Phần 89

Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú
Ung thư vú là bệnh thường xảy ra ở phụ nữ tại các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, phụ nữ bị ung thư vú chiếm tỷ lệ gần 0,17 phần ngàn. Trong đó nguyên nhân tiền sử gia đình có người "mắc bệnh" được xem là chủ yếu. Những chị em có họ hàng ruột thịt ở thế hệ 1 (mẹ, con, chị, em) với bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thì có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn.
Ở phụ nữ chưa một lần sinh nở, mà sinh nở càng nhiều thì nguy cơ càng thấp. Phụ nữ đã "bị" cắt bỏ buồng trứng, nhất là bị cắt trước tuổi 35 thì thấy nguy cơ cũng thấp hơn. Phụ nữ sống độc thân có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao gấp 2 lần so với phụ nữ có chồng, các nữ tu sĩ mắc bệnh ung thư vú có tỷ lệ khá cao, chị em đẻ mắn ít có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hơn so với chị em không "chịu" đẻ.
Ngoài ra, việc uống rượu của chị em (dĩ nhiên là ở chị em thường xuyên tiếp xúc với rượu...) cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo nguy cơ ung thư vú.
Nhìn chung, bệnh ung thư vú là loại ung thư ổ nông dễ tiếp cận chẩn đoán và nhất là chị em có thể tự khám ngực tìm những khối bất thường phát hiện sớm. Thường thì bệnh nhân tự đến cơ sở y tế xin được bác sĩ khám sau khi tự mình phát hiện khối u ở vú.
Biểu hiện lâm sàng của ung thư vú
Bệnh ung thư vú với biểu hiện là:
- Da trên u vú bị dính, núm vú tụt vào hay bị co kéo, có da đỏ, sẫm da cam, hoặc kích thước u vú, mật độ, độ di động, bị tiết dịch ở đầu vú (dịch có thể có màu trắng, đỏ hoặc vàng).
- Tại vùng nách, thường đòn cùng bên khối u có thể có hạch vùng và có khả năng lan tràn sang qua bên vú đối diện.
Chẩn đoán bệnh ung thư vú
Sau khi đã phát hiện dấu hiệu ban đầu trên lâm sàng như đã nói trên, khi đến cơ sở y tế chuyên khoa ung bướu, các bác sĩ sẽ cho chụp X quang tuyến vú. Để đánh giá và tiên lượng tình trạng diễn tiến của bệnh trước khi tiến hành điều trị, nhất thiết phải thực hiện thủ thuật làm mô bệnh học (histo pathology) giúp cho việc chẩn đoán xác định và phân loại (type) mô học, chọc hút tế bào cho phép chẩn đoán chính xác ung thư đến 95%.
Phương pháp điều trị ung thư vú
Phương pháp điều trị thông thường bệnh ung thư vú hiện nay ở Việt Nam là giải phẫu, chạy tia xạ, đến khi hạch nách cùng bên đã bị xâm lấn có thể tiến hành điều trị bằng hoá chất.
Hiện nay, người ta cũng đang được áp dụng phương cách tăng cường miễn dịch hỗ trợ trong điều trị ung thư nói chung, ung thư vú nói riêng như dùng tảo Spirulina, Phylamin, HTCK.
Tuy là loại ung thư có tính lan tràn toàn thân nhưng thực tế nếu phát hiện u (tumor) ở giai đoạn đầu, rồi được tiến hành chữa trị kịp thời, thì tỷ lệ sống còn sau 5 năm khá cao.
Cần phát hiện ung thư vú bằng cách tổ chức khám theo chương trình cho hàng loạt phụ nữ ở lứa tuổi có nguy cơ cao, nhất là hướng dẫn cách để chị em tự khám (self-examination) để phát hiện khối u ở vú đang còn nhỏ.
(còn tiếp)