Phần 11

152. Vì sao khi ngáp, nước mắt lại trào ra?
Khi ngáp, hai mí mắt khép lại, miệng mở to, người hơi ngả về phía sau, thở sâu và mạnh, kèm theo động tác uốn vai. Lúc đó, bạn sẽ phát hiện thấy người ngáp trào ra một ít nước mắt.
Ở phía trên nhãn cầu của khoang mắt có tuyến lệ. Nước mắt từ đó tiết ra từng giờ từng phút, trừ lúc ngủ. Bình thường, ta không cảm thấy được vì trong cơ thể có một "thiết bị" thu thập và bài tiết nước mắt. Ở góc trong mỗi khóe mắt có một lỗ nhỏ, nước mắt từ đó chảy ra ống nước mắt, rồi đi vào túi nước mắt. Phía dưới túi này là ống nước mắt ở mũi, thông với khoang mũi. Nước mắt được tiết ra cuối cùng sẽ lẫn với nước mũi mà chảy đi.
Khi người ngáp, miệng mở to, một luồng khí từ trong miệng phả ra, áp lực trong khoang miệng rất cao, áp lực trong xoang mũi cũng theo đó tăng lên, nước mắt trong đường ống nước mắt tạm thời bị ngăn cản nên sẽ trào ra từ mắt.
Việc hắt hơi, ho, nôn... cũng có thể làm cho áp lực trong xoang mũi tăng lên, khiến nước mắt trào ra.
153. Vì sao sau mỗi tiết học phải nghỉ 10 phút?
Như ta đã biết, đại não là "bộ tư lệnh" của cơ thể. Dưới sự chỉ huy của nó, tất cả hoạt động của con người đều diễn ra theo một trật tự nhất định. Lúc ta học tập, tế bào của một khu vực nào đó của đại não làm việc, ở trạng thái hưng phấn. Khi ta hoạt động thì một bộ phận tế bào khác của đại não sẽ hưng phấn.
Vì vỏ đại não còn có khả năng tự bảo vệ mình cho nên khi một công việc nào đó kéo dài, độ hưng phấn sẽ giảm xuống. Nếu cứ tiếp tục làm việc đó, những kích thích của ngoại giới sẽ không làm cho vỏ đại não hưng phấn nữa, thậm chí sẽ dẫn đến ức chế. Ví dụ, trong cuộc sống thường ngày ta hay gặp các trường hợp sau: học lâu, sức chú ý sẽ không tập trung nữa, đầu óc căng lên, điều đó chứng tỏ đại não đang chuyển từ hưng phấn sang ức chế, xuất hiện mệt mỏi. Nếu không được nghỉ, cơ thể sẽ mệt mỏi quá mức và gây tổn hại cho vỏ đại não.
Muốn cho công năng của đại não luôn ở trạng thái mạnh mẽ thì phải để cho các trạng thái hưng phấn và ức chế của đại não luân phiên nhau. Vì vậy, sau 45 phút lên lớp, người ta thường dành 10 phút nghỉ ngơi để cho một bộ phận tế bào nào đó của vỏ đại não từ hưng phấn chuyển sang ức chế, hy vọng qua một chốc, tinh lực sẽ dồi dào trở lại để tiếp thu tiết học sau. Sự nghỉ ngơi cũng làm giảm nhẹ sự mệt mỏi của mắt.
Vì vậy, trong 10 phút nghỉ giữa hai tiết, học sinh nên đi ra ngoài, thở không khí mới, hoạt động tay chân, không nên ngồi lì trong lớp hoặc tranh thủ làm bài tập. Nhưng cũng không nên hoạt động thể dục quá mức, vào tiết sau khó yên tĩnh trở lại, ảnh hưởng đến học tập.
154. Vì sao nam giới có râu, còn phụ nữ thì không?
Nam nữ khác nhau không những về tầm vóc và công năng của các tổ chức khí quan mà còn có một sự khác biệt rất lớn: nam giới đến tuổi thanh niên trên miệng mọc râu, còn nữ giới thì không có. Nhiều người cảm thấy điều này rất kỳ lạ, vì sao nữ giới lại không có râu? Thực ra điều đó có liên quan mật thiết với sự hấp thu, đào thải của các chất kích thích.
Nói chung, thanh niên khỏe mạnh sau thời kỳ dậy thì đều mọc râu, ban đầu là một lớp lông thưa, màu nhạt và mềm, về sau dần dần biến thành dày và thô cứng. Y học hiện đại phát hiện, vào thời kỳ này, trong cơ thể nam giới tiết ra nhiều hoóc môn nam, khiến cho lông tóc đen và thô. Mọc râu chính là một biểu hiện điển hình. Còn ở nữ, thời kỳ này các hoóc môn nữ chiếm ưu thế tuyệt đối, lượng hoóc môn nam rất ít, cho nên tác dụng mọc lông tóc kém xa nam giới. Tóc của nữ giới cũng mềm yếu và màu sắc nhạt hơn.
Nhưng có một số thiếu nữ cũng mọc một lớp lông tơ đậm như "râu", vì thế mà họ cảm thấy rất khó chịu. Thực ra đó không phải là râu mà chỉ là lớp lông mép hơi dày, nó không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của cơ thể, thông thường qua tuổi dậy thì, tự nó sẽ mất đi.
155. Vì sao nói chung nữ thấp hơn nam?
Nói chung đa số nữ thấp hơn nam, đương nhiên cũng có nam giới thấp, nhưng đó là thiểu số.
Chiều cao của một người được quyết định bởi sự dài ngắn của khung xương, đặc biệt là độ dài ngắn của xương chi dưới. Không tin thì bạn thử làm xem: hai người cao thấp khác nhau cùng ngồi lên ghế băng, nửa thân trên chênh lệch không bao nhiêu, nhưng khi duỗi chân ra thì chênh nhau một đoạn lớn. Cho nên bình thường ta hay nói người cao là người "chân dài", người thấp là người "chân ngắn". Điều đó là có lý. Chính vì chiều cao của mỗi một người chủ yếu biểu hiện ở chân dày hay ngắn, cho nên mấu chốt vấn đề nữ thấp nam cao là ở chỗ sự phát triển của chi dưới khác nhau.
Trẻ em sau khi sinh ra, xương chi dưới phát triển nên chiều cao đương nhiên sẽ tăng lên. Nhưng sự phát triển của cơ thể có một quy luật nhất định, không phải đều đặn hằng năm mà là tăng trưởng theo hình sóng. Năm thứ nhất, chiều cao trẻ em tăng lên rõ rệt, khoảng 23 - 25 cm. Năm thứ hai chỉ tăng 10 cm. Về sau, tốc độ lớn ngày càng chậm: năm thứ ba 8 cm, năm thứ tư, thứ năm mỗi năm chỉ tăng khoảng 4 - 6 cm. Nếu khi sơ sinh, chiều cao của em bé là 50 cm thì đến 5 tuổi sẽ tăng lên gấp đôi, tức là khoảng 1 m; đến 6 - 7 tuổi lại lớn nhanh hơn, mỗi năm khoảng 8 - 10 cm. Từ đó về sau, mãi đến trước tuổi dậy thì, tốc độ lớn bắt đầu giảm dần, mỗi năm chỉ lớn khoảng 3 - 4 cm.
Gọi là thời kỳ dậy thì vì đó là thời kỳ phát triển mạnh. Các đặc trưng về giới tính xuất hiện, nam và nữ bắt đầu khác nhau. Bé gái nói chung bắt đầu phát dục khoảng 11-12 tuổi, còn bé trai chậm hơn, sau 2 - 3 năm. Trong thời gian này, chiều cao sẽ tăng trưởng nhanh hơn, mỗi năm thêm 5-7 cm. Đến tuổi 17-18, sự tăng chiều cao chủ yếu dựa vào sự tăng trưởng của cột sống. Sự tăng trưởng này chậm nhưng kéo dài, vì vậy tốc độ cao giảm dần. Sự phát dục và phát triển của nam tuy bắt đầu chậm, nhưng tốc độ lại vượt quá nữ giới và kết thúc chậm. Nói chung, nữ kết thúc tăng cao lúc 19-23 tuổi, còn nam giới lúc 23-26 tuổi. Cho nên nữ giới nói chung thấp hơn nam giới.
156. Cơ thể nam và nữ có gì khác nhau?
Ở trẻ em, sự khác nhau giữa nam và nữ không rõ rệt, ngoại trừ cơ quan sinh dục. Đến sau tuổi dậy thì, sự khác biệt giữa nam và nữ mới biểu hiện trên nhiều mặt.
Da của nam giới tương đối thô ráp, còn da của nữ thì trơn bóng và mềm nõn, không có nếp nhăn. Cơ bắp của nam phát triển hơn nữ, khung xương cũng chắc cứng hơn. Tuyến mỡ của nữ nhiều hơn. Ở nam 20 tuổi, mỡ chỉ chiếm khoảng 15% trọng lượng; còn ở nữ, tỷ lệ này là 27%. Vì vậy, khả năng lao động thể lực của nữ yếu hơn so với bạn nam cùng lứa tuổi khoảng 25-50%, nhưng nữ lại có khả năng chịu đói tốt hơn nam giới.
Các cơ quan tạng phủ của nam và nữ có gì khác nhau? Như ta đã biết, nhịp tim nam giới chậm, nhịp tim nữ nhanh hơn. Ở một người nam khỏe mạnh, bình quân 1 kg trọng lượng cơ thể có khoảng 80 ml máu, còn nữ giới ít hơn, 1 kg trọng lượng chỉ có khoảng 75 ml máu. Số hồng cầu trong máu nam giới cũng nhiều hơn nữ. Theo đo lường, lượng hoạt động của phổi nam giới hầu như cao gấp 1,5 lần so với nữ. Số lượng ôxy trong máu của nam cũng cao hơn nữ. Do đó, nam giới có sức lực mạnh hơn.
Não của nam và nữ cũng không hoàn toàn giống nhau. Hình dạng não của con người giống như nhân hạt đào, gồm 2 bán cầu đại não tổ chức thành. Nói chung, ở nam giới, bán cầu não phải phụ trách công năng âm nhạc, hội họa tương đối phát triển. Còn ở nữ giới bán cầu não trái phụ trách về ngôn ngữ tương đối phát triển. Do đó, trẻ em gái sớm ăn nói lưu loát hơn trẻ em trai. Còn về mặt âm nhạc, đặc biệt là sáng tác âm nhạc, nhạc sĩ nổi tiếng hầu như là nam.
Đương nhiên, sự khác biệt lớn nhất giữa nam và nữ là cơ quan sinh dục. Cơ quan sinh dục của nam giới bao gồm: dương vật, túi tinh, ngọc hoàn và ống dẫn tinh. Ngọc hoàn nằm phía ngoài cơ thể, là cơ quan sản xuất tinh trùng và tiết ra kích thích tố nam. Cơ quan sinh dục của nữ gồm có: âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng. Tử cung nằm sâu trong bụng dưới, là "nôi" của bào thai. Buồng trứng ở hai bên tử cung. Vai trò của nó là sản sinh ra trứng và tiết ra chất kích thích tố nữ.
Thông thường, người ta có thể nhìn thấy ngay con gái thường đẹp, trau chuốt, còn con trai thì phong độ, cởi mở. Nhưng sự khác biệt giữa nam và nữ là tương đối. Có một số nam giới cũng rất giống nữ, ngược lại cũng có người nữ bề ngoài giống con trai. Có lúc bề ngoài nam nữ lẫn lộn, khó phân biệt. Di truyền học hiện đại cho ta biết: cơ thể người là do hàng nghìn tỷ tế bào cấu tạo nên. Trong mỗi tế bào có 46 đôi nhiễm sắc thể; trong đó có hai sợi nhiễm sắc thể quyết định giới tính. Ngày nay, người ta bắt đầu dùng nhiễm sắc thể giới tính để kiểm tra nam hay nữ: XY là nam, XX là nữ. Trong các thế vận hội Olympic quốc tế, người ta phân biệt vận động viên nam hay nữ bằng phương pháp này.
157. Có phải con gái ít thông minh hơn con trai không?
Nhiều người cho rằng, con gái khi học cấp 1 thường chăm chỉ hơn con trai, thành tích cũng tốt hơn. Nhưng lên trung học, đặc biệt là ở cấp 3 thì lực học con gái thường không đuổi kịp con trai. Do đó, một số người đưa ra kết luận: con gái cuối cùng không thông minh bằng con trai. Sự thực thì không phải con trai thông minh hơn con gái đâu.
Vậy trí lực của con trai và con gái có gì khác nhau? Câu trả lời khẳng định là có. Các nhà khoa học nước ngoài đã nghiên cứu trẻ em trai và gái 3 năm đầu của cấp 1 và nhận thấy tuy cùng một lớp nhưng tâm lý lứa tuổi của chúng có khác nhau. Tâm lý lứa tuổi bình quân của con trai thường kém hơn so với con gái 1-1,5 tuổi; tức là ở những năm đầu của cấp 1, tâm lý của con gái phát triển nhanh hơn con trai, vì vậy sự nhạy bén về nhận thức của con trai và con gái có khác nhau.
Kết quả các nghiên cứu chứng tỏ xúc giác của con gái tương đối nhạy cảm, động tác bắt chước của con gái khá chính xác, tay khéo léo, qua rèn luyện dễ viết được chữ đẹp, đan nên những tấm áo len rất đẹp hoặc có những tư thế múa mê người, có thể làm những việc đòi hỏi động tác chính xác cao như hộ lý hoặc đánh máy chữ. Sự phân biệt về âm thanh của em gái và năng lực định vị cũng khá mạnh, dễ bị các âm thanh thu hút, có cảm giác vui thích mạnh mẽ, thích hát và nghe âm nhạc. Còn thị giác và năng lực phán đoán phương vị của con trai lại mạnh hơn. Chúng luôn thích thú với các vật thực, mô hình và các phương án, có thể nhanh chóng phân biệt phương hướng, hiểu được phương vị của các vật thể. Khi đứng trước những mê cung dễ làm loạn mắt, thậm chí trước những bảng mạch điện rất phức tạp, chúng hiểu được nhanh hơn con gái.
Con gái về mặt diễn đạt ngôn ngữ và nhớ nhanh thì trội hơn con trai. Khi thuật lại một câu chuyện nào đó, các em gái thường thể hiện tình cảm đậm đà sâu sắc, sau khi xem phim hoặc xem kịch thường thích miêu tả lại các vai một cách có sắc thái, có tình cảm, thậm chí còn tự mình bắt chước. Sở trường của các em gái là tư duy hình tượng, thích những môn khoa học có liên quan với nhân văn và quan hệ con người như ngữ văn, ngoại ngữ, lịch sử, y học và nghệ thuật. Còn trẻ em trai có năng lực phân tích tổng hợp khá mạnh, về mặt quan sát và suy lý thường trội hơn các em gái. Tư duy của chúng có tính trừu tượng, rộng rãi và linh hoạt, chứa đầy khát vọng khám phá bí mật của sự vật. Tóm lại, trẻ em trai có tư duy logic mạnh, yêu thích những môn khoa học trừu tượng như toán, vật lý và hóa học. Khi nói hay viết văn, trẻ em trai tuy kém hơn các em gái về mặt miêu tả trôi chảy, lời văn sinh động và từ ngữ phong phú nhưng ý lại mới mẻ, sâu sắc, cấu tứ độc đáo và hàm nghĩa sâu xa hơn.
Qua đó, có thể thấy trẻ em trai, gái về mặt phát triển trí lực mỗi bên có đặc điểm riêng, không phải là trai mạnh hơn gái, cũng không thể nói là gái mạnh hơn trai. Có người từng điều tra trong số học sinh thành tích ưu việt nhất và kém nhất và nhận thấy tỷ lệ phần trăm trẻ em trai cao hơn trẻ em gái, còn thành tích ở mức trung bình thì trẻ em gái chiếm nhiều hơn. Về thành tích bình quân của trẻ em trai và trẻ em gái thì không có gì chênh lệch rõ rệt.
158. Vì sao nữ giới thường dịu dàng, ôn hòa hơn nam giới?
Nói chung, tính cách của nam và nữ không giống nhau. Nam giới có tính đua tranh và độc lập khá mạnh, còn nữ giới tương đối ôn dịu, giàu lòng đồng cảm.
Hai loại tính cách khác nhau này được hình thành như thế nào? Một nhà khoa học của Cục Nghiên cứu Tinh thần bang Atlanta (Mỹ) từng thăm dò mối quan hệ giữa tính cách và giới tính. Ông phát hiện thấy trong máu có hai loại chất vi lượng liên quan với trạng thái tinh thần. Đó là chất kích thích tuyến thượng thận A và chất huyết thanh. Chất kích thích tuyến thượng thận A có thể khiến cho tính tình trở nên nôn nóng, dễ bị kích động, thích thách thức; còn chất huyết thanh thì ngược lại, có thể khống chế tính nôn nóng, khiến cho con người tỏ ra hiền dịu, hòa thuận.
Thông thường, trong máu của mỗi người đều có hai chất này, nhưng tỷ lệ của chúng rất khác nhau. Các nhà khoa học đã phân tích máu của nam và nữ và phát hiện thấy, ở 85% nữ giới, hàm lượng huyết thanh tố cao hơn nam giới; ở 80% nam giới, hàm lượng chất kích thích tuyến thượng thận A cao hơn nữ giới. Kết quả nghiên cứu này, về mặt sinh lý, đã làm rõ nguyên nhân vì sao nữ giới ôn hòa, dịu dàng hơn nam giới.
Nhưng các nhà tâm lý học lại cho rằng sự khác biệt tính cách của nam nữ chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường xã hội. Nam và nữ đều sống trong một môi trường xã hội nhất định. Hoạt động tâm lý và phương thức hành động của họ cần phải được xã hội tiếp thu, thừa nhận. Thông thường, xã hội yêu nam giới phải dũng cảm, kiên định, có tính độc lập, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm; nữ giới cần ôn dịu, thân tình, tỉ mỉ, gọn ghẽ, giàu tính nhẫn nại và đoan trang. Ban đầu, bố mẹ căn cứ vào hình ảnh của nam giới và nữ giới trong sự tưởng tượng của mình để giáo dục và uốn nắn con cái. Đến khi đi học, do học tập và bắt chước nhau, tính cách của nam và nữ dần dần khác biệt rõ hơn. Sau khi trưởng thành, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của xã hội sẽ làm cho sự khác biệt này ngày càng định hình.
Đương nhiên, ở đây ta nói đến sự khác biệt về tính cách giữa nam và nữ là nói về đa số. Trong cuộc sống vẫn có những phụ nữ tính tình kiên định, mạnh mẽ, tâm lý đua tranh và chí tiến thủ rất mạnh, trong sự nghiệp giành được nhiều thành tích huy hoàng vượt qua nam giới. Tương tự, cũng có nhiều nam giới có tính hòa dịu, thân tình.
159. Vì sao bà con gần không thể lấy nhau?
Tác phẩm văn học nổi tiếng "Hồng Lâu Mộng" miêu tả tỉ mỉ mối tình giữa Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa. Câu chuyện làm xúc động lòng người, nhưng họ là những người bà con có quan hệ huyết thống nên việc lấy nhau là không thích hợp.
Trong 23 đôi nhiễm sắc thể của con người, có khoảng 10 vạn gene di truyền, với hơn 1.000 gene có vấn đề tiềm ẩn (có thể gây bệnh). Nếu hai bên bố mẹ có 23 đôi nhiễm sắc thể mang gene gây bệnh giống nhau, đời con sẽ mang bệnh. Nếu chỉ một trong hai bên bố mẹ mang gene gây bệnh thì đời con chỉ tiềm ẩn bệnh đó mà không phát ra, cho nên con không có bệnh.
Trong trường hợp bình thường, mỗi người chỉ có 5-6 đôi nhiễm sắc thể giống nhau trong số hơn 1.000 gene gây bệnh tiềm ẩn, cho nên hai người không phải bà con kết hôn có rất ít cơ hội cùng mang gene di truyền tiềm ẩn giống nhau. Do đó, bệnh di truyền mang tính tiềm ẩn này rất ít gặp, tỷ lệ phát bệnh chỉ là một phần mấy vạn, thậm chí một phần mười mấy vạn mà thôi.
Nhưng nếu vợ chồng là bà con gần thì tình hình lại không còn như thế nữa. Nếu họ có chung ông bà nội (hoặc ông bà ngoại) thì từ ông bà nội (hoặc ông bà ngoại) qua mẹ (hoặc bố) đến bản thân họ, số gene gây bệnh tiềm ẩn giống nhau ở 2 vợ chồng đã tăng lên rất nhiều so với những người không có ông bà nội (ngoại) chung. Như vậy, cơ hội gặp nhau giữa những cặp nhân gây bệnh tiềm ẩn trong bản thân đứa con sau này sẽ tăng lên gấp bội. Vì vậy, khả năng con bị bệnh di truyền là khó tránh khỏi.
Do đó, luật pháp Trung Quốc quy định không cho phép kết hôn giữa những người thân thích với nhau, chủ yếu là giữa những người trong vòng ba đời, ví dụ anh em họ hoặc anh em chung ông bà nội, ngoại.
160. Vì sao có người chửa nhiều bào thai?
Trong cuộc sống, ta thường gặp một số người có khuôn mặt gần như hoàn toàn giống nhau. Đó là những anh (chị) em sinh đôi, hoặc sinh ba.
Thông thường, mỗi lần mang thai, người mẹ chỉ sinh một đứa con. Nhưng tại sao có người một lần sinh đến hai, ba hoặc nhiều đứa con?
Các nhà khoa học giải đáp rằng: trẻ em sơ sinh được cấu tạo nên từ hàng nghìn tỷ tế bào, còn thai nhi ban đầu được phát sinh từ một tế bào duy nhất - trứng đã thụ tinh. Nữ giới từ tuổi dậy thì trở đi, mỗi tháng trứng chín và rụng một lần, mỗi lần thường là một trứng. Nếu nó gặp và kết hợp với tinh trùng thì sẽ thành trứng thụ tinh. Trứng thụ tinh khi di chuyển về tử cung thì bắt đầu chia ra thành hai hoặc tăng nhiều hơn nữa. Cùng với việc các tế bào không ngừng lớn lên và phân hóa, cuối cùng, trứng thụ tinh sẽ trở thành thai nhi trong cơ thể mẹ.
Nếu trứng sau khi thụ tinh được chia làm đôi, mỗi bên sẽ phát triển thành một bào thai, ta gọi hiện tượng này là "một trứng song thai". Trẻ em sinh đôi này sau khi sinh ra không những diện mạo giống nhau mà ngay đến giới tính, nhóm máu và nhân di truyền cũng đều giống nhau. Nếu thay các cơ quan của chúng cho nhau thì không gây ra phản ứng bài xích nào.
So với một trứng song thai thì đa số trường hợp song bào thai không giống nhau đến thế, chúng hoặc nam hoặc nữ, có cao có thấp giống như anh chị em bình thường. Đó là vì mẹ của chúng một lần đã rụng hai hoặc nhiều trứng, phát triển thành những bào thai khác nhau. Trường hợp ba bào thai thì càng phức tạp hơn nhiều. Chúng có thể gồm một trứng song thai và một trứng một thai, cũng có thể giống như hai trứng song thai, cũng có thể từ ba trứng hình thành ba bào thai. Trường hợp bốn bào thai, năm bào thai cũng tương tự.
161. Thai nhi trong bụng mẹ làm những gì?
Trong bụng mẹ, thai nhi suốt ngày làm gì? Trước đây, người ta không hề biết gì về vấn đề này. Ngày nay, các nhà y học qua siêu âm đã quan sát được thai nhi trong bụng mẹ, nhìn thấy từng động tác của thai nhi rất rõ. Thai nhi không phải "hai tai không nghe" những việc ngoài tử cung, không phải chỉ biết ngủ suốt ngày.
Thai nhi có thể dùng mắt nhìn đồ vật. Khi nó ngủ hoặc đổi tư thế, mắt sẽ di động. Nếu có một luồng sáng chiếu vào bụng mẹ, thông qua vách tử cung và nước ối, nó có thể nhìn thấy ánh sáng lờ mờ giống như ánh sáng đèn pin bị che bởi một lớp giấy. Thai nhi sẽ mở to mắt và quay mặt nhìn về phía ánh sáng.
Thai nhi đã có thính giác. Nó thích nghe âm nhạc có tiết tấu chậm, tiết tấu tốt nhất là 60 nhịp trong một phút vì nó gần giống với nhịp tim của mẹ. Nếu có âm nhạc, nó sẽ quay đầu lại để nghe âm thanh bên ngoài.
Bắt đầu từ tháng thứ tư, lưỡi của thai nhi đã có đài và bắt đầu phát triển. Nó ghét vị đắng và thích vị ngọt.
Trong cơ thể mẹ, thai nhi cũng đã có phản ứng về xúc giác. Nếu ta đụng vào chân thai nhi, nó sẽ mở chân ra hình cái quạt, đụng vào tay nó, nó sẽ nắm tay lại.
Thai nhi 8 tháng đã biết làm một số việc. Nó biết ngáp, nắm tay, mút ngón tay, ưỡn vai, uốn lưng và đạp, biết mỉm cười, chau mày, giụi mắt, thậm chí biết làm xấu. Đương nhiên, những hoạt động này đều là vô ý thức.
Thai nhi 3 - 4 tháng đã có công năng bài tiết nước tiểu. Trong bàng quang nó đã tích chứa nước tiểu. Ngày nay, người ta đã biết được thai nhi 7 tháng mỗi giờ bài tiết khoảng 10 ml nước tiểu, trước khi sinh mỗi giờ có thể bài tiết 27 ml. Nước tiểu và những chất thải khác của thai nhi đều thông qua nhau của mẹ bài tiết ra ngoài.
162. Vì sao trẻ em mới sinh ra lại khóc?
Khóc và cười đều là sự biểu lộ tình cảm của con người, nhưng ý nghĩa biểu đạt hoàn toàn ngược nhau. Cười thông thường biểu thị sự vui mừng, khóc thường biểu thị sự đau khổ. Mặc dù khóc như thế nào, khóc ra nước mắt mới là khóc thật, nếu không thì đó là khóc giả.
Hài nhi vừa sinh ra đã khóc là khóc giả. Bởi vì tiếng khóc này chỉ có tiếng mà không có nước mắt, hơn nữa hài nhi vừa sinh ra căn bản không có gì đau khổ mà phải khóc, hơn nữa nó cũng chưa hiểu được khóc là gì. Đương nhiên, hài nhi khóc là khóc giả, đó không phải là biểu hiện vì đau khổ. Vậy vì sao nó lại khóc?
Trên thực tế tiếng khóc của hài nhi biểu thị sự kiến lập vận động hô hấp của nó. Hài nhi sau khi sinh ra nếu không khóc tức là không thở, là ngạt thở. Thai nhi bình thường (khi chưa sinh ra) nằm trong bụng mẹ không tự hô hấp. Ôxy và các chất bổ cần thiết đều từ máu của mẹ chuyển đến thông qua dây rốn và rau. Nhưng sau khi ra đời, tình hình đã khác. Hài nhi rời khỏi bụng mẹ sống độc lập phải dựa vào sự hô hấp của mình để hấp thụ ôxy và thải ra khí CO2, phải tuần hoàn máu toàn thân, phải tự mình ăn uống để hấp thu dinh dưỡng.
Không khí đi vào phổi là nhờ phổi co và giãn. Sự co giãn của phổi là nhờ lồng ngực mở rộng và co lại. Khi lồng ngực mở ra thì phổi cũng giãn ra. Do đó, áp lực trong phổi thấp hơn áp lực không khí, không khí bên ngoài nhân đó đi vào phổi. Ngược lại, khi lồng ngực thu nhỏ thì phổi cũng thu nhỏ, áp lực trong phổi cao hơn áp lực không khí, khí trong phổi bị dồn ra. Khi thai nhi đang ở trong bụng mẹ, trong phổi không có không khí. Hai lá phổi lúc đó còn là một tổ chức đặc, nhưng đã đầy trong ngực; vì khi đó lồng ngực đang ở trạng thái co lại nên rất nhỏ. Sau khi ra đời, vì tư thế thay đổi, tay chân được duỗi ra làm cho lồng ngực bỗng nhiên giãn ra, nở to, phổi cũng nở to, lúc đó hài nhi sẽ hít vào hơi đầu tiên. Sau khi hít vào, không khí từ khí quản đi vào tế bào, các cơ hít lập tức giãn ra, còn các cơ thở thì co lại, lồng ngực tự mở ra lại thu nhỏ về trạng thái cũ, khiến cho không khí trong phổi bị ép ra. Do không khí bên ngoài có áp lực nhất định nên khi chất khí từ trong phế bào đi ra ngoài qua khí quản, các cơ của đầu yết hầu sẽ co lại, hai dây thanh đới nằm trong yết hầu bị chất khí làm rung động, bật ra tiếng kêu như tiếng khóc.
Hài nhi lúc vừa ra đời phần nhiều ở trạng thái thiếu ôxy, khí CO2 trong máu khá nhiều. Điều này kích thích và làm hưng phấn trung khu thần kinh hô hấp, khiến trẻ hít vào từng ngụm không khí. Vì vậy, trẻ em sau khi sinh đều khóc một trận, chờ đến lúc hoạt động hô hấp có nhịp bình thường thì sẽ hết khóc.
163. Vì sao trong thời kỳ có kinh ban đầu, con gái phải chú ý vệ sinh kinh nguyệt?
Nói chung, ở con gái khoảng 14 tuổi, cơ quan giới tính bắt đầu phát triển, đồng thời xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt. Nhưng cũng có em rất sớm, từ 9 tuổi, hoặc rất muộn, đến 18 tuổi, mới có kinh. Điều đó phụ thuộc vào tố chất thân thể, khu vực địa phương, điều kiện khí hậu. Ở thời kỳ đầu kinh nguyệt, do tuổi trẻ ít hiểu biết cộng thêm tâm lý xấu hổ nên các em gái dễ mắc bệnh về kinh nguyệt. Cũng có em vì thiếu kiến thức vệ sinh sinh lý, thấy kinh nguyệt ban đầu bị nhiễu loạn thì lo sợ và căng thẳng. Vì vậy, việc tìm hiểu hiện tượng sinh lý kinh nguyệt thời kỳ đầu để kịp thời có sự quan tâm đầy đủ là rất quan trọng, nhằm bảo đảm cho sức khỏe và sự phát triển của các em.
Vậy cụ thể nên chú ý ở những điểm nào?
Thứ nhất, vì tuổi còn trẻ, công năng trứng chưa hoàn toàn thành thục nên kinh nguyệt ở giai đoạn đầu rất không ổn định, chu kỳ có thể ngắn hoặc dài, thậm chí một tháng có hai lần hoặc mấy tháng mới có một lần. Cũng có trường hợp sau khi có mấy lần lại bị tắc một thời kỳ, sau đó lại trở về bình thường, hoặc hành kinh kéo dài 10 - 20 ngày, thậm chí suốt cả tháng không sạch. Sau một năm, mọi thứ sẽ trở lại bình thường, không nhất thiết phải chữa trị, trừ khi số lần kinh nguyệt đặc biệt nhiều, hoặc kéo dài không sạch, ảnh hưởng đến học tập, hoặc thời kỳ đầu kéo dài 2 - 3 năm vẫn chưa trở lại bình thường, có lúc gây ra hiện tượng thiếu máu. Lúc này, nên nhờ bác sĩ phụ khoa kiểm tra.
Thứ hai, khi có kinh, nên chú ý nghỉ ngơi, không tham gia những hoạt động thể dục mạnh. Không nên sợ xấu hổ mà hãy trình bày rõ với thầy giáo để thầy giáo chú ý chiếu cố thích đáng. Có những em gái vì xấu hổ không dám báo với thầy, vì vậy thầy giáo phải chủ động quan tâm. Trong thời gian hành kinh, khoang chậu ứ huyết, lúc đó cơ thể các em yếu, nếu hoạt động mạnh rất dễ dẫn đến đau lưng hoặc chướng bụng.
Thứ ba, thời kỳ có kinh không nên ăn thức ăn lạnh, cay, đắng, thực phẩm có tính kích thích, không tắm rửa nước lạnh và chú ý không để cơ thể bị lạnh.
Thứ tư, phải chú ý giữ vệ sinh vì trong thời gian đó sức đề kháng yếu, cửa tử cung mở dễ bị nhiễm khuẩn, phải dùng băng vệ sinh có chất lượng và tiêu độc tốt.
Thứ năm, trong thời kỳ này, tính tình nên thoải mái, cởi mở, không nên cáu gắt vì những việc nhỏ nhặt, như vậy việc hành kinh sẽ được thuận lợi.
164. Di tinh có hại cho sức khỏe không?
Nam giới đến tuổi dậy thì thường chiêm bao di tinh, tức là tinh dịch tiết ra. Đó là vì đến tuổi dậy thì, ngọc hoàn không ngừng sản xuất tinh trùng, tinh nang và tiền liệt tuyến không ngừng xuất ra nước dịch nhầy. Sau khi tích trữ đến một lượng nhất định, xung động thần kinh sẽ sản sinh, tạo nên di tinh. Người xưa nói "tinh đầy tự xuất" là ý đó. Di tinh là một tiêu chí biểu hiện giới tính đã thành thục. Di tinh lần đầu là sự thể nghiệm tâm lý mới. Cùng với tuổi tác tăng lên, người thanh niên đó bắt đầu cảm thấy sự hấp dẫn của người khác giới, có nhu cầu thể nghiệm. Do đó, khi chiêm bao thường di tinh, còn gọi là mộng tinh. Có những thanh niên khi di tinh thì tỏ ra rất lo lắng, họ nghĩ rằng "một giọt tinh quý bằng mười giọt máu, tinh dịch mất đi là mất đi tinh khí". Thực ra, sự lo lắng đó không cần thiết. Bởi vì ngọc hoàn không ngừng sản xuất tinh trùng, lâu ngày đầy lên thì sẽ bài tiết ra ngoài. Di tinh là một phương thức chủ yếu để thực hiện sự bài tiết đó. Đương nhiên, số lần di tinh của mỗi người khác nhau, có người mỗi tháng một vài lần, có người vài tháng một lần, đó là bình thường.
Nếu từ thành phần tinh dịch mà xét, trong đó dịch tinh nang chiếm khoảng 60%, dịch tiền liệt tuyến chiếm khoảng 30%, tinh trùng khoảng 5%. Trong tinh dịch, ngoài tinh trùng ra, thành phần chủ yếu là nước, một số ít còn lại là đường gluco, anbumin, mỡ, các loại men và các muối vô cơ khác. Những chất dinh dưỡng ít ỏi này đối với cơ thể mà nói thực tế không đáng kể. Vì vậy, có thể thấy, di tinh sẽ không làm tổn hại đến sức khỏe.
Nếu số lần di tinh quá nhiều, thậm chí 1 - 2 ngày một lần, hoặc cứ hễ bị kích thích, hoặc vừa nghĩ đến là có, sau di tinh người mệt mỏi, uể oải, chóng đầu, đau lưng thì nên đến bác sĩ khám để điều trị.
Nếu di tinh xuất hiện liên tiếp, trước hết phải chú ý xem có phải là bệnh thuộc về cơ quan sinh dục không, ví dụ dương vật, tiền liệt tuyến bị viêm, vì chỗ viêm bị kích thích sẽ khiến cho thần kinh trung khu ở trạng thái hưng phấn, gây phóng tinh. Ngoài ra, việc da bao đầu dương vật dài quá, túi da đầu dương vật cáu bẩn cũng là một nhân tố kích thích di tinh. Trong trường hợp này, nên tích cực điều trị và thường tắm rửa, chú ý vệ sinh cá nhân.
Ngoài ra, thanh thiếu niên nên tham gia các hoạt động tập thể, tham gia các hoạt động văn thể có ích, không nên xem sách vàng hoặc phim ảnh vàng; khi ngủ tốt nhất mặc quần áo rộng, chăn đắp không nên nặng quá, như vậy sẽ giảm được số lần di tinh.
165. Vì sao thủ dâm lại có hại cho sức khỏe?
Thủ dâm là những hành vi dùng tay hoặc các phương thức tương tự để kích thích, nhằm tự thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Ban đầu, chuyện này có thể là ngẫu nhiên, chẳng hạn như trẻ em thường vì tò mò hoặc mặc quần lót chật, cưỡi xe, trèo cây; ma sát khiến cho dương vật bị kích thích, cơ bắp được xoa bóp hoặc vuốt ve, sản sinh ra khoái cảm. Sau tuổi dậy thì, sự phát triển sinh lý của giới tính bước vào giai đoạn mới, sự phát triển của cơ quan giới tính dần dần thành thục, kích thích tố tiết ra nhiều, trẻ bắt đầu hình thành ý thức giới tính, do đó sản sinh ra sự xung động giới tính. Khi bị kích thích, người ta rất dễ phát sinh những hành vi thủ dâm vô ý thức.
Hoạt động giới tính có quan hệ mật thiết với sự phát triển lành mạnh của tâm, sinh lý và sự hình thành phẩm chất đạo đức. Thủ dâm, với tư cách là một bộ phận hoạt động của giới tính, thường thấy trong thanh, thiếu niên. Đa số người ban đầu là vì tò mò, ngẫu nhiên phát sinh, dần dần tạo thành thói quen nên rất có hại cho sức khỏe.
Thanh thiếu niên đang ở thời kỳ học tập, ở giai đoạn nâng cao kiến thức và cơ thể sinh trưởng, không những sự phát triển sinh lý chưa hoàn toàn thành thục mà trạng thái tâm lý cũng chưa ổn định. Người có thói quen thủ dâm thường không quan tâm đến những hành vi bất lương của người khác; khi thủ dâm một mặt cảm thấy tự thỏa mãn, mặt khác lại vừa tự trách mình, tự ti và lo sợ. Thủ dâm nhiều sẽ khiến cho bản thân thường ở trạng thái tâm lý căng thẳng, nội tâm mâu thuẫn, gây ảnh hưởng đến sự hình thành lành mạnh về đạo đức và sự phát triển bình thường của tính cách, phẩm chất.
Người lún sâu vào thủ dâm không những tự mâu thuẫn tư tưởng và có gánh nặng tinh thần rất lớn mà còn có thể bị nhiễu loạn hoạt động bình thường của hệ thống thần kinh do trung khu hưng phấn của đại não luôn lặp đi lặp lại trạng thái hưng phấn. Khi lên lớp hoặc làm việc, sức chú ý của họ không tập trung, sức hiểu sa sút, trí nhớ giảm thấp, hơn nữa thường bị kích thích để thủ dâm. Quá trình hưng phấn và ức chế của đại não mất điều hòa, gây chóng mặt, ù tai, tim đập nhanh, mất ngủ và các chứng thần kinh suy nhược, thậm chí sẽ làm xuất hiện sự nhiễu loạn công năng tạm thời hoặc tính tình cáu gắt.
Có một số ít người thủ dâm quá độ sẽ cảm thấy bụng dưới đau âm ỉ, lưng mỏi, chùn gối, đi tiểu nhiều lần và có chứng di tinh. Chúng thường có quan hệ với các bệnh của hệ thống tiết niệu. Thủ dâm quá mức không những làm xoang chậu bị ứ huyết lâu dài mà còn đưa những vi khuẩn gây bệnh từ trên tay nhiễm vào cơ quan sinh dục, dẫn đến cảm nhiễm đường tiết niệu, hoặc tinh nang bị viêm.
Thủ dâm là sự bắt đầu giới tính có ý thức, tác hại của nó luôn luôn vượt quá bản thân sự thủ dâm, làm cho tâm lý bị giày vò và xuất hiện các phản ứng bệnh lý khác nữa. Thanh niên không nên xem sách vở, phim ảnh không lành mạnh, tích cực tham gia hoạt động tập thể, bồi dưỡng những thú vui và sở thích có ý nghĩa, nuôi dưỡng thói quen vệ sinh... Những điều này đều là phương pháp tốt để khắc phục thủ dâm.
166. Vì sao khi cảm mạo, ta sẽ sổ mũi nước, tịt mũi và sốt cao?
Một trong những bệnh mà con người thường gặp nhất là cảm mạo. Có thể nói hầu như mỗi người, nhiều ít đều đã bị cảm mạo giày vò.
Tuy cảm mạo không phải là loại bệnh hiểm nghèo, nhưng sau khi bị cảm, ta sẽ tịt mũi, thở khó khăn, tiếng nói bị rè, cơ thể rất khó chịu. Trong thời kỳ bị cảm, nước mũi chảy ra không ngừng, ta phải thường xuyên dùng giấy hoặc khăn lau mũi, gây ra nhiều phiền phức trong sinh hoạt. Nếu bạn bị cảm nặng thì nhiệt độ còn tăng cao, cả cơ thể vì thế mà cảm thấy mệt mỏi.
Vì sao khi khi bị cảm lại xuất hiện những triệu chứng điển hình này? Đó là một vấn đề rất có ý nghĩa. Như ta đã biết, nguyên nhân chính gây ra cảm là độc tố bệnh. Khi độc tố bệnh xâm nhập vào cơ thể, để đề kháng những vi khuẩn mắt thường không nhìn thấy được, cơ thể sẽ tự động dùng đủ các biện pháp chống lại, do đó xuất hiện tịt mũi, chảy nước mũi, hắt hơi, phát sốt... Trên thực tế, những hiện tượng này là phản ứng tự bảo vệ của cơ thể.
Các nhà y học đã giải thích về các chứng này như sau: họ nói mũi tịt có thể ngăn ngừa độc tố bệnh xâm nhập, nước mũi chảy ra liên tục và hắt hơi là để thải ra những độc tố bệnh đã xâm nhập vào; thân thể phát sốt có thể kích thích bạch cầu, thúc đẩy kháng thể hình thành, bao vây, tiêu diệt vi khuẩn. Hơn nữa, đại bộ phận độc tố bệnh cảm sợ nhiệt, thân thể phát nhiệt gây trở ngại cho độc tố bệnh phát triển.