Phần 3

41. Cầm máu như thế nào cho người bị bệnh rong huyết cơ năng còn trẻ, chưa kết hôn và bị thiếu máu nặng?
Trong trường hợp này, người bệnh phải vào bệnh viện và dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ, tuyệt đối không được tự ý sử dụng hoặc ngừng dùng thuốc, nếu không sẽ gây tái rong huyết và việc điều trị sẽ thất bại.
42. Phụ nữ trung niên bị rong huyết cơ năng, thiếu máu ở mức độ nặng, đã nạo tử cung để loại bỏ bệnh lý thuộc khí chất thì có thể dùng thuốc để cầm máu được không?
Câu trả lời là có thể. Bởi vì nạo tử cung chính là một phẫu thuật nên không thể thực hiện thường xuyên được. Đối với những trường hợp này, bác sĩ sẽ cho uống thuốc với liều lượng nhất định để giảm dần lượng máu ra. Trong thời gian này, bệnh nhân cũng phải tích cực điều trị bệnh thiếu máu.
43. Người bị rong huyết cơ năng không rụng trứng, nếu âm đạo ngừng ra máu thì có phải là bệnh đã khỏi không?
Câu trả lời là không. Bởi vì nguyên nhân gây bệnh do không rụng trứng chưa được chữa trị, tháng sau bệnh nhân vẫn bị ra máu bất thường. Do vậy, sau khi máu đã được cầm, bệnh nhân vẫn phải tiếp tục dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ, đo và ghi lại biểu đồ nhiệt độ cơ thể.
Làm thế nào để điều chỉnh kinh nguyệt theo quy luật? Đối với những người chưa kết hôn, thông thường từ ngày thứ 23 của chu kỳ kinh nguyệt, bệnh nhân được tiêm hoàng thể đồng 3 ngày để cho nội mạc tử cung bong và xuất huyết theo định kỳ. Đối với những phụ nữ đã kết hôn mà có nhu cầu tránh thai thì có thể uống thuốc tránh thai trong hai mươi hai ngày, bắt đầu từ ngày thứ 5 của chu kỳ kinh nguyệt, sau khi ngừng thuốc sẽ thấy kinh. Phương pháp trên có thể sử dụng liên tục nhiều lần.
Những người bị bệnh này nhưng muốn sinh con thì có thể uống thuốc thúc đẩy rụng trứng, bắt đầu từ ngày thứ 5 của chu kỳ, mỗi ngày một viên, liên tục trong 5 ngày. Trong thời gian uống thuốc, cần phải đo và ghi chép lại thân nhiệt cơ sở để quan sát xem có xuất hiện dạng biểu đồ hai pha hay không, nhằm phán đoán hiệu quả điều trị. Nhìn chung thuốc, thúc đẩy rụng trứng chỉ có tác dụng trong chính chu kỳ kinh nguyệt đó nên thường phải thực hiện liên tục.
Rong huyết cơ năng có thể bị tái phát sau khi sinh con, hoặc lúc khỏi, lúc bị. Vì vậy, bệnh nhân cần dùng progesterone định kỳ để nội mạc bong ra theo quy luật, khống chế chu kỳ. Điều trị triệt để chứng bệnh này không phải là một việc dễ dàng mà đòi hỏi phải có sự theo dõi dài ngày để khẳng định không bị tái phát nữa. Người bệnh cần phải chuẩn bị tư tưởng để điều trị lâu dài. Bác sĩ có thể giải thích rõ ràng cho người bệnh phương pháp khống chế chu kỳ kinh nguyệt để bản thân người bệnh nắm vững được quy luật sử dụng hoàng thể đồng. Cần đo thân nhiệt cơ sở trong thời gian dài để tìm hiểu xem buồng trứng đã phục hồi hay chưa và hướng dẫn việc dùng thuốc. Điều hơi phiền toái một chút nhưng dần dần sẽ tạo thành thói quen.
44. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ liệu có mắc bệnh rong huyết cơ năng không?
Câu trả lời là có thể nhưng tỷ lệ rất ít, kinh nguyệt được biểu hiện thành 2 dạng:
- Lượng kinh nguyệt ít, chu kỳ và thời gian thấy kinh đều bình thường.
- Xuất huyết giữa chu kỳ, hoặc là giữa chu kỳ có dịch giống như máu tiết ra, kéo dài trong một số ngày không nhất định. Nếu đem đối chiếu thời gian xuất huyết với bảng đo thân nhiệt thì phát hiện thấy sự xuất huyết này có thể sau chu kỳ kinh nguyệt (xuất huyết trước kỳ kinh), trước và sau khi rụng trứng (xuất huyết trong thời gian rụng trứng).
45. Vì sao ở những phụ nữ có chu kỳ rụng trứng đều đặn lại xuất hiện hiện tượng kinh nguyệt nhiều?
Nhiều nhà khoa học dựa vào nồng độ hoóc môn sinh dục trong máu, mật độ huyết quản trong niêm mạc để nghiên cứu và đều phát hiện thấy có những bất thường về prostagladin ở niêm mạc tử cung và cơ năng của hệ thống hòa tan sợi protein quá mạnh.
Prostaglandin là một loại axit béo, nó điều tiết sự co bóp, giãn nở của mạch máu và chức năng làm đông máu của tiểu cầu. Nếu có sự bất thường ở sự tổ hợp tiền liệt tố thì mạch máu dễ bị phình, cơ năng đông máu của tiểu cầu giảm, lượng máu ra sẽ nhiều.
46. Thế nào là phẫu thuật nội soi niêm mạc tử cung?
Kiểm tra soi buồng tử cung là một phương pháp chẩn đoán, trực tiếp quan sát kết cấu bên trong và những biến đổi bệnh lý của buồng tử cung, đầu tiên là để chẩn đoán các bệnh bên trong tử cung như u thịt, dính nội mạc. Trước khi tiến hành việc này, bác sĩ cần phải kiểm tra toàn thân và phụ khoa để xác định xem có thật cần thiết, sau đó hẹn bệnh nhân tới sau ngày sạch kinh hoặc là trước kỳ kinh để tiến hành phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật dài hay ngắn tùy theo tình trạng bệnh tật của mỗi người. Khi phẫu thuật, bụng dưới có thể hơi đau. Trong vòng một tuần sau đó, âm đạo sẽ ra một ít máu nên bệnh nhân cần uống các loại thuốc kháng sinh theo chỉ dẫn của bác sĩ, trong vòng hai tuần sau khi phẫu thuật không được sinh hoạt tình dục.
Phẫu thuật nội soi cắt bỏ nội mạc tử cung phức tạp hơn so với kiểm tra soi buồng tử cung. Trước khi phẫu thuật 1-2 tuần, người bệnh phải uống thuốc để làm co nội mạc tử cung. Dựa vào kết quả kiểm tra soi cổ tử cung và siêu âm, bác sĩ tiến hành phẫu thuật bằng dao điện hoặc tia lazer, cắt bỏ đi từng phần nội mạc tử cung, làm cho nội mạc bị sẹo hóa, mất đi tính phản ứng đối với các loại hoóc môn. Sau khi phẫu thuật, có khoảng 50% người bệnh sẽ tắt kinh. Để phòng ngừa nhiễm trùng, người bệnh phải dùng thuốc kháng sinh trước và sau khi phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật, âm đạo sẽ ra nhiều máu và dịch trong khoảng 1-2 tuần; một số ít người bệnh bị sốt nhẹ, đau bụng dưới trong khoảng 2-3 ngày rồi tự hết.
47. Tại sao lại bị chảy máu trong thời gian rụng trứng? Cần phải điều trị như thế nào?
Sự xuất huyết giữa chu kỳ được phân thành ba loại: kỳ kinh kéo dài, xuất huyết trước kỳ kinh và xuất huyết trong thời gian rụng trứng.
Theo dõi và phân tích 40 trường hợp mắc bệnh này trong khoảng thời gian 1989-1994, người ta nhận thấy có 93% nằm trong độ tuổi 20-39. Khoảng 30% trường hợp xuất huyết do các bệnh về khí chất như viêm khoang chậu ở mức độ nhẹ và vừa (điều trị bằng kháng sinh là khỏi), u thịt khoang tử cung (nạo tử cung thì sẽ hết). Khoảng 70% là xuất huyết do các bệnh về công năng, gồm rụng trứng thưa (thời gian rụng trứng dài hơn 1 tháng) và cơ năng hoàng thể không tốt. Phương pháp điều trị là uống thuốc để hướng việc rụng trứng theo quy luật và tiêm hoàng thể đồng vào bắp nhằm cải thiện cơ năng hoàng thể.
Có nhiều trường hợp rất khó tìm ra nguyên nhân gây rong huyết trong thời gian rụng trứng; người bệnh cần phải kiên trì đo nhiệt độ cơ sở và ghi lại thời gian rong huyết. Bác sỹ dựa vào những tài liệu này để lựa chọn thời gian thích hợp tiến hành siêu âm ổ bụng, kiểm tra mức độ hoóc môn trong máu, kiểm tra hoạt tính của nội mạc, soi buồng tử cung để phân biệt rõ nguyên nhân gây bệnh.
Những phụ nữ đặt vòng tránh thai thường có ky kinh kéo dài, vì vòng tránh thai ở trong tử cung thường gây viêm nội mạc tử cung ở mức độ nhẹ. Không nên tùy tiện tháo vòng ra mà nên dùng các loại thuốc chống viêm theo chỉ định của bác sĩ để kỳ kinh không còn bị kéo dài nữa.
Một số bệnh khác (như lạc nội mạc tử cung, viêm khoang chậu) đều có thể dẫn đến rong huyết trong thời gian rụng trứng. Do vậy trong mọi trường hợp, bệnh nhân phải được bác sĩ khám và chẩn đoán chính xác nhằm điều trị kịp thời, đúng hướng.
48. Vô kinh được phân loại như thế nào?
Nếu không thấy kinh từ 6 tháng trở lên thì được gọi là vô kinh. Vô kinh chỉ là một triệu chứng, nó có thể được chia thành nhiều loại:
- Dựa vào nguyên nhân gây bệnh, có thể phân thành vô kinh sinh lý và vô kinh bệnh lý. Vô kinh sinh lý thường gặp ở những người có thai, trong thời gian cho con bú, trước thời kỳ dậy thì và sau khi mãn kinh; vô kinh bệnh lý thì lại do nhiều loại bệnh tật gây nên.
- Theo tuổi phát bệnh, có thể phân thành vô kinh nguyên phát và vô kinh thứ phát. Người bị vô kinh nguyên phát là do bệnh tật bẩm sinh hoặc các bệnh tật từ tuổi nhi đồng gây ra, dẫn đến hoàn toàn không có kinh tự nhiên. Vô kinh thứ phát là thời kỳ đầu có thấy kinh nhưng sau đó do bệnh tật nên không thấy kinh lại nữa.
- Theo bộ phận bị bệnh, có thể phân thành vô kinh tử cung, vô kinh buồng trứng, vô kinh tuyến yên, vô kinh vùng dưới đồi.
Ngoài ra, sự khuyết hình của đường sinh dục như tắc âm đạo, màng trinh quá dày sẽ cản trở đến sự lưu thông của máu từ khoang tử cung ra ngoài, gây nên tích máu cục bộ và vô kinh giả. Cần đến bệnh viện kiểm tra ngay khi có triệu chứng đau bụng dưới theo chu kỳ, bụng dưới và âm đạo nổi u, sa hậu môn, táo bón, đi tiểu nhiều nhưng khó khăn.
49. Nguyên nhân nào dẫn đến vô kinh do tử cung? Điều trị như thế nào?
Kinh nguyệt là sự xuất huyết do nội mạc tử cung bong có chu kỳ gây nên. Các bệnh về nội mạc tử cung hay viêm có thể làm cho toàn bộ nội mạc tử cung bị sẹo hóa hoặc là bị dính, tử cung phát triển không hoàn chỉnh, hoặc có thể do không có phản ứng gì trước hoóc môn buồng trứng mà dẫn đến vô kinh.
Làm thế nào để có thể xác định được người bệnh bị vô kinh do tử cung? Bác sĩ cần phải làm một số thí nghiệm về cơ năng như tiêm progestagen để thử phản ứng, đo thân nhiệt cơ sở, sinh thiết tế bào âm đạo.
Nội mạc tử cung một khi đã bị sẹo hóa thì khó có thể trở lại cơ năng như bình thường, hiện nay vẫn chưa có phương pháp điều trị cấy ghép nội mạc tử cung. Do vậy, khả năng hồi phục kinh nguyệt của người bệnh bị vô kinh do tử cung là rất khó.
Người bị bệnh vô kinh do tử cung khó có thể có con được nữa, bởi vì "mảnh đất" để trứng đã thụ tinh phát triển đã bị phá hoại, trừ phi mượn tử cung của người khác để nuôi dưỡng thai nhi.
50. Thế nào là chứng không có âm đạo và tử cung? Có thể chữa trị được không?
Dân gian thường gọi bệnh này là "thạch nữ". Những phụ nữ này bẩm sinh không có âm đạo và tử cung, nhưng công năng của buồng trứng thì vẫn bình thường, bầu vú và cơ quan sinh dục ngoài cũng phát triển bình thường, nhưng tới thời kỳ dậy thì lại không thấy kinh, thậm chí khi lấy chồng cũng không thể sinh hoạt vợ chồng được, sau khi tới bệnh viện kiểm tra mới phát hiện ra bệnh. Có hiện tượng này là do trong thời kỳ phôi thai, hai bên ống dẫn trung thận phụ phát triển không hoàn chỉnh vì một nguyên nhân nào đó. Những bệnh nhân này có thể có những khuyết tật ở thận và ống dẫn niệu.
Liệu có thể tái tạo âm đạo được không? Câu trả lời là có thể. Bác sĩ có thể phẫu thuật để tạo hình cho âm đạo. Sau khi phẫu thuật 2-3 tháng, bác sĩ kiểm tra, nếu vết sẹo ở âm đạo đã lành miệng thì có thể sinh hoạt vợ chồng được. Theo phản ánh của các bệnh nhân thì họ có đời sống tình dục hoàn toàn bình thường, nhưng việc sinh con thì không thể.
51. Những nguyên nhân nào dẫn đến vô kinh buồng trứng, điều trị như thế nào?
Chứng bệnh tổng hợp Turner, bệnh tuyến sinh dục phát triển không hoàn chỉnh đơn thuần có thể gây nên vô kinh nguyên phát và nhi hóa giới tính; những bệnh này đều thuộc phạm vi vô kinh do buồng trứng. Ngoài ra, sau khi buồng trứng bị cắt hoặc chiếu xạ, hóa liệu hay viêm buồng trứng nặng (5% số người sau khi bị quai bị sẽ bị viêm buồng trứng) thì có thể các tổ chức của buồng trứng sẽ bị phá hoại dẫn đến mất đi công năng bình thường.
Một chứng bệnh khác cũng gây vô kinh buồng trứng là suy buồng trứng sớm (hoặc mãn kinh trước 40). Người bệnh có những triệu chứng giống như mãn kinh bình thường, cơ quan sinh dục và đặc trưng giới tính sẽ teo dần. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này cho đến nay vẫn chưa rõ ràng. Có khả năng là do tế bào noãn mẫu của buồng trứng ở giai đoạn thai nhi quá ít; hoặc là từ thời kỳ thai nhi cho đến khi ra đời, noãn bào thoái hóa quá nhanh nên bị hao kiệt quá sớm. Khoảng 9 - 40% số người bị suy buồng trứng sớm có cơ năng miễn dịch cơ thể bình thường, từ đó làm gia tăng tốc độ thoái hóa của noãn bào.
Điều trị vô kinh buồng trứng là một vấn đề rất gai góc. Nếu thực sự tế bào noãn mẫu trong buồng trứng đã hết thì không có cách gì làm cho nó tái sinh đưọc nữa. Nhưng cũng có những trường hợp công năng buồng trứng của người bệnh chỉ suy giảm tạm thời, sau một thời gian sẽ tự hồi phục được. Tiếc rằng cho đến nay, vẫn chưa có phương pháp đáng tin cậy nào để xác định được những người bệnh nào có thể hồi phục được, những người nào không. Có nhiều bác sĩ thông qua soi ổ bụng để quan sát trạng thái của buồng trứng, nhưng đây cũng không phải là phương pháp đang tin cậy. Do vậy, nếu muốn sinh con thì e rằng những người này phải được sự trợ giúp của y học. Với những người không có nhu cầu sinh con thì phải dùng oestrogen và progestagen để tạo kinh nguyệt nhân tạo, nhằm phòng ngừa việc bộ phận sinh dục bị teo quá sớm và các bệnh khác có tính thoái hóa liên quan tới kinh nguyệt.
52. Vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi được phân loại như thế nào?
Những người bệnh nêu thử nghiệm progestagen có kết quả dương tính thì được coi là "vô kinh độ một", thử nghiệm progestagen có kết quả âm tính và thử nghiệm oestrogen có kết quả dương tính thì được coi là "vô kinh độ hai". Mức độ oestrogen trong cơ thể của người bị vô kinh độ một không thấp, tức là noãn bào có một mức độ phát triển nhất định, nội mạc tử cung đã chịu ảnh hưởng của oestrogen một cách đầy đủ. Ở người bị vô kinh độ hai, mức độ phát dục của noãn bào kém, hàm lượng oestrogen thấp, nội mạc tử cung thiếu sự tác động của oestrogen.
Nguyên nhân gây vô kinh ở các trường hợp trên đều có thể do tuyến yên vùng dưới đồi (tức là LH, FSH do tuyến yên tiết ra và GnRH vùng dưới đồi tiết ra) có sự bất bình thường. Những trường hợp này còn được phân thành hai loại, gồm những người có mức độ PRL (Prolactin) quá cao và người có mức độ PRL bình thường. Thông thường, đối tượng bị vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi là những người ở trường hợp thứ hai.
53. Vô kinh tuyến yên vùng dưới đồi được phân loại như thế nào?
PRL là một loại hoóc môn do tuyến yên tiết ra, chức năng chủ yếu là tham gia vào quá trình phát dục của bầu vú và sự tạo thành sữa. Trong điều kiện bình thường, vùng dưới đồi sẽ sinh ra một loại vật chất có thể ức chế được sự tiết ra của PRL, làm cho nồng độ PRL trong máu không lên cao quá. Khi có một nguyên nhân nào đó khiến cho ảnh hưởng của loại vật chất này đối với PRL bị giảm sút (ví dụ như u tuyến yên) thì tuyến yên sẽ tiết ra quá nhiều PRL, có thể dẫn đến chứng bệnh PRL trong máu quá cao. Khi PRL trong máu quá cao thì sự phát dục của noãn bào sẽ bị ức chế dẫn đến vô kinh và cũng có lúc biểu hiện thành rối loạn kinh nguyệt.
Ngoài những biểu hiện trên, người bệnh có khi còn tiết ra sữa ở đầu vú. Có những phụ nữ cho con bú, sau khi cai sữa cho con được nửa năm mà vẫn có sữa. Nếu hiện tượng này là do u tuyến yên gây ra và thể tích khối u lại tương đối lớn thì ở bệnh nhân còn có thể xuất hiện các hiện tượng thị lực giảm, đau đầu.
Nghe nói đến u, ta lập tức có cảm giác sợ hãi, nhưng thực ra u tuyến yên là một loại u lành tính, đa số các khối u đều nhỏ, tốc độ phát triển của nó rất chậm hoặc không hề phát triển. Vào những năm 70, các bác sĩ đều mổ qua hốc mũi để cắt bỏ khối u; sau khi phẫu thuật có thể xạ trị để trị tận gốc. Nhưng sau này, người ta mới phát hiện ra rằng đa số các bệnh nhân sau khi được phẫu thuật vẫn mắc chứng PRL trong máu cao và bế kinh, tiết sữa. Không chỉ như vậy, phẫu thuật và chiếu xạ còn có thể làm tổn thương đến các tổ chức tuyến yên bình thường, dẫn đến những triệu chứng khác. Xu hướng điều trị hiện nay là dùng thuốc Bromocriptin (Parlodel) không phẫu thuật.
54. Bromocriptin có tác dụng điều trị như thế nào? Hiệu quả và tác dụng phụ của nó ra sao?
Bromocriptin có thể ức chế việc tiết ra PRL của tuyến yên và ức chế sự phát triển của các tế bào u PRL tuyến yên, làm cho nó thoái hóa. Sau khi dùng thuốc, nồng độ PRL có thể giảm xuống đến mức bình thường; bằng kiểm tra đo cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp, có thể thấy thể tích khối u đã thu nhỏ. Người bệnh cảm thấy huyết trắng tăng nhiều, có kinh, cần đo thân nhiệt cơ sở biểu thị hai pha. Những biểu hiện hiệu quả trên có thể sẽ xuất hiện sau khi dùng thuốc một tháng và cũng có thể chậm hơn.
Cho tới nay, Bromocriptin vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá thành tương đối đắt nhưng do có hiệu quả đặc biệt đối với chứng bệnh này nên nó vẫn được dùng. Liều dùng thông thường là ngày 2-3 lần, mỗi lần một viên. Thuốc này có thể kích thích dạ dày và đường ruột khiến một số ít người có cảm giác buồn nôn, chóng mặt, táo bón, tim đập loạn nhịp và huyết áp giảm trong thời kỳ đầu uống thuốc, nhưng sau đó bệnh nhân sẽ thích ứng dần. Thông thường chỉ có khoảng 3% số người bệnh là không chịu được các phản ứng phụ này và phải ngưng dùng thuốc. Đây là thuốc có hiệu quả cao nhất trong số các loại thuốc điều trị chứng vô sinh do vô kinh không rụng trứng. Một khi đã khẳng định là có thai thì phải ngừng dùng thuốc ngay và kiểm tra định kỳ theo yêu cầu của bác sĩ.
Sau khi dùng Bromocriptin mà có thai thì thai nhi có bị ảnh hưởng không? Câu trả lời là không. Không những tỷ lệ sẩy thaisẩy thai thai nhi dị dạng không hề cao hơn so với bình thường mà sau khi đứa trẻ ra đời thì trí tuệ và thể lực của chúng cũng không có gì là khác thường.
55. Người bị vô kinh do chứng PRL cao trong máu sau khi mang thai và sinh đẻ có uống thuốc Bromocriptin được không? Nếu có thì uống đến lúc nào?
Những người mắc chứng vô kinh do chứng PRL cao trong máu sau khi đẻ, trong vòng nửa năm sau khi đứa trẻ cai sữa thì phải đến bệnh viện để khám và kiểm tra. Nếu PRL trong máu vẫn cao và vẫn vô kinh thì lại phải tiếp tục dùng thuốc Bromocriptin để thấy kinh trở lại. Lúc này, bệnh nhân cần phải áp dụng các biện pháp tránh thai (nên tránh thai bằng công cụ vì thuốc tránh thai cũng làm tăng mức PRL trong máu, không nên dùng) để tránh tiếp tục mang thai.
Các bác sĩ đã tiến hành theo dõi trên những người mắc bệnh này trong thời gian 5-6 năm và thấy rằng: Trong những người có u PRL thì 7%-11% là tự khỏi, 4%-11% có thể tích khối u tăng lên. Do vậy, cứ nửa năm hoặc một năm, bệnh nhân phải đi khám một lần, nếu thể tích khối u tăng lên thì phải kịp thời dùng thuốc điều trị. Nếu để vô kinh lâu ngày thì lượng xương trong cơ thể người phụ nữ sẽ bị mất đi một cách nhanh chóng và gây nên chứng loãng xương. Việc uống thuốc vẫn phải tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ, phải kiểm tra mức PRL trong máu thường xuyên; nếu nó trở lại bình thường và bệnh nhân đã có kinh trở lại thì có thể giảm bớt lượng thuốc Bromocriptin và duy trì ở mức thấp, thậm chí có thể tạm ngừng thuốc để theo dõi. Điều này giúp thu được hiệu quả điều trị và tiết kiệm được nhiều trong việc dùng thuốc. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, có một số người bệnh mỗi ngày chỉ dùng nửa viên thuốc là đủ để duy trì kinh nguyệt bình thường.
Thực ra thì cần phải dùng thuốc trong bao lâu? Điều này được quyết định bởi tình trạng phát triển của bệnh tật ở mỗi người. Bromocriptin làm cho u PRL thoái hóa, nếu sau một thời gian khá dài mà không tái phát thì có thể ngừng sử dụng thuốc. Nhưng đa số người bệnh sau khi ngừng dùng thuốc lại bị vô kinh và chỉ có thể duy trì kinh nguyệt bình thường bằng một lượng nhỏ Bromocriptin.
56. Vô kinh tuyến yên còn do những nguyên nhân nào khác gây nên?
Trong chứng vô kinh do tuyến yên còn có một loại mà mức độ PRL thực ra không cao. Nguyên nhân gây ra bệnh này thường là tuyến yên bị phóng xạ, phẫu thuật, ung thư, thiếu máu dẫn đến các tổ chức tuyến yên bị phá hoại và cơ năng của nó bị giảm; hoặc những khiếm khuyết di truyền dẫn đến thiếu LH, FSH ở tuyến yên.
Một số phụ nữ khi sinh con bị mất nhiều máu và sau đó không có sữa và bị vô kinh. Nếu tuyến yên vẫn điều tiết được cơ năng của các tuyến khác như tuyến giáp trạng, màng tuyến thượng thận thì những người bệnh này vẫn còn các triệu chứng khác như phù, sợ lạnh, rụng lông tóc, mệt mỏi, huyết áp thấp, bí đại tiện, thèm ngủ. Triệu chứng này nặng hay nhẹ được quyết định bởi độ rộng thể tích vùng tổ chức tuyến yên bị phá hoại. Từ đó có thể thấy việc phòng chứng rong huyết ở phụ nữ khi sinh đẻ là một việc làm rất cần thiết.
Ngoài khối u PRL ra, u tuyến yên còn gồm nhiều loại u khác nhau như u tế bào vô cơ năng, u hoóc môn sinh trưởng, u hoóc môn tuyến thượng thận. Những khối u này cũng có thể chèn lên và phá hoại tổ chức tuyến yên. Việc hoóc môn tiết ra quá nhiều cũng ảnh hưởng đến LH và FSH, từ đó gây vô kinh.
57. Điều trị vô kinh tuyến yên như thế nào?
Trong những năm 60, các nhà nghiên cứu đã chiết xuất được một loại thuốc tiêm có chứa LH và FSH từ nước tiểu của các phụ nữ đã mãn kinh và đang có mang. Đây chính là loại thuốc tiêm nhằm kích thích hoóc môn tuyến sinh dục (gọi tắt là hMG) và hoóc môn kích thích màng nhung mao (gọi tắt là hCG) cho những phụ nữ đã mãn kinh. Sau khi được tiêm vào bắp thịt cho người bệnh, hMG có tác dụng thay thế cho tuyến yên trong cơ thể, kích thích sự phát dục của noãn bào trong buồng trứng. Sau khi noãn bào phát dục chín, nó kích thích rụng trứng và hỗ trợ cho cơ năng của hoàng thể. Khoảng 24 giờ sau khi tiêm hCG, bạn nên tranh thủ sinh hoạt tình dục 2-3 lần. Như vậy, hMG và hCG có thể giúp người bị vô kinh tuyến yên sinh con. Đây chính là phương pháp điều trị thay thế hoóc môn.
Việc sử dụng hMG và hCG để điều trị kích thích sinh sản chỉ có hiệu quả đối với chính liệu trình đó. Khả năng có thai của mỗi một liệu trình chỉ khoảng 20%. Vì sao lại thấp như vậy? Đó là vì hiệu suất sinh sản của con người chỉ là 20%; nói một cách khác, đối với những cặp vợ chồng bình thường có sinh hoạt tình dục bình thường, trong mỗi một chu kỳ kinh nguyệt, khả năng có thai chỉ là 20%. Do vậy, hiệu suất mang thai của phương pháp điều trị này không thể vượt qua được hiệu suất bình thường. Mặc dù như vậy, nếu điều trị nhiều liệu trình, tỷ lệ có thai tích lũy lại có thể đạt tới 50%. Thuốc này không có hại đối với thai nhi, tỷ lệ thai khuyết hình rất thấp nhưng tỷ lệ sẩy thai và đa thai thì lại vào khoảng 20%, hơi cao so với mức bình thường.
58. Vô kinh vùng dưới đồi do những nguyên nhân nào gây nên? Điều trị như thế nào?
Việc thiếu GnRH hoặc nội tiết bất thường có thể gây nên vô kinh vùng dưới đồi. Phàm tất cả các chứng vô kinh do các bệnh tật ở trong não trên tuyến yên gây ra đều thuộc loại này. Nguyên nhân gây bệnh của chúng có thể được chia thành hai loại:
1. Bệnh do khí chất của vùng dưới đồi: Ví dụ như vô kinh sau khi bị khối u, viêm não, kết hạch hoặc não bị ngoại thương, thiếu GnRH bẩm sinh. Chúng tương tự như các chứng bệnh do vô kinh nguyên phát gây ra.
2. Mất thăng bằng cơ năng vùng dưới đồi: Thường gặp ở các trường hợp tinh thần không ổn định, chế độ dinh dưỡng không tốt khiến thể trọng quá thấp, vận động quá sức, chán ăn do thần kinh và các chứng bệnh nặng khác trên cơ thể. Vô kinh vùng dưới đồi do mất thăng bằng cơ năng là hiện tượng thường gặp nhất.
Năm 1994, qua phân tích mẫu máu ở 169 người bị vô kinh do mức độ LH và FSH trong máu thấp hơn bình thường, Hiệp hội Y học Bắc Kinh nhận thấy, các trường hợp mắc bệnh do cơ năng chiếm 87%. Ví dụ: Một số phụ nữ sau khi có sự thay đổi về môi trường sống hoặc bị kích thích thần kinh (như thất tình, trượt thi, cha mẹ qua đời, công việc không thuận lợi), hoặc bị những kích thích thể chất (như mắc bệnh nặng, phẫu thuật, ngoại thương) đã bị mất kinh. Người bị nhẹ sẽ tự hồi phục được kinh nguyệt sau một thời gian, nếu nặng thì bệnh trình sẽ kéo dài.
Những người mắc bệnh này khi đến bệnh viện khám cần phải nhớ rõ xem trước khi vô kinh, những yếu tố có khả năng dẫn đến bệnh tật có tồn tại hay không; hoặc thể trọng và mức ăn uống có gì thay đổi không. Bác sĩ cũng cần kiểm tra, xét nghiệm máu để xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh.
Việc điều trị vô kinh vùng dưới đồi phải căn cứ vào nguyên nhân để có các phương pháp khác nhau. Nếu bệnh trình tương đối dài, không thể tự khôi phục được thì cần dùng progestage và oestrogen để kinh nguyệt trở lại bình thường. Nếu muốn sinh con thì người bệnh nặng có thể dùng hMG + hCG để kích thích rụng trứng. Ngoài ra, còn có thể dùng phương pháp điều trị liệu mạch xung GnRH.
59. Thế nào là trị liệu mạch xung GnRH?
Ở những phụ nữ bình thường, việc tiết ra GnRH vùng dưới đồi có dạng mạch xung. Trong thời kỳ đầu của noãn bào, cứ 90-120 phút lại có một lần tiết ra kiểm mạch xung. Chỉ bằng cách kích thích gián đoạn như vậy, tuyến yên mới tiết ra một lượng vừa đủ LH và FSH để kích thích noãn bào trong buồng trứng phát dục. Nếu duy trì lâu dài việc tiết ra GnRH, việc tiết ra LH và FSH của tuyến yên sẽ bị ức chế, dẫn đến vô kinh. Để điều trị, phải khôi phục lại mạch xung GnRH như bình thường, tức là trị liệu mạch xung GnRH.
GnRH là một hợp chất gồm 10 loại axit amin, đã được các nhà khoa học tổng hợp thành công dưới dạng thuốc tiêm. Việc dùng GnRH để thúc đẩy noãn bào phát triển và rụng trứng cần phải phỏng theo nhịp điệu và quy luật sinh lý. Cứ 90-120 phút lại tiêm một lần, liên tục trong 24 giờ và phải kéo dài trong hai tuần thì noãn bào mới phát triển đến giai đoạn chín. Sau khi dùng thuốc một tuần thì phải kiểm tra dịch dính ở cổ tử cung, siêu âm khoang chậu và mức độ hoóc môn trong máu để xác định tình trạng phát triển của nang noãn. Sau khi siêu âm, nếu thấy trứng đã rụng thì có thể ngừng điều trị mạch xung và chuyển sang tiêm hCG, mỗi tuần 2 lần, tổng cộng 3-4 lần để duy trì cơ năng hoàng thể. Nếu rụng trứng được 18-20 ngày mà nhiệt độ cơ sở vẫn chưa giảm thì phải kiểm tra hCG trong máu để xem có thai hay không.
Tỷ lệ có thai sau mỗi một liệu trình điều trị mạch xung hCG là khoảng 20%, nhưng sau khi điều trị nhiều liệu trình thì tỷ lệ có thai có thể lên tới 50%. Ưu điểm của phương pháp điều trị này là an toàn, thường không có phản ứng gì. Nhược điểm của nó là tương đối phức tạp, gây bất tiện trong sinh hoạt. Ngoài ra, đối với những người bệnh bị bế kinh vùng dưới đồi thì liệu trình có thể là rất dài, do vậy giá thành tương đối cao.
60. Thế nào là thử nghiệm hưng phấn GnRH?
Trước khi trị liệu mạch xung GnRH, để dự tính độ mẫn cảm của tuyến yên đối với GnRH ở người bệnh, bác sĩ thường phải tiến hành thử nghiệm hưng phấn GnRH. Cách làm cụ thể là: Buổi sáng ngày hẹn đến thử thuốc, bệnh nhân không ăn gì. Bác sĩ sẽ lấy máu ở tĩnh mạch cánh tay, rồi tiêm 100mg GnRH. Sau khi tiêm thuốc 15, 30, 45, 60, 120 phút, bác sĩ lại lấy máu một lần để xét nghiệm nồng độ LH và FSH.
Sau khi tiêm GnRH, nếu nồng độ LH sẽ tăng gấp đôi, nồng độ FSH tăng gấp 1,5 lần so với trước khi tiêm thì đó là phản ứng bình thường. Nếu nồng độ LH và FSH không tăng, tức không có phản ứng, là bệnh tình đã tương đối nặng, nếu trị liệu bằng mạch xung GnRH thì liệu trình sẽ rất dài.
140 vấn đề liên quan đến kinh nguyệt phụ nữ
60. Phụ nữ sau khi uống thuốc tránh thai hay làm phẫu thuật triệt sản có bị vô kinh không?
Câu trả lời là có thể, nhưng không phải là thường gặp. Người ta đã thống kê được rằng trong hai vạn phụ nữ uống thuốc tránh thai thì có khoảng 0,22% bị vô kinh hoặc kinh nguyệt không đều trước khi uống thuốc tránh thai. Ở những người này, khả năng bị vô kinh sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai sẽ cao. Do vậy, vô kinh có thể có là hậu quả của một bất thường nào đó tiềm ẩn trước khi dùng thuốc tránh thai; cũng có thể những bất thường đó do bản thân thuốc tránh thai gây nên. Vô kinh dạng này cũng thuộc loại vô kinh do vùng dưới đồi. Đa số các trường hợp sẽ tự hồi phục.
Một số ít phụ nữ sau khi ngừng dùng thuốc tránh thai không chỉ bị vô kinh ra mà còn xuất hiện hiện tượng tiết sữa. Hóa nghiệm thấy rõ mức độ PRL trong máu tăng nhẹ. Tình trạng này cũng tương tự như vô kinh đơn thuần, có thể liên quan đến những bất thường tiềm ẩn từ trước khi uống thuốc tránh thai, cũng có thể là những bất thường do bản thân thuốc tránh thai gây ra, Thông thường, bệnh nhân có thể tự hồi phục, nhưng cũng cần kiểm tra cẩn thận để loại trừ khả năng có u PRL trong tuyến yên.
Sau phẫu thuật triệt sản thông thường, bệnh nhân không bị vô kinh bởi vì loại phẫu thuật này chỉ là thắt ống dẫn trứng, không ảnh hưởng gì đến việc cung cấp máu cho buồng trứng. Thỉnh thoảng cũng có phụ nữ bị vô kinh sau khi phẫu thuật triệt sản. Muốn biết việc này có liên quan gì đến phẫu thuật không thì phải kiểm tra nồng độ hoóc môn trong máu, xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh.