Chương 4

Tư Luông chạy ra khỏi cửa thì bắt đầu lết từ hàng ba ra đến sân, vừ ú ớ:
- Ợ.. ớ... bớ... bớ... làng xóm...
Líu lưỡi la được vài tiếng, tư Luông mới kêu lớn lên được:
- Bớ làng xóm... làng xóm ơi...!
anh cứ giương gân cổ la làng mãi cho đến khi hàng xóm chạy đổ tới anh cũng vẩn còn la làng
.Người ta đến bu quanh tư Luông, mổi người một tiếng:
- Gì vậy, tư Luông?
- Việc gì? Nín cho người ta hỏi đây nè.
Tư Luông giật mình ngồi nhìn trân trối từng người một, mà chẳng nói được tiếng nào hết.
- Vụ gì mà ngồi trước sân hai Cung mà la làng vậy?
- Vụ gì, anh Tư? Sao mặt anh mày anh tái xanh vậy?
Bây giờ tư Luông mới hoàn hồn, anh chỉ vào nhà, vừa hổn hển thở:
- Vô trỏng...coi...
Mọi người ngơ ngác:
- Cái gì ở trỏng?
- Vợ chồnh hai Cung đâu rồi?
Tư Luông cũng chỉ tay vô nhà:
- Mấy cha... vô trỏng coi...
Cả đám bảy tám người đàn ông đều bỏ mặc tư Luông ngồi đó, họ chen nhau chạy vào nhà anh Cung, kẻ thì xuống bếp, người thì lên nhà trên, mỗi người lục soát một nơi một nơi xem vụ gì cho biết. Bỗng một ngừơi hét lên:
- Á, trời đất ơi!
Rồi tất cả đều dồn vào cửa buồng, mổi ngừơi một câu thành hổn lọan:
- Gì đó năm Ngâu?
  Giọng đáp run lập cập:
- Coi... Vợ hai cung kìa... máu me...
- Úy! thánh thần ơi! Cái gì kỳ vậy?
Ngừơi lại chạy tháo trở ra ngoài:
- Vợ hai Cung bị cắt cổ!
- Chết chưa hay còn sống?
- Không biết.
Có người lại bịt mũi:
- In là hơi máu xông ra tới ngoài, tanh quá.
- Ừ, tanh máu.
Thế rồi vì tính hiếu kỳ và thình tương thân, tương ái của láng giềng, kẻ trước, người sau, họ dò dẫm từng bước với vẻ sợ sệt trở vào cửa buồng, nhưng chưa ai dám vào bên giường.
Những giọng thảnh thốt kêu lên:
- Mình mẩy xanh lét hết rồi!
- Chắc vợ hai Cung đã chết cóng rồi.
- Sao quần áo lại bõ một đóng dưới đất kìa?
- Ai biết.
Còn con nhỏ nằm sắp trên ngực vợ hai Cung sao mình mẩy cũng máu me không vậy, mà không thấy nó nhúc nhích....?
Một ngừơi đàn ông bứơc tới một bứơc, rồi lui nửa bước, đứng ngóng cổ, giương mắt nhìn thật kỷ,
đọan nói:
- Con Nương còn thở.
- Đâu ai làm gan vô đại coi sao đó.
Sau câu nói đó, những người đứng hàng đầu liền rùng mình thụt lùi:
- Í... ị...!
- Ai mà dam vô cha nội.
- Máu tanh, khó chịu quá!
- Mấy chú dang ra coi.
Nghe giọng nói đầy cam đảm, ai nầy đều quay lại. Chợt thấy một ông già mặc một bộ đồ bà ba đen, đầu quấn khăn vằn, tất cã mọi người đều tỏ ra kính nể, đứng vẹt ra hai bên nhường lối cho ông, vừa buột miệng:
  -Bác Sáu!
- Bác mau vô, vợ con hai Cung sao đó bác sáu.
Chính ông già đólà ông sáu Long, cha của anh Tư Luông. Ông bước thẳng vào buồng vợ hai Cung, chẳng chút sợ sệt. Gần đến bên giường, ông liền kéo chéo khăn bịt đầu, bịt cả miệng, mũi lại, đoạn cuối xuống xem xét thi thể của chị Cung.
Thấy ông già bạo dạnnhư vậy, có vài người đàn ôngcũng bước theo đứnh nép sau lưng ông sáu Long. chỉ có mình tư Luông bò vô tới thềm nhà rồi ngồi đó thở dốc, mặt mày còn tái ngắt như cái xác chết trong kia.
Người đàn ông đứng sát bên lưng ông sáu Long kêu lên kinh ngạc:
- Cuốn họng đứy lìa rồi! Ủa! Còn con Nương...in là nó đang ôm vú mẹ mà bú vậy, ông sáu. Ông coi con nhỏ có sao hôn, ông sáu?
Ông sáu Long lẩm bẩm:
- Con nhỏ còn sống.
Nói dứt lời, ông sáu Long liền đưa tay nắm ngang nách bé Nương giật ra, khiến cho nó khóc thét lên và chới với hai tay vì mất vú mẹ.
Ông vội vàng bứt áo con bé xem xét khắp mình mẩy, tay chân, nhưng chẳng tìm thấy một vết tích nào cả. Ông ôm con Nương chạy ra ngoài hối thúc:
- Mấy chú! Đánh mõ hồi một lên, mấy chú. Còn ai lanh chưn thì chạy đi báo cho chủ ấp với hương quản dùm mau mau đi.
Ông sáu Long chưa dứt lời thì đã có ba bốn người đàn ông túa chạy. Chỉ một chốc sau thì tiếng mõ tre, ván ngựa, thùng thiếc đánh loạn xạlên như có cướp vào làng.
Đàn bà, con nít trong làng rất sợ tiếng mõ hồi một, vì điệu mõ báo động cho một vụ cướp bóc hay sát nhân, mặc dù mặt trời đã lên cao quá nữa cây dừa, mà đàn bà, con nít rúc cả trong nhà. Chỉ có đàn ông, trai tráng vác roi, vác đdòn đỏ chạy về hướng nổi mõ hồi một.
Sân nhà hai Cung mổi lúc đông nghẹt người. Nhưng sau khi nghe kể phớt qua vụ án mạng xảy ra trong nhà, ai nấy đều khựng cả lại ngoài thềm
Giữa bầu không khí xôn xao, có giọng ông già hỏi to:
- Có ai chạy đi kêu chủ ấp Hiệu chưa?
- Không có chủ ấp Hiệu ở nhà bác sáu ơi.
Ông sáu Long vẫn còn ôm con Nương trên tay, con bé ngơ ngác nhìn mọi người, ông đứng trên thềm nhà ngóng cổ nhìn ra trước sân, vừa hỏi tiếp:
- Vậy chớ chủ ấp Hiệu đi đâu?
Một thanh niên đứng ngay trước mặt ông  sáu Long, đáp:
- Tôi hỏi bà già ổng, bà già ổng nói hỏng biết ổng đi đâu từ chiều hôm qua tới bây giờ mà chưa
thấy về.
Ông sáu Long cau mặt:
- Như vậy rồi có ai đi báo cho hương quản Thìn biết chưa?
- Có rồi.
- Thầy hương quản tới đây nè.
Một người đàn ông đứng tuổi mặc bộ quần áo bà ba lụa Lèo đang rẽ đám đông tiến tới đến trước mặt ông sáu Long, vừa dõng dạc hỏi:
- Vợ hai Cung nằm đâu?
Ông sáu Long vội vàng trao con Nương cho tư Luông ẳm, đoạn vội vàng chấp tay, cúi đầu:
- Thưa thầy bảy Xác vợ thằng Cung nằm ở trong buồng đây.
Hương quản Thìn ngoảnh lại bảo:
- Thôi, anh em ở ngoài đừng đánh mõ nữa.Còn ai trong nhà, hãy đứng lui xa ngoài sân một chút đi, đẻ cho tôi dể làm việc.
Sau lệnh truyền của thầy hương quản, tiếng mõ hồi một dần tắt bặt và những người đang đứng dọc ngoài hàng ba đều tháo lui cả ra sân.
Hương quản Thìn quay lại nói với ông sáu Long:
- Bác đưa tôi vô buồng coi.
Ông sáu Long hăm hở tiến vào trước, hương quản Thìn nối gót theo sau. Nhưng mới tới cửa buồng thì hương quản Thìn cũng phải khựng lại như ai, tay bụm mũi, mặt mày biến sắc.
Gần đến cạnh giường, ông sáu Long mới đứng lại chỉ cái xác vợ hai Cung:
- Đó, thầy bảy.
Hương quản Thìn run rẩy, nhưng vì sợ đám tráng đinh trong thấy rồi họ cười thầy, nên thầy phải đánh bạo bước tới một bước, nhăn mặt:
- Vợ hai Cung nằm chết lõa lồ như vậy à?
Ông sáu Long gật đầu và giảng giải:
- Tôi chạy tới đây thì thấy con hai nó  nằm chết như vậy đó, mà con nhỏ của nó còn đeo trên ngực nút vú.
Hương quản Thìn đảo mắt quanh và hỏi nhanh:
  - Hai Cung đâu?
Ông sáu Long lắc đầu:
- Nó đi bên cồn với thằng nhỏ tôi, từ hồi sáng tới giờ sao không thấy nó về.
Hương quản Thìn ra vẻ ngạc nhiên:
- Ủa! Tôi mới thấy ai đứng ngoài như là chú Luông về rồi còn hai Cung đâu?
Ông sáu Long đáp:
- Dạ phải, thằng nhỏ tôi về rồi, còn thằng Cung không biết đi đâu?
- Đâu bác kêu chú Luông vô cho tôi hỏi coi.
Ông sáu Long liền bứơc lại cửa buồng đứng ngóng cổ gọi vói ra:
- Luông à! Luông!
Tư Luông lắp bắp:
- Dạ..., chi... ba?
- Vô đây thầy bảy hỏi...
Tư Luông ngập ngừng không muốn bước:
- Hỏi chi đó, ba?
Ông sáu Long nóng nảy vẫy tay:
- Thì cứ vô đây cho thầy bảy hỏi.
Nghe nói hương quản Thìn kêu mình vào buồng là tư Luông đã thấy ớn lạnh chạy dài vào xương sống rồi, nhưng anh không dám cải lệnh.
Như đoán hiểu được tâm trạng của Tư Luông, hương quản Thìn lùi lại một bước khỏi cửa buồng, đoạn bắt đầu điều tra:
- Chú về đây hồi nào?
Đã sợ mà tư Luông cứ liếc chừng vào phía trong vừa lập cập đáp:
- Thưa thầy, tôi về hồi sáng sớm.
- Còn hai Cung đâu?
- Hồi hôm này, hai đứa trải nóp nằmngủ gần nhau. Vì mỏi mệt quá nên tôi đánh một giấc cho tới khi đâm mây ngang mới giựt mình thức dậy, giở nóp ra thì tôi thấy thằng Cung đi đâu mất. Tôi mới xuống bãi thăm chiếc xuồng, lại thấy chiếc xuồng cũng không còn. Chừng đó tôi mới sanh  nghi là thằng Cung lén lấy xuòng về... thăm vợ con nó.
Hương quản Thìn chận hỏi:
-Rồi về đây, chú có gặp hai Cung không?
Tư Luông lắc đầu:
- Tôi đón xuồng câu, mướn người ta đưa về bên này, bước vô sân kêu Cung ơi, Cung hỡi, mà chẳng thấy mặt mày nó đâu. Tôi đập cửa kêu hoài cũng không nghe ai lên tiếng.
- Rồi ai phát giác ra vợ hai Cung nằm chết đây?
tư Luông đáp:
- Nghe phía trong buồng có mùi máu tanh tanh hắt ra, tôi mới đạp cửa vô đại. Trời đất quỉ thần ơi! Vô tới buồng, thấy tận mắt như vậy..., tôi vừa bò lết, vừa là làng, tri hô cho lối xóm người ta biết...
Hương quản Thìn liền quay lại ông sáu Long:
- Ủa! Sao kỳ lạ vậy? Cửa nẻo thì đóng chặt mà ai vô đây cắt cở vợ hai Cung? Không lẽ tên sát nhơn trỏ nóc nhà?
Vừa nói, hương quản Thìn vừa ngửa mặt lên nóc nhà tìm kiếm dấu vết thủ phạm.
Ông sáu Long nắm tay hương quản Thìn kéo đi sâu vào buồng, đoạn ông phân bày:
- Đây, thầy bảy coi kià, cái cửa buòng ăn thông xuống nhà bếp bị mở rồi kia mà, chắc là hung thủ ra vô bằng lối đó à thầy.
Đứng gần bên xác chết quá ghê tởm, dù có phải hung thủ ra vào lối đó hay không, hương quản Thìn cũng cứ gật đầu bưà:
- à... phải rồi, đúng rồi!
Hương quản Thìn lại tháo lui ra. Thình lình, chân thầy vướng phải đống quần áo bỏ dưới đất, khiến thầy hốt hoảng nhẩy nai:
- Úy! Trời ơi! Cái gì vậy? Ai nằm đây vậy?
Ông sáu Long lẹ tay chụp vai thầy hương quản đỡ cho thầy khỏi chúi đầu vào cạnh giường:
- Có ai nằm đâu? Đống quần áo thầy à.
Hương quản Thìn tái xanh mặt mày chẳng còn chút máu:
- Quần áo của ai vậy? Sao lại có cái áo bi da ma đàn ông? Bác cầm lên cho tôi coi.
Ông sáu Long vâng lời xách lên từng cái quần, cái áo cho hương quản Thìn xem xét. Giọng hương quản Thìn thảnh thốt:
- Lạ ha! Trong xóm này, ngoài chủ ấp Hiệu ra, có ai bận đồ bi da ma đâu. Bác móc trong túi ra coi có giấy tờ gì hôn?
Lục soát hai cái túi áo, ông sáu Long lôi ra một tờ giấy trao cho hương quản Thìn. Thầy hương quản liền mở ra đọc, thì ra đó chỉ là tờ thông tri của xã gởi về ấp cách đây mấy bữa, truyền lệnh cho dân làng, mỗi nóc gia phải nộp năm cái đuôi chuột...
Tờ giấy đó vừa giúp cho hương quản Thìn phăng ra manh mốicủa vụ sát nhân, thầy gật đầu liền mầy cái một cách bí ẩn, đoạn gấp tờ thông tri lại bỏ vào túi áo của thầy.
Thầy tiếp hỏi ông sáu Long:
- Hồi nẩy có ai đi báo cho chủ ấp Hiệu hay vụ này hay không, bác sáu.
Ông sáu Long gật đầu:
- Có, nhưng mà ổng hổng có nhà.
Hương quản Thìn lại gật đầu lia lịa, nhưng chẳng nói sao, hết. Những bằng cớ trước mắt thầy, vợ anh Cung nằm chết lõa thể, một bộ quần áo đàn ông có mang một tờ thông tri của xã, với một bộ quần áo chị Cung bỏ dưới chân giường, sự vắng mặt của anh Cung cùng với chủ ấp Hiệu, đủ tố cáo cho thầy biết những bàn tay nào đã gây nên tội ác quanh vụ án mạng này rồi.
Hương quản Thìn định trở ra ngoài, nhưng mới được mấy bước thì chân thầy nghe dẫm phải một vật cứng như sắc thép. Thầy liền cúi xuống chợt thầy cây mác vấy đầy  máu đã đông đặc. Đôi mắt thầy rực sáng:
- Tên sát nhơn còn bỏ lại cái mác đây nè.
Ông sáu Long định nhặt cây mác lên xem, hương quản Thìn liền ngăn lại:
- Bác cứ để nguyên đó cho tôi. Bác ra ngoài mượn vài anh trai nào có gan, lấy võng khiêng cái xác đó xuống nhà việc liền bây giờ đi.
Ông sáu Long vâng dạ, bước ra khỏi buồng, nhưng hương quản Thìn nhanh chân giành đi ra trước ông.
Ông sáu Long lên giọng bật trưởng thượng hỏi đám trai làng:
- Vài ba chú nào đó, làm ơn lấy võng khiêng dùm cái thây theo thầy hương quản xuống làng, nghe mấy chú.
Sau câu nói của ông sáu Long, ai nấy đều thụt  lùi dần, chẳng ai chịu nhảy ra tình nguyện làm công việc đó cả. Có người vì quá yếu bóng vía nên lẻn về mất, sợ ở lại rồi ông quản Thìn bắt võng thây ma.
Thấy chẳng ai lên tiếng hết, ông sáu Long hỏi:
- Có chú nào chịu đi dùm hôn?
Người này núp sau ót người kia, chẳng nghe ai nói gì nữa hết.
Thấy những người đứng đằng sau từ từ rút êm hương quản Thìn liền dùng  uy quyền ra lệnh:
- Khoan nghe, không ai được ra về hết nghe.. Cha nào bỏ đi thì tôi biên tên phạt làm cỏ đình ba ngày à.
Nghe hương quản Thìn dọa như vậy, chẳng thấy ai nhúc nhích nữa, nhưng ai cũng cúi mặt, không dám nhìn lên, sợ hương quản Thìn thấy mặt rồi kêu tên chỉ định khiêng thây ma!
Hương quản Thìn nghiêm nghị tiếp:
- Anh em nào khỏe mạnh bước ra đi, tiếp tay dùm tôi một chút, rồi tôi thưởng công cho anh em.
Hương quản Thìn vừa dứt lời, thì có một người gù lách đám bước thẳng đến trước mặt thầy, giơ thẳng tay lên trời:
- Ai hỏng đi, tui đi.
Vừa thấy mặt người gù, hương quản Thìn mỉm cười:
- à! Chú Gọn! say nhừ tử tối ngày mà cón nhờ được việc, Tôi hứa thưởng cho chú một lít rượu đế nghen.
Gọn gù gãi đầu nói lè nhè:
- Khiêng thây ma mà thầy thưởng có một lít rượu hè.
- Còn những cái khác nữa mà.
Không muốn cho Gọn Gù đòi hỏi thêm, hương quản Thìn liền nhìn ra đám đông:
- Ai tình nguyện đi nữa? Hai người nữa thôi..
Tất cả dều lặng im. Hương quản Thìn cau có:
- Không lẽ bắt một mình chú Gọn vác cái thây? Cả đám mấy chục mạng như vầy mà tôi mượn vài người không được hay sao?
Cũng không ai chịu ra lãnh việc khiêng xáx chết. Không biết làm thế nào hơn, hương quản Thìn ngóng cổ nhìn mặt từng người để chỉ định. Thầy cố tìm những cái đầu đang hụp xuống:
- Kià! Lưu! Thằng Lưu ra đây mày.
Gã thanh niên mình trần mà bị hương quản Thìn gọi đích danh, ngước mặt lên lắp bắp:
- Thưa thầy bảy..., tôi bị... bị...
Hương quản Thìn chận ngang:
- Bị..., bị..., bị cái gì?
Anh Lưu bối rối khoanh tay, com róm:
- Thưa thầy bảy tôi bị nóng lạnh.
Hương quản thìn vặn:
- Nóng lạnh thiệt hôi?
- Dạ thiệt...
Hương quản Thìn nạt ngang:
- Thôi, nóng lạnh thì nhảy ra khiêng... cho đổ mồ hôi, hết nóng lạnh liền. Ra đây chú mày.
Anh Lưu không còn cách nào thoái thoát hơn là phải riu ríu vâng lệnh hương quản, bước ra khỏi đám đông.
Hương quản Thìn liền đảo mắt lục soát trong đám trai tráng vừa bảo bằng giọng nữa đùa, nữa
thật:
- Còn một người nữa, một người thôi. Ai tự thấy mình đẹp trai, có hoa tay, hoa chân thì ra đây đi, đừng để tôi phải kêu tên mời.
Tất cả đều đứng trơ trơ, vừa thầm van vái thần làng cho mình thoát nạn. Thấy chẳng có ai tình nguyện hết, hương quản Thìn buộc lòng phải gọi tên một gã thanh niên đang đứng rùn chân hụp đầu xuống cố dấu cái mặt:
- Thằng Tão kià! Ra đây cậu hai.
Tảo run lập cập:
- Thưa... thầy bảy, chắc tôi khiêng...hỏng nổi.
Hương quản Thìn hất hàm:
-Tại sao lưng bằng tấm thớt đình mà cậu mày nói khiêng hổng nổi?
Tảo lúng túng:
- Dạ... tại....bị...
- Tại với bị cái gì?
  Tảo nhanh miệng:
- Thưa thầy bảy, tôi bị bịnh tê...,
Hương quản Thìn hét vang:
-Hồi nãy, tao thấy mày chạy qua mặt tao một cái vù đây, mà bây giờ mày nói là tê bại...
Nét mặt anh Tảo tái xanh:
- Hồi nãy tôi còn chạy được là vì chân tôi chưa tê đó thầy, Chứng bịnh tê của tôi nó hay phát thình lình, chớ không phải tê lu bù.
Nghe lời nói của anh Tảo, ai cũng buồn cười, nhưng chẳng ai dám cười hết.
Hương quản Thìn hỏi gạn:
- Bây giờ, mày đang bị tê đó phải hôn?
Tảo gật đầu lia lịa:
- Dạ phải.
Hương quản Thìn vặn bằng một câu hăm dọa:
- Cái chưn nào tê, xỏ nó vô còng được hôn? xỏ nó vô còng rồi nằm nghĩ cho hết tê, nghe cậu?
Nghe nói đến cái còng, anh Tảo càng sợ quýnh lên:
- Dạ...Dạ... thầy bảy...Tội nghiệp tôi, thầy bảy.
Hương quản Thìn hét lên:
- Chú trùm đâu rồi, Kéo thằng Tảo về nhà việc còng nó lại cho tôi.
Thấy hết phương trốn tránh, Tảo liền vẹt đám đông chạy ra trước mặt hương quản và miệng thì nói như bắp rang:
- Dạ thôi, thôi, thầy bảy đừng biểu còng, để cho tôi khiêng cái thây của vợ thằng Cung đem về cho thầy...
Thấy anh Tảo đã  chịu lãnh nhiệm vụ, ai nấy đều thở phào một cái mừng thoát nạn tai.
  Hương quản Thìn liền phân công, phần Gọn gù với anh Tảo thì khiêng xác chị Cung, còn anh Lưu thì mang các tang vật có liên hệ đến vụ án mạng.
Phân công cho ba người rồi, hương quản Thìn giao phó cho ông sáu Long chỉ huy việc tải thây ma nhà việc, chớ thầy cũng không dám bước vào buồng hai Cung một lần nữa.