Dịch giả Tịnh Minh
Chương 49
Phật Độ Hung Thần A La Va Ca

Tại thành A-ta-vi (Atavi) có một vị vua rất ham mê săn bắn. Một hôm, vừa thấy một con nai to, ngài đuổi theo ngay. Con nai chạy lẹ quá, và vì quyết đuổi theo con nai, nhà vua lạc xa các tay săn khác. Cuối cùng, con mồi chạy mất. Mệt mỏi, chán nản, nhà vua ngồi tựa vào một gốc cây, thiếp ngủ lúc nào không biết.
Bấy giờ hung thần A-la-va-ca (Alavaka) ở trên cây hiện xuống. Hắn thích ăn thịt người, hắn sát hại và ngấu nghiến tất cả những ai đến gần hắn. Thấy nhà vua, hắn ra mặt hớn hở; vì vua ham mê săn bắn khốn nạn kia sắp bị một quả đấm ác liệt thì, may thay, một tiếng động làm ngài thức dậy. Thấy mạng sống của mình bị đe dọa, nhà vua gượng đứng lên, nhưng hung thần đã tóm cố ngài quật xuống. Nhà vua hết lòng van xin:
"Thưa ngài, xin ngài tha mạng cho con. Nhìn vóc dáng dễ sợ của ngài, con biết ngài là một hung thần ăn thịt người. Thưa ngài, xin ngài thương con. Con sẽ không bao giờ quên ơn ngài. Con sẽ dâng ngài những lễ vật tuyệt diệu".
A-la-va ca đáp: "Ta không cần lễ vật! Ta muốn ăn thịt người; ta đói lắm rồi".
Nhà vua đáp: "Thưa ngài, cho con về A-ta-vi, con sẽ dâng ngài mỗi ngày một người để ngài xơi thịt".
"Khi ngươi về nhà, ngươi sẽ quên lời hứa".
Nhà vua đáp: "Không, con không bao giờ quên lời. Hơn nữa, nếu như con không dâng ngài lễ vật hằng ngày, ngài cứ đến thẳng hoàng cung của con mà nguyền rủa, con sẽ theo ngài, ngài sẽ ăn tươi nuốt sống con".
Hung thần tha cho, nhà vua trở về thành A-ta-vi. Nhưng ngài mãi lo nghĩ về lời hứa ác nghiệt của mình; không có cách nào để tránh, ngài buộc phải mang danh là một vị vua hung tàn bạo ngược.
Ngài triệu quan tể tướng và trình bày sự việc đã xảy ra. Suy nghĩ trong giây lát, quan tể tướng tâu vua:
"Tâu bệ hạ, trong ngục A-ta-vi có nhiều tội nhân bị kết án tử hình. Chúng ta có thể nộp chúng cho hung thần. Khi thấy bệ hạ giữ lời hứa với hắn, biết đâu hắn sẽ miễn giảm cho ngài."
Vua chấp thuận lời đề nghị. Ngài ra lệnh cho vệ binh đến khám đường nói với các tên tử tù đã được ấn định từng ngày rằng:
"Cách thành không xa, trên cây đại thọ có một thiên thần rất thích cơm gạo. Ai đến dâng ngài một đĩa cơm dưới gốc cây thì sẽ được ân xá".
Sau đó, mỗi ngày, lần lượt từng người hân hoan bê một đĩa cơm đến đặt dưới cây và không bao giờ trở lại.
Bấy giờ, không còn một tên tử tù nào trong ngục. Quan tể tướng ra lệnh cho các biện lý án sát triệt để khiêm khắc, không tha bất cứ một tên tù nào bị truy tố là sát nhân, trừ phi có bằng chứng hiển nhiên là vô tội, nhưng cũng vô ích thôi; họ phải tìm ra biện pháp khác để thõa mãn hung thần. Họ bắt đầu hy sinh những tên trộm cướp.
Dù họ ra sức kết tội thế nào thì ngục tù cũng lại trống rỗng, nhà vua và quan tể tướng buộc phải tìm các nạn nhân trong đám dân cư lương thiện trong thành. Các cụ già bị tóm cổ đưa tới gốc cây trước, và nếu các vệ binh không nhanh chân thì hung thần có lúc cũng ngấu nghiến họ như các nạn nhân.
Tình cảnh đen tối âu lo bao trùm cả thành A-ta-vi. Các cụ già biến dần đâu hết; không ai hay biết việc gì đã xảy đến cho họ. Và, mỗi ngày, nỗi ân hận của vua lại càng tăng thêm chua xót. Nhưng ngài không đủ can đảm hy sinh đời mình cho quốc dân hạnh phúc. Ngài nghĩ:
"Sẽ không ai đến giúp ta sao? Ta nghe nói, khi thì ở Xá-vệ, khi thì ở Vương-xá, có một người quyền năng cao siêu, đó là Đức Phật mà thần thông diệu dụng của Ngài đã được mọi người Tôn vinh ca ngợi. Họ bảo Ngài thích vân du đây đó. Vậy sao Ngài không đến vương quốc của ta?"
Nhờ uy lực nhiệm màu của Ngài, Đức Phật biết rõ nguyện vọng của nhà vua. Ngài đến thẳng cây đại thọ của A-la-va-ca. Ngài ngồi yên tại đó.
Vừa thấy Ngài, hung thần tức tốc hầm hầm đi tới, nhưng, bỗng nhiên, hắn mất hết nghị lực, hai đầu gối của hắn run cầm cập. Hắn lên cơn thịnh nộ.
Hắn giận dữ hỏi: "Ngươi là ai?"
Đức Phật đáp: "Người có quyền năng vượt hẳn ngươi."
A-la-va-ca giận tím mặt. Hắn muốn xé người đang ngồi trên đất trước mặt hắn, người mà hắn không thể nào xúc phạm; hắn muốn hành hạ Ngài cho đến chết. Đức Phật vẫn ngồi an nhiên tự tại.
A-la-va-ca cuối cùng tìm cách tự trấn tỉnh. Hắn nghĩ bạo lực không thắng nổi, quỉ kế có lẽ thành công hơn, hắn lên giọng vui vẻ nói:
"Thưa Ngài, ta thấy Ngài là một nhà thông thái; hân hạnh cho ta là luôn luôn được hầu chuyện với các nhà thông thái. Ta hỏi họ bốn điều. Nếu đáp được, họ tự do ra về; nếu không đáp được, họ phải ở lại trong ngục tù ta, và ta sẽ ngấu nghiến họ khi nào cần".
Đức Phật nói: "Thử hỏi ta bốn điều xem."
A-la-va-ca nói: "Ta phải báo cho ngươi biết là chưa có ai đáp được bốn điều đó. Ngươi sẽ thấy rải rác quanh đây những mảnh xương người mà ta đã hỏi họ trong quá khứ".
Đức Phật lập lại: "Hãy thử hỏi bốn điều gì xem."
A-la-va-ca nói: "Thế thì, làm sao nhân loại có thể tránh khỏi dòng sông ái dục? Làm sao nhân loại có thể vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành? Làm sao nhân loại có thể thoát khỏi bão tố ác trược? Làm sao nhân loại có thể không bị giông gió tham nhiễm?"
Đức Phật ôn tồn đáp:
"Nếu qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng thì nhân loại tránh khỏi dòng sông ái dục; nếu hiểu được việc thiện thì nhân loại vượt qua biển cả sanh tử, tìm thấy bến bờ an lành; nếu làm được việc thiện thì nhân loại thoát khỏi bão tố ác trược; nếu biết thánh đạo dẫn đến giải thoát thì nhân loại không bị giông gió tham nhiễm."
Nghe lời đáp của Đức Thế Tôn, A-la-va-ca hết lòng Tôn kính, cuối đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và tuyên hứa thay đổi cách sống man rợ của y. Sau đó, Đức Thế Tôn và A-la-va-ca cùng đến thành A-ta-vi, đến thẳng cung điện của nhà vua.
Hung thần nói: "tâu bệ hạ, nay ta hủy bỏ lời giao ước với ngài."
Nhà vua sung sướng hơn bao giờ hết. Đến lúc biết được người cứu mình, nhà vua reo lên:
"Bạch Đức Thế Tôn, con xin qui y Ngài, Ngài đã cứu con và cứu cả quốc dân con; con xin qui y Ngài, con sẽ dâng hiến đời con cho việc xiển dương Tam bảo, xiển dương ánh sáng huy hoàng rực rỡ của Phật và Thánh tăng."