, vào năm 142 trước Công nguyên.
(2) Thomas Wolfe (1900-1938): nhà văn Mĩ viết tiểu thuyết trữ tình và tự truyện.
(3) Hãy hướng về Tổ Quốc, Angel.
(1) Alcibiade: tướng Aten (Hi Lạp cổ) năm 450 trước Công nguyên, học trò của Socrate, đã đưa dân chúng vào  một cuộc viễn chinh phiêu lưu chống Cicile (năm 415), bị kết tội phạm Thánh.
(1) Một địa danh ở dải Pays Bas thuộc Hà Lan, giáp phía Tây nước Đức.