Blaga Đimitrôva
Phần 2

I
Vào những năm đánh Mỹ, Việt Nam được coi là Lương tâm của thời đại. Có học giả nước ngoài chỉ ước: Sau một đêm ngủ dậy trở thành người Việt Nam.
Có lẽ cũng vì thế mà thi hào dân tộc Bungari - bà Blaga Đimitrôva đã lặn lội đến Việt Nam không phải một lần, mà sáu lần. Bà đã có mặt ở những nơi bom đạn ác liệt nhất: Hà Nội, Hải phòng, Phủ Lý, Vinh, Ngã ba Đồng Lộc, rồi Quảng bình, Vĩnh Linh, Thanh Hoá. Bà đã chứng kiến nhiều trận chiến đấu, nhiều cuộc hy sinh, cả những ca mổ cấp cứu trong hang đá Ninh Bình, đã nhìn tận mắt một người con gái gầy gò, xanh tái vì sốt rét, tự treo mình lên cùng chiếc xe đạp, rồi guồng chiếc xe trong không khí để lấy ánh sáng đèn xe cho ca mổ mà theo bà đó là cuộc phẫu thuật có một không hai trong lịch sử y học nhân loại. Blaga Đimitrôva đã có ba tập sách đặc sắc viết về Việt Nam: Bầu trời và mặt đất, Vây giữa tình yêu, Ngày phán xử cuối cùng. Cả ba cuốn này đều được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Nhiều học giả nước ngoài nói với tôi rằng, họ biết Việt Nam, hiểu Việt Nam đến mức sâu sắc là nhờ Blaga Đimitrôva. Trong ba tập sách tuyệt vời ấy có hai cuốn đã được dịch sang tiếng Việt: Vây giữa tình yêu và Ngày phán xử cuối cùng. Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng, với những tập sách này Blaga đã đạt tới độ chín nhất của tài năng sáng tạo. Ông bảo tôi: Đọc Blaga mình sợ quá? Chị ấy bay bằng tên lửa, còn mình thì đi bằng hai chân què của con vịt bầu. Rồi ông còn bảo: Khi phụ nữ có trí tuệ ngang đàn ông thì họ hơn đứt cánh đàn ông chúng ta cái tình cảm, xúc cảm. Chị Blaga là như thế đấy.
Quả đúng như Xuân Diệu nói. Với những cuốn sách viết về Việt Nam, Blaga đã đạt đến độ chín nhất của tài năng mình. Đọc bà, ta có cái thú của một người du ngoạn. Ta được ngắm lại ta bằng con mắt của một người ngoại quốc. Với cái nhìn tươi xanh, đầy nhân ái và từng trải, lại cộng với một trí tuệ tuyệt vời Blaga đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của ta, mà ta không thấy được. Nhìn những đứa trẻ đội nón lũn chũn đi dưới rặng tre xơ xác vì bom đạn, bà lại thấy đó là những con ốc đang vác theo cái nhà của mình. Đến Khâm Thiên, một khu phố vừa bị bom B52, Blaga gặp một người phụ nữ có chửa đang khoan thai đi giữa một vùng ngổn ngang đổ nát. Cứ như cái nhìn của bà, thì người phụ nữ ấy đã ôm trọn cả quả địa cầu trước ngực. Chị gom nhặt từng mảnh vỡ của thế giới hoang tàn, đổ nát rồi cho vào cái bụng phình tròn của mình, để nhào nặn, hoài thai, rồi đẻ ra một thế giới nguyên vẹn, hoàn thiện và văn minh.
Blaga rất yêu Việt Nam. Có lần bà ghé thăm một trại trẻ ở Hải Phòng, khi vừa dứt trận bom. Nhiều cháu bé lấm lét nhìn bà. Có cháu khóc ré lên vì sợ hãi. Đối với chúng, bà như người khổng lồ mắt xanh, mũi lõ. Chỉ duy nhất một cháu gái không sợ. Cháu lẫm chẫm đến bên bà, quạt cho bà, rồi múa bà xem.
- Cháu tên là gì?
Blaga âu yếm cúi xuống hỏi. Cháu bé ngửa mặt nhìn bà:
- Dạ, cháu tên Hà. Hoàng Thu Hà!
- Cháu mấy tuổi rồi?
- Cháu 5 tuổi?
- Thế chân cháu làm sao thế kia? Muỗi đốt à?
- Không, đỉa cắn đấy!
- Đỉa ở đâu?
- Đỉa dưới hầm trú ẩn. Hầm trú ẩn nhiều đỉa lắm?
- Thế cái gì ở cổ tay cháu kia?
- Dạ, cái vòng ạ!
- Thế chữ gì ở trên vòng thế
- Dạ, chữ Hoàng Thu Hà. - Cô bé giải thích. - Cô giáo Nhung khắc tên Hà vào đây, để nếu bom Mỹ có giết chết Hà thì cô giáo Nhung còn biết mà báo cho mẹ Hà...
Nhà thơ Chế Lan Viên dịch cuộc đối thoại này. Ông bắt chước hệt giọng điệu trẻ con đến nỗi cháu bé ngoẹo cổ cười ngặt nghẽo. Chế Lan Viên cũng cười. Nhưng Blaga thì khóc. Và rồi từ ấy thành một nỗi ám ảnh, bà không còn sống thanh thản được nữa. Cứ nhắm mắt lại là thấy những trái bom săn tìm cháu bé. Rồi bà lại sang Việt Nam. Lần này bà muốn cứu cháu bé thoát khỏi những trái bom. Phải vất vả lắm, bà mới qua hết các thủ tục, đưa được cháu bé về Bungari. Hơn mười năm sau, Hoàng Thu Hà đã là nghệ sĩ piano. Cô nói giỏi tiếng Bun, nhưng tiếng Việt thì không còn nhớ nữa. Blaga không muốn cô trở thành một kẻ xa lạ với Tổ quốc mình. Bà thư cho Xuân Diệu nhờ tôi thỉnh thoảng viết thư cho Hoàng Thu Hà để qua những bức thư đó, cô bé làm quen lại với tiếng Việt Cũng vì thế mà tôi thành người thân của gia đình bà.
Năm 1979, tôi có dịp cùng nhà phê bình Hà Minh Đức sang thăm Bungari theo lời mời của Hội Nhà văn bạn. Hà đã bi bô nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt:
- ăn Khoa ơi, ăn Khoa? Sao ăn đi nhăn thế!
- Ôi, ăn biết khuông, huống qua, em ăn cá, hóc, chữa mãi không khỏi. Cô Blaga lo lắm. Cô ấy gọi bác sĩ. Em phải nuốt bao nhiêu đồ đạc mời xong đấy...
- Đồ đạc à?
Tôi kinh ngạc hỏi. Hoàng Thu Hà xoè cả hai bàn tay ra giải thích:
- Vâng? Chuối, táo, cả khoai tây nữa, ăn Khoa ạ.
- Thế thì không phải đồ đạc rồi.
Nhà phê bình Hà Minh Đức giải thích. - Đồ đạc là bàn, ghế, tủ đèn, phích nước, tủ lạnh.
- ối! - Hà kêu lên đầy vẻ sợ hãi. - Thế thì em không nuốt đồ đạc đâu?
Năm 1995, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Blaga Đimitrôva sang Việt Nam lần thứ sáu. Lần này, bà là khách mời của Chính phủ ta. Trước khi về nước, bà có cuộc tiếp xúc với anh em văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam tại phòng khách Đại sứ quán Bungari. Hầu hết là những người đã từng công tác ở Bungari, học ở Bungari, hoặc là những người có quen biết thân thiết với bà. Bà gọi đó là cuộc gặp gỡ của những người ruột thịt. Bà nói chuyện với Hà Minh Đức bằng tiếng Pháp, nói chuyện với Vũ Hướng, phó giám đốc Nhạc viện Hà Nội bằng tiếng Bun, còn với tôi và tiến sĩ viện trưởng Phan Hồng Giang thì bà nói bằng tiếng Nga. Tôi hỏi bà về văn học Bungari, đất nước Bungari. Rồi tôi hỏi cảm giác của bà khi đặt chân lên đất nước Việt Nam lần thứ 6.
- Tôi không ngờ Việt Nam đổi mới nhanh đến thế. Quả là không thể tưởng tượng được. Một Việt Nam hoàn toàn khác. Các bạn dã tìm ra được một lối đi rất thích hợp với mình. Trong khi đất nước chúng tôi còn rất nhiều khó khăn, vất vả...
- Nhưng đội bóng Bungari thì tuyệt vời. - Tiến sĩ Phan Hồng Giang chen vào.
- Vâng, đúng? Bóng đá thì tuyệt. ở Bungari, người ta đổi mới cái chân nhanh hơn cái đầu... Blaga khẽ nhún vai. Rồi giọng bà bỗng trầm hãn xuống:
- Chỉ tiếc lần này, tôi không còn được gặp Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, những người mà tôi rất đỗi quí trọng, nhưng họ vẫn đang hiện diện ở đây. - Rồi bà quay sang Hà Minh Đức:
- Trần Đăng Khoa dạo này ở đâu?
Hà Minh Đức vội chỉ sang tôi. Tôi cười:
- Cháu vừa nói chuyện với cô đó thôi. Vậy mà cô không còn nhận ra cháu nữa. Như thế nghĩa là cô vẫn trẻ như ngày xưa, còn cháu thì già mất rồi....
- Không! Nhà thơ bao giờ cũng mang khuôn mặt trẻ thơ. Cháu cũng có khuôn mặt như thế đấy
Rồi tôi hỏi bà về Hoàng Thu Hà.
- Nó đi suốt ngày. Có khi đến hàng tháng, cô chẳng nhìn thấy nó. Nó chỉ đến với cô khi cô đau ốm thôi. Mà cô thì rất buồn vì càng ngày lại càng khoẻ ra. Lần này về Việt Nam, cô có vé máy bay của Chính phủ Việt Nam, cô mua thêm vé cho Hà, nhưng Hà không về, nó bảo ở Việt Nam mùa này nóng lắm. Nó hiện đang biểu diễn ở Na Uy.
- Hà lấy chồng chưa, cô?
- Chưa. Cô giục nó mấy lần mà nó vẫn chẳng chịu lấy. Bọn trẻ chúng mày bây giờ lạ thật, chẳng còn hiểu ra làm sao nữa.
II
Và bây giờ thì Hoàng Thu Hà, cô con gái nuôi của bà Blaga Đimitrôva đang ngồi trước mặt tôi. Một cô gái nhỏ nhắn, thanh mảnh. Trông cô như nữ sinh Sài Gòn. Giọng nói cũng là giọng nói của người Sài Gòn pha tạp. Chỉ nước da trắng nõn khiến ta còn nhận ra cô là người ở châu Âu. Cô về Việt Nam đã mấy tuần nay. Tôi nhận được điện của anh Tân, người của Bộ Ngoại giao, hiện là phiên dịch ở Đại sứ quán Bungari. Anh Tân nhắn tôi là Hoàng Thu Hà muốn gặp. Tôi đã hẹn anh ngày cụ thể. Nhưng rồi đến đúng ngày hẹn thì anh Tân lại chẳng thấy Hà đâu. Có lẽ cô ấy về thăm gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hoặc đi tỉnh khác rồi!
Thực ra, Hà chẳng đi đâu cả. Cô nghỉ nhờ tại nhà một người bạn đã từng học ở Xôphia, cũng tên là Hà, ở quán cà-phê Trung, ngay sát nhà Xuân Diệu xưa. Hà cười, vẻ như là phân bua: Em muốn gặp bạn bè người Việt, nên nghỉ luôn ở đây cho tiện. Mặc dù Đại sứ quán Bungari cũng có bố trí cho em một phòng rất đàng hoàng. Nhưng ở đó, bạn bè em ra vào không tiện, mà phiền cho họ quá, nên em ở luôn đây thôi...
- Hà vẫn chưa lấy chồng ư?
- Anh hỏi gì mà kỳ vậy? - Hà nhún vai - Em sống thế này quen rồi. Sống một mình bao giờ cũng thoải mái. Sống với người khác rất khó chịu. Anh lấy vợ đi rồi anh sẽ thấy, khó chịu lắm...
- Về Việt Nam lần này, Hà thấy sao?- Tôi hỏi.
Hà cười:
- Tuyệt. Em đã đi đến nửa vòng trái đất rồi, đã sống ở rất nhiều nước, nhưng em không thấy đâu hay hơn Việt Nam cả. ở Việt Nam, các món ăn rất ngon. Ngon mà lại rẻ. Người Việt Nam tuyệt vời. Tất nhiên cô Blaga cũng rất tuyệt vời. Cô ấy tốt lắm. Tốt vô cùng.
Tôi chợt nhớ lần qua Bungari cách đây đã trên hai mươi năm, vào những ngày cuối cùng, trước khi rời Bungari, tôi mới gặp được bà Blaga Đimitrôva. Lúc ấy, như tất cả các nhà văn Bungari, bà không có lương, chỉ sống bằng nhuận bút. Gặp tôi và Hà Minh Đức, bà ấn vào tay mỗi người 200 lê va, bằng cả số tiền Hội Nhà văn Bungari cho để ăn trong vòng một tháng. Tôi và Hà Minh Đức kiên quyết từ chối, nhưng không chối nổi. Bà bảo: Vải Bungari rất tốt, nên mua về cho gia đình, mua cả xà-phòng nữa. ở Việt Nam bây giờ xà-phòng hiếm lắm. Ngoài chợ đen, người ta còn pha cả tạp chất vào nữa, không giặt được đâu, chịu khó mang nhiều xà-phòng về. Lúc bấy giờ, Blaga Đimitrôva vừa in tập thơ mới. Tập Những bức tường. Đây là tập thơ bà rất tâm đắc. Tôi muốn mang về giới thiệu ở Việt Nam. Bà bảo: Cháu cho cô địa chỉ, cô sẽ gửi qua bưu điện cho. Mang theo người không nên, cháu sẽ mất một bánh xà-phòng đấy. Va-ly chỉ được 20 kg thôi. Rồi bà kiên quyết không trao tôi tập thơ, mà chỉ gửi qua đường bưu điện. Blaga Đimitrôva đúng là một phụ nữ. Hiểu người Việt và thương người Việt như bà, có lẽ chẳng ai như thế đâu. Trước khi rời nước Bun, tôi lại có nhuận bút thơ. Đùng một cái có đến hàng đống tiền mà chẳng biết mua gì. Tôi quyết định thay mặt đoàn nhà văn Việt Nam mời gia đình bà một bữa cơm thịnh soạn. Bà Blaga đưa tôi vào một quán ăn trên đỉnh núi Vitôsa. Đó là một cái quán nhỏ dựng bằng gỗ sồi nằm chìm trong cây lá. Ngồi trong quán, qua những tấm cửa kính, có thể nhìn thấy những chú nai rừng đi lững những bên rtiền núi. Dưới kia sau màn sương mờ huyền ảo như khói là toàn cảnh thành phố Xôphia. Ngọn tháp truyền hình và những khu nhà cao tầng trông nhỏ xíu như đồ chơi con trẻ.
Tôi với tờ thực đơn, chọn món ăn. Vì không biết tiếng Bun, nên tôi chỉ nhìn vào những con số. Cứ món nào đắt, số to là tôi lấy bút bi chọc vào. Bàn ăn bày la liệt toàn những món hảo hạng. Rồi rượu Whisky, rượu Napôlêông. Rồi hoa quả. Rồi đồ tráng miệng. Tôi áng chừng khoảng 400 lê va. Bà Blaga tủm tỉm: Đúng là cách ăn của người nghèo. Bữa tiệc tàn, tôi ra quầy thanh toán, và rất kinh ngạc khi ông chủ hiệu chỉ lấy có 5 lê va, bằng giá tiền của một cốc Whisky. Đây là quán ăn dành cho người nghèo, chỉ những người nghèo mới đến ăn ở đây! Đồ ăn ở đây rẻ hơn nhiều lần so với những nơi khác. - Bà Blaga giải thích. Tôi hỏi Hà, Hà bảo: Cô Blaga nói đúng đấy. ở quán ăn này, món nào người ta cũng giảm giá.
Tôi đem chuyện đó kể ở Đại sứ quán ta tại Bungari. Ông tham tán văn hoá phì cười: 'Trời ơi, thế là anh bị bà Blaga lừa rồi. Đó là quán ăn cổ có trên ba trăm năm. Quán đó đắt lắm đấy. Bà ấy đã trả tiền trước rồi, anh chỉ trả tượng trưng tiền một ly rượu thôi!
Tôi vô cùng ân hận. Hoá ra mình lại trút lên vai bà Blaga một gánh nặng nửa. Bà chỉ sống bằng nhuận bút, có lương đâu. ở nước Bungari, cũng như rất nhiều nước khác, nhà văn không có lương. Bởi thế, chỉ những người thực sự có tài văn mới trụ được ở nghề văn. Còn những anh làng nhàng, sẽ không thể sống nổi, phải chuyển sang nghề khác.
- Anh ân hận quá, Hà ạ. - Sau hơn hai mươi năm, tôi mới nói được với Hà. - Hồi ấy, anh làm khổ cô Blaga quá. Anh không hề biết gì cả, vì quá tin em, cứ tưởng em đứng về phía anh cơ...
- Tất nhiên em bao giờ cũng đứng về phía anh, phía người nghèo, nhưng em cũng đứng về phía cô Blaga nữa. Cô ấy muốn như thế mà...
- Bây giờ cô Blaga thế nào?
- Cô ấy yếu lắm. Hơn tám mươi tuổi rồi. Đau ốm luôn. Hồi làm Phó tổng thống, cô ấy cứ đòi từ chức. Cô ấy bảo: Nhân dân yêu mình, tin mình, bầu mình lên, chứ mình có phải là Phó tổng thống đâu. Người ta yêu cô Blaga lắm. Bao nhiêu người chuyển tiền cho cô để cô làm từ thiện, cứu những người nghèo khổ. Em phải giúp cô ấy nhận, vào sổ sách, làm giấy tờ. Cô Blaga còn sẻ vào đó một nửa lương mỗi tháng để giúp đỡ, cứu trợ người nghèo. Đó là cái hồi cô ấy làm Phó tổng thống...
- Thế còn bây giờ? Bây giờ cô ấy có lương không, hay vẫn chỉ sống bằng nhuận bút?
- Cô ấy có lương. Lương Phó tổng thống về hưu...
- Khoảng bao nhiêu?
- Đổi ra ngoại tệ thì trị giá hơn 40 đô-la
- Thế thì sống làm sao được?
- Sống được dấy. - Hoàng Thu Hà nhìn tôi rất nghiêm trang. - Với cô Blaga thì chỉ cần chút bánh mì với nước lã là đã hạnh phúc rồi. Cô ấy đã sống như thế và dạy em sống như thế. Cô ấy là thi sĩ, là người ở trên giời. Mà người giời thì chỉ cần như thế là sống được thôi...