Chương 20
CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT CỦA AÊLITA

- Cách đây hai mươi nghìn năm, sống ở Tuma, tức là Sao Hỏa, có người Aol, một chủng tộc có nước da màu da cam. Những bộ lạc hoang sơ của người Aol - những người săn bắn chuyên ăn các con nhện khổng lồ - sống trong rừng và đầm lầy xích đạo. Ngày nay, trong ngôn ngữ của chúng tôi chỉ còn lại vài từ của những bộ lạc ấy. Một bộ phận khác của người Aol ở các vịnh phía Nam một lục địa nước ngọt. Dân cư đánh bắt cá đem đổ vào các hồ nước mặn. Họ tránh mùa đông giá lạnh, ở tít sâu trong các hang. Cho tới nay, ở đó vẫn còn thấy nhiều đống xương cá.
Bộ phận thứ ba của người Aol ở gần xích đạo, dưới chân núi, ở tất cả những nơi nào có suối phun nước uống được. Các bộ lạc này biết xây nhà, nuôi loài thú khasi lông dài, đánh nhau với những người ăn nhện và thờ cúng ngôi sao Talxetl đỏ như máu.
Trong một bộ lạc sống ở đất nước Adora sung sướng xuất hiện một sokho khác thường. Anh ta là con trai một người chăn súc vật, lớn lên ở vùng núi Lidiadira và khi anh ta mười bảy tuổi, anh ta xuống đồng bằng, đi từ thành phố này sang thành phố khác và nói:
“Tôi mơ thấy bầu trời mở ra, và một ngôi sao rơi xuống. Tôi lùa đàn khasi của tôi đến chỗ ngôi sao rơi. Ở đó, tôi thấy một ông Con Trời đang nằm trên cỏ. Ông ta thật to lớn. Mặt ông ta trắng như tuyết trên các đỉnh núi. Ông ta ngẩng đầu lên, thế là tôi thấy đôi mắt ông ta tỏa ra ánh sáng và sự cuồng si. Tôi hoảng sợ phủ phục xuống và cứ nằm thế mãi như đã chết. Tôi nghe thấy tiếng ông Con Trời cầm lấy cây gậy dài của tôi đuổi đàn khasi của tôi đi, và mặt đất rung chuyển dưới các bước chân của ông ta. Tôi còn nghe thấy giọng nói oang oang của ông ta. Ông ta nói: “Mi sẽ chết, bởi vì ta muốn thế”. Nhưng tôi đi theo ông ta, vì tôi tiếc đàn khasi của tôi. Tôi sợ lại gần ông ta: mắt ông ta tóe lửa, và mỗi lần như vậy tôi lại phủ phục xuống để được sống.
Chúng tôi cứ đi thế vài ngày, xa dần núi non, đi sâu vào hoang mạc.
Ông Con Trời quật cây gậy vào đá, thế là nước chảy ra. Đàn khasi và tôi uống thứ nước ấy. Rồi ông Con Trời bảo tôi: “Mi hãy làm nô lệ của ta”. Từ đó, tôi chăn dắt đàn khasi cho ông ta, và ông ta vứt cho tôi những thứ thức ăn thừa”.
Anh mục phu nói với dân chúng các thành phố như vậy. Anh ta còn nói:
“Những con chim hiền lành và những con thú ôn hòa cứ sống mà không biết bao giờ cái chết sẽ đến. Nhưng con ikhi tàn ác đã dang đôi cánh trên con sếu; con nhện đã chăng lưới; đôi mắt khủng khiếp của con sa đã dòm ngó qua bụi cây xanh. Các người phải biết sợ mới được.
Các người không có gươm đủ bén để chém kẻ ác độc. Các người không có những bức tường chắc chắn để mà chặn nó. Các người không có đôi chân dài để mà chạy trốn nó. Tôi đã trông thấy trên trời có một vạch lửa. Thế nào ông Con Trời độc ác cũng sẽ rơi xuống chỗ các người. Mắt ông ta như cục lửa đỏ Talxetl ấy”.
Dân chúng đất nước Adora thanh bình khiếp sợ khi nghe những lời ấy. Anh chàng mục phu còn nói:
“Khi con sa khát máu đưa mắt qua bụi cây tìm ta - ta hãy trở thành cái bóng, để mũi con sa không ngửi thấy mùi máu ta. Khi con ikhi từ trên đám mây hồng lao xuống, ta hãy trở thành cái bóng, mắt nó sẽ không thể tìm được ta trong cỏ. Dưới ánh sáng của hai mặt trăng - ollo và lilkha - ban đêm, con nhện độc ác, xitli, chăng mạng xung quanh ngôi nhà của ta, ta hãy biến thành cái bóng, thế là con xitli sẽ không bắt được ta. Hãy trở thành cái bóng, hỡi người con khốn khổ của Tuma. Chỉ có điều ác mới cuốn hút điều ác. Hãy gột bỏ khỏi bản thân mình tất cả những gì ác độc. Hãy chôn vùi những khiếm khuyết của mình dưới ngưỡng cửa nhà mình. Hãy đến suối phun Xoam vĩ đại mà tẩy rửa. Có thế, ông Con Trời ác độc mới không trông thấy ta, cho dù con mắt ngầu máu của ông ta có nhìn xuyên qua bóng ta chăng nữa. ” Dân chúng Adora nghe anh chàng mục phu. Nhiều người đi theo anh ta tới hồ nước tròn, tới suối phun Xoam vĩ đại.
Nhưng một số người hỏi: “Làm cách nào để có thể chôn vùi điều ác dưới ngưỡng cửa nhà mình?” Một số người tức giận quát anh chàng mục phu: “Ông lừa dối bọn ta. Lũ ăn mày bực bội xúi bẩy ông ru ngủ sự cảnh giác của chúng ta để chiếm đoạt nhà cửa của bọn ta”. Một số khác nữa thì bàn nhau: “Chúng ta hãy đưa cái thằng chăn súc vật điên rồ này lên vách đá rồi quẳng nó xuống hồ nước nóng. Hãy để cho chính nó trở thành một cái bóng”.
Nghe vậy, anh chàng mục phu cầm lấy ulla, cây đàn gỗ, ở phía dưới, chỗ hình tam giác có căng dây đàn, rồi ngồi xuống giữa những người băn khoăn mà vừa đàn vừa hát. Anh ta chơi đàn và hát hay đến nỗi chim ngừng hót, gió ngừng thổi, đàn gia súc nằm cả xuống và mặt trời ngừng chuyển động trên bầu trời. Vào lúc ấy, ai cũng có cảm giác rằng anh ta đã chôn vùi những khiếm khuyết của anh ta ở dưới ngưỡng cửa nhà anh ta.
Anh chàng mục phu dạy mọi người trong ba năm. Đến mùa hè thứ tư, những kẻ ăn nhện từ dưới đầm lầy lên tấn công vào dân chúng Adora. Anh chàng mục phu đi hết nơi này đến nơi nọ và nói: “Đừng bước qua ngưỡng cửa nhà mình. Hãy biết sợ cái ác trong bản thân mình! Chớ có để mất sự trong sạch!” Nhiều người nghe anh ta, và có những người không muốn chống lại lũ ăn nhện, cho nên bọn chúng đánh gục họ trên ngưỡng cửa nhà họ. Bấy giờ, thủ lĩnh cả thành phố mới bàn bạc cùng nhau, bắt anh chàng mục phu, dẫn anh lên vách đá và quăng xuống hồ.
Học thuyết của anh chàng mục phu vượt xa ngoài ranh giới Adora. Ngay cả những người trú ngụ ở các hang gần biển cũng khắc trên đá hình ảnh anh ta đang chơi ulla. Nhưng cũng có một số thủ lĩnh bộ lạc lại xử tử những người tôn thờ anh chàng mục phu, vì học thuyết của anh ta bị coi là điên rồ và nguy hiểm. Thế rồi đến lúc lời tiên tri trở thành hiện thực. Biên niên sử thời đó cho biết:
“Bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, các Con Trời rơi xuống Tuma.
Sau hoàng hôn, sao Talxetl mọc lên và rực cháy một ánh sáng khác thường như một con mắt ác độc. Nhiều Con Trời rơi xuống bị chết.
Nhiều ông bị đập vào đá, bị chìm dưới đại dương miền Nam. Nhưng cũng nhiều người tới được bề mặt Tuma và còn sống. Biên niên sử kể như vậy về cuộc di dân vĩ đại của các Magaxitl, tức là một bộ lạc của chủng tộc dưới Trái Đất bị diệt vong bởi trận đại hồng thủy cách đây hai mươi nghìn năm.
Các Magaxitl bay trong những thiết bị bằng đồng có hình quả trứng, chuyển động bằng lực phân rã vật chất. Họ rời Trái Đất trong bốn mươi ngày.
Nhiều quả trứng khổng lồ bị mắc trong khoảng không gian vũ trụ. Nhiều quả khác bị vỡ khi đập vào bề mặt Sao Hỏa. Chỉ một số ít an toàn hạ xuống bình nguyên của lục địa xích đạo.
Biên niên sử cho hay:
“Họ bước ra khỏi thiết bị hình quả trứng, vóc người cao lớn và tóc đen. Mặt các Con Trời đều vàng và phẳng. Thân mình họ và đầu gối họ đều bọc vỏ đồng. Trên mũ có mào nhọn, và mũ nhô ra phía trước mặt. Ở tay trái, Con Trời cầm một cây kiếm ngắn. Tay phải cầm một cuộn giấy ghi những công thức hủy diệt các dân tộc nghèo khổ và dốt nát của Tuma”.
Người Magaxitl, một bộ lạc dữ tợn và hùng mạnh, là như thế đấy.
Ở Trái Đất, trên lục địa bị chìm xuống đáy đại dương, họ là chủ nhân của thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG.
Tới đấy, ra khỏi các quả trứng bằng đồng, họ đến chỗ có người Aol ở, lấy tất cả những gì họ muốn và giết chết những ai chống cự lại họ.
Họ xua đuổi hàng đàn khasi ra đồng bằng và bắt đầu đào giếng. Họ cày bừa ruộng nương và gieo hạt đại mạch. Nhưng nước trong các giếng có ít, hạt đại mạch bị chết trong đất khô cạn và cằn cỗi. Thấy vậy, họ liền bảo dân Aol ra bình nguyên đào kênh mương dẫn nước và xây dựng những hồ chứa nước lớn.
Một số bộ lạc nghe theo họ, đi đào kênh. Một số khác bảo: “Chúng ta không nghe theo họ, chúng ta sẽ giết chết họ”. Các đội quân Aol ra bình nguyên đông như kiến.
Số người ở Trái Đất đến có ít thôi. Nhưng họ vững chắc như đá, hùng mạnh như sóng đại dương, dữ tợn như bão tố. Họ quét sạch và tiêu diệt hết quân Aol. Làng mạc, thành phố cháy rừng rực. Các đàn gia súc chạy tán loạn. Những con sa dữ tợn ở đầm lầy lên cắn xé trẻ em và phụ nữ. Lũ nhện chăng mạng xung quanh các ngôi nhà đã vắng vẻ. Những con ikhi ăn xác chết, béo núc ra, đến nỗi không thể nào bay được nữa. Ngày tận thế đã tới.
Khi đó, người ta mới nhớ lại lời tiên tri: “Hãy trở thành cái bóng đối với điều ác, hỡi người con khốn khổ của Tuma, để con mắt đỏ máu của Con Trời có nhìn xuyên qua bóng ngươi cũng vô ích”. Nhiều người Aol đi đến suối phun Xoam vĩ đại. Nhiều người lên núi, hi vọng nghe thấy tiếng đàn ulla gột rửa được điều ác véo von trong những khe núi mù sương. Nhiều người chia sẻ tài sản với nhau. Họ tìm kiếm ở bản thân và ở người xung quanh những điều thiện rồi vừa ca hát, vừa rưng rưng nước mắt sung sướng chào đón điều thiện. Trong vùng núi Lidiadira, những người tôn thờ anh mục phu xây dựng Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng, nơi điều ác được chôn vùi dưới đó. Ba vòng những đống lửa không bao giờ tắt bảo vệ cho Ngưỡng Cửa.
Các đội quân Aol đã bị chết: Trong rừng, lũ người ăn nhện đã bị diệt sạch. Những dân chài ở ven bờ biển còn sống sót đều trở thành nô lệ. Những người Magaxitl không động tới tín đồ tôn thờ anh mục phu, không chạm tới Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng, không tới gần suối phun Xoam, không vào sâu các khe núi, nơi cứ giữa trưa là làn gió thổi qua lại tạo nên những âm thanh bí ẩn - bài hát của ulla.
Cứ thế, nhiều năm tháng đẫm máu và buồn rầu trôi qua.
Những kẻ mới đến không có phụ nữ, nên bọn xâm lược sẽ phải chết mà không để lại được con cháu nối dõi. Thế rồi ở vùng núi, nơi lẩn trốn của dân chúng Aol. Xuất hiện một sứ giả - một Magaxitl mặt mũi rất đẹp. Anh ta không đội mũ và không cầm kiếm. Tay anh ta cầm một chiếc gậy có buộc một cuộn sợi. Anh ta tới gần những đống lửa của Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng và nói với những người Aol ở tất cả các khe núi tụ hội đến:
“Đầu tôi để trần, ngực tôi không có gì che chắn - xin hãy chém chết tôi, nếu như tôi nói dối. Chúng tôi rất hùng mạnh. Chúng tôi đã chiếm được sao Talxetl. Chúng tôi đã bay qua con đường sao vẫn được gọi là dải Ngân Hà. Chúng tôi đã chinh phục Tuma và tiêu diệt những bộ lạc thù địch với chúng tôi. Chúng tôi đã bắt đầu xây dựng xong thành phố Xoaxera, nghĩa là Làng Mặt Trời. Chúng tôi sẽ đem lại cuộc sống cho tất cả những ai muốn sống. Nhưng chúng tôi không có phụ nữ, nên chúng tôi phải chết mà không thực hiện được các dự định. Hãy cho chúng tôi những cô gái tân. Chúng tôi sẽ làm cho họ đẻ ra một bộ lạc hùng mạnh, và bộ lạc ấy sẽ cư trú trên các lục địa Tuma. Hãy đến với chúng tôi và hãy giúp chúng tôi xây dựng”.
Người sứ giả đặt chiếc gậy có buộc cuộn sợi bên đống lửa, rồi ngoảnh mặt về phía Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng. Mắt anh ta nhắm lại. Ai cũng thấy trên trán anh ta có một con mắt thứ ba nữa được phủ một lớp màng, như hơi bị sưng.
Dân Aol bàn bạc với nhau và bảo nhau: “Trên núi không có thức ăn cho gia súc và ít nước. Vào mùa đông, chúng ta bị rét cóng trong các hang. Những cơn gió mạnh bốc cả nhà cửa của chúng ta xuống khe sâu. Chúng ta hãy nghe theo sứ giả, trở về nơi ăn chốn ở cũ đi thôi”.
Dân Aol từ các khe núi ra bình nguyên, xua đàn khasi đi trước.
Người Magaxitl lấy các cô gái tân và làm họ sinh ra bộ lạc Gor có nước da màu xanh da trời. Đó chính là lúc khởi công mười sáu hồ chứa nước khổng lồ ở Ro, nơi chứa nước khi tuyết tan. Các bình nguyên khô cằn được xẻ ngang xẻ dọc thành các kênh mương và được tưới nước.
Từ tro tàn, mọc lên những làng mạc mới của người Aol. Các cánh đồng đều được mùa lớn.
Người ta đã xây dựng các bức tường Xoaxera. Trong thời gian xây dựng các hồ chứa nước và các bức tường, người Magaxitl dùng những cần trục lớn, chuyển động bằng những máy móc kì lạ. Với sức mạnh tri thức, người Magaxitl có thể di chuyển những tảng đá lớn và làm cho cây cối to lớn hơn. Họ ghi chép tri thức vào các cuốn sách bằng những vệt máu và những ký hiệu hình ngôi sao.
Khi người cuối cùng từ Trái Đất chết đi, cả tri thức cũng đi theo luôn. Mãi hai chục nghìn năm sau, chúng tôi, con cháu của bộ lạc Gor, mới lại đọc được những cuốn sách bí mật của người Atlan.