Chương 23

Trời ơi, ai đập cửa nhà tôi mà dữ quá? Chiến tranh hạt nhân hay sao hở các vị? Tôi đang nhặt rau muống để xào ăn bữa trưa, bèn bỏ dở chạy ra cửa. Tưởng ai, té ra là ông Hai Giỡn. Hai Giỡn mặt thắt thần, tóc tai bờm xơm không chải, áo quần nhầu nát y hệt vừa từ trận địa bò về báo tin đại bại vậy. Ông vồ lấy tôi thở hổn hển:
- Mặc đồ vô Ba Hưng, nguy quá rồi.
Chân tay tôi cuống quít, hồn vía rụng rời run rẩy:
- Gì vậy ông Hai? Đảo chính hay bạo loạn?
- Không, con Vương Thi nhà ông bị cấp cứu. Bọn tôi vừa khiêng cháu vào bệnh viện. Họ đang truyền huyết thanh cho cháu.
Tôi gào lên như thể mụ nhà quê mất gà:
- Trời ơi, con tôi làm sao vậy ông Hai? Khổ chưa là cái đời tôi
- Mặc đồ gấp, xuống tôi chở đi bằng hon-đa. Chuyện dài, rồi sẽ biết dần.
Tôi mặc quần áo. Hai Giỡn giục như giục tà:
- Rùa ơi, việc nước sôi lửa bỏng còn dềnh dàng.
Tôi im thin thít như thịt đông mới nấu, ngồi trên xe để Hai Giỡn chở tới bệnh viện tỉnh. Hai Giỡn dẫn tôi vào phòng cấp cứu, nơi con gái tôi đang nằm. Mặt Vương Thi tái nhợt như mặt người chết, mắt nhắm nghiền, đang được truyền huyết thanh. Một bà bác sĩ đang loay hoay quanh đầu và ngực nó. Tim tôi như đứng lại, ruột gan lộn ngược cả lên. Tôi hỏi chị y tá đứng gần:
- Cháu có sao không hở chị?
- Lúc nãy suýt nữa bị đứng tim. Giờ thì đỡ rồi. Bị xúc động mạnh quá trụy tim, đang sợ chảy máu não. Bác là cha cô ta hả?
Tôi gật đầu. Tôi thầm kêu: - cầu Chúa hay Phật thánh gì cũng được cho con tôi qua khỏi. Bình thường thì người ta duy vật, coi trời còn thua cái tăm. Nhưng khi có hoạn nạn nguy cấp, mở miệng ra ai cũng kêu trời, bụng còn khấn vái lai rai, cầu nguyện các vị mà lúc khỏe mạnh ta thường phủ nhận, thường cho là bịa đặt láo khoét. Hóa ra, khi tuyệt vọng, con người còn phải bám víu, phải nương tựa vào ngay cả những cái không có thật. Hai Giỡn kéo tôi ra chỗ vang dặn:
- Bây giờ ông túc trực với cháu nhá. Có cần thuốc gì mắc cũng cứ chi nhá, đã có anh em chúng tôi hỗ trợ. Còn bây giờ tôi phải đến chỗ tang gia xem anh em khâm liệm chưa?
Tôi kinh ngạc:
- Ai chết mà ông thất thần vậy chứ? Vậy ra ông chưa biết gì cái điều cả thành phố này đã biết ư?
- Chưa.
- Im đi tôi kể cho nghe.
Hai Giỡn kéo tôi ra ngoài thềm, hai chúng tôi cùng ngồi xuống, ông kể:
- Sáng sớm hôm nay, khi tôi đang san tổ ong mật làm đôi thì con Vương Thi nhà ông tới. Nó hốt hoảng báo rằng Bác Hai ơi, nhờ bác đi với cháu được không?. Tôi hỏi có chuyện gì vậy? Nó buồn khổ lắm, khóí òa lên nói: Trưa hôm qua, có người tìm cháu cho hay anh Trần Khuất Nguyên báo anh ấy bị người ta lừa. Ngươi ta bảo chở anh ấy đi khám bệnh ở sở y tế rồi đưa tuột lên nhốt vào nhà thương điên. Họ bảo anh Nguyên bị tâm thần nặng cần chữa trị. Cháu bèn đi xe cấp tốc lên bệnh viện tâm thần thăm anh ấy, nhưng người ta hỏi giấy không cho vào. Cháu nằn nì mãi họ bảo cháu là gì của Trần Khuất Nguyên, cháu bảo là người yêu. Họ bảo người yêu chưa có tiêu chuẩn vào thăm. Cháu nói là vợ, họ hỏi hôn thú đâu. Cháu phải về trường cháu xin giấy giới thiệu vô thăm anh ấy, nhưng lên tới cổng chờ từ bảy giờ tối tới khuya họ vẫn không giải quyết. Họ bảo giấy không hợp lệ, phải có giấy của phường kèm hộ khẩu hai bên. Cho nên sáng sớm nay, cháu về nhờ bác đây bác Hai ạ, vì cháu biết bác rất quý anh Nguyên. Đấy con Vương Thi kể cho tôi như vậy. Tôi hoảng quá, vì biết Nguyên không hề bị tâm thần hay triệu chứng của bệnh này. Chẳng qua là vì họ ghét cái thằng sống quá trung thực, không biết sợ cường quyền, không chịu được dối trá lừa lọc. Tôi bèn chở Vương Thi tới nhà bác Tám Căn chủ nhiệm câu lạc bộ những người kháng chiến cũ và chủ nhiệm câu lạc bộ hưu trí. Như ông biết bác Tám Căn năm nay bảy mươi lăm tuổi, từng là bí thư đầu tiên của tỉnh ta. Bác Tám lại rất thán phục tài thơ và bản lãnh của Nguyên. Chúng tôi điện cho anh Bé Năm trưởng phòng thương binh của sở thương binh xã hội, một người rất quý trọng Nguyên, rồi bàn bạc với nhau. Chúng tôi làm ba bốn giấy giới thiệu, đến nhà thương điên thăm Nguyên. Chúng tôi lấy xe con chở bác Tám Căn, anh Bé Năm, tôi và Vương Thi phóng về nhà thương điên gấp. Xe chúng tôi qua cửa bệnh viện dễ dàng, tới thẳng phòng tay giám đốc. Nhưng giám đốc bệnh viện không có nhà. Phó giám đốc cũng không có nên chẳng ai dám tiếp chúng tôi. Chúng tôi chờ mãi thì có một ông ngái ngủ ra, xưng là quyền phó giám đốc, hỏi các đồng chí tới có chuyện gì. Chúng tôi báo rằng chúng tôi là đơn vị anh Trần Khuất Nguyên lên thăm anh ấy và hỏi vì sao anh Nguyên rất tỉnh táo, rất bình thường đột nhiên lại bị nhốt vào nhà thương điên? Tay quyền phó giám đốc ỡm ờ trả lời như cốt để cho chúng tôi chán quá mà bỏ đi. Nhưng sau đó, tay phó giám đốc tới báo rất tỉnh queo là Trần Khuất Nguyên đã chết đêm qua. Hiện Nguyên đang nằm trong nhà xác chờ cơ quan chủ quản hay gia đình tới nhận. Tôi hỏi nguyên nhân vì sao Nguyên chết, anh ta trả lời là Trần Khuất Nguyên bị những người điên khác hành hung, bóp cổ cho tới chết. Chúng tôi thất kinh không tin được là sự thật. Nhưng khi anh ta dẫn chúng tôi tới nhà xác, quả thật Trần Khuất Nguyên, một nhà thơ tài ba, một người tốt đẹp của chúng ta chỉ còn là cái xác không hồn. Bác Tám Căn khóc òa lên như con nít. Anh Bé Năm nguyền rủa bọn sát nhân, đòi ban bỏ ban giám đốc bệnh viện. Tôi mất hồn vía, cứ ngây ra nhìn cảnh Vương Thi lặng ôm xác Trần Khuất Nguyên vào lòng cho đến khi cháu ngất đi tưởng hết thở. Tôi phải đưa Vương Thi đi bệnh viện cấp cứu gấp. Còn bác Tám Căn và anh Bé Năm ở lại coi xác Trần Khuất Nguyên. Tôi vừa gọi điện thophép tôi kết hợp công tác với chết việc riêng tư được không ạ?
- Nhưng đồng chí có việc gì nào?
Tôi trình bày người yêu của tôi ở chỗ ấy chỗ nọ, rằng gần hai năm nay chúng tôi chưa được gặp nhau. Rằng tôi xin phép gặp người yêu một lần thôi, nói chuyện một tiếng đồng hồ rồi lại lao vào công tác liền.
Thần tượng của tôi ngồi im lặng hút thuốc. Anh vẫn đội chiếc kết vải mềm, áo trấn thủ sờn vai, dây lưng to bản đeo súng ngắn, giày vải cũ nhưng sạch sẽ ngăn nắp đến độ, nguyên tắc đến độ chưa hề thấy cách buộc giây giày, cách cài cúc áo của anh có lần nào sai quy củ. Một trăm lần là một trăm lần giống nhau như đúc. Tôi có cảm tưởng từng cái chớp mắt, cách hút thuốc, cách thở khói, cách nghiêng đầu, gạt tàn thuốc của anh không một động tác nào thừa, tất cả đều được đưa lên chương trình từ trước, đều được lãnh đạo và tổ chức từ trước.
Một lúc lâu, Tràng Giang khẽ nhìn tôi gật đầu:
- Được thôi. Này, đồng chí đã hôn người yêu của mình bao giờ chưa?
Tôi thành thật báo cáo:
- Dạ chưa ạ.
- Vậy là tốt. Kháng chiến còn gian khổ, ta còn cần phải hy sinh. Khi nào chiến thắng, hòa bình thì tha hồ cho các tướng. Còn bây giờ ta phải biết chế ngự, biết dừng lại. Chứ hôn hít nhau vào rồi nhớ nhung sầu muộn lắm, có khi còn thất tình thất tung, vừa khổ thân, vừa liên lụy đến kháng chiến. Xã hội ta tự do luyến ái, không ai cấm các đồng chí chuyện tình cảm cả. Nhưng trong hoàn cảnh gian khổ này, ngay đến chuyện yêu đương nhau, thậm chí chuyện hôn hít nhau cũng cần phải có tổ chức, có lãnh đạo.
Tôi ngồi im lặng nghe giáo huấn. Tràng Giang vừa cười ruồi vừa rút thuốc lá mời tôi. Người thủ trưởng tiếp:
- Này, nhớ nhá đồng chí Trần Hưng, chuyến này công tác là chính, yêu đương là phụ thôi đấy. Đừng có hôn hít nhau sớm quá. Hứa đi, yêu trong sáng thôi nhé.
- Dạ tôi xin hứa yêu trong sáng thôi. Những chuyện nào không trông sáng chờ hòa bình, chờ về Hà nội ạ.
- Tốt, đồng chí thấm nhuần lập trường luyến ái vô sản rồi đó. Chúc đồng chí viết tốt, quên việc riêng tư đi để phục vụ tổ chức.
Vậy là tôi trên đường đi đến trung đoàn ba.
Nhớ cuối năm 1947, tôi bị thương tương đối nặng phải vào quân y viện điều trị. Suốt cả tháng nằm liệt giường vì chân bị bó bột. Nằm điều trị, tôi buồn khổ, lòng tan nát lắm. Số là trước khi bị thương trên đường chiến dịch tôi bỗng gặp một anh người làng đi dân công. Anh ta cho tôi biết một ít tin nhà. Chị Lá Mơ đã lấy chồng sau khi tôi thoát ly. Em gái Rựa Mận mới mười bảy tuổi cũng đã làm đám hỏi với người làng bên. Thằng Chả Chìa mười lăm tuổi đang đi học. Làng tôi giờ là vùng tề. Bác phó Lãm bố của Oanh trào Việt Minh làm chủ tịch xã, nay lại có chân trong hội đồng tề. Tôi hỏi về Oanh nhưng anh người làng im lặng. Một lúc sau, rít xong hơi thuốc lào, anh mới cho biết Oanh đã đi lấy chồng đâu ngoài Hà nội. Nghe nói chồng của Oanh là chàng công tử bột đẹp trai, con nhà giàu nhưng học hành phải nói là dốt. Nghe chuyện ấy xong, tai tôi ù đặc. Tôi như đánh mất mọi cảm giác, đầu óc rỗng như ruột bí ruột bầu, tim như cũng chang thèm đập nữa trời ạ. Tôi như kẻ bị phục kích, bất ngờ bị nện một búa khai sơn vào gáy. Oanh đi lấy chồng có nghĩa là cuộc đời tôi đã chấm dứt. Oanh vừa là sự sống, vừa là môi trường sống của tôi. Tôi bị chứng mất ngủ hành cho cả tháng. Người tôi thành da bọc xương, hai mắt như hai cái hố đạn moọc-chê. Tôi biến thành một thằng ngố rừng, vô hồn, vô nghĩa. Chính trị viên đại đội biết tôi thất tình, có nỉ non vào tai tôi mấy bài chính trị, thứ chính trị mưa dầm, thoang thoảng hương lài dai dang. Tôi đâm ra muốn chết, cho thoát khỏi nỗi đau khổ, càng nhanh càng tốt. Tôi trở thành kẻ liều mạng trong các trận đánh. Tôi xông vào nơi bom đạn như vào chỗ không người. Đại đội trưởng chưa kịp hô xung phong, tôi đã có mặt trên mũi nhọn. Trong khi tôi muốn chết, thích chết thì trớ trêu thay, đạn tây nó tránh tôi trời ạ. Ngược lại, có nhiều anh nhát gan, xông trận cứ ru rú ở đằng sau, thì lại bị đạn tây xơi ngọt. Chính vì vậy, tôi được biểu dương, được khen thưởng, được ca ngợi hết lời vì lòng dũng cảm vô song, một thứ liều mạng có tên là anh hùng. Trong một đêm công đồn thắng lợi, trước lửa cháy, khói tỏa, xác địch lẫn xác bộ đội còn chưa thu dọn, mùi máu hòa mùi thuốc đạn còn nồng nặc, tôi chợt thấy chính trị viên đại đội mời tôi đến một góc đồn. Người ta xếp tôi đứng vào hàng, trước đảng kỳ, rồi hô nghiêm và kết nạp tôi vào đảng Lao động Việt Nam một cách hết sức bất ngờ. Cho hay là cái anh thất tình đâm ra chán đời tuyệt vọng, muốn chết không phải bao giờ cũng dở, ít ra là trong trường hợp của tôi.
Sau mấy tháng trời, nỗi đau nguội dần, tôi có vẻ tỉnh ra. Có lúc tôi vô cớ làm một chiến dịch nguyền rủa Oanh. Rằng nàng là quân giết người, đồ phản bội, đứa không tim, con quạ mổ. Thậm chí tôi quy tội cho Oanh là đồ phản động vì dám bỏ một anh vệ quốc quân, để lấy một tên buôn bán ở vùng tề. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy mình thật vô lý. Oanh đã hứa hẹn gì với tôi đâu nào, thậm chí tôi cũng chưa một lần tỏ tình với nàng nữa. Tôi đâm ra nguyền rủa mình là đồ hèn. Bao năm đi học với nhau, yêu nhau muốn chết, mà cấm dám mở miệng ra tỏ tình, rằng anh yêu em đến đời đời kiếp kiếp, chết rồi dẫu có hóa thành rắn rết cũng cứ tìm em để quấn quít...
Tôi tự mạt sát mình cả tháng trời. Rằng hỡi thằng ăn ruồi kia, sao mày cứ nhe răng ra mà sống vô tích sự đến vậy. Rồi tôi bị thương, phải đi điều trị. Nhớ sáng hôm ra viện về đơn vị, tôi hẹn được anh bạn cho đi nhờ một đoạn ô tô. Người bạn lái xe vận tải hẹn tôi ở cổng rừng của quân y viện. Năm giờ sáng tôi đã dậy. Tiếng gà rừng gáy le te uể oải. Rừng vắng đến độ tôi phải hắng giọng lên để đỡ trống trải. Chợt tiếng vượn hú như thể tiếng kèn thời nguyên thủy hiện về thức dậy trong lòng người lính cô độc tất cả những gì là quá khứ. Kỳ lạ quá, chỉ trong vòng một nháy mắt, toàn bộ cuộc đời mười chín tuổi của tôi hiện lên rõ ràng đến mức không sao tin nổi. Đọng lại mọi hình ảnh ấy rốt cuộc vẫn là gương mặt Oanh xâm chiếm cả lòng tôi. Chợt từ phía lối mòn bệnh viện có tiếng chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm. Trời đã sáng rõ. Nang đã hoe vàng trên các tàn cổ thụ. Qua một khúc cua, tôi nhìn thấy bốn năm y tá bệnh viện đang tiến ra phía ngã ba, nơi ở một góc tôi đang ngồi chờ xe. Các cô gái thấy một chàng trai, có ý trêu chọc, nói xa nói gần, cốt sao để tôi phải ngứa mồm lên tiếng. Tôi cúi xuống ra vẻ không thèm nhìn, ra vẻ quân tử không để ý đến bọn nhãi ranh. Nhưng kỳ thực tôi đang đóng vai thằng lác mắt mặt quay đi một nơi, mắt liếc về một nẻo. Tôi thấy hết từng cô một. Ví như cái cô đi đầu mập tròn, mắt nhìn tôi ranh mãnh và thách thức. Cô thứ hai gầy nhom, cao kều, mặt nhỏ choắt lại mà có duyên đáo để... Đến cô thứ tư, tôi hoảng quá, hoa cả mắt. Trời ơi cái răng khểnh của đời tôi. Có lẽ nào đây lại là cô bé có đôi mắt với những tia nhìn xuyên suốt mười chín năm tôi đã sống? Tôi toát mồ hôi hột. Đời luôn luôn tặng tôi những ngẫu nhiên vĩ đại. Cô gái cũng sững lại, mặt tái mét, đóng tia mắt vào người tôi như một cái đinh của định mệnh, khiến tôi mãi mãi được gắn chặt với mặt đất này, đến nỗi, cho dù sức mạnh của cái chết, của hư vô cũng không sao có thể hất tôi vào vực thẳm được. Tôi gọi khẽ:
- Oanh.
Cô ấy bước đến cầm tay tôi như kẻ bị thôi miên, rồi đứng sững lại, đôi môi run rẩy như đang lên cơn sốt:
- Anh.
Tôi quên khuấy mất chuyện đứng lên, cứ ngồi trên gốc cây, há hốc miệng nhìn người yêu đờ đẫn, ngây dại như thể vừa bị sét đánh chết.
Oanh khóc. Còn tôi thì thở dốc, làm như bị cọp đuổi đến đường cùng không bằng. Ba cô gái kia cũng đứng như trời trồng nhìn cảnh gặp gỡ kỳ lạ. Hóa ra các cô đi tải thuốc về cho bệnh viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Oanh tại chiến khu Việt Bắc. Oanh bị gia đình ép lấy chồng, trốn nhà lên chiến khu vừa tham gia kháng chiến, vừa để có cơ hội tìm ra tôi. Oanh vừa lên đây được bốn tháng, là y tá ở khu A, nhưng trời lại bắt tôi nằm tại khu B nên hai đứa không tìm thấy nhau.
Mãi đến đầu năm 1949, nghĩa là sau gần một năm rưỡi tôi mới gặp lại Oanh. Lúc đó nàng đã vào học trường Y khoa kháng chiến. Lần ấy chúng tôi hành quân qua trường Y khoa, đóng cách trường chừng một tiếng đồng hồ cuốc bộ. Tôi viết mấy chữ, nhờ người quen ở nhà trường gặp trên đường, hẹn Oanh gặp nhau gần chỗ đóng quân. Oanh ra nơi hẹn thật. Nhưng oái oăm thay, khi Oanh tới thì đơn vị tôi vừa nhổ trại chừng mươi phút.
Nhìn dấu vết, nàng đoán hướng chúng tôi đi. Oanh nhắm mắt nhắm mũi theo lối mòn chạy đuổi theo đoàn quân. Sau này Oanh kể lại, cô đã chạy cả tiếng đồng hồ, khi mệt đứt hơi lại ngồi xuống thở. Cuối cùng nàng cũng đuổi kịp tiểu đoàn chúng tôi.
Khi nhìn thấy tôi, Oanh đã ngã dúi xuống đất vì mệt quá. Tôi cúi xuống, đỡ Oanh lên, trước cái nhìn thán phục của đồng đội. Người Oanh ướt đẫm mồ hôi, như thể vừa vớt lên từ dưới nước, mặt dù trời rét cắt ruột. Chúng tôi đang hành quân, không thể dừng lại được. Tôi dìu người yêu đi theo đoàn quân đến chừng mười lăm phút, trước những đôi mắt tò mò kèm những lời trêu chọc bóng gió. Chúng tôi chỉ còn cách nói với nhau bằng ánh mắt. Tôi bảo Oanh về, trời sắp tối rồi. Cuối cùng nàng cũng phải đứng lại, ánh mắt rưng rưng, đưa bàn tay bé tí như cái quạt vẫy tôi và đoàn quân. Tôi quay lại phía sau, đi giật lùi một đoạn dài cho tới khi không còn nhìn thấy Oanh nữa. Nhưng rồi Oanh bỗng lại chạy vụt đến chỗ tôi. Nàng rút từ túi áo ngực, trao cho tôi một tấm ảnh nhỏ chụp nàng đang mỉm cười. Phía sau bức ảnh là nét chữ run run như đời nàng: mãi mãi của anh. Oanh còn chạy theo tôi mấy chặp như vậy mới chịu chia tay. Tám giờ tối hôm đó, thân gái dặm trường, Oanh mới về tới đơn vị. Còn tôi đi giữa hàng quân với ý nghĩ: nếu có phải đi ngược cả cuộc đời để được ngắm nàng, tôi cũng sẵn sàng đi giật lùi mãi. Chiều hôm ấy, trong gió rét, lá rụng đầy. Hoàng hôn màu hạt dẻ với chết nắng phai tàn cứ níu lấy tôi không chịu rút vào rừng. Những bông hoa rừng tôi nhìn thấy hầu như đều giấu một chiếc răng khểnh.
Năm 1951 và năm 1952, chúng tôi còn được gặp nhau hai lần nữa, nhưng lần nào cũng vội, cũng trước đám đông, chưa có dịp riêng tư hò hẹn. Bây giờ đã sang giữa tháng năm năm 1954, Tràng Giang cử tôi đi viết chuyện anh hùng trong một tháng. Khi về đến trung đoàn ba, tôi lao ngay vào công việc. Tôi viết thư báo cho Oanh biết, rồi hai đứa tôi hẹn địa điểm gặp gỡ.
Tôi dừng lại trên vạt đồi thoai thoải mọc đầy cây giẻ, hồi, trẩu xen lẫn những loài gỗ tạp ít người biết tên. Con suối cuối xuân cạn nước, giấu kín trong rừng, chạy rồng rần dưới chân đồi, vẫn không sao bí mật nổi vì tiếng róc rách của mình. Từ ngã tư có tên là ngã tư con khỉ, lội bộ theo chiều nước chảy chậm lắm cũng chỉ mất ba mươi phút là tới đây, chỗ chúng tôi hẹn nhau sáng chủ nhật. Nơi đây có lần Oanh từng đến nhặt hạt dẻ. Dưới tàn cây kín đáo, tôi ngồi trên vạt cỏ mềm bên suối, có mấy bụi mẫu đơn nở hoa lúc trắng lúc đỏ, chờ người yêu. Có tiếng bì bõm từ phía đầu con suối. Tim tôi đập cuống lên. Oanh tới?
Nàng dặn tôi không cần phải đón, cứ đợi ở chân đồi hạt dẻ này. Dù vậy, tôi vẫn men suối đi lên. Nhìn mãi không thấy người đâu? Hay là nàng nấp đâu đó để hú hòa cho tôi sợ. Lại tiếng bì bõm. Tôi căng mắt quan sát. Hóa ra, không phải người yêu mà là một con rái cá. Tôi lấy hòn sỏi ném và con vật chìm trong nước.
Hơn tiếng đồng hồ sau Oanh mới tới. Nàng bảo họp đột xuất và hai giờ chiều lại họp nữa, mặc dù là ngày chủ nhật. Người ta đã tìm ra cách giết thời gian một cách tàn nhẫn là tổ chức các cuộc họp liên miên. ừ, các nhà tổ chức cũng có lý của họ chứ. Để cho các người nghỉ ngơi rồi rãi một chết là y như sinh chuyện, lại có vấn đề tư tưởng cho mà xem, nhàn cư vi bất thiện, chi bằng cứ họp là thượng sách. Oanh mặc chiếc áo gụ đã sờn, chiếc quần đen vải thô dày còn khá mới, đi đôi dép cao su mỏng như cái lưỡi mèo, vai đeo cái túi thổ cẩm đựng ít kẹo, mấy viên đường phèn và vài gói thuốc bổ nàng dành dụm cho tôi. Oanh xắn quần cao quá đầu gối, bước bì bõm theo tiếng suối róc rách. Đôi cặp giò nàng thon dài, trắng hong đung đưa bàn chân khỏa nước, mỗi bước chân òa vỡ. trong veo từng chùm bong bóng trắng. Thấy tôi lao ra đón, nàng cười ngượng nghịu, mặt đỏ nhừ. Tôi vừa kêu tên nàng vừa bế thốc người yêu trên tay. Oanh chống cự cho phải phép, miệng không ngớt kêu đừng, đừng, nhưng đôi tay mảnh khảnh, mềm như hai dây kẹo kéo của nàng cứ quấn chặt lấy cổ tôi có trời gỡ ra. Tôi đặt Oanh ngồi trên võng, lấy chiếc khăn bông khô lau từ đầu gối tới bàn chân nàng. Oanh giả vờ như không biết, khẽ xoa bàn tay lên cái mụn vá trên vai áo lính bạc màu của tôi. Trưa ấy, chúng tôi hì hục đào bếp hoàng cầm bên suối, nấu cơm dã chiến ăn với cá hộp chiến lợi phẩm tôi mang theo. Con suối dùng cặp mắt mèo của mình nhìn chúng tôi không chớp. Có tiếng lá rụng mơ hồ. Vài tia nắng lọt qua tán lá rừng rơi xuống, có ý định làm bạc đầu hai đứa chúng tôi. Ngồi bên Oanh, tôi cảm động, hồi hộp đến mức tí khóc. Đôi mắt Oanh, mở to sáng và mọng nước, vừa như chứa đựng toàn bộ niềm vui và nỗi buồn, chứa đựng cả hạnh phúc và bất hạnh của cuộc đời tôi. Ăn cơm uống nước xong, sắp đến giờ chia tay, tôi đặt Oanh ngồi trên võng nghỉ. Tôi ngồi dưới võng, ôm lấy đôi chân người yêu. Từng ngón chân Oanh non nớt đến tội nghiệp, với những móng chân vảy ốc lúc hồng nhạt, lúc lại óng ánh lên cái ánh sáng bí ẩn mà chỉ những người đàn bà đang yêu mới có. Đôi gót chân son của nàng có khi lại chuyển sang màu mận chín, có khi trắng như hoa cau, chứng tỏ nàng đang cảm động. Tôi thương bàn chân Oanh đến nghẹn ngào. Đôi bàn chân nhung lụa này đã phải đi qua chiến tranh và chết chóc, vượt qua bao nhiêu tai ương, bất hạnh. Tôi bỗng nhận ra mình đã đi bằng đôi chân của nàng, từ độ ngày đầu vào lớp học vỡ lòng, tôi đã trả thù nàng bằng cách đạp vào bàn chân nàng, khiến nàng đau phát khóc. Ngồi dưới võng, tôi vuốt ve bàn chân người con gái, khiến nàng co chân lên như tính bỏ chạy. Tuy vậy, tôi đã chộp lại được bàn chân nàng như chộp được con ếch tuổi thơ. Và nhanh như chớp, tôi cúi xuống hôn lên bàn chân đầy tín ngưỡng, đầy phép lạ này. Oanh cười bẽn lẽn, co chân lên võng, lảng sang chuyện khác:
- Này anh, ngày ấy sao em ngốc quá vậy. Em nhất định tin anh thích ăn ruồi và ngày nào cũng ăn cả vốc.
Đột nhiên, Oanh nhảy từ võng xuống, ngồi xuống cạnh tôi.
Nàng tỏa vào tôi độ ấm của cả một đời tôi cộng lại. Có một dòng điện bí ẩn đang truyền từ thân thể nàng sang con người tôi, khiến tôi lơ lửng, như sắp đóng thành băng tuyết và như sắp bốc cháy. Tôi ôm chặt lấy Oanh. Hai đứa cứ ngồi như vậy thật lâu nhìn suối chảy. Tôi bỗng quên hết mọi thứ trên đời: chiến tranh, các nghị quyết, những tín điều, kể cả lời dạy dỗ của Tràng Giang... Trên thế gian này dường như chỉ còn hai đứa chúng tôi ngồi lại. Chúng tôi là đôi tình nhân đầu tiên và cuối cùng của tráỉ đất Dường như nhân loại đã biến đi đâu hết, bỏ lại chúng tôi trong vườn địa đàng của chiến tranh này. Họ đi tìm chiến thắng, tìm quyền lực, bạc vàng và danh vọng. Hai đứa tôi vẫn ôm lấy nhau, cùng ngắm nhau trên dòng suối. Bóng của chúng tôi cứ đung đưa không ngừng, chuyển động không ngừng. Gió rừng, một kẻ mai mối hay tuyệt, bỗng thổi bay từng lọn tóc Oanh sang cổ tôi, xòa lên mặt tôi nhột nhạt. Hay thật, ông trời đang dùng tóc nàng cột lấy đời tôi, như cột trâu vào cọc. Chính những lọn tóc lòi tói kia đã kéo sát hai gương mặt chúng tôi sát vào nhau. Sát, sát nữa, sát tới mãi mãi không cùng tận, không có bờ bến.
Và tự nhiên, như trời đất ấy, đôi môi chúng tôi tìm tới nhau, vùi vào nhau trong một cơn sốt con người. Cái hôn đầu này chính là dấu son, đóng vào trái tim tôi sự xác nhận của giấy giới thiệu vào đời. Đấy, mày cứ cầm cái giấy có con mộc của nàng mà đi Hưng ạ. Mày sẽ vượt qua tất cả. Đến ngay vị đắng cũng sẽ giúp mày tìm ra chất ngọt. Nỗi đau cũng có thể làm mày sung sướng, sự nghèo khó khiến mày học được cách trở nên giàu có. Nếu không có tiếng máy bay phóng pháo của quân Pháp xẹt ngang bầu trời rừng trưa yên tĩnh, có lẽ đôi môi chúng tôi đã dính chặt lấy nhau đến độ không thể nào gỡ nổi. Tôi hôn hít chưa từng có kinh nghiệm, vụng về quá làm môi Oanh chảy máu. Nhưng rồi chúng tôi lại hôn nhau. Tôi nghe trong đầu lưỡi có vị mặn của máu.
Hạnh phúc nào không bắt đầu từ một vết thương, một vết rớm máu? Cái ý nghĩ sắp phải chia tay giúp tôi thêm dũng khí. Tôi vùi đầu vào ngực người yêu để tìm lại hình ảnh người mẹ thời bú mớm. Bàn tay tôi chạm phải hai đầu vú nóng bỏng của nàng, như cố tìm nơi để bấu víu vào cái thế giới trơn tuột đầy vực thẳm này. Oanh hất tay tôi ra, mặt đỏ bừng, vặn người như con rắn, quay đầu thở hổn hển thì thầm:
- Chết em mắt, ôi, anh, chết em mất:...
Tôi tỉnh táo lại, trở về giới hạn của mình. Tôi vuốt bàn tay lên mái tóc nàng như có ý xin lỗi, Oanh vẫn xấu hổ vùi mặt vào cánh tay tôi kêu chết mất. Tôi im lặng nói thầm: chết làm sao được em ơi. Lẽ nào những người yêu nhau lại có thể chết? Chỉ có những kẻ không biết yêu, không được yêu mới chết, mới hốt hoảng, sợ hãi nhìn ra thế giới thăm thẳm cô đơn này như nhìn vào nghĩa địa. Gió đã thả những lọn tóc của Oanh ra khỏi mặt và cổ tôi. Rừng thở ngây ngất một điệu lá xào xào xa vắng. Nàng đã lách qua suối làm bạc tóc chúng tôi. Oanh không còn kêu chết mất nữa. Nàng im lặng nhìn tôi. Mắt Oanh hoang vằng và mê dại, như người đã khóc thầm một mình trong đêm vắng. Tôi nhìn thấy vệt môi dưới của Oanh mọng chín, sưng lên, đỏ rực như màu hoa lựu. Hậu quả của cái hôn đầu của tôi, một kẻ vụng về nhất trần đời, thô bạo nhất trần đời đã hôn vào đôi môi mềm mại của người yêu theo kiểu cu trâu ngoặm bắp ngô non.


Nguồn: Mõ Hà Nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003