Hồi 80
Trí đoạt cống lễ

Nghe sư huynh thét mắng Châu Bá Thông hoảng hốt nhãy lùi trở lại, đưa tay tát vào mặt mình ba cái thật mạnh, mặt mũi đớ lơ.
Trùng Dương ngó thấy tức cười:
- Thôi! Được rồi! Cho sư đệ trổ tài với họ đấy.
Câu nói của Trùng Dương vừa dứt, Châu Bá Thông như cọp đói gặp mồi gầm lên một tiếng nhảy phốc tới giữa đám Bào Ca hội.
Quần hùng Bào Ca vừa thấy thủ pháp tước đoạt chiếc ống điếu của Thiết Thích Vị Tra Hùng, ai nấy đều kinh hoảng không dè nhân vật Toàn Chân Giáo bản lãnh lợi hại như thế.
Nên khi Châu Bá Thông nhãy tới, tinh thần đề kháng hoàn toàn tan rã, la lên một tiếng, tản dạt ra hai bên.
Châu Bá Thông không nói nửa lời, vung cánh tay ra chộp đúng cổ áo của Hắc Ban Báo Đơn Chí Hồng, quát mắng:
- Đồ chết bầm!
Rồi nhấc bổng họ Đơn ném tuốt ra xa.
Một tiếng "bịch" khô khan như tiếng quăng bao cát, cả cây đao răng cưa và khối thịt của Hắc Ban Báo lăn tròn lông lốc.
Những tay danh thủ Tứ Xuyên còn lại, bét bét ra cửa dông luôn một nước.
Châu Bá Thông dợm cẳng rượt theo.
Trùng Dương vội vàng gọi lại:
- Sư đệ! Hãy để cho họ chạy!
Châu Bá Thông dừng lại, vị Giáo Chủ Toàn Chân dắt tay người sư đệ, ngang nhiên ra cửa.
Các nhân vật Bào Ca hội bị thần uy của Giáo Chủ Toàn Chân chế phục, lén lén rút đi mất hết không còn lấy nửa bóng người.
Trùng Dương ngữa mặt cả cười, cùng với Châu Bá Thông thẳng về khách điếm.
Lần đến Tứ Xuyên này, vị chưởng giáo của Toàn Chân đã làm cho năm đầu lãnh Bào Ca khiếp đảm, uy danh lan khắp đó đây, một lần nữa sau cuộc luận kiếm Hoa Sơn người lãnh đạo Toàn Chân Giáo đã làm cho giang hồ nể mặt.
Sáng ngày sau, hai anh em họ Vương rời khỏi Thành đô, chọn đường tiến xuống Vân Nam.
Bọn Khưu Xử Cơ bảy người ở lại giữ Yên Hà động, sau khi sư phụ và sư thúc đi rồi, bầu không khí ở động Yên Hà thật là vắng vẻ, ngoài việc luyện kiếm vận công, không có việc gì khác cả. Cứ như thế hơn một tháng trời qua.
Một hôm, nhân lúc nhàn rỗi Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vầy cuộc đấu cờ, suốt nửa ngày trời mới nghỉ.
Khưu Xử Cơ bỗng nghĩ đến một việc bèn hỏi:
- Sư huynh, từ lúc chúng ta lên núi luyện công đến nay, không biết đã mấy năm rồi nhỉ!
Mã Ngọc ngạc nhiên:
- Sư đệ sao mà mau quên thế? Qua bảy năm rồi còn gì nữa!
- Sư huynh, chúng ta cần phải xuống núi, dạo trước đệ nghe sư phụ nói sau khi khảo sát võ của mình rồi mới cho hạ sơn, nhưng không biết cách khảo sát của sư phụ ra sao?
Mã Ngọc trầm ngâm:
- Sư đệ, sư đệ có nghe cách thức khảo sát môn đồ của Thiếu Lâm tự hay chăng?
- Sao không! Nghe người ta nói rằng, chưởng giáo phương trượng chùa Thiếu Lâm thiết lập La Hán Đường, chế ra mười tám vị La Hán bằng cây, số vị La Hán bằng cây này có đặt cơ quan trong ruột. Chỉ cần ấn vào nút máy, La Hán cây tự di động tập kích người khác. Mỗi người đệ tử Thiếu Lâm, sau khi thành tài, cần phải vượt qua được mười tám vị La Hán giả này mới có thể dấn bước giang hồ.
Mã Ngọc cười ngất:
- Trật!
Khưu Xử Cơ lấy làm lạ:
- Sư huynh, ai ai cũng bảo như vậy, mà không đúng sao nhỉ?
- Cứ nghĩ lại xem dùng một La Hán để đo lường võ nghệ người khác là không được rồi.
Người cây là chết, người thật là sống, lấy giả thử thật, như thế là thông sao? Cứ cho là người máy có thể cử động tay chân đi, nhưng sức lực ra sao? Tất cả những việc đó, đều đặt thành nghi vấn.
Tóm lại, nếu quả như vậy thì không thể kể là đã luyện thành tài, không thể lấy đó mà đoán xem bản lãnh.
Khưu Xử Cơ suy nghĩ gật gù:
- Phải! Đúng! Như vậy không thể luyện được thực tài. Sư huynh, thế nhưng anh hỏi tôi việc đó là có ý chi chăng?
Mã Ngọc mỉm cười:
- Sư phụ là một bậc cao nhân, tự nhiên người sẽ có phương pháp để đo lường công phu học tập của chúng ta. Ta đoán thế nào người cũng sẽ cho ta làm những chuyện thật khó khăn, bằng vào kết quả minh chứng đó định tài bộ.
Chàng còn định nói thêm, thì bỗng có một người đâm sầm chạy đến.
- Sư huynh! Có...
Vừa nói đến tiếng có bỗng nhiên như nghẹn thở nói không được nữa.
Mã Ngọc nhìn thấy người đó là Đàm Xứ Đoan, thần sắc đã biến đổi. Chàng vội vàng đở người sư đệ vỗ vào Đại Thôi huyệt ở sau cần cổ và Khí Hải huyệt ở sau lưng, đoạn bảo:
- Sư đệ cứ thong thả, đừng quá sợ sệt.
Khưu Xử Cơ vội hỏi:
- Sư đệ gì đó? Có kẻ địch tới à?
Chàng tưởng đâu Tây Độc Âu Dương Phong lại mò đến về vụ Cửu Âm Chân Kinh.
Đàm Xứ Đoan lắc đầu:
- Không phải kẻ địch, mà là bọn người tải vàng bạc gấm lụa đi qua.
Mã Ngọc tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Đàm sư đệ, chúng ta là kẻ xuất gia hành hiệp, chớ không phải như bọn đại sơn vương, họ tải vàng bạc đi ngang mặc kệ họ, cớ gì chúng ta mà phải nói?
Đàm Xứ Đoan trố mắt:
- Sao lại không can cớ? Đó là cống lễ mà hàng năm nhà Tống của chúng ta phải dâng sang Kim Quốc đó.
Khưu Xử Cơ và Mã Ngọc nghe nói thảy đều biến sắc.
Nguyên vì lịch sử Trung Hoa, từ đời nhà Hán đến đời Đường, các nước dọc vùng Tây Vực đến Nam Dương, đều tôn xưng Trung Quốc là thiên Triều, hàng năm nạp Cống Chỉ cho đến đời Tống thì trái lại, chẳng những ngoại quốc không còn triều bái nữa, mà hàng năm còn phải đem vàng bạc lụa là tiến cống nước người.
Bắt đầu từ Chân Tông hoàng đế, triều đại thứ ba của đời nhà Tống, đã phải triều phục Liêu Quốc ở Bắc phương. Dân tộc này còn gọi là Khiết Đan nữa.
Hàng năm lễ cống bạc ròng mười vạn nén, lụa tốt mười vạn cây, phải cho đủ số.
Tương truyền rằng tình trạng đó kéo dài ngót trăm năm, mãi đến đời Hoàng Đế Huy Tông khi quân Kim diệt nước Liêu mới dứt.
Sau khi diệt được Liêu, Kim quốc đổ binh xuống miền Nam xâm phạm Trung Nguyên bắt nhị vị Tống Hoàng đưa về phương Bắc. Nhà Tống di đô về Nam, thiên an Giang tả.
Tống Can Tông một vị vua bạc nhược, nghe lời dèm xiểm của đám gian thần Tần Cối làm cho thế nước bại suy và sau khi hãm hại Nhạc Phi, một bề tôi rường cột trung dõng song toàn đã hòa nghị với nước Kim vào năm thứ mười một đời Thiệu Hưng nhà Tống.
Đối với nước Kim, triều đình Tống đã hạ mình tự xưng Phiên Quốc tự đặt mình là một nước chư hầu lệ thuộc mỗi năm lễ cống vàng bạc là phải tăng gấp đôi, so với hồi tấn kiến nước Liêu.
Tống triều tấn cống Kim bang, tài vật rút từ mồ hôi nước mắt của chúng dân các tỉnh Giang Nam, trong khi đó trăm họ lầm than đói rách.
Cho nên triều đại đó, phàm những người có chí khí, đề cập hai tiếng cống lễ đều cảm thấy là một việc vô cùng nhục nhã.
Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ biến sắc cũng vì hai tiếng đó.
Khưu Xử Cơ thở dài:
- Đêm tối trầm trầm, kẻ sĩ lui về ở ẩn. Hừ! Cống lễ, cống lễ! Thật là sỉ nhục quốc gia.
Mã Ngọc nghĩ ra một việc, day qua hỏi Đàm Xứ Đoan:
- Này sư đệ đến đây chỉ nói cho biết việc ấy thôi chứ?
Đàm Xứ Đoan cúi đầu không đáp.
Khưu Xử Cơ nghiến răng:
- Tôi hiểu rồi! Đàm sư đệ, chúng ta lập tức xuống núi đoạt lấy cống lễ đó.
Đàm Xử Đoan vụt ngẫng đầu lên cặp mắt long lanh sáng rực.
Mã Ngọc nghe nói hoảng kinh:
- Cướp đoạt cống lễ à? Chúng ta là kẻ xuất gia thanh tịnh trụ trì, đâu có thể hành động theo bọn lục lâm cường đạo? Nếu sư phụ ta biết được việc làm trái ngược ấy, liệu người sẽ xử trí ra sao?
Khưu Xử Cơ cười lạt:
- Đại sư huynh, tuy chúng ta là kẻ xuất gia, nhưng bất cứ một kẻ tu từ ở nơi môn phái nào, cũng đâu có thể vượt khỏi ngoài nhân thế. Cống lễ đó là máu huyết của dân tộc ta mà vì nhà vua họ Triệu bất tài, mới đem cống biếu ngoại bang để cho cá nhân mình được giàu sang yên ổn ngồi trên ngôi báu, với dã tâm "sống chết mặc bây".
Hừ! Chúng ta có nên đoạt nó hay không?
Mã Ngọc gục gật thở dài:
- Sư đệ nói đúng lắm! Song vì sư phụ đã căn dặn chúng ta rằng, tài nghệ chưa thành, xuống núi bây giờ là gây họa. Cho nên, đừng nói đến việc chúng ta chưa chắc thành công, mà như công việc làm được theo ý muốn, cũng sẽ bị thầy khiển trách.
Khưu Xử Cơ lắc đầu:
- Sư phụ cũng là con người trung cang nghĩa khí, đối với chuyện lê dân đau khổ, quốc phá gia vong này quyết chắc người không bao giờ trách cứ chúng ta. Phương chi đoạt thu tài vật cống lễ này ta sẽ phân phát lại cho những người nghèo đói đang quằn quại rên siết, góp phần cứu trợ mạng sống cho số đông người, thì tại sao lại chẳng làm?
Và chàng day qua hỏi Đàm Xứ Đoan:
- Ấy vậy cống lễ này quân Kim có đông không? Và viên tướng lãnh nào đốc lãnh?
- Tất cả cống vật đều vận chuyển bằng xe, trên dưới độ hơn một nghìn quân Kim hộ tống.
Còn cái tên tướng cầm đầu, thì là một thằng cha tóc đỏ mặt xanh, tay cầm cây lang nha bỗng, có cái tên dài sọc là Hoàng Nhan Thất Luật, Thất Niêm gì đó, đầu nó đội cái mão vàng giống như một vị Bình Chương vậy.
Khưu Xử Cơ nóng nảy:
- Được rồi, sư đệ hãy ra trước núi gọi Lưu sư huynh, Vương, Hảo sư đệ và Tôn sư muội vào đây mau lên!
Thấy bộ dạng Khưu Xử Cơ, Mã Ngọc vừa giận vừa tức cười:
- Sư đệ, Kim binh hơn một ngàn chúng ta chỉ có bảy, lấy sức bảy người, đi cướp đoạt đồ vật trong tay cả ngàn người, đã là một việc khó.
Huống chi vàng bạc lụa là ít nhất cũng một trăm cổ xe, dầu cho chúng ta có ba đầu sáu tay chưa chắc đã đoạt được.
Khưu Xử Cơ phớt tỉnh:
- Đại sư huynh, anh là một người quá thận trọng, thận trọng đến mức độ không cả quyết! Anh hãy xem tiểu đệ sắp đặt đây!
Giây phút, Đàm Xứ Đoan đã mời Lưu Xử Huyền, Hảo Đại Thông, Vương Xứ Nhất và Tôn Bất Nhị tề tựu đến.
Khưu Xử Cơ bèn đem việc mình tính đoạt cống lễ nói lại, cả bọn bốn người đều vỗ tay tán thưởng:
- Hay lắm, hay lắm! Chúng ta hãy nghe Khưu sư huynh sắp xếp.
Mã Ngọc vụt đứng dậy:
- Ta dù sao cũng là một người lớn trong hàng đệ tử, không thể làm trái môn quy. Các sư đệ muốn làm gì cứ làm, đừng tính ta vào trong đó.
Dứt lời họ Mã đứng dậy đi luôn một nước.
Hảo Đại Thông ngó theo Mã Ngọc, chực lên tiếng gọi nhưng Khưu Xử Cơ đã khoát tay:
- Thôi, mặc anh ấy! Chúng ta sáu người một ý là được rồi!
Chàng liền đem kế hoạch dự định của mình nói rõ cho mọi người nghe, cả bọn vui vẻ tán đồng:
- Hay lắm! Kế hay lắm!
- Đã là kế hay, thì chúng ta hành động liền không nên chậm trễ.
Các đệ tử Toàn Chân Giáo bèn chia nhau xuống núi.
Dưới chân núi Tung Sơn về phía Đông, có một cái chợ nho nhỏ, gọi là Bôn Ngọ Trấn.
Nơi đây, độ năm ngàn nóc gia, song lại nằm đúng vào cái trục giao thông bởi một con đường cái.
Con đường nầy, thường thường dùng vào việc vận chuyển lương thảo, quân cụ của quan binh.
Sáng sớm ngày hôm ấy bỗng nhiên tiếng người tiếng ngựa vang lên tận xa xa. Rồi thì cát bụi tung tên, dẫn đến mấy mười tên quân kỵ, tất cả đều là Kim binh.
Vừa đến đầu thị trấn, họ tung mình xuống ngựa chia dọc theo đường, hướng vào các xó dân cư ra lệnh:
- Tất cả đều phải đóng cửa lại! Có đồ vật quan trọng tải ngang qua, kẻ nào lén hé cửa dòm, lập tức đứt đầu! Nghe đây! Nghe đây!
Đó là thói quen của quân Kim.
Bất luận tải lương thảo ra mặt trận hoặc từ phương Nam vận chuyển vàng bạc lụa là trở về theo đường quyết không cho người Tống dòm ngó.
Từ trước đến nay dân cư Bôn Ngọ trấn nghe Kim binh truyền rao như thế, nhà nhà đều đóng chặt cửa không một ai dám ló đầu ra. Dọc dài theo thị trấn, một bầu không khí lặng im phăng phắc.
Thấy dân cư đã đóng cửa xong, Kim binh liền dàn ra hai cánh, tuốt gươm khỏi vỏ rầm rập tiến qua thị trấn, như sắp sửa lâm trận.
Cứ theo tình thế lúc bấy giờ, Kim Tống đã nghị hòa, thì việc vận chuyển như thế, tại sao quân Kim lại làm ra quan trọng.
Nguyên vì sau khi nhà Tống lui xuống miền Nam, di đô về Giang Tả, một giải Hoàng Hà Nam Bắc, không thiếu chi những người sẵn bầu nhiệt huyết, không chịu cam lòng thần phục ngoại bang, không bằng lòng để cho quân Kim tàn sát thống trị, họ đã lần lần nổi dậy lập thành những đội nghĩa quân trong dân chúng, nhất là các vùng thôn dã, đánh phá quân Kim ở trong các địa phương.
Công việc của họ là cướp đoạt, đốt phá lương thảo, đánh giết quan lại tướng tá của nhà Kim, cổ khuyến dân chúng không giao dịch nạp lương đóng thuế cho bọn chúng.
Tình hình đó mạnh nhất ở các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, vì lẽ ấy mà việc áp vận của quân Kim phòng bị hết sức cẩn mật.
Sau khi bố trí xong xuôi, họ xua quân tiến tới, cả khoảng đường dài, bắt đầu thị trấn bụi cát mịt mù, tiếng xe khua vang dội đinh hai điếc óc.
Hơn một trăm cỗ xe tới, như một con rắn dài uốn khúc gầm thét dậy trời.
Cùng lúc ấy từ Bôn Ngọ Trấn đi ra ba gã đàn ông mù mắt, quần áo xốc xếch, đầu vấn khăn sùm sụp. Mỗi người cầm một chiếc gậy tre mò mẫm dò đường.
Quân Kim thấy ba người mù thinh không dẫn đến, lấy làm lạ nạt lên:
- Ủa! Ba cái thằng đui này, sao lại dám ngang qua chỗ đại quân vận lộ như vậy? Bọn ngươi không biết à? Đi trở lại, mau lên!
Ba người mù ấy lại chẳng chịu đi, cứ đứng ngay ở đầu đường vào thị trấn, lải nhải nói chuyện với nhau.
Đoàn quân đi đầu của Kim binh trờ tới thấy ba người ấy không chịu lui vào trấn, lo sợ bị quan trên quở phạt, nổi nóng nạt nộ um sùm.
Trong số ấy có một tên lỗ mãng nhất hùng hổ dang tay xô bọn người mù, miệng thì chửi ó lên:
- Đồ đui! Đi trở lại mau lên!
Không ngờ tay y vừa đẩy trúng vào người đui thì thân thể người này bỗng mềm nhũn sốp sọp như bao bông gòn.
Tên quân Kim lấy làm lạ định rút tay về, bỗng nhiên một hấp lực vô hình hút chặt tay y lại, không làm sao giật ra được.
Rồi thình lình, thân hình tên mù lại
phình ra như chiếc bong bóng thổi hơi, tên quân Kim bị một sức mạnh bắn vọt ra xa hơn mười bước.
Quân Kim hoảng hốt dừng lại. Hai tên quân Kim đứng gần nhất rút phắt đại đao nhắm người mù đứng giữa xả xuống.
Hai người mù hai chân không hẹn, cũng một lúc cất bổng chiếc gậy tre, điểm ngay vào Khí Du huyệt của hai tên quân vừa chém tới.
Hai tên lính Kim rập lên một tiếng la bài hải, buông đao ngã trên mặt đất.
Liền khi ấy, một tên tướng Kim dẫn đạo quân đầu, đã giục ngựa lướt tới. Tướng này tên Trương Sĩ Lương, vốn là người Hán đầu phục binh Kim, chôn vùi lương tâm nối giáo cho kẻ địch, hà hiếp đáp dân chúng từ lâu.
Thấy ba tên mù dáng dấp khả nghi chỉ nhấc tay đã đánh ngã ba tên binh sĩ của mình, bất giác nổi giận đùng đùng quát lớn:
- Quân phản tặc! Bắt nó cho ta!
Tiếng quát vừa dứt, gã họ Trương liền ôm mặt lăn xuống ngựa.
Nguyên ba người mù đó là Khưu Xử Cơ, Đàm Xứ Đoan, và Lưu Xử Huyền giả dạng theo kế hoạch đánh cướp quân Kim.
Thấy Trương Sĩ Lương đã theo kẻ thù lại gọi ngược đồng bào là giặc, Khưu Xử Cơ máu giận sôi lên, vung cây gậy trút vút ngay vào họng gã.
Cây gậy trúc xé gió bay tới như một ngọn thương cắm ngay vào miệng Trương Sĩ Lương, xuyên tuốt qua hậu não, ngã xuống óc văng tung tóe.
Quân Kim thấy chủ tướng mình bị giết, khiếp đảm tản ra, hàng ngũ rối loạn xà ngầu.
Càng kinh hoàng hơn nữa là ba người mù vụt mở mắt ra, hét lên một tiếng, từ trong chiếc áo lùng thùng rách rưới mỗi người rút ra một thanh trường kiếm, ánh thép loang loáng vung lên như gió cuốn mây bay chặt quân Kim như đốn chuối.
Quân Kim tuy hung hăng nhưng làm sao cự lại ba tay kiếm Toàn Chân.
Chỉ thấy kiếm quang cuồn cuộn như ba chiếc mống dài đảo lộn, ánh sáng bay đến đâu, quân Kim rạp ngã ra nơi đó, thân lăn lộn máu thịt văng tứ tung.
Chủ tướng quân binh, Hoàng Nhan Thất Luật nghe báo có người chận giết binh lính, phùng râu trợn mắt hét vang như sấm.
Tên tướng lãnh quân Kim bèn thót lên lưng con Hoàng Phiêu Mã, hươi cây Lang Nha Bổng tiến lên tới trước.
Khưu Xử Cơ ngẫng mặt thấy một tên tướng Kim mặt xanh tóc đỏ, ngồi trên lưng ngựa xông tới bèn gọi lớn:
- Sư đệ! Đánh giặc phải bắt tên tướng trước, ai trói thằng phiên cẩu đó, công trạng kể gấp đôi.
Lưu, Đàm song kiệt vung lên từ bên phải tiến qua, liền bị mấy mươi binh Kim cản lại.
Mấy chục tên quân này toàn là giáp sĩ chuyên việc hộ tống đoàn xe chuyển vận, sức mạnh phi thường.
Lưu Xử Huyền và Đàm Xứ Đoan bị chúng vây vào chính giữa.
Chờ cho một tên quân Kim nào giá đại đao chém xuống, chàng bèn lách mình qua, tay phải dùng kiếm chận đao, tay trái thộp vào ngực gã quát lên một tiếng:
- Bay!
Thân hình tên lính đó tức thì như một trái khí cầu bắn tung lên đâm sầm tới trước đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.
Tên tướng mặt xanh hoảng hốt, cử Lang Nha Bổng đở lên.
Một tiếng bịt khô khan, tên quân Kim vừa rơi xuống thì cả Lang Nha Bổng đập văng tạt một bên.
Trong chớp mắt Khưu Xử Cơ khẽ nhún mình tung chân nhãy tới.
Vừa đúng lúc sáu tên Kim binh cử đao ập lại, chàng bèn dùng chân nhấn mạnh trên đầu một tên, óc phụp bể ra ngã lăn xuống đất.
Nương theo đà của cái nhấn đó, Khưu Xử Cơ như một cánh chim lộng gió lao vút qua hơn năm trượng ập thẳng đến đầu ngựa của Hoàng Nhan Thất Luật.
Tên tướng mặt xanh thấy kẻ địch như một vị tướng trên trời giáng xuống, làm luống cuống nhưng cũng kịp thời vung Lang Nha Bổng quất ngang lưng địch thủ.
Cây Lang Nha Bổng vừa mới đưa lên, Khưu Xử Cơ đã xà xuống tới, tay trái chàng nắm chặt đầu cây Lang Nha Bổng, tay phải vung trường kiếm, đâm thẳng vào yết hầu con ngựa địch.
Con chiến mã ré lên một tiếng hai chân trước dạt ra quỵ xuống, ném Hoàng Nhan Thất Luật lộn mèo tới trước.
Khưu Xử Cơ đút lẹ thanh kiếm vào vỏ, tay trái giật mạnh cả Lang Nha Bổng.
Hoàng Nhan Thất Luật mất đà chúi nhủi về phía bên chàng.
Khưu Xử Cơ lẹ tay chụp ngay đai lưng tên tướng mặt xanh, giở bổng lên không vận khí đan liền hét lớn:
- Bọn giặc Kim! Chủ tướng của bây đây!
Cùng lúc ấy, ngót toàn quân Kim, bốn phương tám hướng ào tới làm thành mấy chục vòng vây bao chặt ba cao đồ Toàn Chân vào giữa, cho rằng đối phương tháp cánh cũng không thoát được.
Nào ngờ Khưu Xử Cơ đã "tiên phát chế nhân" bắt chủ tướng dơ thẳng lên cao như cọp vờn xác chó, bọn chúng hoảng kinh từ từ lùi tản ra xa.
Có một số giáp binh ỷ mạnh, liều mạng múa đao lướt tới.
Khưu Xử Cơ nắm Hoàng Nhan Thất Luật vung vùn vụt ra trước mặt, bọn chúng mất hồn vía, chạy ùa tán loạn.
Đàm Xứ Đoan, Lưu Xử Huyền từ nãy giờ bị quân Kim vây chặt, chợt thấy Khưu Xử Cơ bắt được viên chủ tướng địch quân, hai người cả mừng huy động hai thanh trường kiếm phát cỏ đám Kim binh, giết đến gần bên sư huynh của mình.
Khưu Xử Cơ quét cặp mắt vào đám quân Kim quát lớn:
- Chúng bây có tiếc mạng chủ tướng của chúng bây không? Nếu tiếc thì đứng im lại nghe mệnh lệnh của ta.
Chàng vận đan điền phát ra khí quản cho nên giọng nói vang rền như sấm bất cứ một tên quân Kim binh xa gần cũng đều nghe thấy rõ ràng, trong tình thế đang hỗn loạn đó, chúng hoảng kinh im phăng phắc, để nghe chàng ra lệnh.
Khưu Xử Cơ thấy binh Kim đứng im, bèn ném mạnh Hoàng Nhan Thất Luật xuống đất quát lớn:
- Thằng chó Kim! Ngày nay ngươi rơi vào tay ta, ta hỏi phải trả lời mau, trọng tiền hay trọng mạng?
Hoàng Nhan Thất Luật bị Khưu Xử Cơ quật xuống rêm mình rêm mẩy, nghe như xương cốt nát tan, hồn vía bay tận mây xanh, kể như không thấy vợ con chi nữa.
Tên tướng Kim này, lúc thường tuy làm hùm làm hổ, nhưng căn bản vẫn là một phường tham sống sợ chết, nên khi Khưu Xử Cơ hỏi bèn lập cập trả lời:
- Hảo hán gia gia, mạt tướng trọng sinh mạng lắm lắm!
Khưu Xử Cơ mỉm cười:
- Tốt! Đã vậy ngươi hãy bảo binh lính của ngươi đem hết vàng bạc lụa là, tới đây không được thiếu sót nghe chưa!
Hoàng Nhan Thất Luật dòm quanh bốn phía thấy đối phương ngoài ba người ra không thấy có thêm một tên đồng bọn, trong lòng hắn lấy làm khó chịu, lại thêm ý tưởng của họ thiệt quả bằng trời, tài vật của mình áp vật không phải là vật tầm thường, mà là cống lễ của Tống triều hiến nạp hai chục vạn lượng bạc hai chục vạn cây lụa tốt mà đối phương chỉ có ba người sáu tay thôi làm sao họ có thể mang đi được.
Khưu Xử Cơ đoán được tâm lý do dự của tên tướng mặt xanh.
Chàng bèn cười lạt:
- Thằng chó Kim kia, ngươi nghĩ chúng ta có ba người, không vận chuyển tài vật được à? Ha ha! Lẽ tất nhiên ta có cánh! Bây giờ ta hỏi ngươi có bằng lòng giao nạp hay không?
Hoàng Nhan Thất Luật nghĩ rằng ba tên này vận chuyển hơn một trăm xe, ba tháng cũng chưa xong. Dù ta có bằng lòng đối phương cũng chẳng bay đi đâu mà sợ, hắn bèn gật đầu:
- Hảo hán, ngài đã thích của ấy thì cứ việc mang đi!
Khưu Xử Cơ cười lên ha hả:
- Như vậy mới thật là người thức thời! Tốt lắm!
Vậy bây giờ người hãy ra lệnh cho tất cả quân lính của ngươi đẩy hết xe về hướng Đông Nam. Dọc đường, không được tiết lộ phong thanh kêu gọi la lối gì cả. Đẩy một khoảng hơn hai mươi dặm, đến bờ sông Vy Thủy, sẽ có đồng bạn ta tiếp đón! Biết chưa?
Hoàng Nhan Thất Luật nghe nói hoảng hồn trong bụng kêu khổ liên miên, không ngờ đối phương còn có đồng đảng nữa.
Chẳng qua sinh mạng mình bây giờ nằm trong tay họ, Hoàng Nhan Thất Luật không dám không nghe theo, bèn lập tức lồm cồm ngồi dậy.
Khưu Xử Cơ lấy mũi kiếm chỉa ngang vô lưng hắn.
Dưới mũi kiếm uy hiếp đó, Hoàng Nhan Thất Luật chỉ còn có nước ra lệnh cho quân lính lên ngựa đẩy xe theo con đường Khưu Xử Cơ chỉ định.
Đoàn quân vận tải của binh Kim lại uy phong lẫm liệt chỉnh tề hàng ngũ lên đường.
Dọc đường xuyên qua bao nhiêu thôn trang, Khưu Xử Cơ đều buộc Hoàng Nhan Thất Luật cho lính vào bắt tráng đinh theo phụ lực. Mỗi thôn như vậy, ngoài một trăm người.
Không quá nửa ngày, toàn đội áp vận đông lên thêm mấy trăm người, thanh thế mỗi ngày một lớn thêm ra.
Hoàng Nhan Thất Luật càng cảm thấy lạ lùng, không đoán nổi dụng ý của Khưu Xử Cơ.
Vy Thủy là con sông nhánh của Hoàng Hà, ven bờ địa thế bằng phẳng, mặt sông rộng lớn mênh mông, Khưu Xử Cơ bức bách quân Kim đẩy riết đến đó.
Lúc bấy giờ đã có sẵn bốn người đứng ở bên bờ, ba nam một nữ.
Đó là Mã Ngọc, Vương Xứ Nhất, Hảo Đại Thông và Tôn Bất Nhị.
Thấy Mã Ngọc Cũng đến đó không biết từ bao giờ, Khưu Xử Cơ bèn bước lên diện kiến sư huynh.
Dọc theo ven sông lại sắp sẵn ba mươi mấy chiếc ghe chài, Hoàng Nhan Thất Luật liếc xem tái mặt.
Hắn nghĩ rằng nếu họ khiêng hàng hóa xuống thuyền chở đi thì không làm sao biết được tung tích ở đâu mà tìm kiếm.
Nguyên bọn ba người của Vương Xứ Nhất theo lời dặn trước của Khưu Xử Cơ đến Vy Thủy. Họ giả làm lái cây ở miền Nam đến mướn một số ghe chài để chở hàng hóa.
Họ ăn mặc theo lối thương nhân sang trọng lại bỏ ra thật nhiều tiền, bọn thuyền chủ không nghi ngờ chi cả bèn neo thuyền dọc theo bờ sông chờ đợi.
Khưu Xử Cơ thấy thuyền ghe đã sẵn sàng liền bảo Hoàng Nhan Thất Luật:
- Đến nơi rồi, song ngươi còn phải ra một lệnh nữa. Hãy bảo thủ hạ của ngươi mang tất cả đao thương kiếm kích, cung tên ném xuống sông mau lên!
Thật là một cái lệnh mà Hoàng Nhan Thất Luật không bao giờ nghĩ tới, hắn ta hoảng hốt kêu lên:
- Hảo hán! Ngài đã lấy hết số vàng, gấm vóc rồi, xin để lại cho binh khí!
Khưu Xử Cơ không trả lời đẩy mạnh mũi kiếm lủng giáp tên tướng Kim và quát lớn:
- Không phải chỉ cống lễ không mà đủ, cả lũ người làm ma nhà Hán nữa! Ngươi có chịu nghe lệnh của ta không?
Hoàng Nhan Thất Luật nghe be sườn mình đau nhói vì mũi kiếm, hồn phi phách tán lật đật kêu xin:
- Mạt tướng tuân mệnh! Tuân mệnh!
Tên tướng mặt xanh run rẩy truyền lệnh, quân sĩ y theo lời của Khưu Xử Cơ.
Kim binh tuy có vẻ căm hờn song không dám trái lệnh.
Lưu Xử Huyền, Đàm Xứ Đoan, Vương Xứ Nhất và Hảo Đại Thông xông vào đám binh lính lột hết khí giới to nhỏ dài ngắn ném xuống sông.
Khưu Xử Cơ lúc bây giờ bèn truyền cho bọn lính tay không đó vận chuyển tài vật xuống hết dưới thuyền.
Gần nửa ngày mới hoàn tất công việc.
Khưu Xử Cơ chờ cho chúng khuân đến cỗ xe cuối cùng mới tặng một đá vô bàn tọa của lên tướng mặt xanh và quát lớn:
- Gửi sinh mạng ngươi lại đó ít lâu, hãy mang quân cút ngay. Đồ chết bầm.
Hoàng Nhan Thất Luật bị một đá như trời giáng lăn tròn gần cả trượng, bò càng bò niễng, đứng lên nhăn nhó như khỉ ăn phải ớt.
Bây giờ trong tay không có một tấc sắt, muốn trở mặt cũng không làm sao được. Tên tướng quân lui thủi kéo quân đi tuốt.
Sau khi quân Kim đi rồi, Khưu Xử Cơ bèn bảo các thôn đinh đã bắt theo phụ dọc đường, lên tất cả trên thuyền.
Mấy trăm thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ ra lệnh, hết thảy đều ùn ùn kéo róc xuống thuyền căng buồm cho thuyền xuống thẳng hạ lưu.
Ngoài mười dặm đường sông, Khưu Xử Cơ lựa một chỗ mà hai bên bờ hoang vắng cho thuyền cặp lại và ra lệnh cho khuân hết tài vật lên bờ.
Xong xuôi đâu đó Khưu Xử Cơ bèn tập họp thôn đinh lại nói với họ bằng một giọng trang nghiêm:
- Xin tất cả hãy nghe đây, Kim binh tàn ác thống trị Trung Nguyên chúng ta đã mười mấy năm rồi, trăm họ lầm than cơ cực. Thế mà nhà vua họ Triệu chỉ biết đến cái chức Hoàng đế bình an của mình không hề nghĩ đến giang san gấm vóc, cứu dân cứu nước, chỉ lo vinh thân phì gia, mà không nghĩ đến giống nòi đang quằn quại.
Đã vậy còn vắt mồ hôi máu huyết của lương dân một giải Giang Nam làm lễ cống cho lủ quân Kim cẩu trệ.
Nói đến đây Khưu Xử Cơ cầm lòng không được hai hàng nước mắt trào tuôn.
Chàng nghẹn ngào nói tiếp:
- Tôi sắp đặt kế này, cướp lại cống lễ của Tống triều phân phát lại cho chư vị, vậy chư vị cố sức đem đi hết. Chỉ có điều cần phải nói rõ, số tài vật này là xương máu của bá tánh của phương Nam, chúng ta không thể hưởng trọn một mình mà cần phải chia ra cho dân ở các vùng phụ cận.
Chia được nhiều ra chừng nào, việc làm của chúng ta càng được tốt đẹp chừng ấy.
Số chủ thuyền và tất cả thôn đinh nghe Khưu Xử Cơ nói vô cùng cảm động rập lên:
- Đúng, đúng! Chúng ta hãy gọi dân nghèo đến mang đi. Tất cả đều chia nhau đi thông báo cho các thôn lạ chung quanh.
Trong giây phút, họ ùn ùn kéo tới có mấy ngàn người.
Khưu Xử Cơ bèn áng theo nhân khẫu mà chia đều ra hết.
Làm được việc phải, trong lòng hết sức vui sướng, Khưu Xử Cơ nhìn chư huynh đệ nói to:
- Mấy chục năm nay, Khưu Xử Cơ này chỉ sống trọn cho một ngày đấy thôi!
Các môn đệ Toàn Chân giáo vỗ tay cười vang dậy.
Đàm Xứ Đoan nói:
- Nếu cống nạp cho Kim Quốc mà mỗi năm đều được như vậy cả, thì hay biết chừng nào.
Vương Xứ Nhất nói:
- Chúng ta làm việc này mà còn quên một việc khá quan trọng.
- Chuyện chi?
Vương Xứ Nhất ngó Khưu Xử Cơ:
- Sư huynh, chẳng lẽ anh quên rằng sau khi mất cống lễ, quân Kim thẹn quá sẽ tìm cách trả thù. Và sự khó khăn ấy sẽ trút lên cho bá tánh vùng phụ cận?
- À! Chuyện này nguy hiểm lắm đấy.
Lưu Xử Huyền ngẫm nghĩ giây lâu:
- Sư huynh, vấn đề này đáng phải suy xét kỹ, chúng ta không thể trong một lúc bỗng chợt mà để lụy cho lê dân.
Khu Xử Cơ quả quyết:
- Đúng rồi! Tạm thời chúng ta không trở về Tung Sơn, mà phải cấp tốc đến Biện Kinh dò xem bọn Kim đối phó với việc này ra sao, rồi tùy đó chúng ta xử trí.