Phần 1 (20 câu)

1. Giới tính của một con người được quyết định vào khi nào và bởi những yếu tố gì?
Nguyên nhân gì và vào lúc nào thì giới tính của con người được quyết định? Để trả lời câu hỏi này, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trong nhiều năm và đã khẳng định được rằng: Giới tính của con người được quyết định bởi nhiễm sắc thể mang các tế bào sinh dục của cha mẹ. Đó là những thông tin về di truyền được chứa đựng trong nhân tế bào của trứng và tinh trùng.
Trong thời kỳ đầu phôi thai, giới tính của con người chưa được phân định rõ ràng. Nếu phôi thai này là do tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y của người cha và trứng của người mẹ (mang nhiễm sắc thể X) kết hợp mà thành, tuyến sinh dục nguyên thủy của nó sẽ dần dần phát triển thành tinh hoàn. Phôi thai này sẽ phát triển thành một cá thể nam giới. Ngược lại, nếu phôi thai là do tinh trùng mang nhiễm sắc thể X và trứng kết hợp với nhau, tuyến sinh dục nguyên thủy sẽ dần dần phát triển thành buồng trứng và một cá thể nữ sẽ hình thành. Quá trình phân hóa tuyến sinh dục nguyên thủy sẽ bắt đầu vào khoảng tuần thứ 6-7 của phôi thai và sẽ hoàn thành khi phôi thai được 18-25 tuần.
Ngoài sự khác nhau về nhiễm sắc thể và tuyến sinh dục, giữa nam và nữ còn có sự khác biệt về kết cấu các cơ quan sinh dục trong và ngoài, các loại hoóc môn trong cơ thể. Ở giai đoạn đầu, trong mỗi phôi thai đều có hai hệ thống ống dẫn gọi là hệ ống dẫn trung thận và hệ ống dẫn trung thận phụ. Lúc này phôi thai chưa có sự khác biệt về giới tính.
Tinh hoàn của của thai nhi nam có thể tạo ra testosteron và một loại protein có khả năng ức chế hệ ống dẫn trung thận phụ. Dưới sự kích thích của testosteron, hệ ống dẫn trung thận dần dần phát triển thành các cơ quan sinh dục trong như ống dẫn tinh và bao tinh hoàn. Còn dưới tác dụng ức chế của loại protein nói trên, hệ ống dẫn trung thận phụ dần dần thoái hóa. Sau đó, testosteron sẽ chuyển biến thành một loại hoóc môn khác để cơ quan sinh dục ngoài phát triển thành âm nang, dương vật và tuyến tiền liệt.
Trong cơ thể thai nhi nữ, do không có protein ức chế nên ống dẫn trung thận phụ sẽ tự biến đổi thành hai ống dẫn trứng, tử cung và đoạn trên âm đạo. Do không chịu ảnh hưởng của testosteron nên ống dẫn trung thận tự động thoái hóa. Cơ quan sinh dục ngoài phát triển thành dạng nữ giới, tức là có môi lớn, môi bé, âm vật và đoạn dưới âm đạo.
Sự phân hóa cơ quan sinh dục trong cũng được hoàn thành trước tuần thứ 16-23 của thai nhi.
2. Có thể sinh con trai bằng cách cho người mẹ dùng testosteron trước hoặc trong khi mang thai không?
Một số cặp vợ chồng vì muốn sinh con trai nên ngay sau khi phát hiện có thai, người vợ đã đi mua các thuốc có testosteron để uống. Kết quả là họ sinh ra những đứa con chẳng ra trai mà cũng chẳng ra gái. Điều này không chỉ khiến cha mẹ lo lắng mà tâm lý của những đứa trẻ đó cũng phải chịu những tổn thương rất lớn.
Việc uống thuốc có chứa testosteron để sinh con trai là một phương pháp không có cơ sở khoa học, vì giới tính của thai nhi đã được định đoạt ngay trong giây phút trứng kết hợp với tinh trùng. Nếu là thai nhi nam thì tự nó sẽ sản sinh ra testosteron mà không cần đến sự cung cấp của thuốc men. Còn nếu là thai nữ thì việc uống thêm testosteron chỉ làm cho cơ quan sinh dục ngoài của đứa trẻ bị nam tính hóa (ví dụ như môi lớn gần giống như bìu nhưng không có tinh hoàn, âm vật phình to như dương vật nhưng niệu đạo thì vẫn là của nữ giới và khi đi tiểu vẫn phải ngồi). Dù đứa trẻ được nuôi dưỡng giống như một đứa con trai thì nó vẫn có buồng trứng và cơ quan sinh dục trong vẫn là của nữ giới. Những đứa trẻ này nhất thiết phải được phẫu thuật cơ quan sinh dục ngoài để trở thành một phụ nữ thực sự.
Ngoài ra, việc thai phụ dùng thuốc có testosteron sẽ khiến cho hàm lượng hoóc môn này trong cơ thể quá lớn. Nó ức chế sự phát triển của noãn bào và công năng rụng trứng của buồng trứng, gây ra vô sinh và vô kinh, thậm chí dẫn đến tình trạng nam tính hóa.
3. Về sinh lý, cuộc đời người phụ nữ trải qua mấy giai đoạn? Đặc điểm của từng giai đoạn?
Cuộc đời người phụ nữ trải qua 6 giai đoạn sinh lý: sơ sinh, nhi đồng, dậy thì, trưởng thành, tiền mãn kinh, mãn kinh và già. Giới hạn về tuổi tác giữa các giai đoạn chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền, môi trường, chất dinh dưỡng, có sự khác biệt giữa các cá thể và quần thể.
- Sơ sinh: Giai đoạn này chỉ gói gọn trong vòng một tháng sau khi trẻ ra đời. Bé gái vẫn chịu ảnh hưởng của hoóc môn trong cơ thể mẹ và trong rau thai. Trong vài ngày đầu, vú bé hơi nhô cao, cơ quan sinh dục ngoài có tiết ra một chút chất thải.
- Nhi đồng: Là thời gian 8-9 năm sau khi đứa trẻ ra đời. Cơ thể trẻ phát triển rất nhanh, nhưng tuyến sinh dục và cơ quan sinh dục thì vẫn giống như ở trạng thái sơ sinh.
- Dậy thì: Đây là thời kỳ quá độ, cơ quan sinh dục từ trạng thái sơ sinh chuyển sang trạng thái trưởng thành. Lúc này, cơ thể và nội tạng của bé gái phát triển thêm một bước, công năng sinh sản và công năng sinh dục cũng hoàn thiện dần. Người con gái bắt đầu có kinh nguyệt và rụng trứng theo chu kỳ, tâm lý cũng dần dần hoàn thiện.
- Trưởng thành: Khoảng 18-45 tuổi, là thời kỳ công năng sinh dục của người phụ nữ phát triển thịnh vượng nhất.
- Tiền mãn kinh và mãn kinh: Khoảng 45-55 tuổi, là thời kỳ công năng sinh dục đi theo chiều hướng lão suy. Mãn kinh là sự kiện quan trọng của thời kỳ này, với biểu hiện đặc trưng là các cơ quan dần dần lão hóa.
- Già: Bắt đầu vào khoảng 60-65 tuổi, là thời kỳ các cơ quan trong cơ thể ngày càng thêm lão hóa.
4. Buồng trứng của người phụ nữ có tất cả bao nhiêu tế bào trứng? Số lượng đó có tăng thêm không?
Buồng trứng của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có hình bầu dục dẹt, kích thước khoảng 3 x 4 x 1 cm, nặng khoảng 10-16 g. Chúng liên kết với góc tử cung và thành khoang chậu nhờ một số dây chằng. Số tế bào trứng đã được xác định ngay từ trước ngày đứa trẻ ra đời và sẽ không tăng lên sau đó.
Buồng trứng do các tế bào sinh dục và tế bào cơ thể hợp thành. Khi tuổi thai được 5 tuần, khoảng 300 - 1.300 tế bào sinh dục trong buồng trứng được tạo ra bởi lớp bên trong của phôi thai. Chúng không ngừng phân chia và đạt tới con số 6-7 triệu khi tuổi thai được 5-7 tháng. Mặt khác, khi thai được 3-7 tháng, các tế bào sinh dục này (gọi là tế bào noãn mẫu) bắt đầu phân chia không hoàn toàn mà chỉ dừng lại nửa chừng. Cũng từ đó, lượng tế bào noãn mẫu không chỉ sinh thêm mà còn liên tục thoái hóa và giảm bớt. Khi trẻ ra đời, tổng số tế bào noãn mẫu trong buồng trứng là khoảng 2 triệu, đến giai đoạn dậy thì sẽ có khoảng 3- 4 triệu.
Phụ nữ trưởng thành mỗi tháng có một trứng chín và rụng, trong cả cuộc đời sẽ có khoảng 400 trứng rụng, chưa bằng một phần vạn trong tổng số tế bào noãn mẫu. Khi người phụ nữ mãn kinh, các tế bào noãn mẫu trong buồng trứng về cơ bản đã kiệt quệ. Một số phụ nữ do số lượng tế bào trứng trong thời kỳ phôi thai quá ít, hoặc do tế bào trứng thoái hóa quá nhanh, nên bị mãn kinh sớm.
Sự cố định số tế bào trứng ở nữ giới hoàn toàn khác với công năng sản sinh ra tinh trùng ở nam giới. Tinh hoàn ở nam giới đã trưởng thành có thể không ngừng sản sinh ra tinh trùng, cứ khoảng hơn bảy mươi ngày thì nó lại sản sinh ra một đợt tinh trùng mới.
5. Tế bào trứng phát dục và chín như thế nào?
Sự phát dục và chín của tế bào noãn mẫu trong buồng trứng là một quá trình tương đối dài và chịu sự điều khiển của nhiều loại vật chất. Quá trình này được bắt đầu ngay từ thời kỳ phôi thai. Từ khi thai nhi được 5 tháng tuổi cho đến khi đứa trẻ ra đời 6 tháng, thân tế bào và tế bào noãn mẫu trong buồng trứng của thai nhi kết hợp với nhau tạo ra vô số noãn bào cơ sở. Noãn bào cơ sở bao gồm một tế bào noãn mẫu, một tế bào hạt bẹt và một lớp màng cơ sở. Chúng phát triển và phát dục theo chu kỳ.
Các nhà khoa học cho rằng các noãn bào cơ sở phải mất 9 tháng để phát dục thành nang noãn. Trong thời gian này, tế bào noãn mẫu sẽ lớn lên, bên trong có nhiều thay đổi sinh hóa. Xung quanh tế bào có một lớp protein đường trong suốt bao bọc nhằm không cho tinh trùng thứ hai và những thứ khác ngoài tinh trùng xâm nhập. Giữa các tế bào có sự liên kết lẫn nhau để trao đổi dinh dưỡng và tín hiệu, đồng thời tạo ra các phản ứng sản sinh hoóc môn. Lúc này, xung quanh lớp màng cơ sở đã được bao bọc bởi các mao mạch và một loại tế bào thể. Nhờ đó, noãn bào đã thiết lập được mối quan hệ với sự tuần hoàn máu trong cơ thể.
Nang noãn còn phải trải qua 85 ngày nữa mới phát dục thành noãn bào chín, có đường kính khoảng 18 mm. Trong 70 ngày đầu, đường kính của noãn bào tăng nhanh, số tế bào hạt tăng đến 600 lần và tiết ra dịch noãn bào, hình thành nên khoang noãn bào, gọi là nang noãn. Trong mười lăm ngày cuối, trong đám nang noãn đã phát dục chỉ có một noãn bào đạt tới giai đoạn chín và được buồng trứng đưa vào ổ bụng. Quá trình này được gọi là "rụng trứng". Trước khi rụng trứng khoảng 18 giờ, tế bào noãn mẫu mới hoàn thành lần phân chia thứ nhất, nhiễm sắc thể từ 46 giảm xuống còn 23, gọi là tế bào trứng, chuẩn bị cho việc thụ tinh. Do đó, tính từ trước khi ra đời cho đến khi rụng trứng, tuổi thọ của tế bào trứng có thể kéo dài từ 10 đến hơn 40 năm. Cũng chính vì vậy, nếu có thai ở độ tuổi 35 trở lên, chất lượng phôi thai có thể bị ảnh hưởng do tế bào trứng đã già lão.
6. Sau khi trứng rụng, tế bào trứng và nang noãn có những thay đổi gì?
Sau khi rụng, tế bào trứng và các tế bào dạng hạt sẽ đi vào ống dẫn trứng, chuyển động dần về hướng khoang tử cung. Lúc này, nếu có sinh hoạt tình dục, các tinh trùng sẽ chuyển động lên trên và gặp tế bào trứng ở đoạn giữa của ống dẫn trứng. Trứng và tinh trùng kết hợp với nhau lại tạo thành trứng đã thụ tinh với 46 nhiễm sắc thể. Trứng đã thụ tinh một mặt tiến hành tự phân chia, một mặt tiếp tục chuyển động về hướng khoang tử cung. Sau 6 đêm 7 ngày, khi trứng đã thụ tinh phát dục thành phôi nang giai đoạn cuối, nó sẽ xâm nhập vào trong lớp niêm mạc tử cung, tiếp tục phát triển thành thai nhi. Nếu không được thụ tinh thì sau khi rụng 12-14 giờ, tế bào trứng sẽ bắt đầu thoái hóa.
Còn số phận của vỏ nang noãn thì sao? Sau khi trứng rụng, nó sẽ chuyển thành hoàng thể. Khoảng 5 ngày sau khi rụng trứng, hoàng thể chín hình thành, đường kính 2-3 mm. Nếu tế bào trứng được thụ tinh, phôi thai sẽ tiết ra một loại hoóc môn làm cho hoàng thể tiếp tục phát dục, đến 3 tháng cuối của thai kỳ mới thoái hóa. Nếu không có sự thụ tinh, sau khi trứng rụng khoảng 10 ngày, hoàng thể sẽ teo lại, sau khoảng 14 ngày thì thoái hóa và cuối cùng thì chuyển thành dạng sẹo, gọi là bạch thể.
7. Buồng trứng có thể tổng hợp và tiết ra những loại hoóc môn sinh dục nào? Chúng có tác dụng như thế nào đối với công năng sinh dục của người phụ nữ?
Ngoài việc mỗi tháng cung cấp một tế bào trứng chín, buồng trứng còn có tác dụng nội tiết rất quan trọng. Trong các tế bào của buồng trứng có rất nhiều loại dung môi. Những tế bào này có thể hút được Cholesteron trong hệ tuần hoàn rồi tạo thành progestagen, testosteron và oestrogen nhờ sự xúc tác của các dung môi. Trong giai đoạn noãn bào phát dục, oestrogen được tạo ra chủ yếu là oestradiol. Lượng chất này tiết ra ngày càng nhiều, đến khi sắp rụng trứng thì nồng độ của nó trong máu lên đến cao điểm. Trong giai đoạn hoàng thể phát dục, tế bào hoàng thể có thể sản sinh ra hoóc môn E2, P và cả Progesteron. Nồng độ của chúng trong máu đạt tới đỉnh cao vào 5-7 ngày sau khi rụng trứng. Sau khi hoàng thể thoái hóa, mức độ hoóc môn E2 và P trong máu cũng giảm theo.
Testosteron trong cơ thể người phụ nữ chủ yếu là do các tế bào tủy của buồng trứng và vỏ thượng thận tạo thành. Trong cơ thể phụ nữ, tác dụng chủ yếu của hoóc môn này là cung cấp nguyên liệu cho việc tạo thành oestrogen, thúc đẩy sự tạo thành của protein.
Oestrogen và Progestagen có vai trò rất quan trọng đối với công năng sinh dục của phụ nữ. Oestrogen có thể thúc đẩy sự phát dục và hoàn thiện của các cơ quan sinh dục nữ. Nó cũng thúc đẩy sự phát triển của các tuyến, mạch máu, mô liên kết trong niêm mạc tử cung, làm cho niêm mạc trở nên dày. Oestrogen và Progestagen do hoàng thể tiết ra sau khi rụng trứng có thể làm cho các tuyến trong niêm mạc tử cung tiếp tục tăng sinh và tiết ra các chất dinh dưỡng như đường gluco. Cũng dưới tác dụng của 2 hoóc môn này, mô liên kết sẽ phồng nước, khiến cho niêm mạc có dạng như bọt biển xốp, mạch máu dài ra, cuộn lại và nở ra. Những thay đổi trên của niêm mạc tử cung đều có lợi cho việc cung cấp chất dinh dưỡng và phát dục của trứng đã thụ tinh
8.Thế nào là kinh nguyệt và chu kỳ kinh nguyệt? Nó được hình thành như thế nào?
Ở phụ nữ trưởng thành, mỗi tháng âm đạo thường ra máu vài ngày, y học gọi là kinh nguyệt. Như đã giới thiệu ở phần trước, oestrogen được tiết ra trong giai đoạn noãn bào phát dục làm cho niêm mạc tử cung tăng sinh sau khi trứng rụng. Oestrogen, progestagen do hoàng thể tiết ra làm cho ở niêm mạc tử cung đang tăng sinh xuất hiện những thay đổi về nội tiết. Nếu tế bào trứng không được thụ tinh thì khoảng mười bốn ngày sau khi trứng rụng, hoàng thể sẽ thoái hóa, mức độ của oestrogen và progestagen cũng theo đó mà giảm bớt. Niêm mạc tử cung, vì vậy, sẽ trở nên mỏng, mạch máu bị chèn và co thắt, máu huyết không thông, khiến tổ chức niêm mạc bị thiếu máu, hoại tử và rụng, gây chảy máu.
Do giai đoạn cuối cùng để noãn bào phát dục cần mười sáu ngày, hoàng thể từ khi bắt đầu hình thành đến khi thoái hóa cũng cần khoảng mười bốn ngày nên hiện tượng bong và chảy máu niêm mạc tử cung sẽ xảy ra một tháng một lần. Do xuất hiện tuần hoàn nên hiện tượng này cũng được gọi là chu kỳ kinh nguyệt. Việc hành kinh, tử cung ra máu là kết quả của sự tăng sinh, thoái hóa và bong rụng niêm mạc tử cung trong tháng trước. Nhưng để thuận tiện, người ta đều coi ngày hành kinh đầu tiên là ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt tháng hiện tại. Số ngày trong chu kỳ kinh nguyệt sẽ được tính toán từ ngày này.
10. Trong thời kỳ kinh nguyệt, cơ thể phụ nữ có những thay đổi gì? Phải chú ý những biện pháp giữ gìn sức khỏe nào?
Trong thời gian hành kinh, niêm mạc trong khoang tử cung của người phụ nữ sẽ bong từng mảng lớn, tạo nên những vết thương lớn. Lỗ cổ tử cung ở trong trạng thái mở rộng, trong âm đạo có máu, môi trường axit bình thường bị thay đổi. Tình trạng này có lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại vi khuẩn, từ đó dẫn đến nhiễm trùng. Do vậy, trong thời gian hành kinh, bạn cần tuyệt đối tránh sinh hoạt tình dục, tắm bồn, bơi, lội nước và rửa âm đạo. Băng vệ sinh phải được khử trùng, thay thường xuyên. Phải thường xuyên rửa cơ quan sinh dục ngoài, đảm bảo vệ sinh cục bộ.
Do trong thời gian hành kinh, sức đề kháng của cơ thể bị giảm thấp nên bạn cần phải tránh vận động mạnh và lao động thể lực nặng. Cần sắp xếp hợp lý giữa lao động và nghỉ ngơi, ngủ đủ, giữ tâm trạng vui vẻ. Cố gắng giữ ấm nửa dưới cơ thể, ăn ít đồ sống, lạnh và có tính kích thích.
11. Thế nào là chu kỳ buồng trứng? Rụng trứng và kinh nguyệt có liên quan gì với nhau?
Các giai đoạn phát triển của buồng trứng (noãn bào trong buồng trứng phát dục, sự rụng trứng, sự hình thành và thoái hóa của hoàng thể) kéo dài trong thời gian khoảng một tháng nên được gọi là chu kỳ buồng trứng. Sự tăng sinh niêm mạc, nội tiết và sự bong rụng, xuất huyết của tử cung cũng phải trải qua khoảng một tháng nên được gọi là chu kỳ kinh nguyệt. Do vậy, sự thay đổi của chu kỳ kinh nguyệt và chu kỳ buồng trứng là song song với nhau. Chu kỳ kinh nguyệt chịu sự điều khiển của hoóc môn sinh dục do buồng trứng tiết ra. Sự rụng trứng xảy ra vào khoảng ngày thứ 14-15 của chu kỳ kinh nguyệt, hoặc là khoảng 14 ngày trước kỳ kinh nguyệt sau.
Kinh nguyệt là kết quả của việc tế bào trứng (của chu kỳ rụng trứng trước) không được thụ tinh. Nếu trứng được thụ tinh, trứng đã thụ tinh bắt rễ thành công thì niêm mạc tử cung sẽ đảm nhiệm chức năng nuôi dưỡng phôi thai trong giai đoạn đầu. Trong trường hợp này, nó không những không bong ra và xuất huyết mà còn dày thêm lên, chuyển dần thành một bộ phận của rau thai.
Hiểu được mối quan hệ giữa kinh nguyệt và sự rụng trứng, nguyên nhân, kết quả và thời gian của sự thụ tinh, chúng ta có thể chủ động trong việc sinh hoạt tình dục để thụ thai hoặc tránh thai.
12. Chu kỳ buồng trứng được điều khiển như thế nào?
Nhiều người lấy làm lạ rằng, không biết cái gì điều khiển công năng của buồng trứng một cách khéo léo, để nó có những thay đổi mang tính quy luật như vậy? Làm rõ vấn đề này sẽ có lợi cho việc đi tìm nguyên nhân gây rối loạn kinh nguyệt ở một số người.
Yếu tố điều khiển sự bắt đầu và giai đoạn phát dục đầu tiên của noãn bào trong buồng trứng vẫn chưa được làm rõ. Còn trong 15-20 ngày sau, quá trình này chịu sự điều khiển của hoóc môn sinh dục được tiết ra bởi các tế bào thùy trước tuyến yên.
Tuyến yên là một tuyến nhỏ nhô ra ở phần đáy não, khối lượng không đến 1 g nhưng lại là "thủ lĩnh của các tuyến nội tiết". Nó được chia thành thùy trước và thùy sau. Một tế bào của thùy trước có thể tổng hợp và tạo thành 2 hoóc môn FSH và LH. FSH là hoóc môn chủ yếu kích thích sự phát dục và chín của noãn bào. Cùng với một số chất do buồng trứng sản sinh, nó làm cho mỗi tháng có một nang noãn phát dục và chín (gọi là "nang noãn ưu thế"), còn các nang noãn khác đều bị thoái hóa. Quá trình chọn lựa này đảm bảo cho người phụ nữ chỉ có một tế bào trứng chín mỗi tháng, tránh hiện tượng đa thai. Còn hoóc môn LH có tác dụng tạo thành oestrogen, cung cấp nguyên liệu cho cả quá trình phát dục của noãn bào.
Sự tiết ra FSH và LH cũng có tính chu kỳ. Ở giai đoạn cuối của chu kỳ trước và giai đoạn đầu của chu kỳ hiện tại, lượng FSH do tuyến yên tiết ra sẽ tăng lên, thúc đẩy sự phát dục của một noãn bào trong buồng trứng. Cùng với các chất khác được sinh ra trong buồng trứng, FSH tác dụng vào nhóm nang noãn phát dục, lựa chọn ra một nang noãn ưu thế. Vào giai đoạn phát dục cuối của nang noãn, lượng hoóc môn tiết ra ở nang noãn ưu thế sẽ tăng lên nhanh chóng; hoóc môn với nồng độ cao trong máu sẽ thúc đẩy tuyến yên giải phóng một lượng lớn LH và FSH. Điều này thúc đẩy tế bào noãn mẫu phân chia lần thứ nhất, nhiễm sắc thể giảm đi một nửa, tế bào trứng cũng có xu hướng chín, chuẩn bị sẵn sàng cho việc thụ tinh. Mặt khác, nó làm cho vỏ nang noãn đã chín và bề mặt buồng trứng tạo thành một miệng mở; để 3 - 4 giờ sau khi nồng độ LH/FSH đạt tới đỉnh điểm, tế bào trứng có thể vào ổ bụng.
Sau khi trứng rụng, sự hình thành và duy trì công năng hoàng thể đều cần đến tác dụng của LH. Sau khi hoàng thể thoái hóa, lượng oestrogen và progestagen sẽ giảm, lượng FSH lại tăng lên, kích thích một nhóm nang noãn phát triển và phát dục, bắt đầu một chu kỳ buồng trứng mới.
13. Việc tiết ra hoóc môn sinh dục của tuyến yên chịu sự điều khiển nào?
Ngay từ trước những năm 50, một số nhà khoa học đã cho rằng, công năng của tuyến yên vùng dưới đồi chịu sự điều khiển của trung khu thần kinh cao hơn một cấp. Đến năm 1971, hai nhà khoa học Mỹ là Schally và Guillemin đã tìm ra chất điều khiển sự tiết hoóc môn sinh dục ở tuyến yên, đó là GnRH.
Vùng dưới đồi có rất nhiều nhân của các tế bào thần kinh, trong đó một tế bào thần kinh tạo ra được loại phân tử peptit tên là GnRH. Thông qua hệ thống mao mạch nối liền giữa sợi thần kinh và tuyến yên với vùng dưới đồi, GnRH được vận chuyển tới lá trước tuyến yên, thúc đẩy các tuyến nội tiết và sự tạo thành FSH và LH.
Nội tiết kiểu mạch xung GnRH tất nhiên còn phải chịu sự điều khiển của trung khu thần kinh cao cấp hơn. Trong não người có sự hoạt động của hệ thần kinh vô cùng phức tạp và sự truyền đạt tín hiệu thông tin đa hình đa dạng. Đây chính là một vấn đề mà các nhà khoa học vẫn còn phải tiếp tục tìm tòi.
14. Tuyến yên vùng dưới đồi có chịu sự điều khiển của hoóc môn buồng trứng không?
Não và tuyến yên chịu sự kích thích của sự nội tiết mạch xung GnRH, LH và FSH, thúc đẩy sự phát dục của noãn bào trong buồng trứng, sự hình thành trứng rụng và hoàng thể. Vậy có phải buồng trứng chỉ thụ động chịu sự điều tiết của các cơ quan khác không? Thực tế thì không phải là như vậy. Trong những trường hợp thông thường, oestrogen và progestagen do buồng trứng tiết ra có tác dụng ức chế (gọi là "điều tiết đưa trở lại") đối với cơ quan cấp trên của nó. Tức là khi lượng oestrogen và progestagen tăng cao quá mức (chẳng hạn như phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) thì FSH, LH, GnRH do tuyến yên và hạ khâu não tiết ra sẽ bị ức chế ở một mức độ nhất định. Nếu lượng oestrogen và progestagen quá ít (như phụ nữ sau khi đã mãn kinh) thì lượng FSH, LH, GnRH tiết ra sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, trước khi rụng trứng, lượng oestrogen tăng cao sẽ thúc đẩy sự hình thành nên LH/FSH chứ không giữ vai trò ức chế.
Tóm lại, sự điều khiển công năng sinh dục của cơ quan sinh dục phụ nữ là rất phức tạp. Nó làm cho người phụ nữ, dù điều kiện môi trường bên trong và bên ngoài thay đổi, vẫn giữ được chu kỳ buồng trứng và chu kỳ kinh nguyệt. Y học gọi hệ thống điều khiển này là "trục dưới đồi - tuyến yên".
15. Phải thông qua những kiểm tra gì, bác sỹ mới biết được sự phát dục của noãn bào và việc không rụng trứng của người bệnh?
Qua những vấn đề đã giới thiệu ở trên, ta có thể hiểu được buồng trứng và tử cung của người phụ nữ đã trưởng thành thực hiện công năng sinh dục của chúng như thế nào. Nhưng trên thực tế, khi chẩn đoán bệnh, bác sỹ thường dùng những biện pháp nào để tìm hiểu công năng buồng trứng trong cơ thể bệnh nhân? Sau đây là một số phương pháp (nếu hiểu được ý nghĩa của chúng, người bệnh có thể chủ động phối hợp kiểm tra, nâng cao hiệu suất và tính chính xác của việc chẩn trị):
- Đo thân nhiệt cơ sở.
- Kiểm tra, sinh thiết tế bào âm đạo.
- Kiểm tra niêm dịch ở cổ tử cung.
- Kiểm tra hoạt thể trong nội mạc tử cung.
- Kiểm tra siêu âm B khoang xương chậu.
- Đo nồng độ hoóc môn sinh dục trong máu.
- Kiểm tra mức độ LH trong nước tiểu.
16. Thế nào là đo thân nhiệt cơ sở?
Thân nhiệt cơ sở là nhiệt độ đo được bằng nhiệt kế ngậm vào miệng khi ngủ dậy (sau giấc ngủ 6 - 8 giờ) và chưa làm bất cứ động tác gì (kể cả ra khỏi giường, nói chuyện, đại tiểu tiện, hút thuốc, ăn uống).
Phụ nữ bình thường trong độ tuổi sinh đẻ có thân nhiệt cơ sở sau kỳ kinh nguyệt là dưới 36,5 độ C (trong ngày rụng trứng có thể thấp hơn hoặc không). Sau khi rụng trứng, vì progestagen do hoàng thể tiết ra tác động lên trung khu điều tiết nhiệt độ cơ thể trong não, thân nhiệt cơ sở có thể tăng thêm 0,3- 0,5 độ C. Đến kỳ kinh nguyệt của tháng sau, do mức độ progestagen giảm xuống, thân nhiệt cơ sở sẽ giảm. Nếu thể hiện kết quả đo thân nhiệt mỗi ngày trên biểu đồ, ta sẽ được một đường cong. Ở những phụ nữ bình thường trong độ tuổi sinh đẻ, thân nhiệt sẽ thấp trước khi rụng trứng và cao sau khi rụng trứng. Những biểu đồ này được gọi là biểu đồ hai pha. Nếu biểu đồ thân nhiệt cơ sở ít có sự dao động (gọi là biểu đồ một pha), có nghĩa là người bệnh thiếu sự ảnh hưởng của progestagen và hoàng thể, không có hiện tượng rụng trứng.
Ưu điểm của phương pháp đo thân nhiệt cơ sở là đơn giản, không gây tổn thương, giá thành thấp, người bệnh có thể tự thực hiện trong thời gian dài. Nó đã trở thành phương pháp phổ biến nhất để bác sỹ tìm hiểm xem bệnh nhân có rụng trứng hay không. Ngoài ra, đường đồ thị thân nhiệt cơ sở còn có thể hướng dẫn việc chọn ngày sinh hoạt tình dục để trợ giúp cho việc mang thai, giúp chẩn đoán sớm việc có thai.
Do nhiệt độ cao thấp của cơ thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên nếu người bệnh bị cảm, uống rượu, ngủ muộn, mất ngủ... thì phải ghi rõ ràng vào cột ghi chú. Việc âm đạo ra máu, sinh hoạt tình dục, đau bụng dưới, khí hư tăng đột ngột hoặc phải uống thuốc, kiểm tra.... cũng cần được ghi rõ để tham khảo.
Việc đo thân nhiệt cơ sở phải trở thành thói quen. Mỗi tối trước khi đi ngủ, cần vẩy nhiệt kế để giá trị đo nhiệt độ về vị trí thấp, sau đó đặt ở bàn cạnh giường. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, phải lấy nhiệt kế và đặt ngay vào dưới lưỡi, ngậm chặt miệng trong 5 phút thì lấy ra và xem kết quả. Khi đo nhiệt độ, phải chú ý không dùng răng cắn vào nhiệt kế để tránh cắn vỡ nhiệt kế trong lúc ngái ngủ.
17. Thế nào là kiểm tra mảnh tế bào rụng ở âm đạo?
Niêm mạc âm đạo phụ nữ là do nhiều lớp thượng bì dạng vảy tạo thành. Tế bào lớp ngoài của nó tương đối lớn, có dạng vảy cá; tế bào lớp giữa có dạng hình thuyền; tế bào lớp đáy tương đối nhỏ, có hình lập phương hoặc hình tròn. Oestrogen có thể kích thích làm cho thượng bì niêm mạc âm đạo tăng sinh, trở nên dày, tế bào lớp bề mặt tăng cao. Đường glucoza tiết ra tới bên ngoài tế bào, thông qua sự phân giải của các vi khuẩn trong âm đạo mà hình thành nên axit lactic. Nhờ đó, giá trị pH trong âm đạo đạt 4,5. Môi trường mang tính axit này có lợi cho việc ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Progestagen làm cho các tế bào lớp giữa và lớp ngoài sau khi rụng sẽ tập trung và cuộn lại với nhau.
Lợi dụng nguyên lý trên, bác sỹ dùng bông khử trùng để thấm lấy một số chất tiết ra ở đoạn trên âm đạo, bôi ra kính. Sau khi nhuộm và cố định bằng cồn, họ sẽ soi lên kính hiển vi để đếm và so sánh tỷ lệ rụng của tế bào lớp đáy, lớp giữa và lớp trung. Tỷ lệ này có thể phản ánh mức độ oestrogen trong cơ thể, giúp đánh giá mức độ phát dục của noãn bào. Tế bào sừng hóa biểu bì càng nhiều tức là mức độ oestrogen càng cao. Ngược lại, nếu mức độ oestrogen thấp thì tế bào lớp đáy tăng lên.
Hình thái của tế bào rụng âm đạo chịu ảnh hưởng của sinh hoạt tình dục, các loại thuốc bôi và rửa âm đạo, bệnh viêm âm đạo, xuất huyết tử cung. Vì vậy, vào buổi tối trước ngày kiểm tra, nếu có những hiện tượng trên thì phải báo cáo rõ với bác sỹ để thay đổi ngày kiểm tra, nhằm có kết quả chính xác. Việc kiểm tra tế bào âm đạo rụng thường không phản ánh được công năng rụng trứng.
18. Thế nào là cho điểm niêm dịch ở cổ tử cung?
Tử cung của phụ nữ là một cơ quan rỗng hình quả lê ngược, chỗ hơi phình ra ở phần trên gọi là thân tử cung, chỗ hơi nhỏ ở phần dưới gọi là cổ tử cung. Phần trên khoang cổ tử cung nối liền với khoang tử cung, phía dưới có lỗ nối với đoạn trên âm đạo, gọi là ống cổ tử cung. Các tuyến trên lớp niêm mạc của chúng, dưới sự kích thích của oestrogen, có thể tiết ra dịch dính có dạng như lòng trắng trứng.
Trước khi trứng rụng, mức độ oestrogen đạt đến mức cao nhất, lượng dịch tiết ra nhiều, thậm chí có lúc tràn cả ra lỗ cổ tử cung. Trong thành phần của nó có nước, muối vô cơ. Nếu lấy niêm dịch đó phết lên trên tấm kính hong khô, sau đó quan sát dưới kính hiển vi, ta sẽ thấy những kết tinh dạng lá dương xỉ. Những thay đổi này của niêm dịch cổ tử cung sẽ có lợi cho sự di chuyển của tinh trùng sau khi sinh hoạt tình dục.
Sau khi rụng trứng, mức độ progestagen tăng cao, niêm dịch cổ tử cung trở nên ít và đặc, có vai trò là lớp bảo vệ, làm giảm sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài. Lúc này, nếu đem niêm dịch đó phết lên kính, sau khi hong khô rồi quan sát dưới kính hiển vi, ta sẽ thấy nhiều thể nhỏ hình bầu dục, xếp hàng thành dãy.
Y học dựa vào độ đặc, hình dạng khi kết tinh, lượng niêm dịch tiết ra ở cổ tử cung và độ mở của lỗ cổ tử cung để xác lập phương pháp cho điểm theo 4 cấp. Số điểm càng cao thì chứng tỏ mức độ oestrogen trong cơ thể càng cao, noãn bào phát dục càng chín muồi. Nhưng tính chính xác của việc kiểm tra niêm dịch cổ tử cung để xem có rụng trứng hay không thì tương đối thấp.
Kiểm tra niêm dịch cổ tử cung là một biện pháp đơn giản, dễ làm, không gây tổn thương và có kết quả ngay, nhưng nhất thiết phải do bác sĩ tiến hành. Với những người bị viêm cổ tử cung hay đã phải đốt điện, chữa trị bằng laser cổ tử cung, tính chính xác sẽ bị ảnh hưởng.
19. Thế nào là nạo sinh thiết nội mạc tử cung?
Nội mạc tử cung có những thay đổi mang tính chu kỳ. Vì vậy, bác sĩ phải lựa chọn thời cơ thích hợp để đưa một thìa nạo nhỏ vào khoang tử cung, lấy ra một vài mảnh nội mạc tử cung, xử lý chuyên môn rồi quan sát dưới kính hiển vi. Dựa vào đặc trưng hình trạng của nội mạc tử cung, bác sĩ sẽ đoán xem chúng đang trong thời kỳ tăng trưởng hay nội tiết và mức độ ra sao; từ đó mà phán đoán trạng thái phát dục của noãn bào và xem có hiện tượng rụng trứng hay không. Phương pháp này được gọi là nạo sinh thiết nội mạc tử cung.
Vì nạo sinh thiết nội mạc tử cung là một loại tiểu phẫu, có gây đau đớn, nếu làm không tốt sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang chậu nên nhất thiết phải được bác sỹ kiểm tra. Sau khi xác định việc thực hiện là cần thiết và đúng lúc, người bệnh không bị viêm âm đạo hay khoang chậu, việc này mới được tiến hành bởi bác sỹ phụ khoa.
Thường thì sự đau đớn sẽ không quá nặng nề và kéo dài, bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi một lát là hết. Hầu hết bệnh nhân đều không bị ảnh hưởng đến hoạt động và công tác, không bị các chứng bội nhiễm kèm theo, vì vậy không nên quá lo lắng, sợ hãi. Sau khi nạo sinh thiết, bạn có thể sẽ ra một ít máu ra ở âm đạo; hiện tượng này sẽ tự hết trong 1-2 ngày. Điều cần phải chú ý là sau khi nạo sinh thiết nội mạc tử cung, bạn không được sinh hoạt tình dục trong vòng một tuần để tránh nhiễm trùng.
Nạo sinh thiết nội mạc tử cung có giá trị chẩn đoán rất quan trọng, nhưng không được tiến hành liên tục hoặc nhiều lần.
20. Kiểm tra siêu âm khoang chậu để kiểm tra tình trạng phát dục của noãn bào và sự rụng trứng như thế nào?
Trong phương pháp này, bác sĩ sẽ đưa đầu dò của thiết bị chẩn đoán siêu âm vào bụng dưới hoặc là trong âm đạo, để cho đầu dò tiếp xúc trực tiếp với bề mặt tổ chức, quan sát cơ quan sinh dục trong của phụ nữ.
Bên trong đầu dò có một loại tinh thể đặc biệt, nếu có thêm dòng điện giao biến thì nó có thể phóng ra sóng siêu âm cao tần. Do mật độ của các cơ quan, tổ chức không giống nhau, trở kháng thanh do các tổ chức tế bào sinh ra khi gặp sóng siêu âm cũng cũng khác nhau. Khi mức độ chênh lệch trở kháng thanh giữa hai tổ chức đạt tới một mức độ nhất định, sóng siêu âm đi qua sẽ gây nên phản xạ trên bề mặt, thể hiện bằng những điểm sáng có kích thước và độ sáng tối khác nhau. Kiểm tra siêu âm trong y học là lợi dụng nguyên lý nêu trên để quan sát bề mặt nội tạng và các tổ chức bên trong nhằm chẩn đoán vị trí và mức độ, tính chất của bệnh tật.
Trong khi thực hiện siêu âm qua bụng, người bệnh phải uống nước cho đầy bàng quang. Ngược lại, với siêu âm qua âm đạo, bệnh nhân phải tháo rỗng bàng quang trước khi thực hiện.
Siêu âm có thể xác định rõ ràng độ lớn của tử cung, độ dày của nội mạc, độ lớn của buồng trứng, số lượng và đường kính của nang noãn. Liên tục quan sát trong vài ngày trước khi rụng trứng, nếu thấy nang noãn lớn lên dần dần, đường kính đạt khoảng 18 mm thì có thể xem nó đã đạt đến giai đoạn chín. Nếu nang noãn chín đột ngột mất đi hoặc thu nhỏ lại, trong khoang chậu có một lượng nhỏ dịch tích lại, có nghĩa là trứng đã rụng.
Kiểm tra siêu âm khoang chậu cần thiết bị tương đối hiện đại, thao tác của bác sỹ cũng phải được huấn luyện kỹ càng nên chi phí tương đối cao. Tuy nhiên, người bệnh không bị đau và tổn thương, lại có kết quả ngay lập tức. Vì vậy, phương pháp này đã được dùng rộng rãi trên thế giới.