Chương 4

Chú nói tôi nghe đi, chuyện gì xảy ra với thằng Phũ? Chuyện  gì xảy ra với cả ba đứa chúng nó?
Hỏi như vậy tức là anh Thế đã sa sút lắm. Anh luôn bình  thản trước mọi sự. Anh hiếm khi đặt câu hỏi, thói thường của một  người biết hết tất cả, thấy trước tất cả. Anh đã từng làm phiên  dịch hoặc tham gia vào những cuộc tiếp xúc bí mật giữa lãnh đạo  các quốc gia, anh chơi đẹp với cả những nữ tướng nam tướng của  xã hội đen. Các chính khách, các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ và  cả những người lao động chân tay đều là bạn của anh, khi anh cần  thì họ đổ xô tới xúm vào mà giải quyết hộ. Nhưng bây giờ anh đã  phải hỏi, hỏi một điều mà mọi người đều đã trả lời được, nhưng  anh cứ hoang mang về cái sự thật không làm sao tin nổi.
Hai anh em ngồi đối diện trong tiệm cà phê của khách sạn  The Apocalypse. Bồi bàn vẫn mang đến hai ly cà phê như thể  chúng tôi là khách uống mới tới. Đám tang thằng Phũ đã được ba  ngày. Chị dâu tôi hầu như không gượng dậy nổi. Thằng Phũ là con  trai duy nhất của anh chị, trong nhà nó cũng là độc đinh, chẳng có  anh chị em nào nữa. Thằng Cốc, thằng Bóp cũng là quý tử của gia  đình chúng nó. Kể cả không là quý tử, kể cả có lúc phải đánh đuổi  đi, thì có cha mẹ nào không đứt ruột trước tổn thất như vậy.
- Thằng Cốc chết vì bị cảm hàn ở dưới biển. Thằng Bóp treo  cổ tự tử không rõ lý do. Thằng Phũ bị ngã xe máy khi phóng hết  tốc lực.
Tôi hiểu ngay rằng anh Thế không tin. Một chuỗi cái chết  đến liền trong vòng nửa tháng, xoá sạch một nhóm ba thằng bạn.  Dù rằng anh vẫn tin là cái tệ phóng xe máy điên khùng của thằng  Phũ dễ mang lại tai họa cho chính nó. Anh đã mua riêng cho nó  một chiếc xe hơi cùng lúc với việc khai trương khách sạn. Xe hơi  trên những con đường ngổn ngang xe đạp xe máy xích lô xe lam sẽ  giúp thằng Phũ đằm lại, thận trọng hơn. Nhiều người tin rằng nên  làm như thế với lũ trẻ đua xe máy, thậm chí nên xây dựng một  khu trường đua để cho lũ người say tốc độ vào đấy mà đua. Họ đã nhầm, trường đua có rào chắn, có quy phạm sẽ triệt tiêu tính chất  ngang tàng phá phách, mà lũ trẻ lại đang cần chính cái chất đó.  Ngay cả khi có xe hơi rồi, thỉnh thoảng thằng Phũ vẫn lôi xe máy  ra phóng một vòng nội thành cho đã.
Dù sao tôi vẫn không muốn kể cho Thế biết về đứa con gái  nọ. Cũng giống như ba gã trai quá cố, tôi tin rằng những loại  chuyện như thế này phải tự xử lý, không nên có công an, chính  quyền, pháp y hay đám đàn em nào dính dáng vào đây cả. Hận  thù kéo theo một chuỗi hận thù. Cái chết đòi trả bằng cái chết. Tôi  nhớ lời đức Phật trong những cuốn sách đã đọc đã ngẫm ngợi đều  ngược hẳn lại. Ngài còn nói tất cả những gì ta yêu quý nhất, ta  được sở hữu, đều sẽ có lúc thay đổi, đều sẽ triệt tiêu, vậy thì chỉ  thêm đau khổ nếu con người cứ khư khư những vật sở hữu, cứ tin  rằng người thân của mình phải là bất tử. Ngài dạy chí lý. Nhưng  mà con người quả thực hèn yếu khi khoanh tay ngồi nhìn người  thân lần lượt bị tiêu diệt, miệng thì cầu nguyện xá tội cho kẻ giết  người. Lời trong sách trả về cho sách, tôi phải hành động theo cái  lý thực tế đang bừng bừng trong huyết quản của tôi.
- Này chú, có tiền thì cũng khổ, có tình khổ hơn, có danh là  khổ nhất. Trong bằng ấy thứ, tôi đã từ bỏ hết để chỉ chọn lấy một  thứ đỡ khổ hơn cả. Ngờ đâu kết cục lại bi thảm như vậy.
Anh Thế nói gì thế nhỉ? Anh sám hối những lời sơ giản vậy  sao? Cái chân lý ấy tôi ngộ được từ khá lâu trước anh cơ. Ngộ ra là  một chuyện, vẫn cứ bị sa vào vòng luân hồi lại là chuyện khác. Tôi  nhấp một ngụm cà phê. Đắng nghét. Đen kịt mầu nước cống xác  thằng Phũ ngập trong đó. Đứa con gái tinh quái bỏ chạy xa dần.  Bộ váy áo của nó giống hệt trang phục của cô gái có mái tóc sấy  bồng lăn tăn... Tôi giật mình đánh thót. Tôi chạy bổ ra quầy tiếp  tân, đòi quyển sổ ghi tên khách để tra tìm.
Ngày...
Ngày...
Ngày...  Ở xưởng vẽ của Thuyền trưởng...  Đây rồi, nghỉ tại Captain’s Studio ngày hôm ấy là... Tim tôi  nẩy mạnh như một quả bóng sút thật căng vào lồng ngực. Một  dòng chữ do chính tay người khách viết: Mai Trừng, Công ty  TNHH Hồng Hoang, Hà Nội. Chữ viết rõ ràng. Chữ ký rõ ràng.
Cô gái ở trong phòng thuyền trưởng hôm ấy phấn son chì  than nhem nhuốc trên mặt vẫn không che được một gương mặt  đẹp. Khi đó tôi thầm chê cô không tự ý thức được lợi thế trời cho  mà phải viện đến đồ mỹ phẩm bôi bác. Lúc này thì tôi hiểu ra rất  nhanh. Mái tóc bồng sấy theo kiểu sợi mì ăn liền lăn tăn cũng là  mái tóc giả. Cô ta và cái con bé mang tên Mai Trừng là một.
Đứa con gái ấy đã lẩn lút trong khách sạn này ngay sau ngày  đưa tang thằng Cốc, rồi ra đi năm ngày trước cái chết của thằng  Bóp.
Tôi căng thẳng trở lại bàn nước với anh Thế, cảm thấy gương  mặt mình đã sắt lại.
Anh Thế đặt tay lên bàn tay tôi đã siết thành nắm đấm trên  mặt bàn:
- Tùy chú, chú sẽ nói khi nào chú muốn nói. Chỉ xin chú nhớ  cho một điều: Tôi chỉ còn mình chú, đàn ông nhà này chỉ còn hai  anh em ta.

*

Sao tôi lại không nhớ? Cha mẹ mất trong chiến tranh, anh  Thế phải vội lấy vợ, gửi em trai ở nhà cho vợ nuôi để ra đi phục vụ  cuộc đàm phán ở nước Pháp xa xôi. Anh là người cha của tôi, là  người thiết kế cuộc đời tôi và chắc có phần trách nhiệm về một sản  phẩm dang dở không hoàn thiện như thế này.
Tôi còn nhớ sau những năm công cán trở về, anh Thế như  phát hiện ra ngay trong nhà mình có hai kỳ quan. Kỳ quan thứ  nhất là thằng con trai mập mạp đang nói bập bẹ. Kỳ quan thứ hai  là thằng em trai mười hai tuổi đã vẽ được gần một trăm bức tranh  mầu nước. Những bức tranh yên bình mầu sắc cây cỏ và bầu trời,  những nét vẽ dịu dàng trầm cảm. Anh nhanh chóng đánh giá đúng  năng khiếu của một thằng bé ở tuổi ấy đã có được tư duy hội họa  lặng thầm sâu sắc. Trong căn hộ nhỏ, còn hở ra chỗ nào, anh treo  tranh của tôi chỗ ấy. Bạn bè đến chơi, anh say sưa hướng dẫn họ  đi qua cái rừng tranh êm đềm, phân tích tỉ mỉ từng đường nét, từng hình khối, từng gam mầu, như chiêm ngưỡng tác phẩm của  những bậc danh họa. Rồi anh nhờ một người bạn đi công tác nước  ngoài mua về cho tôi những tuýp sơn dầu. Tôi yên trí rằng đời  mình chỉ có một con đường là vẽ, chỉ việc vẽ.
Nhưng bất ngờ ở tuổi mười lăm, tôi bị anh Thế dẫn đến trao  cho một ông thầy dậy võ. Thằng em tôi to xác, nhưng suốt ngày chỉ  ngồi âm thầm trong xó nhà để vẽ, tính tình rụt rè, nhút nhát, hy  vọng nhờ thầy bảo ban, em nó sẽ mạnh mẽ và tự tin hơn. Tôi theo  thầy dạy võ một cách miễn cưỡng. Tôi tiếp thu nhanh, động tác  nhanh gọn và chuẩn xác, nhưng là cái kiểu học cho xong, không  mặn mà ham mê. Tôi thích nhất khoảng thời gian sau một buổi  tập, chạy về căn nhà vắng người, ngồi một mình trong căn phòng  mờ tối. Giờ ấy chẳng vẽ vời gì được. Trái tim còn đập gấp sau một  buổi tập, máu vẫn còn chảy rùng rùng trong huyết quản và các tế  bào dường như đang rần rần chuyển động. Lúc ấy ngồi âm thầm  thì mới nghĩ ngợi được nhiều. Cả ý tưởng cho một bức tranh mới  cũng có thể bất ngờ nảy ra vào khoảng thời gian ấy.
Không ngờ việc anh Thế cho tôi đi học võ là nằm trong một  kế hoạch định hướng dài lâu cho cuộc đời tôi. Dao sắc không gọt  được chuôi, sau này anh chẳng định hướng được gì cho thằng Phũ,  chỉ đơn giản là khi thời thế thay đổi, anh chuyển cho nó từ tiếng  Nga sang khoa tiếng Anh mà thôi. Còn với tôi khi ấy, Thế đã chủ  tâm sẽ lôi tôi ra khỏi nỗi đam mê hội họa để đi một con đường  ngắn nhất tới giàu sang. Con đường ấy không dung nạp một trái  tim dịu dàng đa cảm. Trái tim dịu dàng đa cảm chỉ có thể được sửa  chữa bằng võ thuật.
Mùa thu năm sau, tôi bắt đầu năm học cuối cùng ở trường  phổ thông, anh Thế mới ngồi nói chuyện tay đôi giữa hai anh em.  Tôi nói sẽ thi đại học mỹ thuật. Thế bảo tôi cứ việc vẽ, dù sau này  làm nghề gì thì tôi cũng tiếp tục vẽ được, nhưng theo học nghề vẽ  thì không nên. Hãy trông gương những ông thầy dạy vẽ của tôi,  những bậc tài danh hiếm hoi của đất nước mà ốm o xo xúi nhà  rách vách nát, sống không bằng một ông đạp xích lô. Anh muốn tôi  thi vào ngoại giao ngoại thương hoặc hàng hải, những cái nghề  đáng thèm ước của những năm tháng đời sống kinh tế như ngõ cụt  này. Anh nói thẳng ra rằng anh đã chọn rồi, sức học của tôi thì thi  vào trường hàng hải là phù hợp, sau này ra làm thuyền trưởng tàu  viễn dương. Tôi phát khùng lên, tôi hét toáng lên rằng tôi căm  ghét những tên thuyền trưởng tàu viễn dương, những kẻ chỉ biết đại tiện xuống biển cho cá xơi, rồi chính thân xác họ cũng sẽ thành  đặc sản cho cá xơi. Anh Thế giáng cho tôi một cái tát. Anh không  kìm được cơn giận dữ bất thần. Tôi đùng đùng bỏ nhà ra đi. Tôi ở lì  tại nhà một thằng bạn hai ngày thì anh Thế sục tới lôi về. Anh cho  tôi một cái tát nữa vào má bên kia. Rồi anh ứa nước mắt xin lỗi  tôi. Không ai đả động tới chuyện tôi sẽ thi vào trường nào nữa.
Nhưng về sau này tôi mới hiểu, Thế sống lâu trong môi  trường chính khách. Bản thân anh cũng có những thủ thuật của  một chính khách cáo già. Tối hôm sau, anh mời cơm bố con ông  tổng biên tập một tờ báo anh quen biết đã lâu. Ông tổng này cũng  nhấp nhổm viết văn, mỗi bài viết như một bản lai lịch tội phạm,  được cất nhắc theo kiểu người ta vẫn cất nhắc cán bộ quản lý ở  những ngành xe khách, bưu điện, hoặc nuôi cá nước ngọt. Ông ta  trở nên nổi tiếng vì có một đứa con gái lên mười tuổi làm được hơn  năm trăm bài thơ, và gặp bất kỳ ai dù là một bà bán rau mùng tơi  ghé chân trong một quán nước, ông cũng say sưa đọc thơ con như  đọc thơ của chính mình. Thơ của con bé này thì đứa trẻ nào ngồi  một lát cũng oẹ ra được cả đống, đại loại là ông trăng ơi ông ở trên  cao, ông xuống đây cho em véo một cái, ông nhăn mặt kêu ôi đau  quá cóc thèm chơi với em nữa, ông cóc thèm chơi thì cứ ở trên ấy  mà nhìn em.
Lúc hai bố con nhà thơ thần đồng bước vào nhà, anh Thế giới  thiệu chủ khách và tất cả ngồi vào bàn ăn cơm. Nữ thi sĩ thần  đồng kêu thất thanh lên rằng khoan hãy ăn, xin cho cháu một tờ  giấy. Tôi hiểu con bé lên mười này bụng dạ bất an, bèn lấy một  mảnh báo cũ và tỏ ý để tôi dẫn vào toilet ở phía trong công trình  phụ. Con bé không hiểu ra cái chuyện công trình phụ, nên rướn  mắt hỏi sao tôi lại đưa cho nó mảnh giấy báo này. Ở nhà anh mọi  người đều dùng giấy này cả. Để viết ấy à? Thì ra em xin giấy để  viết, em viết gì? Để em làm thơ, làm ngay tại đây. Con bé gạt đĩa  thức ăn sang bên và diễn ngay bộ mặt của một thi sĩ thiên tài. Âm  thầm, ngơ ngẩn.
Chỉ chút nữa là tôi đập vào mặt nữ sĩ ôn con đang to ve tỏ vẻ  trầm ngâm và đăm chiêu. Tôi thoáng nhìn thấy cái nhếch mép  cười nham hiểm của anh Thế.
Ngày hôm sau tôi quyết định sẽ thi vào trường Hàng hải. Tôi  không muốn trở thành một thần đồng như cái con bé tâm thần nọ.  Anh Thế đã thành công mỹ mãn trong cuộc đưa tôi tiếp kiến một  nghệ sĩ mà nhiều năm sau nhớ lại tôi vẫn còn thấy hãi hùng.
Nhưng trường mới xem ra cũng không phải là môi trường  của tôi. Đám bạn bè xa lạ, rỗi rãi là chỉ bàn chuyện đi tàu viễn  dương thơm hơn hay đi tàu trong nước thơm hơn hay là ngồi văn  phòng ở cảng thơm hơn. Rỗi rãi là tìm cách lẻn vào câu lạc bộ thủy  thủ để thực hành dăm ba câu ngoại ngữ mới học và cóp nhặt bộ  dạng mánh lới của thủy thủ. Cả năm đầu, gần như cái chất họa sĩ  ẩn sĩ cách ly tôi với đám bạn bè cùng lớp xô bồ xốc nổi. Họ phục tài  tôi qua những lần làm báo tường hoặc vẽ áp phích cho trường. Bọn  đầu gấu kiềng nể vẻ to con và cái thứ hạng karatê đai đen của tôi,  không thì chúng đã dần tôi nhừ xương vì thói âu sầu không chịu  hòa nhập chơi bời với ai. Đám bạn bè cùng trường không hề biết  rằng tôi sầu não một phần là vì hoa khôi của trường hàng ngày cứ  diễu qua mà không hề biết đến sự tồn tại của một gã đẹp trai buồn  rầu. Hoa khôi học khoa khác, trên tôi hai lớp. Có cảm tưởng đó  chính là người con gái lý tưởng của những bức tranh tôi vẽ, của  chính cuộc đời tôi. Một gương mặt đức mẹ đồng trinh không thể  nào bắt bụi trần tục. Vẻ đẹp ấy cho tôi niềm an ủi về môi trường  đang sống. Lũ thanh niên và đám người đến già vẫn không trưởng  thành thường khó sống được nếu không tự dựng lên cho mình một  thần tượng.
Hoa khôi ở bên ký túc xá nữ, tôi ở bên nam, chúng tôi chạm  mặt nhau ngày mấy bận. Nhưng tôi không dám nhìn. Nhưng nàng  không thèm nhìn. Nàng thiếu gì người hâm mộ, săn đón, theo  đuổi. Tôi thậm chí đã có lần liều mạng đứng từ trên tầng cao nhìn  xuống dãy nhà tắm nữ có mấy gian bị tốc mái thử tìm xem có thấy  nàng trong những thân hình lồ lộ kia hay không?
Rồi tôi đã được nhìn cái cơ thể hoàn toàn khỏa thân của nàng  ở một nơi khác, trong một tư thế khác. Sau kỳ thi hết năm thứ hai,  mấy thằng trong lớp muốn bày tỏ thiện chí bằng cách dung nạp tôi  vào hội của chúng và rủ tôi đến nhà một thằng để ăn mừng. Tôi  bàng hoàng thấy hoa khôi mình tôn thờ cũng đến, cũng rượu thịt  như đám con trai, không quản ngại một mình là gái giữa đám con  trai. Cơm no rượu say rồi hoa khôi tuyên bố các anh đã chiêu đãi  hoa khôi thì bây giờ đến lượt hoa khôi chiêu đãi các anh. Cả bọn  kéo nhau vào phòng hậu chiêu đãi, tức là phòng ngủ của gã chủ  nhà. Một mình hoa khôi chiến đấu cùng lúc với ba gã con trai trần  trụi mà vẫn thừa ra hai gã. Tôi và một gã khác phải ngồi đợi, đúng  hơn là được ngồi xem bốn cái thân hình kia cùng một lúc hùng hục  lao vào nhau, quấn quyện lấy nhau. Rõ ràng là nàng chủ động chiêu đãi và làm thỏa mãn cả ba gã, nhưng tôi cứ thấy như là  nàng đang bị chúng vật lộn, đè nén, giày vò. Tôi không chịu được  cái cảnh một cô gái, một hoa khôi mang gương mặt đồng trinh  đang bị ba gã trai thô lậu nhấp nhổm leo lên leo xuống leo vào leo  ra như vậy. Tôi bỏ ra phòng ngoài.
Nhóm ba đứa đã xong. Gã thứ tư sau đó cũng đã xong. Cả  bốn đứa bước ra phòng ngoài, ra hiệu cho tôi, đến lượt cậu đấy. Tôi  bước vào phòng như cái máy, cẩn thận đóng cửa lại. Không nên  chiêu đãi ti vi mầu miễn phí cho mấy đứa kia. Nàng nằm tênh  hênh sóng sượt trên giường, nụ cười mệt mỏi và thỏa mãn. Anh là  người cuối cùng phải không? Ồ đẹp trai thế sao lại không mở  miệng? Tôi hình dung ra nàng đang bị ba đứa con trai vật lộn vò  xé. Tôi rùng mình, nước mắt ứa ra. Khóc bột phát không sao kìm  nổi. Khóc cho nỗi đau đớn của một thân thể đồng trinh. Khóc cho  gương mặt đồng trinh bỗng trở nên dâm đãng và tinh quái không  ngờ.
Nàng kéo đầu tôi xuống định hôn, rồi lập tức đẩy phắt ra.  Nước mắt tôi rơi lã chã trên mặt nàng. Thôi, đi đi. Tôi ghét nước  mắt đàn ông. Tôi căm thù thấy đàn ông khóc. Nàng phá lên cười,  cười sằng sặc, vẫn không thèm ngồi dậy mặc quần áo vào. Tôi mở  cửa, ra phòng ngoài, rồi lẳng lặng bỏ về.
Chỉ vài ngày sau, lũ con gái cùng khoa với nàng gọi tôi là  đồng cô. Tôi hiểu cái biệt danh này là do hoa khôi đặt cho. Biết  đâu cái chuyện tôi không hành sự mà chỉ chan hòa nước mắt cũng  đã được nàng kể hết cho lũ bạn nghe. Chắc chắn là nàng đã kể.  Chắc chắn là nàng muốn trả thù cái gã to cao nhất trường đẹp trai  nhất trường mà lại không động vào người nàng.
Tôi bỏ đi lang thang, rồi ra ngồi nhìn những con tàu ngoại  quốc vừa mới cập cảng. Đám thủy thủ lên bờ lăm le đi tìm gái. Một  gã râu xồm mắt xanh chẳng rõ người nước nào tiến đến, làm một  điệu bộ tục tĩu bằng ngón tay, ra hiệu nhờ tôi tìm giúp gã. Chắc vẻ  mặt tôi giống hệt một thằng ma cô. Tôi chẳng nói chẳng rằng, lẳng  lặng quay đi. Lang thang qua những phố Hoa kiều ẩm thấp. Lang  thang bên bờ sông như một con kênh. Dân thành phố cảng nào  cũng có cái chất sóng gió của biển, cũng lây cái chất tạm bợ ăn xổi  và láu lỉnh ngang tàng của đám thủy thủ.
Một tháng trời về nghỉ hè ở Hà Nội, tôi ngồi vẽ những phố  Tàu ẩm mốc cũ kỹ, vẽ những ấn tượng ảm đạm của tôi về thành phố cảng. Tôi vẽ những gương mặt đồng trinh bị rạn vỡ, bị đập tan  tành, bị lăn lóc những mảnh vụn theo kiểu lập thể. Hết hè, tôi vẫn  không chịu quay lại trường. Ở đó, tôi không có bạn. Ở đó lúc nào  tôi cũng chỉ nghĩ đến hoa khôi, vừa căm ghét vừa thèm muốn.
Anh Thế hiếm khi chịu nhượng bộ ai, nữa là một gã trai thần  sầu trái tính trái nết. Anh đùng đùng kéo tuột tôi xuống Hải  Phòng, trở lại trường. Anh dẫn tôi đến gửi gắm cho một ông thầy  võ Tàu. Những gã trai mềm yếu như tôi chỉ có thể sửa chữa cá  tính bằng cách học võ cho thật nhiều. Giờ đây nghĩ lại, tôi thấy  rằng quan điểm giáo dục của anh là sai lầm. Người giỏi võ nghệ  hầu như ít khi bàn đến và dùng đến võ nghệ. Bậc cao thủ trong  nghề cung kiếm như thần Arjuna mà cũng có lúc ngớ người khi  nhìn thấy cây cung, không hiểu đó là vật gì.
Nhưng khi đó anh Thế cũng đã phần nào thành công. Tôi  dần dần yên phận với ngôi trường theo kiểu lửa gần rơm lâu ngày  cũng bén. Những buổi tập võ đều đặn hàng ngày cho tôi lòng tự  tin. Võ nghệ chẳng để đánh ai, nhưng nó làm ta vững tâm và điều  quan trọng là nó rút đi phần dương lực thừa thãi của gã trai mới  lớn và si mộng. Một buổi tối, tôi đi dạo một mình bên bờ sông Lấp,  đang đi thì một cô gái từ sau một gốc cây tiến ra chắn đường. Anh  giai giúp em đi, anh giúp em một cái tức là anh giúp hai đứa em  em chưa có tiền ăn bữa tối nay. Tôi mủi lòng và cũng rạo rực khắp  người. Tôi theo cô gái về căn nhà ổ chuột gần đó. Hai đứa em lên  bẩy lên mười quả là đang mếu máo kêu đói. Cô gái đưa cho chúng  món tiền tôi trả trước, bảo chúng ra đầu ngõ ăn cơm bụi, rồi mới  cài cửa quay vào.
Tôi bắt đầu trở thành đàn ông như thế.
Nhưng tôi không trở về phòng mình ngay. Tôi chạy sang ký  túc xá nữ, xộc vào phòng của hoa khôi. Một cô bạn cho biết hoa  khôi Yên Thanh sang chơi với cô bạn gái ở ký túc xá trường bên  cạnh. Tôi đâm bổ sang, tìm cái số phòng vừa xin được. Yên Thanh  quả thực đang trò chuyện cùng với cô bạn gái trong căn phòng ký  túc xá nữ vắng tanh. A, anh đồng cô đẹp trai, anh tìm ai đấy? Tôi  muốn gặp Yên Thanh. Vừa lúc bạn trai của cô kia bước vào phòng.  Cô ta nháy mắt với Yên Thanh, cứ tự nhiên nhé, cái giường dưới  ấy là của một cô bạn mới về quê rồi. Cô ta và anh bạn trai leo tót  lên giường trên, kéo ngay tấm màn gió lại. Bây giờ Yên Thanh mới  chiếu cặp mắt đồng trinh hút hồn vào mắt tôi. Anh đồng cô đi tìm  Yên Thanh làm gì thế? Tôi yêu, đơn giản vậy thôi. Anh yêu, lấy gì làm bằng chứng? Anh có dám nhảy ngay từ trên tầng ba này  xuống đất vì Yên Thanh không? Tôi nắm tay cô ta xăm xăm tiến  ra hành lang, định thực hiện cú nhảy ngay lập tức. Hoa khôi vội  giằng lại. Thôi, thôi, Yên Thanh đùa đấy mà, vui chơi một cái có  đáng gì đâu. Chúng tôi chui vào chiếc giường tầng dưới của cô bạn  về quê, rồi cũng kéo tấm màn gió mỏng manh che làm phép cho tất  cả những người chẳng hề biết hổ thẹn. Anh bạn tầng trên hỏi vọng  xuống, đã có tất chưa, tớ kỉ niệm cho một cái đây này. Anh ta thò  tay bỏ xuống cho tôi một chiếc. Chừng bốn mươi phút sau, anh ta  lại bỏ xuống cho tôi một chiếc tất ngoại, như trực thăng thả đồ tiếp  viện cho đồng minh đang bị vây hãm. Khi đám sinh viên nữ đi  xem ca nhạc về xôn xao một lát rồi leo lên những chiếc giường có ri  đô che chắn, thì anh bạn hào phóng ở tầng trên ném xuống cho tôi  hai chiếc áo mưa nữa. Hoa khôi khoan khoái rã rời. Ôi, anh đồng  cô, anh chẳng đồng cô một chút nào đâu. Vậy đấy, có những điều  người ta chỉ có thể ngộ ra được khi ở trên giường.
Cục diện trận tình đảo ngược hoàn toàn. Bắt đầu một thời kỳ  Yên Thanh sục tìm tôi, săn lùng tôi. Đòi hỏi nhục dục của cô ta là  thường xuyên và cuồng dại. Lũ bạn học ghen tị vì tôi đã sở hữu  hoa khôi của cả trường. Yên Thanh tốt nghiệp trước tôi hai năm, ở  lại làm việc trên cảng. Tôi tốt nghiệp sau hai năm, được anh Thế  thu xếp đi theo tàu viễn dương luôn, tập sự, làm thuyền phó, thực  tập thuyền trưởng, rồi làm thuyền trưởng. Có người bảo trợ thì  mọi công đoạn đều êm trôi và đều được rút ngắn. Có những chuyến  đi dài tới năm sáu tháng. Tôi khắc khoải nhớ bến cảng quê nhà.  Tôi hiểu Yên Thanh không thể sống nổi một tháng mà không có  đàn ông. Giờ này hẳn nàng đang tìm hơi ấm nơi một bạn tình  thoáng qua nào đó. Tôi chỉ sốt ruột, tôi không ghen. Tôi cũng thế  thôi, tôi vẫn tìm những nguồn vui chốc lát ở những cô gái các màu  da trên những bến cảng ghé lại. Điều đó không có nghĩa tôi và Yên  Thanh không ngong ngóng chờ ngày tàu về, không nồng nàn khi  gặp lại. Sự xuất hiện trở lại oai hùng của tôi đủ khiến cho Yên  Thanh xua dạt đi những gã bạn tình mưa bóng mây. Nhiều lúc tôi  có gợn nghĩ đến những tai họa sẽ gặp phải giữa đại dương, nhưng  gạt đi ngay. Yên Thanh chưa phải là vợ tôi. Những người đi biển  tin rằng họ sẽ gặp tai nạn chết người, nếu người vợ ở nhà không  chung thủy. Điềm dữ ấy ứng với người vợ chứ không phải với bạn  tình.
Thực tế là chúng tôi đã chung sống như vợ chồng mà chưa  cần cưới hỏi. Những món hàng giấu được mắt hải quan hoặc phải  chia phần với hải quan đều được chuyển thành một căn nhà và  tiện nghi trong đó. Yên Thanh cai quản ngôi nhà này cho tôi. Anh  Thế chỉ còn biết kêu trời rằng tôi là thằng dại gái, không ai dám  để toàn bộ tài sản cho người tình trông giữ, người tình lại là một  kẻ tiết hạnh khả nghi như vậy. Thằng Phũ và hai đứa bạn chỉ gầm  ghè chực xuống Hải Phòng để dùng luật rừng ra tay giải quyết.
Dù sao chúng vẫn còn nể tôi. Tôi xem ra luôn luôn thỏa mãn  với cuộc sống riêng của mình. Tôi không hề kêu than điều gì để  chúng có thể hành động.

*

Chuyến đi ấy là chuyến đi thảm họa bậc nhất trong tám năm  đi biển của tôi.
Ban đầu trời yên biển lặng, tàu cứ theo đúng hướng đúng  lịch trình mà đi. Chúng tôi không vượt đại dương, chỉ men theo bờ  biển hình chữ S từ Nam ra Bắc. Đi mãi, đi mãi. Sang đến ngày thứ  tư thì nhận ra trước mặt không phải là vùng biển của mình nữa.  Trước mặt là đảo Hải Nam.
Tới lúc đó mới phát hiện ra tội là ở gã máy trưởng. Gã lên  chỗ chúng tôi chuyện trò, rồi để quên chiếc đèn pin bên cạnh la  bàn, la bàn lung liêng chỉ sai hướng. Chúng tôi cho tàu quay lại.  Viên thuyền phó luôn miệng nguyền rủa rằng gã máy trưởng là  nguyên nhân của mọi tai họa chuyến này. Cho gã đi theo tàu  chuyến này là một sai lầm khó cứu vãn. Vợ gã ở nhà đã rước giai  về nhà. Con gái gã ở nhà cũng rước giai về nhà. Bên này là giường  mẹ, bên kia là giường con, chúng cùng lúc thi đua lập thành tích  chào mừng ngày ông chủ gia đình mang thêm hàng về.
Tôi đi qua phòng gã. Gã đang nghe một bài hát về nỗi lòng  người đi biển. Nhưng anh đi xa vời - Nơi chân mây cuối trời - Để  lại mình em với nỗi đơn côi - Rồi những ngày dông bão tràn qua -  Biển thét gào giận dữ cuồng điên - Làm sao em giữ được bình  yên... Tôi thấy mắt gã ươn ướt.
Tôi hơi rùng mình. Tôi linh cảm thấy một điều gì đó vận vào  chính mình. Điều này về sau được chứng thực qua lời kể lại của  anh Thế và mấy thằng cháu. Vậy khi ấy chúng tôi đã có phần chửi  oan gã máy trưởng, dù gia cảnh nhà gã đúng như thế thật.
La bàn mất tác dụng. Con tàu mất phương hướng. Con tàu  sai đường lối. Những thần dân trên tàu nháo nhác suy đoán rồi xỉ  vả lẫn nhau. Gã máy trưởng cứ xong việc là không dám thò mặt  ra, gã chui tọt vào phòng mình, khóc với cái bài hát não nề kia.  Tàu loanh quanh mất một ngày trong vùng biển đông bắc cho đến  khi bão tố nổi lên.
Trong cơn tuyệt vọng, bất chợt một tia sáng chói loà rạch  lằng nhằng trong đầu tôi, hiện rõ gương mặt đồng trinh và nụ cười  dâm đãng. Tôi ớn lạnh toàn thân, có lẽ đời tôi đã hết. Tàu buông  neo thì bị giật đứt neo. Tàu bị dông gió xô đi một đoạn thì va phải  đá ngầm. Chúng tôi bỏ tàu, xuống chiếc xuồng cứu hộ. Một núi  sóng lừng lững dập xuống. Tôi bừng tỉnh lại đã thấy chỉ còn một  mình bám được vào một mảnh ván trên mặt biển tối đen. Tôi gắng  bơi cho đến khi cạn kiệt sức lực. Rồi tôi để mặc cho sóng dữ xô đẩy.
Chiều hôm sau tôi tỉnh dậy trong một căn nhà tranh trống  vắng. Một bếp củi cháy lem nhem bên cạnh. Chắc là nó đã cháy  suốt ngày để sưởi ấm cho tôi và hong khô quần áo cho tôi. Tôi cựa  mình, ngồi phắt dậy, thì cả đám quần áo đã hong khô nhưng chưa  được mặc vào như cũ liền rơi hết xuống đất. Tôi ở trong thế khỏa  thân hoàn hoàn. Mãi lúc này tôi mới nhận ra có một người đàn bà  tựa lưng bên vách đất, ngồi hơi xa bếp lửa. Gương mặt tối và sầu  muộn. Chỉ có cặp mắt hơi ánh lên tia vui mừng vì tôi đã tỉnh lại.  Tôi vơ vội chiếc quần lót, xoay nghiêng người đi để mặc vào, rồi  mặc lại đầy đủ chỗ quần áo thơm mùi củi lửa.
- Anh nằm nghỉ đi. Bão vẫn còn. Biển vẫn động.  Rõ ràng là tôi vẫn phải nằm xuống. Thân thể tôi bầm dập đã  được xoa bóp bằng một thứ dầu thảo mộc nào đó. Tôi nằm nghe  những cục than củi nổ lách tách trong bếp lửa kề bên. Thì ra tôi đã  được sóng biển đẩy dạt vào hòn cù lao hoang vắng này. Sáng nay  người đàn bà nhặt được tôi bất tỉnh trên bãi cát. Vất vả lắm chị ta  mới vừa cõng vừa dìu được tôi về nhà. Đây là nếp nhà duy nhất  trên hòn cù lao. Chị ta là cư dân tạm trú duy nhất. Nói là tạm trú  vì mỗi tuần chị chỉ chèo thuyền ra đây một lần để chăm nom vườn  nhãn và thả cho đàn dê ra khỏi chuồng, tự do kiếm ăn trên núi một ngày. Trong một ngày đó, chị đi cắt một lượng cỏ đủ cho lũ dê  sống trong chuồng thêm mấy ngày sau.
Gương mặt người đàn bà không đẹp, nhưng cũng không thể  gọi là xấu. Nó chỉ không đẹp ở vẻ héo hắt vì bị lãng quên. Thêm  một chút lầm lì như không tin người. Nói thế cũng không đúng,  lầm lì mà chị vẫn rả rích chuyện trò cho tới khuya, không tin  người mà chị dám kể rằng chỉ có một mình trên hòn cù lao này.
Sáng hôm sau thì tôi đã dậy được. Bát cháo cá khô xoàng  xĩnh nhưng nóng bỏng tiếp thêm năng lượng cho cái cơ thể vốn  cường tráng của tôi. Trời vẫn mưa, biển vẫn xám xịt. Tôi lần mò đi  ra chuồng dê. Người đàn bà đang đứng chỗ khu vực ngăn đôi  chuồng thành hai khoang. Một con dê đực đứng chờ ở khoang bên  kia. Mỗi lần chị ta mở cánh cửa nhỏ cho một con dê cái lọt sang thì  con dê đực xông tới nhảy cỡn lên. Chị ta đứng xem cái hành vi lặp  đi lặp lại giữa một con dê đực và mấy con dê cái, vẻ âm thầm. Âm  thầm khổ sở hay âm thầm sung sướng, khó mà đoán biết được.
Đột ngột người đàn bà quay lại và nhìn thấy tôi. Chị ta  hoảng hốt đóng ngay cánh cửa ngăn lại, bỏ mặc lũ dê cái chưa đến  lượt be be ầm ĩ, bỏ chạy về nhà.
Lúc tôi quay trở về thì người đàn bà đang khóc lặng lẽ bên  bếp lửa. Tôi ngồi xuống bên cạnh, chẳng biết nói gì hơn là bóp chặt  một bên vai chắc lẳn của chị ta như an ủi cho chị ta bình tâm lại.  Sự bình tâm trở lại thật. Lát sau chị ta ngả đầu lên vai tôi, và bây  giờ mới bắt đầu câu chuyện về chị cùng hòn cù lao định mệnh của  chị.
Nhìn từ trên cao xuống, cũng như nhìn từ hai bên sườn sang,  hòn cù lao giống như một chiếc tàu biển. Những năm chiến tranh,  máy bay Mỹ đã nhiều lần cắt bom và bắn tên lửa nhầm xuống con  tàu này. Làng chài của chị cách đó một ngày chèo thuyền, sáng  sớm chèo đi thì chiều tối mới tới nơi. Người cha của chị khi ấy là  dân quân, được điều động ra xây cho hòn cù lao một khối trụ, quét  sơn trắng lên cho giống một ống khói tàu thủy. Công việc của ông  là ngày ngày bám trụ trên hòn cù lao, cắm lên đó một lá cờ, biến  nó thành một con tàu để thu hút tên lửa và bom Mỹ. Cờ này đổ,  ông thay cờ khác. ống khói bị đánh sập, ông xây ống khói khác.  Ông trụ trên hòn cù lao được sáu năm. Đến tháng năm 1972 thì  cái hang ông ẩn nấp bị đánh sập. Cái hang ấy bây giờ thành nấm  mồ của ông.
Người cha hy sinh như là một người dân chài được hợp tác xã  điều động đi đánh cá và bỏ mạng ngoài khơi. Chẳng được một tấm  bằng ghi công. Chẳng được một sự đãi ngộ nào. Khi cha hy sinh thì  đứa con gái mới bắt đầu cắp sách đi học. Học cũng bữa đực bữa cái,  chữ được chữ mất, học đến năm lớp bảy thì phải nghỉ luôn vì mẹ  mất. Làng chài long đong, người ta chẳng còn tâm trí đâu để nhớ  tới quyền lợi cho một đứa con gái mười bốn tuổi. Thế là cô bé một  mình một thuyền chèo đi tìm cái hòn cù lao mà người cha đã đổ  máu vì nó. Cô bé thắp hương khấn thầm vong hồn bố phù hộ. Cô  phát quang vùng đất để trồng cây ăn quả. Bây giờ cô đã có một  vườn nhãn và một đàn dê hai chục con. Trên hòn cù lao này cô là  chủ. Trên con tàu này cô là thuyền trưởng với hai chục đầu dê  thuyền viên. Còn ở làng, cô là một cô gái lỡ thì bị quên lãng.
Bây giờ tôi mới nhận ra rằng sau cái vẻ một người đàn bà  luống tuổi là một cô gái lực điền gương mặt héo hon chỉ chừng hăm  sáu tuổi. May phúc cho tôi dã dạt vào đây đúng ngày cô có mặt  trên đảo. Tôi thấy ái ngại cho cô gái bị người đời quên lãng cứ phải  làm cái công việc chăm nom nhân giống cho đàn dê.
Chúng tôi đến với nhau một cách tự nhiên. Xen ngang giữa  những câu chuyện cô kể. Lần đầu tôi có hơi e ngại. Tôi không có  trong người thứ dụng cụ phòng vệ mà nếu không có thì tôi chưa  từng dám tiếp xúc với một người đàn bà lạ nào. Ngay cả trong giây  phút đầy xúc động như vậy, cái kẻ tiểu thị dân là tôi vẫn còn đủ  mánh lới để dùng thủ thuật ranh mãnh kiểm tra. Không có gì  đáng ngờ cả. Khi đã xâm nhập được rồi, tôi bàng hoàng biết cô hãy  còn trinh. Tôi chưa bao giờ có được niềm hạnh phúc như thế.  Không phải là tình yêu. Đó là sự ngưỡng vọng, sự biết ơn, nguồn  vui sướng, tất cả những cảm xúc chân thật nhất. Thứ cảm xúc  chưa chắc ta đã có được với người mình yêu.
- Anh kể về anh đi.
Cô gái áp má lên bộ ngực để trần của tôi và nói.  Tôi ư? Tôi có gì để mà kể. Cô có một con tàu không bao giờ bị  đánh đắm. Con tàu của tôi thì đã đắm rồi. Đám thuỷ thủ của tôi  biết ai còn ai mất, người còn sống thì lưu lạc nơi nao. Tôi biết vẽ,  nhất là vẽ biển. Nhưng bây giờ thì bút vẽ không có, mầu vẽ cũng  không.
Tôi bất chợt vùng dậy. Tôi lấy một que nứa ở góc nhà, cày lên  nền đất những đường nét thật sâu. Một gương mặt hiện ra. Một thiếu nữ của biển không còn vẻ héo hắt nữa, miệng nở một nụ cười  vui lặng lẽ.
- Anh vẽ em đấy ư?
Cô run run hỏi.
- Chính là em.
Tôi nói. Và chúng tôi lại lao vào nhau.
Hai ngày sau bão tan. Sóng lại yên. Biển lại lặng. Cô gái  chèo thuyền đưa tôi rời hòn cù lao. Đi xa một quãng, ngoái nhìn  lại, hòn đảo nhỏ thật giống một con tàu. Cái ống khói chắc vẫn  được quét vôi trắng thường xuyên mới trắng được như thế. Ngày  trước nó là nơi để kẻ thù dội bom xuống. Bây giờ, tôi cũng vừa dội  xuống đó thêm một nỗi đau, một niềm bất hạnh. Hay là niềm  hạnh phúc? Tôi xin chịu, không sao tự phán xét được.
Chiều tối nhá nhem, thuyền chúng tôi tới bến Quảng  Nguyên. Tôi cởi chiếc áo khoác, trao cho cô giữ làm vật kỉ niệm  những ngày chung sống ngắn ngủi trên hòn cù lao. Tôi lên bờ, vẫy  một chiếc xe tải, đi nhờ đến sáng sớm thì về tới Hải Phòng.

*

Người ra mở cửa cho tôi không phải là Yên Thanh như mọi  lần. Thằng Phũ mắt nhắm mắt mở chào, chú đã về, rồi loạng  quạng đi vào phòng ngủ. Thằng Phũ, thằng Cốc, thằng Bóp mỗi  đứa chiếm một phòng. Tôi đành đi lên gác. Trong tất cả các phòng  đều không thấy Yên Thanh. Không tiện đánh thức thằng Phũ dậy  một lần nữa để hỏi cái điều lạ lùng nọ, tôi thay quần áo rồi cũng  lăn ra ngủ.
Trong hơn một tháng trời tôi đi vắng thì nguồn tin tình báo  của anh Thế cho biết Yên Thanh đang chuẩn bị kết hôn với một gã  trai vừa tốt nghiệp Đại học Y, chưa có công ăn việc làm. Hóa ra  bấy lâu nay chị vẫn dùng tiền nuôi em ăn học, em vẫn thực hành  những bài học về sinh lý người không phải trên những xác chết mà  trên cơ thể chị. Anh Thế ngay lập tức hiểu ra rằng phải ngăn chặn bằng được cuộc hôn nhân của chúng lại. Toàn bộ tài sản mấy năm  trời đi tàu viễn dương của thằng em dại gái đang nằm trong tay  con nặc nô kia. Anh lập tức xoay được một cái vận đơn, làm như  thể tôi gửi một lô hàng trị giá khoảng tám mươi ngàn đô từ  Singapore về. Anh xuống Hải Phòng, chìa cho Yên Thanh xem cái  vận đơn và chính thức đặt vấn đề muốn cưới cô ta làm vợ cho em  trai mình. Yên Thanh buộc phải cân nhắc giữa một bên là núi tiền  bỗng chốc đổ ập xuống đầu, với một bên là gã sinh viên Y khoa  không lấy làm chồng thì giữ làm vốn nhân tình cũng được. Cô ta  dễ dàng ký vào hai bản đăng ký kết hôn đã được anh tôi viết sẵn.  Đàn bà có thể sắc sảo trong những tình huống có thời gian để mà  nhấm nháp ngẫm ngợi. Đàn bà khó tỉnh táo trong những lúc sự  kiện dồn dập hàng họ dồn dập tuôn về. Cái giấy đăng ký kết hôn,  anh Thế tôi giữ lại như một bằng chứng pháp lý để Yên Thanh  không thể cưới cái thằng oắt con giỏi sờ soạng xác chết kia được.  Đấy mới chỉ là đòn đầu tiên. Đòn thứ hai, anh Thế đề nghị "cô em  dâu tương lai" trích ra chừng hai mươi ngàn đô để lo lót êm xuôi  lấy được số hàng từ cái vận đơn kia. Anh đã nhẩm tính rằng Yên  Thanh đã giữ của tôi một lượng tài sản có giá trị chừng ấy, cộng  với căn nhà này. Kế hoạch đã được phác ra từ Hà Nội là nếu Yên  Thanh không rơi vào cái bẫy này, ba thằng cháu tôi sẽ dùng đến  luật rừng. Nhưng quả thật đàn bà trong cơn hám lợi thì bỗng chốc  trở nên mù quáng khác thường. Yên Thanh sốt sắng đi lấy tiền  đưa cho anh Thế, cứ như đưa một khoản tiền mừng tuổi đầu xuân  cho trẻ con.
Bấy giờ mới sang đòn thứ ba. Mọi người đang ngồi bên bàn  ăn bữa cơm khá thịnh soạn do Yên Thanh nấu, anh Thế mới đưa  một văn bản nữa, bảo cô ta ký vào. Đó là văn bản chuyển nhượng  quyền sở hữu căn nhà này sang cho thuyền trưởng Tạ Dương  Đông. Văn bản cũng nói rõ anh Đông mới là người bỏ tiền ra mua  nhà. Đến lúc này trí tuệ sắc sảo đàn bà mới đủ thời gian phát tiết.  Yên Thanh uất nghẹn họng. Cô ta ho sặc sụa với miếng ăn trong  miệng. Ho giàn giụa nước mắt nước mũi. Giữa những đợt ho không  sao dứt được là những tiếng "không" như nấc lên. Cô ký đi. Không.  Ký vào. Không. Ký. Không. Có ký không thì bảo. Không.
Thằng Phũ đứng phắt dậy. Hai thằng bạn vẫn thản nhiên  ngồi ăn, chờ đến lượt hành sự. Thằng Phũ sẽ ra tay trước. Không  xong thì thằng Cốc sẽ đè nghiến cô ta xuống. Không xong nữa thì  thằng Bóp sẽ dùng đôi tay như gọng kìm của nó. Nhưng rốt cuộc chỉ ngón đòn của thằng Phũ đã chấm dứt tất cả. Nó túm tóc Yên  Thanh dúi mặt cô ta vào bát canh măng to tướng. Nước canh dềnh  lên, tràn xuống mặt bàn. Yên Thanh không giãy giụa được. Thằng  Phũ dìm mặt cô ta vào bát canh đến lần thứ ba thì Yên Thanh đầu  hàng. Thằng Cốc lấy khăn lau mặt lau tay cho cô ta, sau đó mới  đưa bút cho cô ta ký vào tờ văn bản sạch sẽ.
Anh Thế trở về Hà Nội ngay. Ba thằng bạn ở lại trông giữ và  rao bán căn nhà. Chúng cho phép Yên Thanh được cùng ở lại cho  tới khi nào tìm được nơi ở mới với chú em kia. Ba lần bị dìm đầu  vào bát canh là đã quá sức chịu đựng. Yên Thanh căm hờn cuốn  gói ra đi ngay lập tức.

*

Năm sau tôi lấy vợ. Đúng hơn là anh Thế lấy vợ cho tôi. Tôi  đã ở cái tuổi băm hai nhát. Tôi cần có một gia đình êm ấm làm cái  neo cho những chuyến tàu xuyên đại dương. Tôi yêu nhiều và cũng  nhiều người yêu tôi. Nhưng anh Thế có cái lý của anh. Rất nhiều  bạn bè anh, rất nhiều bạn bè tôi lấy nhau vì yêu, để rồi bỏ nhau  sau năm năm, ba năm, thậm chí một năm chung sống. Một thằng  bạn tôi sống chung với người yêu sáu năm, đến khi dở dói ra quyết  định đăng ký kết hôn thì bỏ nhau ba tháng sau đó. Anh Thế coi sự  chung sống bền vững là tiêu chuẩn cao nhất của một gia đình. Anh  cũng lấy vợ một cách vội vã để gửi lại đứa em trai bé dại mà yên  tâm đi công tác nước ngoài. Hai mươi năm chung sống, chẳng mặn  mà, nhưng cũng chẳng đến nỗi nào. Anh cho rằng tôi cũng hợp với  một đời sống vợ chồng như thế. Còn hạnh phúc thực sự là điều  không có - đó chỉ là mơ ước của loài người, là sản phẩm của thứ  văn chương nghệ thuật đầy ảo giác.
Tôi tặc lưỡi cho xong. Đằng nào cũng không tránh được cái  cầu phải qua ấy. Hai gia đình đều nhiệt tình vun vén vào. Vợ tôi là  một cô giáo trung học phổ thông, nghĩa là vừa có thể làm người mẹ  tốt vừa làm cô giáo tốt cho con cái tôi sau này. Anh Thế nghĩ vậy.  Tôi nghĩ vậy. Nhiều người nghĩ vậy.
Nhưng cuộc sống gia đình là cái neo thả xuống không đúng  lúc, cái neo thường xuyên giữ chặt lấy con tàu ngay cả khi tàu cần  phải ra khơi. Cuộc sống triền miên với biển nuông chiều chất lãng  tử của tôi. Tính tự do kích thích ý muốn đập phá mọi ràng buộc của tôi. Tôi không sao quen được với việc có một sinh vật lạ đêm  nào cũng động đậy trên giường mình. Không sao quen được tiếng  thở của đàn bà thường xuyên trên giường mình. Thêm cả những  điều mà dù có yêu nhau cả chục năm cũng không biết được bằng  việc chỉ cần làm vợ chồng chừng vài ba tháng. Vợ tôi không phải là  người phụ nữ khéo léo và tinh tế ở nhiều mặt. Cô ta cũng không  được chuẩn bị đầy đủ kiến thức về giới tính để đi lấy chồng. Thế hệ  ấy đi qua một thời cha mẹ chỉ lo ăn cho con cái còn chưa xong, nói  gì đến chuyện giáo dục giới tính. Trong việc này xem ra người  Kinh còn kém văn minh hơn một số dân tộc miền núi: Con gái  miền núi đến tuổi dậy thì liền được người mẹ dạy cho cách dùng  một thứ lá hái trong rừng để tránh thai và những kiến thức tình  dục cơ bản.
Tóm lại là chỉ trong vòng nửa năm đầu lấy vợ, tôi hoàn toàn  không thỏa mãn và mất hết thiện cảm với người mà tôi đã chịu  cưới sau bảy tháng quen biết. Bảy tháng là quá dài so với cái tuổi  băm của tôi, so với cái thời đại tốc độ này. Tôi bỏ xuống Hải Phòng,  đi tìm để chuyện trò thù tạc với những đứa bạn chuẩn bị xuống  tàu vượt đại dương. Tôi không còn vượt đi đâu được nữa. Căn nhà  ở Hải Phòng đã bán. Nghề viễn dương đã bỏ. Anh Thế bảo rằng  viễn dương thế là đủ rồi. Tôi góp toàn bộ vốn liếng vào khách sạn  của anh. Tôi làm việc cho khách sạn của anh. Thế bảo cái nghề của  anh là một, nghề của tôi là hai, đi rông cho lắm về nước mà bỏ vợ  bỏ chồng. Những kẻ ở nhà xài tiền xài đồ ngươi gửi về như một thứ  viện trợ khẩn cấp không hoàn lại của những nước phát triển cho  những nước đang phát triển. Một ông bạn anh đi làm đại sứ,  quanh năm ngày tháng loay hoay tìm một khoản vay lãi suất thấp  cho đất nước, trong khi con gái ở nhà bán xe máy, bán đồ, bán tất  tật những thứ bố gom góp gửi về để chi cho những cuộc ăn chơi và  những lần nạo phá thai. Từ đó hễ đọc trên báo chí nước nhà những  bài viết giật gân về chuyện vợ chồng ly dị, con cái hoang đàng phá  phách là ông cảm thấy như bị đập vào mặt. Ông quay ra thù ghét  và nguyền rủa báo chí nước nhà.
Tôi nhìn đủ bốn phương tám hướng bạn bè để thấy rằng sinh  con ra không hẳn đã sinh phúc. Tôi hiểu rằng người ta phải sinh  con để trả cái nợ chính mình được sinh ra giữa đời này. Những  kiếp trước của tôi chắc chẳng ra gì mới sinh ra tôi đau đớn nhường  này. Kiếp hiện sinh của tôi không ra gì nên mới sinh ra một đứa  con gái xinh đẹp nhường ấy và phải chịu cái chết oan uổng nhường ấy đúng vào lễ sinh nhật lần thứ hai. Ngày nó ra đời, tôi chỉ dám  tạt vào bệnh viện nhìn con một thoáng chốc. Nó nhìn xoáy vào tôi  như trách móc, làm tôi ứa nước mắt. Nghe nói nó lọt lòng mẹ  không gào khóc tầm thường như mọi đứa trẻ mà chỉ đưa cặp mắt  thôi miên quét qua một lượt tất cả những người ở trước mặt như  nhận diện cả cõi người. Như tỏ ý nhìn cả cõi người một lần thế là  đủ. Tôi khóc vì trót mang tội, bắt thêm một sinh linh phải chịu  khổ ải ở cõi trần ai.
Sinh nhật lần thứ hai của con gái, chúng tôi mời khá nhiều  bạn bè và người thân. Mặc dù trên thực tế chúng tôi đã sống ly  thân ngay trong cùng một nhà, cả tôi và người được coi là vợ tôi  đều có ý mời cho thật nhiều. Như thể chúng tôi cố tình sắp xếp cho  mọi người đến vĩnh biệt con bé. Đám học sinh lớp vợ tôi chủ nhiệm  mang tới hoa, đồ chơi và kẹo. ánh mắt con bé cười bao dung như  một nữ hoàng cười bằng mắt với thần dân của mình. ánh mắt mầu  nâu sáng lấp lánh nồng nàn theo kiểu bằng hữu với đám bạn bè  của cha mẹ. ánh mắt trầm lắng u uẩn như một người đàn bà trung  niên truân chuyên đã lắm gian nan đã nhiều với các bậc trưởng  lão trong gia đình.
Tôi hơi giật mình khi một người đàn bà mới đến bế xốc nó lên  để hôn. Cô ta chưa kịp hôn vào má nó thì con bé đã chủ động đặt  môi lên trán người đàn bà. Một cái hôn của bề trên, ban tặng và  làm ơn. Người đàn bà đưa cho con bé một bó hoa hồng. Ngay lập  tức, con bé vướng gai hoa hồng vào cổ tay. Một chút máu rỉ ra. Con  bé thả bó hoa hồng xuống nền nhà thương xót nhìn người đàn bà  ra chiều đã hiểu cả. Mọi người xôn xao hỏi han. Mẹ nó đi lấy băng  sát trùng. Con bé đẩy tay mẹ ra. Không đau đâu. Nó nhìn duyệt  qua toàn bộ đám khách khứa như chào lần cuối cùng. Rồi nó bảo  nó phải đi ngủ. Điều ấy có nghĩa là chúng dân hãy yên lòng mà vui  chơi cho đến khi tàn cuộc, sự có mặt của nữ hoàng như thế đã là  quá dài. Tôi lại giật mình một lần nữa khi nhận ra người đàn bà  không còn ở trong phòng. Tôi chạy bổ ra sân, ra cổng. Cửa ngõ mở  toang, không một bóng người. Gió hắt hiu rên rỉ trên vòm cây xà  cừ.
Tôi lật đật trở vào nhà. Đám thần dân vẫn đang hoan hỉ chúc  tụng. Tôi đâm bổ vào phòng trong. Con bé nằm ngửa trên giường,  một chiếc gối to úp lên mặt. Giật phắt chiếc gối ra thì thấy mắt nó  mở to nhìn đi xa hút. Trên môi đọng một cái cười nhếch mép. Ở  khóe mép là một nếp nhăn hằn sâu của người già. Cái cười và nếp nhăn của người đã ngộ, đã thành chính quả, đã hiểu hết và thấu  suốt tất cả.
Đến thăm cõi đời này, nó nhìn xoáy như muốn lột vỏ con  người. Giã biệt cõi đời này, nó nhìn xuyên thấu và nhếch mép cười  mọi trò trẻ con nhăng nhố.
Anh Thế không cho phép mổ khám nghiệm tử thi, mặc dù  anh cũng tin rằng con bé chết vì gai hoa hồng tẩm độc, hoặc bị đè  một chiếc gối to lên mặt. Cũng như tôi, anh đã nhận ra người đàn  bà thoắt xuất hiện thoắt biến mất ấy là Yên Thanh. Cô ta đến để  báo thù sau ba năm hoàn toàn không lộ diện. Khám nghiệm - tìm  ra nguyên nhân - đi báo thù - báo thù lại nối tiếp báo thù thành  một cuộc chiến tương tàn không bao giờ dứt.
Anh Thế bước ra thông báo với các thần dân hoan hỉ rằng nữ  hoàng của họ vừa băng hà vì một cơn cảm gió đột ngột. May là  hôm ấy nhóm ba thằng cháu đi dự buổi trình diễn thời trang với  thằng Cốc. Anh Thế cho là may vì chúng không biết nguyên nhân.  Bằng không, chúng sẽ lùng sục và trừ khử được Yên Thanh trong  vòng dăm ba ngày.
Quả thực đó cũng là điều tôi muốn. Nhưng anh Thế biết cách  làm tôi nén lại, hơn nữa không hé một lời với ba gã trai kia. Anh  kiểm soát được tôi. Anh ngỡ kiểm soát được mọi người và mọi việc.  Vậy mà rốt cuộc anh không kiểm soát nổi chuyến đi của chúng tôi  đến bãi tắm Bình Sơn, dẫn đến một chuỗi tiếp liền ba cái chết.
Sau cái chết của con gái, vợ tôi mới thực sự bỏ đi.  Một đêm trong cơn ác mộng, tôi thấy con gái hiện về, dáng vẻ  của một thiếu phụ, tay cầm một bó hoa hồng tua tủa gai. Con gái  nói rằng nó bị đầu độc. Có gì lạ đâu, nó nói thêm, sự đầu độc vẫn  đang diễn ra đấy thôi.