Chương 1 - 4
Làng xóm, điền đất và người dân thời đàng cựu

Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để áp dụng có  lợi cho việc thực dân. Những tài liệu sau đây phần lớn rút từ “Những bài giảng về cách cai trị thời đàng cựu” do viên tham biện nhiều kinh nghiệm là J.B. Eliacin Luro đem dạy tại  trường Hậu Bổ Sài Gòn vào năm 1875. Luro từng là sĩ quan tham gia đánh chiếm và bình  định xứ Nam kỳ. Thời ấy, tài liệu tuy bị mất mát nhưng còn khá nhiều, vài viên chức thời  đàng cựu đã giúp Luro biên soạn, đặc biệt là ông Trần Nguơn Vị (bát phẩm cựu trào, tục danh ông Hạp) làm việc cho Pháp thăng lần đến Đốc phủ sứ. Theo quy chế đàng cựu (thời  Tự Đức) ở mỗi tỉnh có năm phòng: phòng Lại, phòng Hộ, phòng Lễ... Ông Hạp là viên chức  đứng đầu một phòng, tương đương với chức vụ trưởng ty ngày nay. Mỗi công văn đều lần  lượt do thơ lại thảo ra, trình cho ông Hạp, ông Hạp trình cho viên kinh lịch hoặc thông phán xem kỹ trước khi trình lên quan Tổng đốc. Ông Hạp Trần Nguơn Vị là người vùng Lấp Vò  (Long Xuyên) nên trưng ra nhiều tài liệu về vùng này.
Về địa bộ năm Minh Mạng thứ mười bảy
Như đã nói, ở Nam kỳ đây là lần duy nhất triều đình tổ chức việc đo đạc do Trương  Đăng Quế cầm đầu, cùng với một số viên chức chuyên môn từ kinh đô vào. Nên phân biệt  địa bộ và điền bộ:
— Địa bộ ghi rõ từng khoảnh đất: diện tích, loại đất, ranh giới tứ cận, tên người chủ.
— Điền bộ, gọi nôm na là bộ điền, chỉ ghi tên người chủ đất, diện tích, loại đất, đặc biệt  là số thuế phải đóng.
Địa bộ nặng về chi tiết liên quan đến tên họ chủ đất, ranh giới, diện tích mà không ghi số thuế hàng năm trong khi điền bộ chỉ chú trọng vào thuế má: thuế ấy ai phải trả?
Năm Minh Mạng thứ 17, mỗi làng phải lập một địa bộ gồm 3 bổn giống nhau.
— Bổn Giáp, gởi về Hộ Bộ ở Kinh đô.
— Bổn ất, giữ tại tỉnh, nơi văn phòng quan Bố chánh.
— Bổn Bính, giữ tại làng.
Từ đó về sau, mỗi khi mua bán đất, nhà nước lấy địa bộ Minh Mạng này ra điều chỉnh.
Xin đơn cử làm thí dụ bổn địa bộ Minh Mạng của thôn Tân Bình, thuộc Tân Phú tổng,  Đông Xuyên huyện, Tân Thành phủ, tức vùng Lấp Vò, thuộc tỉnh An Giang.
Hương chức gồm Thôn trưởng, Hương thân, Hương hào đứng tên lập ra, có Cai tổng và Phó tổng “Thừa nhận thiệt”.
Sau đó là viên Tri huyện “Thừa duyệt thiệt”.
Các viên chức của tỉnh (tỉnh phái) cũng ký vào, theo thứ tự:
— Thơ lại của án sát sứ ty “Thừa cứu”
— Thông phán của Bố chánh sứ ty “Thừa tỷ”
— Quan Bố chánh và quan án sát của tỉnh An Giang “Thừa hạch thiệt”
Các viên chức từ Kinh đô đến (Kinh phái) ký vào theo thứ tự:
— Thơ lại của Tào chánh ty, thuộc Bộ Công “Thừa Cứu”
— Viên ngoại lang của Bộ Lễ “Thừa tỷ”
— Chủ sự của Bộ Binh “Thừa phúc cứu”
Tổng cộng các hạng điền thổ trong làng Tân Bình là 208 mẫu.
Trong số này, ruộng canh tác gồm 88 mẫu: 19 mẫu thảo điền và 69 mẫu sơn điền.
Đất ruộng đổi thành vườn cau, có gia cư: 11 mẫu.
Đất ruộng đổi thành vườn chuối, tre, có gia cư: 13 mẫu.
Đất trồng dâu và trồng mía: 10 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay trồng đậu, khoai: 17 mẫu.
Đất trồng tre: 30 mẫu.
Đất trồng lá dừa nước: 30 mẫu.
Đất trước kia trồng dâu, nay đổi thành đất lập chợ phố: 5 mẫu.
Ngoài ra còn đất gò quá cao, đất làm nghĩa địa, đất bỏ hoang không đo đạc diện tích.
Về sự phân khoảnh đất ruộng, 19 mẫu thảo điền đã kê khai chia làm ba sở: 5 mẫu, 8 mẫu, 6 mẫu.
Về sơn điền, chia ra 4 sở: 18, 17, 12 và 20 mẫu.
Địa bộ của làng chỉ có tên họ năm bảy ông điền chủ mà thôi.
Khu đất dành để cất chợ là 5 mẫu, do hai người đứng tên làm chủ. Cuối bổn địa bộ, hương chức làng cam kết không khai thêm bớt, nếu sai lạc hoặc còn đất ẩn lậu mà không  khai thì chịu tội.
Về điền bộ, (tức là bộ ghi thuế điền) trước sau chỉ lập ra có bốn lần từ hồi nhà Nguyễn  tới khi thực dân Pháp đến, gọi là Đại Tu Điền Bộ, làm chuẩn để thêm bớt vào những năm  sau.
Bốn lần ấy là:
— Năm Thiệu Trị thứ ba.
— Năm Tự Đức nguyên niên.
— Năm Tự Đức thứ 11.
— Năm Tự Đức thứ 16.
Cũng làng Tân Bình (Lấp Vó) nói trên, so với địa bộ Minh Mạng hồi 12 năm về trước,  có sự thay đổi rõ rệt: đất ruộng chịu thuế đã giảm về diện tích trong khi các loại đất trồng  đậu, khoai và trồng tre vẫn như cũ. Trong địa bộ Minh Mạng không ghi đất công điền, nhưng trong điền bộ sau này ghi rõ các sở công điền. Có lẽ diện tích sút giảm vì dân qua các làng khác làm ăn, hoặc có sự ẩn lậu diện tích để trốn thuế. Đây là một làng thuộc tỉnh An  Giang, thành lập từ đời Gia Long nên dân lậu rút bớt qua các làng tân lập, khiến các chủ  điền vì sợ đóng thuế không nổi nên hiến cho làng để làm công điền ; một số đất khác thì lần  hồi canh tác rồi cũng bỏ hoang.
Đất thiệt trưng, tổng cộng 165 mẫu trong đó “điền” (đất làm ruộng) là 58 mẫu và “thổ”  (các loại trồng tỉa khác) là 106 mẫu.
Thảo điền gồm một sở công điền 5 mẫu và 10 mẫu tư điền khác chia làm hai sở.
Sơn điền gồm 42 mẫu, trong đó công điền ba sở, tư điền hai sở. Đáng chú ý là có một sở  12 mẫu do Mai Văn Ngọc làm chủ, ông này vì can án theo ngụy (phải chăng là theo ngụy  Khôi) nên đất bị tịch biên đem vào công điền.
Ngoài số đất ruộng nói trên, những phần đất trồng tre, trồng dâu, trồng khoai đậu  không thay đổi mấy.
Trong làng Tân Bình, bộ điền ghi 18 mẫu liệt vào loại “hoang phế” (vì dân đã thất lạc)  từ năm Thiệu Trị thứ 5, bỏ hoang dưới 5 năm.
Lại còn 28 mẫu ghi vào loại “cửu kinh hoang phế” tức là bỏ hoang lâu hơn. Một số đất  lần hồi trở thành xấu, lúc trước canh tác được nhưng về sau đất chai lần, sanh ra sỏi (loại  đá ong). Lại còn vài mẫu đất phù sa mới bồi, ghi vào bộ. Một số người khẩn đất trước kia bỏ xứ mà đi, không biết lý do, đất trở thành công điền. Lại có người chết không có con cháu thừa tự nên đất cũng trở thành công điền.
Về thuế đất, năm Tự Đức nguyên niên, thấy ghi rõ trong bộ như sau:
Thảo điền, mỗi mẫu thâu tô túc 26 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.
Sơn điền, mỗi mẫu tô túc 23 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.
Tang căn thổ (đất trồng dâu), mỗi mẫu 2 quan.
Viên lang thổ (đất lập vườn cau), mỗi mẫu 1 quan 4 tiền.
Vu đậu thổ (đất trồng khoai đậu), mỗi mẫu 8 tiền.
Thổ trạch, mỗi mẫu 8 tiền.
Thanh trúc thổ (đất trồng tre), mỗi mẫu 4 tiền.
Dà diệp thổ (đất trồng lá dừa nước), mỗi mẫu 4 tiền.
Biểu thuế trên đây tính theo lệ đã ban hành từ năm Minh Mạng thứ 17.
Lập làng mới
Đời Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn  hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu  hay dân nghèo.
— Người giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức cho dân đi khẩn đất. Trong giai đoạn đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo, gạo  để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay tiền, vay lúa với mức lời rất nặng, trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể canh tác với nhân công  mướn rẻ, đó là những người bạn làm ruộng ăn lương hàng năm, khi rảnh việc cày cấy gặt  hái thì chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn  tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải làm việc thay  thế để trừ nợ.
— Người nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các làng cũ nếu có chí thì đi nơi  khác xin lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương  chức. Trong nhiều trường hợp, người đi lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn thân, nào là bà con xa, bà con gần để trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong bầu không khí thân mật và tin cậy hơn.
Đơn xin lập làng làm ra hai bổn, dâng lên quan Bố chánh. Trong đơn ghi rõ:
— Ranh giới tứ cận của làng mới lập.
— Tên những người gia trưởng (điền hộ).
— Ranh giới các sở đất xin khẩn, tên chủ đất, diện tích, loại đất gì (sơn điền, thảo điền  hoặc vu đậu).
— Nêu rõ tên làng mới (xin đặt tên).
— Xin miễn thuế, miễn sưu và miễn lính trong ba năm.
— Ghi tên những người dân bộ (bộ đinh) để bảo đảm có số thuế tối thiểu trong tương  lai.
Quan Bố chánh nhận đơn, chỉ cần biết rõ ranh giới làng mới và tên tuổi của dân lập  làng (gồm dân đã từng đứng bộ trong làng khác và dân lậu) rồi phê vào mấy chữ: “Phú hồi  sở tại phủ viên khám biện”.
Khi nhận được lịnh, quan phủ bèn đến tận nơi với vài nhân viên (lại lệ), đòi hương  chức các làng kế cận, luôn cả viên cai tổng để xác nhận rằng làng mới xin lập không lấn  ranh vào những làng đã có ở bốn phía và chẳng ai ngăn cản. Dân xin lập làng phải có mặt để xác nhận chịu khẩn và chịu đóng thuế, sở đất của người này không lấn ranh vào sở của người kia. Dân lậu xin lập làng cũng đến để được điều tra xem có tội trạng, tiền án, hoặc có giả mạo tên tuổi không. Quan phủ cho đo diện tích để biết lần đo trước của dân làng có  chính xác chăng (dư hoặc thiếu), xem ranh giới từng sở đất, tên người chủ, loại sơn điền, thảo điền hoặc đất trồng dâu, trồng khoai đậu... Luôn dịp ấy, quan phủ nhìn nhận cho  người xin lập làng làm chức thôn trưởng, cấp cho con dấu nhỏ, hình chữ nhựt, theo nguyên  tắc con dấu phải làm bằng cây (vì vậy gọi là mộc ký, hoặc nói gọn là con mộc). Đồng thời  quan phủ cho phép làng cũ hủy bỏ tên những người dân đã di chuyển để ghi vào bộ sổ của  làng mới lập.
Quan phủ soạn tờ phúc bẩm, trình với quan Bố chánh việc mình đã làm, kèm theo bản  đồ tổng quát của làng tân lập, vị trí các sở đất, loại đất, tên người xin khẩn, diện tích. Trên  bản đồ thường vẽ hình cây lâm vồ, chòm tre, lung bàu hoặc hình chùa miễu để làm chuẩn.  Thôn trưởng ở mấy làng giáp ranh đồng ký vào.
Tờ phúc bẩm này được quan phủ dâng cho quan Bố chánh, làm hai bổn. Khi nhận  được, quan Bố chánh phê “trình biện”; chuyển lên quan Tổng đốc thì được phê “chiếu biện”  khi chấp thuận.
Một bổn có lời phê trên đây lại gởi trả xuống cho quan phủ hoặc quan huyện. Lập tức, quan phủ hoặc quan huyện đến làng tân lập nọ, lần thứ nhì, để làm tờ khám án (Luro dịch  là jugement procès verbal). Trong tờ này ghi là đã đến nơi, gọi các viên cai tổng, thôn trưởng  kế cận đến để xác nhận, rồi kê khai các sở đất, diện tích, loại đất, tên người khẩn như trong  tờ phúc bẩm. Bên dưới là chữ ký của thôn trưởng, hương thân, của dân làng tân lập cùng  các ông cai tổng sở tại và lân cận.
Tóm lại, việc lập làng chia ra ba giai đoạn:
— Dâng đơn lên quan Bố chánh
— Quan phủ hoặc quan huyện đến nơi làm tờ phúc bẩm
— Khi được quan Tổng đốc đồng ý, quan phủ trở lại làng, làm tờ khám án
Trường hợp làng Châu Quới tân lập, tách ra từ làng Châu Phú (nay là vùng chợ Châu Đốc) lúc mới làm đơn xin chỉ có 7 người dân đứng tên (2 người dân có bộ cũ, 5 người dân  lậu), đất khẩn các loại tổng cộng 66 mẫu (trong đó chỉ có 2 mẫu thảo điền và 3 mẫu sơn  điền) giúp ta thấy rõ tình trạng làng xóm lúc bấy giờ, quan trên tỏ ra dễ dãi, những người  đứng tên là tiểu điền chủ, sau này sẽ quy tụ thêm dân đến làm công hoặc làm tá điền cho  họ.
Nói chung, hương chức làng (hương dịch) chia ra làm 2 hạng: “các chức lớn” và “các chức nhỏ”. Các chức nhỏ là người thi hành, đi gặp dân để truyền lịnh của các chức lớn.  Muốn được hương chức cần có điều kiện tuy đơn giản nhưng gắt gao: phải cư ngụ trong  làng, có hằng sản hoặc uy tín lớn (thí dụ như người nghèo nhưng ông cha ngày xưa làm  quan hoặc đã sáng lập làng). Lúc ban đầu chỉ đặt ra thôn trưởng (xã trưởng) và hương thân  (theo Luro, chức hương thân do Nguyễn Tri Phương bày ra). Lần hồi khi làng đông dân,  thuế má dồi dào thì cử thêm ấp trưởng, cai tuần, trùm cả, thủ hộ, biện lại, biện đình. Hương  chức lớn thì có thêm hương hào, hương sư, hương chánh, hương lễ...
Nhiều người cho rằng hương chức làng là tổ chức dân chủ. Đó là nói quá đáng, nếu  không sai lạc: tổ chức phong kiến, của phe đảng thì đúng hơn. Khi thiếu một người hương  chức thì mấy người sáng lập làng hoặc những người đang làm hương chức bèn nhóm lại rồi  cử người trong nhóm, trong phe. Dân nghèo không hằng sản, tức là không điền đất hoặc không vốn liếng to để làm nghề mua bán thì chỉ được quyền đứng ngoài xa mà nhìn, hoặc là nấu nước pha trà cho các ông hương chức uống khi họ bầu cử lẫn nhau. Vua chúa ngày xưa  nhắc nhở đến dân, “dân vi quý” hoặc gọi tổng quát là bá tánh. Nhìn qua bộ điền hoặc địa bộ của làng, ta thấy tên họ của những người dân mà thời phong kiến đề cập tới: đó là những  điền chủ lớn nhỏ, những ông bá hộ. Dân lậu, không tên trong bộ, không được nhìn nhận là dân.
Việc khẩn đất
Lần hồi, khi Gia Long bắt đầu cai trị thì việc khẩn hoang không còn quá dễ dãi như lúc mới bắt đầu Nam tiến. Nhà nước kiểm soát kỹ lưỡng việc khẩn đất, nhằm mục đích thâu thuế. Đời Tự Đức, trên nguyên tắc thì đất hoang (hoang nhàn) ai làm đơn xin khẩn trước là  người đó được.
Hễ đất bỏ hoang, không đóng thuế là đem cho người khác trưng khẩn để nhà nước khỏi  bị mất thuế.
Đất tạm bỏ hoang, trong trường hợp chủ đất chết, không con, thân nhân chưa hay biết  thì giao tạm cho người khác, chờ có người đến nhìn nhận.
Không đóng thuế, đất có thể bị mất. Muốn đóng thuế, phải đăng vào địa bộ. Muốn  đăng vào địa bộ thì phải làm đơn theo thủ tục.
Nhà nước luôn luôn thúc giục dân khẩn đất, ghi vào địa bộ và đóng thuế để khỏi bị tranh cản về sau, nhứt là trường hợp đất tốt ở nơi đông dân cư, gần đường giao thông tiện  lợi.
Nhiều sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ ẩn giấu diện tích, canh tác lậu.
Năm Gia Long thứ 9, theo lệ thì khi gặp đất canh tác lậu thuế (đất không xin ghi vào  bộ), kể tố giác được hưởng phần đất ấy, xin ghi vào bộ để làm chủ, tức là hưởng công lao  khẩn hoang của kẻ đi trước. Nếu người tố giác không muốn khẩn thì đất vẫn còn là của chủ  cũ, chủ cũ phải lập tức hợp thức hóa.
Nếu là vùng đất tốt, tên Giáp khai 5 mẫu nhưng trong thực tế cày cấy đến 8 mẫu,  người tố giác có thể xin trưng khẩn 3 mẫu thặng dư.
Lệ năm Minh Mạng thứ 15, sửa đổi chút ít: kẻ nào canh tác trên phần đất ruộng hơn  diện tích đã khai trong bộ thì bị phạt, tiền phạt đem thưởng cho kẻ tố giác (đất lậu ấy không  bị tịch thâu).
Nếu khẩn một khoảnh đất riêng rẽ, hoàn toàn trốn thuế từ lâu thì đất bị tịch thu, giao  cho kẻ nào chịu đến canh tác và chịu đóng thuế.
Lệ năm Tự Đức nguyên niên đặt ra: hễ đất mới khẩn mà chưa làm ruộng, chủ hoàn toàn trốn thuế thì giao cho người tố giác làm chủ, ghi vào bộ. Nếu đất trước đó có canh tác, có đóng thuế nhưng trải qua một thời kỳ bỏ hoang lâu hay mau, chủ trở lại canh tác mà không chịu đóng thuế thì chủ đất bị phạt 3 quan mỗi mẫu, đất không bị tịch thâu. Tóm lại, đời Tự Đức đất chỉ bị tịch thâu giao cho người khác khi là đất hoang, mới khai khẩn. Kẻ bị tố giác phải chịu đóng thuế năm trước và những hình phạt bằng roi cho kẻ khai gian diện tích.
Luật lệ khẩn đất ngày xưa định như sau:
— Đất đã ghi vào bộ, biết rõ ranh giới và diện tích mà bỏ hoang vô thừa nhận thì dân  làng cứ làm đơn xin phục khẩn, quan Bố chánh có trọn quyền định đoạt. Đất mới bỏ hoang  dưới 5 năm, được miễn một năm thuế điền, đất bỏ hoang quá lâu (cửu kinh hoang phế),  miễn 3 năm.
— Chủ đất chết, không con thừa tự thì làng cho người khác tới lãnh, ghi tên vào bộ  (diện tích đã biết rõ rồi).
— Nếu muốn khẩn nới rộng thêm một sở đất đã vô bộ từ trước, chủ đất cứ làm đơn,  quan trên sẽ chấp nhận sau khi khám xét (trường hợp tăng trưng).
— Nếu là sở đất to, ở vùng hoang nhàn chưa ai khai khẩn thì theo thủ tục khá phức  tạp, giống như thủ tục xin lập một làng mới:
° Làm đơn dâng lên quan Bố chánh để xin khẩn, kèm theo bản đồ sơ sài, ghi tứ cận  ranh giới. Quan Bố chánh sẽ phú hồi cho quan huyện sở tại khám xét.
° Quan huyện gọi hương chức làng và những người chủ đất giáp ranh đến, khám xét  lại, mục đích chánh là đề phòng trường hợp lấn vào phần đất mà người khác đang khai khẩn nhưng chưa xin vô bộ kịp, rồi lập tờ phúc bẩm, chờ quan Bố chánh duyệt xem.
° Quan huyện cho viên chức tới lập tờ án khám, xác nhận cấp đất.
Trên thực tế, thủ tục khẩn đất quá khó khăn. Ngày xưa đường giao thông bất lợi, dân  ở vùng Sóc Trăng phải vượt đường xa, đến tận chợ Châu Đốc để dâng đơn lên quan Bố chánh, hơn trăm cây số. Lại còn bao nhiêu sở phí linh tinh: lo lót cho lính lệ, cho các viên chức và quan huyện đi làm phúc bẩm và án khám, lo lót cho hương chức làng. Người dân  nghèo thiếu vốn liếng để giao thiệp và lo hối lộ thì chẳng bao giờ làm chủ đất được. Lương  bổng của các quan rất ít oi; đứng về pháp lý và luân lý Khổng Mạnh, các quan lớn nhỏ được  phép tha hồ nhận tiền hối lộ (gọi là lộc). Làm chuyện ích lợi cho dân, dân đền ơn thì cứ  hưởng một cách thoải mái, lương tâm chẳng ray rứt!
Chủ điền, chủ nợ và tá điền
Dân trong làng phải ghi vào bộ để chịu thuế; dân có nghĩa là đàn ông, con trai. Tất cả dân, làm bất cứ nghề gì cũng phải ghi. Trên nguyên tắc thì vậy nhưng ở làng có rất nhiều  người không ghi tên vào bộ đinh. Họ là dân lậu. Rốt cuộc, chỉ những người điền chủ mới ghi  tên, chịu thuế. Luro giải thích: Hương chức làng đã qua mặt Triều đình và Triều đình làm  ngơ vì nếu áp dụng luật lệ quá gắt gao, một số đông dân làng sẽ bỏ trốn vì đóng thuế không nổi, chi bằng cứ chấp nhận một số ít dân đóng thuế mà làng xóm tồn tại, việc ruộng nương  được điều hòa.
Dân lậu là ai? Là tá điền, tức là những người không đủ thế lực, không đủ vốn khẩn  đất, họ mướn lại đất của chủ điền.
Là tá điền, khi mướn đất họ phải làm tờ tá điền (gọi tắt là tờ tá) tức là tờ mướn đất để  làm ruộng. Mỗi mùa, họ đong cho điền chủ một số lúa gọi nôm na là lúa ruộng (chữ nho gọi  là “tá túc”), lúa mướn đất. Nên phân biệt với “tô túc” là số lúa mà chủ điền đóng cho nhà  nước trong thuế bằng hiện vật, cộng với một số tiền mặt.
Thời phong kiến (luôn cả đến thời Pháp thuộc) giữa chủ điền và tá điền không có quy  định nào rõ rệt do nhà nước đưa ra về số lúa ruộng (tá túc) mà tá điền phải đóng cho chủ  điền, theo tỷ lệ hoặc giá biểu nào cả. Tá điền chỉ biết trông cậy vào lòng nhân đạo của chủ  điền mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh thường nhắc đến hai tiếng “tích đức”, là nhắm vào chủ  điền trong việc đối xử với tá điền, giới tá điền dầu có lòng tốt thì cũng chẳng có ai dưới tay  để mà ban bố.
Về pháp lý, tờ tá (tờ mướn đất) là văn kiện do chủ điền và tá điền tự ý ký kết. Nếu tá điền vi phạm điều giao kết thì chủ điền tố cáo, nhờ quan làng xử. Năm nào tá điền trả không nổi thì chủ điền giữ giấy ấy lại, xem như là giấy nợ hợp pháp.
Một số hương chức và thân hào tuy không đứng bộ, không làm chủ sở đất nào trong  làng nhưng lại có ưu thế đối với đất gọi là công điền, do làng làm chủ (nhưng hương chức  làng không được tự ý bán, trong bất cứ trường hợp hoặc vì lý do nào). Họ đứng ra mướn đất  công điền với giá rẻ rồi cho dân mướn lại với giá cao hơn, họ đóng vai trung gian mà ăn lời. Trên lý thuyết thì sự thành lập công điền nhằm mục đích giúp cho công quỹ của làng thâu thêm lúa và tiền để dùng vào công ích, đồng thời giúp một số tá điền có đất làm ruộng.  Nhưng người tá điền chẳng được hưởng ân huệ gì cả.
Người chủ điền thời xưa được quyền hưởng “lộc” do tá điền đền ơn cho, vì chủ điền đã  giúp tá điền có đất mà cày, có nơi cất nhà, có chỗ vay mượn lúc đau ốm. Khi vay, con nợ phải mang ơn; chủ điền là ông vua nho nhỏ trong đất đai của họ, tá điền đóng vai thần dân của tiểu giang sơn. Chủ điền bắt buộc tá điền làm “công nhựt”, tức là làm thí công, mỗi năm vài ba ngày, (tùy theo lòng nhân đức của mỗi chủ điền) lúc có đám giỗ, lúc chủ điền gả con, ăn mừng tuổi thọ ngũ tuần, lục tuần. Đặc biệt là trước ngày Tết, tá điền phải đến làm cỏ vườn,  bửa củi, xay lúa, chèo ghe. Ngoài số lúa ruộng ghi trong giấy mướn đất, tá điền còn góp một  số hiện vật gọi là “công lễ”, thì dụ như vài lít rượu nếp thứ ngon, một thúng nếp trắng, một  cặp vịt vào dịp đám giỗ trong gia đình chủ điền hoặc ngày Tết, theo kiểu chư hầu cống sứ  cho thiên tử. Đáp lại, nhiều chủ điền tỏ ra rộng lượng, bố thí và tích đức cho con cháu mình  bằng cách đốt bỏ giấy nợ của tá điền, loại giấy nợ không thanh toán nổi từ mấy năm trước vì  mất mùa hoặc đau yếu.
Thân phận đàn ông làm tá điền gẫm lại còn khỏe hơn đàn bà. Đàn bà trong gia đình  nghèo lo lắng cực nhọc, trong ngoài: gặt lúa, cấy lúa, bửa củi, nuôi heo gà, xay lúa giã gạo,  lại còn nuôi con. Con trẻ lớn lên đôi khi trở thành một thứ động sản mà cha mẹ đem cầm cố cho người khác để chăn trâu, khi nào dứt nợ hoặc đủ tiền chuộc thì mới được về nhà.
Về mức sống cụ thể của chủ điền, chúng tôi không sưu tầm được tài liệu để so sánh,  hoặc trường hợp tiêu biểu. Trong tài liệu của Luro, có sao lục lại tờ chia gia tài của một chủ  điền ở Tân Thành phủ, Vĩnh Phước thôn, tỉnh An Giang tức là địa phận Sa Đéc đất ruộng  phì nhiêu. Ông điền chủ này kê khai tài sản để chia cho con cái:
— 3 sở đất cộng là 75 mẫu
— 2 đôi xuyến vàng
— 7 đôi bông vàng
— 10 đôi xuyến bằng vàng (tử kim)
— 4 bộ ngũ sự (chưn đèn, lư hương...)
— 10 xâu chuỗi hổ (hổ phách)
— 50 đính bạc, mỗi đính 10 lượng, tức là 500 lượng bạc.
— 1000 đồng bạc “điểu ngân” (bạc con ó Mễ Tây Cơ)
— 15000 quan tiền kẽm
và một số nợ mà người khác chưa trả cho ông.
Ông điền chủ nói trên làm tờ chia gia tài vào năm Minh Mạng thứ 20 (1839), để lại  một nhà ngói ba căn, chẳng hiểu ngoài nghề làm điền chủ, cho tá điền vay, ông còn buôn  bán gì khác chăng?
Về giá đất, có vài tài liệu như sau, lẽ dĩ nhiên giá thay đổi tùy theo địa phương, tùy  loại đất hoặc vị trí gần xa đường giao thông, chợ phố.
— Đất tốt (thảo điền) ở Định Tường: 10 mẫu, 9 sào, 8 thước trị giá 1682 quan, bán đứt,  năm Thiệu Trị thứ 7.
— Đất hơi xấu (sơn điền) ở Phú Mỹ thôn (vùng Thị Nghè), Gia Định: 5 mẫu, 6 cao, 7  thước, cố vô thời hạn (mại lai thục) với giá 650 quan, khi có tiền cứ chuộc lại đúng số tiền  trên không ăn lời, năm Tự Đức thứ 5.
— Đất ở Long Thành (Biên Hòa) loại sơn điền: 2 mẫu, 3 sào cầm với giá 190 quan, hẹn 3 năm thì chuộc lại, trả vốn và lời theo luật định (3 phân), năm Tự Đức thứ 5.
Về lúa ruộng (nay gọi là địa tô, xưa gọi là tá túc) ở làng Nhơn Ngãi, tổng Dương Hòa  Trung, tỉnh Vĩnh Long: 10 mẫu đất cho tá điền mướn với giá là 50 phương lúa, hẹn tháng 2  âm lịch năm sau, khi làm mùa xong phải đong cho chủ điền. Thuế điền thì do chủ điền  đóng, năm Tự Đức thứ 4.
Về lúa ruộng ở làng Vĩnh Điền, phủ Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc: mướn sơn điền 10 mẫu  trong 10, mỗi năm 500 quan tiền mặt hoặc thay vào đó, đong lúa hột (húc tử) 500 giạ. Tá  điền phải đong lúa hoặc trả tiền vào tháng 2 âm lịch, sau khi làm mùa. Chủ điền chịu đóng  thuế điền cho nhà nước, nếu trong thời gian trên tá điền không canh tác hết, còn đất bỏ hoang phế thì khi giao trả đất cho chủ điền, phải làm cỏ cho sạch, năm Qů Dậu (1873) khi người Pháp vừa xâm chiếm nước ta.
Về việc mướn trâu của chủ điền để cày và kéo lúa, ở làng Mỹ Trà (Cao Lãnh): mướn  một con trâu đực 6 tuổi, một con trâu cái 5 tuổi, mỗi năm trả 80 giạ, vào năm Bính Ngọ (đời  Thiệu Trị, 1846). Nếu trâu đau thì cho chủ biết kịp thời, phòng khi trâu chết có chứng cớ.
Bán trâu ở làng Tân Sơn (Vĩnh Long): một con đực 5 tuổi, một con cái 4 tuổi và một  con nghé chưa đủ 1 tuổi với giá 400 quan, năm Giáp Tuất (1874) khi người Pháp đã qua xứ ta.
Tài liệu nói trên chỉ là giấy tờ, trên thực tế chắc có khác. Lại còn vài tài liệu về giấy nợ,  nhưng chỉ ghi là ăn 3 phân lời theo luật định (trong thực tế, theo Luro, việc cho vay lúa ăn làm mùa tính lời 50 phần trăm trong vòng năm ba tháng). Lại còn vài chủ điền bắt ép tá  điền phải vay mặc dầu tá điền đã đủ ăn, nếu không vay nợ thì chủ điền không cho mướn đất  ruộng.
Người có đất thì ít khi nào chịu bán đứng vì còn bận bịu về tình cảm, về thể diện với  xóm làng. Hơn nữa, còn chữ hiếu. Ông bà để đất lại, con cháu phải gìn giữ cho bằng được,  nhiều khi mồ mả ông bà còn nằm trong ấy. Bởi vậy, túng tiền thì đem đất mà cầm hoặc cố;  cầm thì phải chịu lời, trong khi cố thì không chịu tiền lời. Lắm khi vì cần tiền nhiều và nhắm sức mình khó trả, chủ đất đem cố trong thời hạn 10 hoặc 20 năm (lệ quy định quá 30  năm, con nợ không được quyền chuộc lại). Trong suốt thời gian đất bị cầm hoặc cố, thường là  người chủ nợ hưởng lợi, đem đất ấy cho người khác canh tác mà thâu lúa ruộng.
Việc cầm cố thường xảy ra, nhứt là đối với người có đứng bộ vài sở đất. Họ không dám  vay nợ quá nhiều, vì vay nhiều thì chẳng cách nào trả nổi. Vay bạc (không có đất cầm hoặc cố) thường chịu lời hơn 50 phần trăm mỗi năm; dầu cho tiết kiệm và mùa màng thâu hoạch  ở mức trung bình, huê lợi ruộng nương chỉ đem lời độ 20 phần trăm mà thôi.
Cách đo lường thời đàng cựu
Đời Tự Đức, đơn vị để đo là một thước, còn gọi là thước quan, lấy tiêu chuẩn là 22 đồng  tiền đời Gia Long sắp liền nhau; phỏng định tương đối chính xác là 526 ly (tức là hơn 5 tấc  2, tính theo mét).
Một thước quan chia ra 10 tấc, 1 tấc 10 phân.
Để đo diện tích ruộng đất, lệ xưa định một mẫu là diện tích của một hình vuông mỗi góc 150 thước quan ; tính ra mẫu tây (hectare) là 62 ares, 2521. Theo cố đạo Tabert thì một  mẫu thời đàng cựu to hơn, là 73 ares, 0890.
Một mẫu chia ra 10 sào.
Một sào chia ra 15 thước, còn gọi là cao.
Người thời xưa quan niệm đơn giản rằng mẫu là sở đất hình vuông; sào là sở đất hình  chữ nhật với bề ngang là 15 thước, bề dài là 150 thước.
Người Pháp ra nghị định ngày 3/10/1865 để thống nhứt việc đo đạc, họ quy định đại  khái 2 mẫu ta ngày xưa là một mẫu tây (hectare). Như vậy có sự sai biệt, thật ra, hai mẫu  ta là 125 ares tức là to hơn một mẫu tây.
Một mẫu tây chia ra 100 sào tây (100 ares).
Về đong lường, trên nguyên tắc thì dùng hộc để đong lúa, dùng vuông để đong gạo.
Một hộc chia ra 26 thăng, một thăng là 10 hiệp, một hiệp là 10 thược. Một hộc tính ra 71 lít, 905, đem cân nặng cỡ một tạ.
Một vuông chia ra 13 thăng (phân nửa của hộc) tính ra nhằm 35 lít, 953.
Một hộc lúa khi xay ra thì được một vuông gạo, tính đổ đồng.
Trong thực tế, khi mua bán đổi chác, người dân thường đong lúa gạo bằng vuông, gọi nôm na là “giạ”.
Người Pháp quy định một vuông là 40 lít, lúc ban đầu còn thâu thuế điền bằng lúa và  một số tiền mặt theo lệ đằng cựu. Một vuông nâng lên là 40 lít thay vì non 36 lít như thời  xưa, có lợi cho nhà nước thực dân hơn, dễ tính toán, với con số tròn trịa là 40 lít.