Chương 2

Một ngôi nhà chênh vênh bên bờ biển là hình ảnh tiêu biểu cho tính phiêu lưu của đời sống. Bởi vì, có thể trong khoảnh khắc, vào giữa giấc mơ ngắn ngủi của con người, một lượn sóng thần sẽ ào tới và cuốn tất cả xuống đáy bùn sâu. Thành đã nghe nhiều ông bà già trong làng kể lại những năm sóng thần xuất hiện, và những năm ấy từ những ngôi đền to lớn tới mái lều cỏ rưởi đã biến đi như phép màu dưới làn nước tàn nhẫn. Không ai chống đỡ được sức mạnh khủng khiếp của tạo hóa. Tất cả những gì người ta gom góp vun vén tạo dựng trong bao nhiêu tháng năm đằng đẵng phút chốc trở thành cát bụi. Cả làng chỉ còn sống sót mươi lăm người, nhờ lúc tai biến đang ở một nơi nào đó. Những kẻ bất hạnh về làng, nhìn cái hố cát trơn trọi trước đó là tất cả đời sống, tất cả hạnh phúc và đớn đau của họ. Họ khóc chừng vài tiếng, thắp vài tuần hương và lại bắt đầu dựng nên những mái cỏ rưởi trên chính cái nền cát tai ương…
- Đời sống thật kì vĩ và phi lý. Tại sao người ta không làm nhà sâu trong đất liền?… Dân chài phải sống nhờ chài lưới. Họ không thể ở quá xa mép nước, nơi những con thuyền trút xuống tôm cá và họ có nhiệm vụ chuyển chúng tới xưởng chế biến nước mắm hoặc thị trường tiêu thụ. Bởi thế, họ phải chấp thuận hiểm nguy. Và giá trị của đời sống được đo bằng chính những hiểm nguy nó phải trả…
Họa sĩ nghĩ. Anh hít một hơi dài làn không khí nồng nặc mùi biển, thấy dễ chịu. Cách nơi anh ngồi chừng dăm bước chân những lưới sóng trắng rập rờn liếm vào bờ cát, khẽ và êm. Chỉ có tiếng sóng dạt dào của thủy triều từ những hõm đá phía xa vẳng lại. Thành ngước nhìn lên vách đá cuối bãi cát, anh thấy sợi dây treo lơ lửng giữa mỏm núi và mặt biển đã nở từng chùm hoa màu nghệ. Dưới nắng chiều, chúng giống như những đốm lửa rực rỡ thắp trên nền lam thẫm ẩm ướt và tối tăm của vách đá, chúng gợi cho ta cảm giác tưng bừng của những hội hè lướt qua như tia chớp trong đời.
- Chú Thành, vào uống rượu thôi.
Ông giá Ớt cất tiếng gọi.
- Vâng.
Thành đáp, nhưng anh còn tiếc cảnh hoàng hôn lộng lẫy bên ngoài. Ông già bước khỏi lên, nhìn họa sĩ:
- Thôi được, để tôi đem đồ ăn ra ngoài này cho chú coi đất coi trời.
Rồi ông quay vào, xách mấy con hùm nướng, chai rượu với hai chiếc ly thủy tinh ra. Họ ngồi lặng lẽ bóc tôm ăn, chốc lát lại nhấp một ngụm rượu. Lúc này, mặt trời xuống thấp hơn, thổi là là trên đại dương làn hơi óng ánh bụi vàng. Từ con thuyền tới những hòn đảo nơi chân mây đều bị vây bọc bởi đám bụi ấy. Bãi cát nghiêng ửng lên như ngàn ngàn vụn thủy tinh bị phản chiếu, những tia vàng nhảy nhót không ngừng. Cả lớp bọt sóng cũng ướt đẫm một sắc vàng tươi thắm và mong manh. Thành bỗng có cảm giác rằng nếu có một kẻ thô lỗ nào đó, cất tiếng nói to là cảnh đẹp tức khắc sẽ tan biến như ảo giác, anh sẽ không còn tìm được nó trong những buổi chiều mai sau. Họa sĩ bỏ ly rượu xuống, đăm đăm nhìn ra khơi. Lúc đó, một con thuyền cập bến. Đám dân chờ đợi ập tới bắc ván, buộc thừng vào cọc và giúp những người trên thuyền chuyển cá xuống bãi. Một thiếu nữ da ngăm ngăm tách khỏi đám đông, xách con cá song đi về phía lều:
- Ai kia nhỉ:
Ông già Ớt cất tiếng hỏi, mắt nheo lại dướn nhìn. Rồi ông à lên một tiếng và tự trả lời:
- Con Huyến.
Họa sĩ quay lại. Đó là một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Cô ta không phải dân ở đây. Con gái làng chài thường có vóc dáng thấp đậm. Cô gái này mảnh khảnh và mềm mại hơn nhiều. Vả chăng dáng đi của cô từ tốn, uyển chuyển như dáng đi của các cô gái thành phố. Ở đây, quen sục chân vào cát nên ai cũng có dáng đi băm bổ, đầu chúi về phía trước như con thuyền rẽ nước, chống chọi lại sức cản lì lợm của thiên nhiên.
- Cô gái ngày không phải người làng, đúng không bác?
Thành hỏi ông già
- Phải – Ông Ớt gật đầu – Chú giỏi đấy. Nó là cháu ngoại ông Phồn bạn nối khố của tôi. Con bé ở ngoài phố về. Lần nào nó cũng tơi thăm tôi.
Thiếu nữ đã tới chân dốc cát, cô ngước mắt lên nhoẻn miệng cười, Thành thấy tim mình nhói lên vì nụ cười ấy. Nó giống nụ cười người đàn bà trong quá vãng của đời anh đến sửng sốt.
- Ông ơi i i…
Thiếu nữ cất tiếng gọi.
Ông đây.
Ông già đáp lời, giơ tay vẫy cô bé. Chừng dăm phút sau, cô đã tới đứng trước mặt họ, hai má đỏ ửng, mũi lấm tấm mồ hôi:
- Ôi, lâu ngày cháu không leo dốc, mệt ghê.
Thiếu nữ hổn hển nói và nhoẻn miệng cười với Thành thay cho một lời chào:
- Đấy là chú Thành, làm nghề vẽ ngoài Hà Nội.
Ông Ớt giới thiệu. Cô bé đáp:
- Dạ.
Rồi ngồi xuống bên ông già, nói:
- Thuyền cậu Lập vừa về, cháu thấy con song này ngon quá đem lên cho ông. Bây giờ nướng hay là nấu cháo ạ?…
- Nấu cháo con à – Ông già trả lời – không có lá thơm nhưng còn khối ớt và tiêu.
Cô bé chui vào lều, ra phía sau. Thành nghe tiếng lách cách đụng chạm của dao, thớt, xoong nồi. Chỉ mươi phút sau, mùi cá luộc thơm khói cỏ đã bay tới nơi anh ngồi, rồi cô bé bước ra:
- Cháo sôi rồi ông ạ, cháu ủ than cỏ cho chín.
- Ờ, ngồi xuống ăn tôm đi. Ông vừa nướng còn ấm đấy. Chờ cháo chín rồi ta cùng ăn.
Ông cụ nói.
- Không đâu…
Cô bé lắc đầu: Cháu ngồi chơi với ông tẹo nữa thôi. Mợ Lập chlại đến dăm tuổi. Họa sĩ ngạc nhiên vì sự biến đổi ấy. Anh ngơ ngẩn nhìn.
- Còi rồi. Tàu đang vào ga…
Người đàn ông bảo Thành.
- Tàu vào ga…
Họa sĩ lặp lại như cái máy rồi không chào người đàn ông, anh đi sang bên kia đường.
- Đấy là tình yêu… Một người đàn bà có thể làm một người đàn ông xao xuyến đến như vậy. Đấy là phép màu nhiệm mà những ai không còn tin ở tình yêu không bao giờ tìm thấy. Mình đã biến thành một kẻ bệnh hoạn, một gã đàn ông cao ngạo và thù ghét đàn bà… Không bao giờ mình còn có niềm vui như người đàn ông kia đã có…
Từ ngày Vượng phản bội Thành, anh đã chung đụng với nhiều cô gái khác. Mỗi cuộc chung đụng ấy đem lại cho Thành một chút ít thú vui, một vài khoản tốn kém và những hối tiếc, những khinh ghét chất chồng. Anh đọc thấy những ham muốn trụi trần sau các gương mặt son phấn mĩ miều kia:
- Em cần chiếc áo lông màu gì?… Anh sẽ gửi cậu bạn mua cho em trước khi mùa rét tới.
- Anh sẽ vẽ cho em một bức chân dung mà các bạn trai em phải yêu em thêm năm lần mỗi khi ngắm nhìn nó.
- Em cần một đôi giày da mới phải không?… Chờ anh vài hôm nữa nhé…
Chỉ có những cô gái chịu đựng được vẻ ngạo mạn của Thành, cái điệu cười mỉa mai và những cử chỉ tưởng chừng lịch sự nhưng thực chất lại thô lỗ mới lai vãng tới căn phòng anh ở. Đôi khi chán ngán, anh thẳng tay tống khứ các cô ra ngoài. Và rồi ngồi một mình trong căn phòng tối om không buồn bật điện, anh hối tiếc tuổi trẻ của anh, hối tiếc tình yêu chưa kịp đến đã tan biến như bọt xà- phòng. Anh thấy tâm hồn mình đang ngấm dần chất độc dược mà không có cách nào tẩy uế…
- Tại sao chứ? Tại sao…
Con người có thể cắt nghĩa được dễ dàng cỏ cây, sấm chớp nhưng lại vô cùng khó khăn khi muốn tự cắt nghĩa mình.
- Tại sao?…
Họa sĩ trở lại căn phòng quạnh quẽ của anh, nơi nhiều người đàn bà đi qua nhưng không một gương mặt nào gởi gắm lại. Bốn bức tường trơ trọi. Cả những giá vẽ, những bức tranh anh hài lòng nhất cũng tẻ nhạt vào lúc này. Có lẽ anh muốn một bức vẽ mới, một dòng sông, cánh buồm, đàn chim nghiêng xuống bọt nước, rặng cây tươi thắm như những ngọn lửa xanh… một bức vẽ với lòng trìu mến, giống như một gương mặt mà anh muốn được nâng niu…
Sáng hôm sau, Thành trở lại ngôi trường. Anh gặp ông già gác trường, dò hỏi về người đàn bà mặc quần jean nhung màu xám nhạt, áo sơ mi xanh da trời.
- Tôi biết, tôi biết… chị Vân. Chắc anh ở trên Bộ xuống mời chị ấy dự hội nghị khoa học giáo dục phải không? Anh ngồi đây chờ, tôi vào văn phòng gọi…
Ông già thường trực đáp lại vồn vả. Thành ngỡ ngàng trước vẻ nồng nhiệt ấy, anh ngồi im chờ đợi. Khoảng mười phút sau, ông ta quay lại với người đàn bà. Hôm nay, chị mặc quần lụa đen với chiếc áo sơ- mi hoa rực rỡ. Trông chị trẻ trung và xa lạ hơn buổi chiều mưa tại nhà bảo tàng. Vừa đi, chị vừa chuyện trò với người gác cổng, khẽ lắc mái đầu, miệng cười tươi tắn:
- Nụ cười ấy là nụ cười của một đứa trẻ…
Họa sĩ thầm nghĩ và anh bắt đầu tháy bối rối, không biết nên ngồi im hay đứng lên. Sau cùng, chị đã tới, đưa mắt nhìn anh ngạc nhiên nhưng không hề sửng sốt:
- Chào chị Vân…
Họa sĩ đứng lên. Người đàn bà khẽ cúi đầu:
- Vâng, chào anh… Chắc anh có việc cần gặp tôi?… Mời anh vào văn phòng…
Ngập ngừng một chút, chị nói thêm: Ở đây, chúng tôi không có phòng khách riêng, nên…
Thành vội vã nói ngay, sợ bỏ lỡ một cơ hội may mắn:
- Xin mời chị tới một quán trà nào đó gần đây… Như thế tiện hơn.
Thiếu phụ suy nghĩ vài giây rồi đáp: - Cũng được.
Thành chào ông già gác cổng, với cái vẻ hấp tấp mà anh chưa từng có. Hai người đi dọc phố. Họ im lặng suốt quãng đường đó, cho tới khi Thành tìm được một quán giải khát sạch sẽ và vắng khách:
- Ta vào đây được không?
Anh hỏi.
- Tùy anh.
Người đàn bà trả lời.
- Chúng ta có thể nói được nhiều chuyện ở nơi này.
Thành đáp lại. Anh chờ thiếu phụ vào quán trước nhưng chị dường như không mảy may chú ý tới điều ấy. Chị chọn chỗ ngồi, vén mái tóc bên tai một cách tự tin rồi hỏi anh:
- Xin lỗi, có lẽ anh là người của Bộ? Chúng tôi chưa chuẩn bị xong bản báo cáo các anh yêu cầu.
Thành im lặng lắc đầu, thay vì trả lời chị, anh gọi chủ quán lấy đồ giải khát rồi hạ giọng:
- Chẳng lẽ chị không nhận được tôi sao?
Người đàn bà nhíu mày:
- Thôi, đừng chơi trò ú tim ấy nữa. Anh cứ nói thẳng cho tôi biết xem sao. Chúng ta đâu còn ở cái tuổi đánh đố nhau thua được.
Gương mặt chị bình thản nhưng hơi nghiêm khắc. Và Thành thấy hai mang tai nóng lên vì chạm lòng tự ái. Tuy vậy, anh hiểu rằng anh không có quyền bực chị. Anh gượng nhẹ:
- Chị có nhớ buổi chiều ở Nhà bảo tàng không. Lúc cơn mưa đến bất chợt và chúng tôi phải tháo gỡ những tấm bảng trang trí đưa vào trong hành lang. Lúc đó, chị ngồi chờ học sinh tham quan…
- A… a… tôi nhớ rồi…
Người đàn bà trẻ kêu lên.
- Tôi còn nhớ chị đang đọc một cuốn sách. Đó là cuốn Jađic của Von- te.
Người đàn bà nhìn anh, thay cho một lời tra vấn. Thành nói tiếp.
- Lúc ấy, tôi đã buông những lời rất bất nhã…
Người đàn bà gật đầu, ngắt lời anh:
- Bây giờ tôi dã nhớ lại tất cả. Đấy là những lời lẽ…
Thành tiếp:
- Những lời lẽ tầm bậy, lố bịch nữa… V