Phần thứ tư (a)

1

Chiếm xong Huế, giải vây được cho đồng bọn bị quân ta vây hãm sau gần hai tháng, viện binh giặc tiếp - tục đánh dốc ra phía Bắc Thừa Thiên. Thế giặc mạnh như lũ tràn. Các làng xã nằm ven đường số một: An Hòa, Hiền Sĩ, Phú ốc, Phò Trạch, Mỹ Chánh... Lần lượt lọt vào tay chúng.
Cuộc kháng chiến của tinh Thừa Thiên bước vào thời kỳ khó khăn, gian khổ, đen tối nhất.
Khoảng mười lăm ngày sau khi chiếm đóng Huế, giặc Pháp đã thiết lập xong chính quyền bù nhìn. Tên Nguyễn Khoa Toàn - hồi Pháp thuộc làm đốc học, mấy lần ẩn núp Ở xó xinh nào nay chui ra lên ghế tỉnh trưởng.
Chúng cấp tốc cho dọn dẹp sửa sang lại thành phố, phục hồi sinh hoạt. Chúng ráo riết dựng gấp bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân. Ngoảnh đi ngoảnh lại khắp thành phố đã mọc lên nhan nhản nào Ty An Ninh, sở mật thám Phòng Nhì, sở mật thám Liên Bang, ty Cảnh sát, nhà tù-..
Những tên lính ngụy đầu tiên xuất hiện trên đường phố Huế. Chúng vừa được bọn Pháp tuyển dụng trong vòng mười hôm trở lại nên chưa có đồng phục, ăn bận táp nham như thường dân. Ðứa sơ mi cộc tay, quần "Soóc, chân đất; đứa áo vét tông cháo lòng đội mũ phớt; đứa áo quần bà ba, kéo guốc lẹp kẹp; trước ngực áo đeo lủng lẳng tấm biển bằng bìa cứng, hình quả trám, to bằng cỡ bàn tay, nền vàng, viền đỏ có ba chữ B.V.Q (bảo vệ quân) Hàng ngày máy bay đakôta bay lượn từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, xổ truyền đơn trắng xóa. "Hỡi đồng bào!
Ai tản cư đâu thì nên mau mau hồi cư về thành phố.
Ðồng bào về được quân đội liên hiệp Pháp và chính phủ Nam triều che chở, bảo vệ như xưa. Cấm không được chạy theo Việt Minh! Chạy theo Việt Minh là cầm - chắc cái chết trong tay. Quân lính của Việt Minh đã bị quân đội Pháp đánh cho tơi bời, kiệt quệ và hoàn toàn tan rã. Quân đội Pháp hiện đang tiếp tục truy lùng chúng và sắp sửa tiêu diệt những tên sống sót cuối cùng!".
đọc những tờ truyền đơn này, nhiều đồng bào Huế băn khoăn lo nghĩ. Lòng tin vào cuộc kháng chiến của nhiều người khác nào cây con trước cơn bão lớnn- Người hồi cư về Huế ngày một đông. Phần lớn họ trở về bằng đường sông. Từ sáng tinh mơ đến tối mịt thuyền lớn, đò nhỏ, nối mũi nối lái nhau xuôi về thành phố, trên các con sông An Cựu- đông Ba, sông Sinh, Sông Hương- Thuyền, đò chất cao ngất nghểu những rương hòm, bao bị, bàn ghế, nồi niêu, thúng mủng, và hàng trăm thứ đồ đạc linh tinh khác. Người chen chúc ngồi chóc ngóc trên đồ đạc, trên mui thuyền- Nét mặt người nào cũng đầy vẻ thấp thỏm; lo âu. Ai đoán chắc được cuộc sống sắp đến trong lòng thành phố giặc chiếm sẽ lành dữ ra sao đây? Nhiều bà già ngồi xếp bằng giữa đống đồ đạc, vừa lần tràng hạt vừa lâm râm niệm Phật.
Vào một buổi chiều, trong số thuyền đò hồi cư trên sông Sinh có một chiếc đò nhỏ một mui, chở một gia đình bốn người- Một người đàn ông đã đứng tuổi và ba đứa con nít. Chiếc đò chỉ một người chèo. ông lão chèo đò trạc gần sáu mươi, cằm lơ thơ một chòm râu tiêu muối, mặc áo tứ thân vải nhuộm đà, quần xà lỏn xanh vá chằng đụp, lấp lửng đầu gối.
Cái gia đình hồi cư trên chiếc đò này hơi lạ. HỌ gần như chẳng có đồ đạc gì ngoài mấy bọc áo quần để trong khoang thuyền và ba cái áo tơi lá để một đống sù sụ trước mũi đò. Thật khó đoán được quan hệ gia đình giữa bốn con người trong đò. Người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, mặt vuông chữ điền, tóc rễ tre rậm bù xù, lông mày mũi mác, râu ria lởm chởm. Ba đứa con nít suýt soát tuổi nhau, trạc mười bốn, mười lăm- Một đứa mặt mũi khá xinh trai da dẻ trắng trẻo mắt một mí, tóc để rẽ, mặc quần ka ki xám, áo len dài tay màu rượu chát- Một đứa gày nhom, cao lòng khòng, hai ống chân thẳng đuột như hai ống quyển, miệng rộng ngoác, mui hếch ngược, vẻ mặt liến láu- NÓ mặc cái áo sơ mi cũ ngắn cũn như áo đi mượn và cả cái quần bà ba vải chúc bâu trắng, cố kéo mãi mà hai ống quần vẫn chỉ lơ lửng đến giữa bụng chân. đứa thứ ba thấp nhỏ hơn hai đứa kia một tí, nước da ngăm ngăm đen, đầu húi cua, trán vuông mà giô, cặp mắt to thô lố. NÓ mặc bộ áo quần bà ba vải đà vá víu- Nếu đội thêm cái nón mê, và cầm trong tay một cây roi thì đúng là một chú bé chăn trâu chính hiệu.
để ý cách xưng hô thì thấy ba đứa gọi nhau cậu, tớ và gọi người đàn ông khi thì anh, khi thì ba. Và mỗi lần nghe chúng gọi anh, người đàn ông liền lừ mắt một cái, chúng liền vội vàng chữa ngay sang gọi ba, và tủm tim cười.
đò về đến ngã ba Sình thì trời lắc rắc đổ mưa.
Thằng bé có vẻ mặt liến láu, thò đầu ra ngoài mui đò, mặt nghênh lên nhìn trời. NÓ thụt đầu vào khoang đò, nói với người lớn tuổi, giọng lo lắng:
- Anh ơi! à... Ba ơi! Trời sắp mưa to rồi. Lấy mấy cái tơi vô không thì ướt hết!
Người lớn tuổi lừ mắt, đặt ngón tay trỏ lên môi ra hiệu. Thằng bé vội im ngay. NÓ đã nhớ ra vừa nói một điều thậm vô lý- áo tơi lá là để đi mưa lại còn sợ mưa ướt! Nếu không vô lý thì chắc là đã hớ hênh tiết lộ một điều bí mật gì đó đang nằm trong mấy cái tơi lá kia.
Con đò qua khỏi ngã ba Sình được một quãng bỗng từ trên bờ bên phải có tiếng gọi giật giọng như quát. - ê! Chiếc đò một mui, một người chèo kia! Chèo vô đây ngay.
Nghe tiếng quát ba đứa trẻ giật bắn người, nhớn nhác ghé vào kẽ hở mui đò, nhìn lên bờ- Người lớn tuổi hỏi ông cụ chèo đò, vẻ mặt như ngơ ngác, ngờ nghệch:
- Ai gọi chi mà xẵng giọng vậy cụ ơi?
- Tụi hắn gọi đò để kiểm soát đó! - ông cụ chèo đò cộc cằn trả lời- òng khoáy khoáy mái chèo ghìm con đò đi chậm lại.
Nghe hai tiếng kiểm soát, mặt ba đứa trẻ tái đi trông thấy- Người đàn ông nói với ông cụ chèo đò- Cụ cứ chèo thẳng cho mấy cha con tôi đi được không cụ? đò ta thì có đồ lề chi mà kiểm soát- Chèo vô chèo ra e về tới nhà tối mất cụ ơi!
Không được mô - ông cụ lắc đầu nói. - Tụi hắn đã gọi mà không vô là tụi hắn bắn ngay. Sáng bửa qua có một chiếc đò ba mui chở tám mạng người, bị tụi hắn bấn chìm Ở khúc sông ni rồi.
Miệng nói, tay ông cụ cậy mạnh mái chèo, chèo con đò vô thảng phía bờ.
Biết không thể nào lọt qua trạm kiểm soát của giặc Ở Cửa ngõ Huế này, người đàn ông vội quay lại, ra hiệu cho ba đứa trẻ nhích đến gần và nói rất khẽ:
- Anh dặn gì các em phải nhớ kỹ nghe?
Ba đứa cùng gật đầu, ngồi im thin thít, vẻ mặt từ bi từ tại- Thằng bé có bộ mặt liến láu, cơ hồ không ngồi vừng- NÓ ngả lưng xuống sạp thuyền, đầu gối lên bọc quần áo, nhấm mắt vờ ngủ, nhưng hai đầu gối cứ rung rung đánh nhịp.
Còn đò cập bến. Trên bến có hai tên lính Pháp cao lớn tay cầm tiểu liên, và một thằng Bảo Vệ Quân mặt dài như mặt ngựa, mặc bộ áo quần "Sóc" ka ki vàng, lưng đeo súng lục, tay cầm roi cặc bò. NÓ bước xuống bến, vung vẩy cây roi, hách dịch ra lệnh:
- Người trong đò lên hết cả đây để các quan lớn xét!
Bốn "cha con" chui ra khỏi mui, lục tục bước lên bờ- Người đàn ông chắp tay chào chúng, dáng bộ khúm núm, sợ sệt:
- Chào các quan lớn ạ!
Hai tên Pháp giương cặp mắt vàng như mất rắn, hết nhìn người đàn ông lại nhìn ba đứa con nít. Thằng Bào Vệ Quân tay chống nạnh, hất hàm hỏi:
- Chúng mày đi đâu?
Người đàn ông hai tay vẫn chắp trước bụng, lưng khòng xuống như vẫn tiếp tục chào, lễ phép trả lời:
- Dạ bẩm-.- dạ..- gia đình chúng tôi hồi cư về Huế ạ.
- Về đâu?
- Dạ Vĩ Dạ.
- Chúng mày là thế nào với nhau!
Dạ, bẩm bốn cha con ạ!
- Cha con? - Thằng Bảo Vệ Quân gằn giọng hỏi lại, vẻ nghi ngờ.
Người đàn ông chỉ từng đứa một, nói như phân trần.
- Dạ, bẩm hai cháu này là con vợ cả, còn cháu này, - anh chỉ thằng bé mặt mũi liến láu, - là con vợ lẽ ạ.
- Chúng nó lên mấy?
- Dạ bẩm, cháu này mười ba. - Anh chỉ thằng bé nước da ngăm ngăm đen. - Còn hai cháu này đều mười bốn cả. Chẳng là hai mụ nhà cháu Ở cữ cùng một tháng.
- Mày bao nhiêu tuổi?
- Dạ bẩm băm chín, tuổi mão.
Vợ mày đâu?
- Dạ bẩm, mụ cả nhà cháu chết bệnh từ năm kia.
Còn mụ hai nhà cháu thì mới chết đầu tháng trước phía ngoài Phò Trạch... xuống phải đạn máy bay - Chết là đáng kiếp? Ai khiến chạy theo tụi Việt Minh làm chi!
- Dạ bẩm đâu có dám ạ! Sợ súng đạn quá rồi chạy quáng chạy quàng đó thôi.
- Dưới đò chở những chi?
- Dạ bẩm chẳng có chi..- Chỉ có mấy bọc áo quần rách của các chát với mấy cái tơi lá... CÓ ít nhiều của nả chạy tản cư bị mất sạch trơn-.-- Người đàn ông thở dài nhăn nhó- Thằng Bảo Vệ Quân quay lại xì lồ xì là một tràng với hai tên Fháp- Hai tên Pháp mắt giương thao láo, gật gật đầu. Tên B-V.Q dắt cây roi cặc bò vào thắt lưng, rút súng lục lên đạn, bước xuống đò lục soát. Ba đứa trẻ đứng quay lưng ra sông, mắt cụp nhìn xuống đất- Mỗi tiếng động lộc cộc,!ệch kệch từ dưới con đò vọng lên làm chúng giật mình thon thót nhất là khi nghe tiếng mấy cái áo tơi lá bị đá kêu loạc xoạc, mặt ba đứa đều xám xanh cả lại- Trời chiều hôm đó rét căm căm thêm gió sông thổi hun hút, mà hai thái dương chúng mồ hôi cứ rịn ra lấm tấm. Người đàn ông khẽ đưa mắt nhìn chúng với ánh mắt ngầm bảo: "Bình tĩnh lại các em'" Thằng B.V.Q sau một hồi lục soát khá kỹ, đút súng lục vào bao, đạp mũi con đò nhảy lên bờ- Hắn lại xì lồ xì là với hai tên Pháp, rồi quay sang nói với người đàn ông:
Cho đi! Về nhà phải an cư lạc nghiệp, không được nghe theo tụi Việt Minh xúi bậy mà làm loạn nghe chưa?
- A lê! cút!
Lúc con đò chèo ra đến giữa sông ba đứa bé coi bộ mới hoàn hồn.
Thằng bé mặt mũi liến láu, thè lưỡi ngoẹo đầu nói:
- Lúc nghe hắn đá loạc xoạc vô mấy cái tơi lá, tao tưởng tim rụng mất bay ạ.
- Tao cũng rứa - Tháng bé mặt xinh trai quệt mồ hôi trán nói thì thào như còn sợ bọn trên bờ nghe tiếng.
- Tao thấy ớn lạnh cả xương sống.
Trong ba đứa thì thằng bé nước da ngăm đen coi bộ gan, bình tinh hơn cả. NÓ ghé mắt vào khe hở mui đò, chăm chăm nhìn lên bờ, lầm bầm chửi.
- Mả cha hắn? Làm Việt gian mà coi bộ hống hách đã gớm? Ðến lúc tổng phản công thì mi có chạy đằng trời!
Người đàn ông ngồi xích lại gần ba đứa, nói vừa đủ chúng nghe:
- Lần sau các em phải gắng giữ thái độ bình tinh hơn nữa. Anh thấy mặt các em lúc đó cắt không được chút máu.
Ba đứa gật gật đầu, cùng nói:
Thưa ba, chúng con xin nhớ ạ! - Và chúng cùng cất tiếng cười to.

2

Các gia đình hồi cư kỳ quặc này chính là một tổ trong đội Thiếu niên trinh sát được cử về Huế hoạt động sau khi thành phố bị giặc chiếm được hơn hai mươi ngày- Người đàn ông là anh Ðồng, cán bộ của ban quân báo trung đoàn, mà anh em trong ban quen gọi là đồng-râu.
Còn ba đứa trẻ là đội viên của Ðội.
Thằng bé mặt mũi xinh trai là Kim cùng tổ với Tư-dát, hay làm điệu làm bộ, các bạn đặt tên cho là Kim-điệu. Thằng gầy nhom vẻ mặt liến láu chẳng phải ai xa lạ, chính là Tư-đát.
Thằng bé thứ ba, con vợ cả" như anh đồng-râu giới thiệu là Lượm, có cái răng cửa sứt, các bạn quen gọi là Lượm-sứt. Sau cái hôm Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu đến gặp đội Ở chiến khu một, ông đã trực tiếp giao nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên cho đội: Cử ngay một tổ trở lại Huế hoạt động quân báo, và một tồ ba đội viên khác làm nhiệm vụ liên lạc cho tổ quân báo từ Huế về chiến khu. Hai tổ này sẽ do một cán bộ của Ban Quân báo trung đoàn cử sang trực tiếp phụ trách. Anh đồng-râu là chiến sĩ Vệ Quốc Ðoàn Nam tiến, chiến đấu suốt Ở mặt trận An Khê, Phú Phong. Trước ngày Huế nổ súng kháng chiến ít lâu, anh được điều ra công tác Ở trung đoàn Trần Cao Vân.
Trở lại Huế chiến đấu! Tin này làm cho cả đội em nào cũng thấy ruột gan nôn nao như say sóng. Tuy chưa biết đội trưởng sẽ cử ai, nhưng bọn trẻ suốt ngày hôm đó cứ bổi hổi bồi hồi, ngồi đứng không yên. Chúng cảm thấy vừa mừng vừa lo, vừa thích, vừa sợ...
Hôm đó, đội trưởng vào chiến khu hai làm việc với ban Tham mưu trưởng đoàn từ sáng sớm, mãi đến quá trưa anh mới về. cả đội reo lên chạy ùa ra đón anh Ở tận đầu dốc núi. Chúng hau háu nhìn cuốn sổ tay anh đang cầm tim đập thình thịch, hồi hộp, chờ đợi. Chúng biết chắc danh sách của tổ quân báo và tổ liên lạc đã ghi sẵn trong cuốn sổ tay bìa xanh kia. Ðứa nào sẽ được cái may mắn đáng mừng và đáng sợ đó?
Về đến lán, đội trưởng mớ sổ tay lật lật các trang giấy ghi chi chít những chữ bút chì. Ðến một trang anh đặt cây bút chì vào đó rồi gập lại- Bọn trẻ nhìn nhau và nói với nhau bằng mắt- đợi đó! Chính là cái trang mà đội trưởng đánh dấu bằng cây bút chì ấy- Ðứa mô được về Huế đánh Tây đã nằm sẵn Ở đó rồi.
Ðội trưởng tập hợp đội ngay trong lán- Anh nói với các đội viên nhỏ của mình, vẻ như muốn an ủi tất cả những đội viên nào không may không trúng vào danh sách của tổ quân báo và tồ liên lạc.
- Tất cả các em, theo anh nhận xét đều xứng đáng được cử về Huế làm nhiệm vụ. Nhưng tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên mà Ban tham mưu Trung đoàn yêu cầu chọn các em vào tổ quân báo là phải ít nhiều biết tiếng Pháp. Vì các em lọt vào Huế sẽ phải hàng ngày đụng đầu với bọn Pháp, sẽ phải tìm cách bắt chuyện, nghe ngóng chúng để thu lượm tin tức...
Thế là đủ- Với tiêu chuẩn này bọn trẻ đã đoán được ngay những đứa nào sẽ được chọn.
Cả đội chỉ có Kim-điệu là học hết năm đệ nhất trường Khải Ðịnh, đọc sách tiếng Tây làu làu như cháo.
Tư-dát, và Lượm-sứt đã đỗ bằng "rim"--- còn hầu hết chỉ mới học lớp năm lớp tư (bằng lớp một lớp hai bây giờ); một số em còn chưa biết chữ như Mừng, Ðối, Bồng, Hòa-đen.
Bọn trẻ đoán không sai, ba đứa được chọn vào tổ liên lạc là Hiền, Châu-sém và Bồng. Theo đội trưởng, tiêu chuẩn để anh chọn vào tổ liên lạc là thông thuộc đường lối từ Huế lên chiến khu, lại phải có sức khỏe, cặp giò dẻo cuốc bộ suốt ngày không biết mỏi.
Anh nhìn khấp lượt những gương mặt đang ỉu xìu vì không được chọn, nói thêm:
- Còn các em khác thì hãy sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để nhận những nhiệm vụ còn nặng nề và nguy hiểm hơn cả nhiệm vụ của tổ quân báo và tổ liên lạc.
Nghe đến hai tiếng nguy hiểm, mặt bọn trẻ đang ỉu xìu vụt tươi lên hơn hớn.
Trưa hôm sau, đội trưởng dẫn sáu đội viên:
Kim-điệu, Tư-dát, Lượm, Châu-sém, Hiền, Bồng trèo qua hai dốc núi đến lán làm việc của Ban Tham mưu trung đoàn.
Lê Hường, Trưởng ban quân báo Trung đoàn và anh Ðồng-râu làm việc với sáu đứa cho đến lúc mặt trời khuất núi.
Nhiệm vụ của tổ quân báo. kế hoạch lọt về Huế, những bước tuần tự- phải làm khi đã đặt được chân lên Huế, kế hoạch liên lạc với tổ liên lạc với chiến khu...
Cả sáu đứa hết sức ngạc nhiên và khâm phục trước bản kế hoạch tỷ mỉ và chu đáo của người chỉ huy tình báo mới ngoài hai mươi tuổi này.
Công tác quan trọng đầu tiên mà tổ quân báo phải làm là mang theo một ngàn tờ truyền đơn về Huế. Và sau đó khi có lệnh, sẽ rải Ở những địa điểm quy định.
Lê Hường chi mấy bó truyền đơn còn chưa ráo mực in để trên cái bàn ghép bằng cành cây, bốn chân bàn chôn xuống đất, nói với sáu chiến sĩ nhỏ tuổi:
- Truyền đơn ni kêu gọi đồng bào Huế mình hãy tin tưởng và ủng hộ kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi- Ðồng thời cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc- Chúng phải liệu hồn, cách mạng và kháng chiến Ở ngay bên nách chúng, nếu chúng không sớm tỉnh ngộ bỏ nghề Việt gian thì kháng chiến sẽ mượn 'cái đội mũ' của chúng -,'Mượn cái đội mũ" của tụi Việt gian! Cả sáu đứa cứ cười khúc khích hoài với cái hình ảnh mới mẻ và lý thú này của anh trưởng ban quân báo. Lê Hường đẩy mấy bó truyền đơn tới trước mặt sáu đứa nói giọng cười cười:
Tất nhiên là các em không thể xách truyền đơn mà đi về Huế như xách xâu thịt heo được! Các em phải tự nghĩ mẹo đưa nó qua lọt các trạm. kiểm soát của tụi giặc. Khôn nhờ dại chịu đó nghe!
Mang cả ngàn tờ truyền đơn qua hàng chục trạm kiểm soát giặc không phải chuyện dễ. Không khéo lộ, bọn giặc cho ăn đạn như chơi.
Sáu đứa cùng với anh đồng-râu họp bàn mãi. cuối cùng Lượm nghĩ được mẹo giấu truyền đơn vào giữa các lớp lá áo tơi lá.
Anh đồng-râu lấy tiền của ban tình báo cấp, mua bốn cái áo tơi lá đã cũ của đồng bào Ở chiến khu Hòa Mỹ. Bọn trẻ phải kỳ cục mất cả buổi sáng để gấp và nhét ngàn tờ truyền đơn vào bốn cái tơi lá. Bởi vậy mà khi nghe thằng Việt gian lục soát con đò, đá vào mấy cái tơi lá kêu loạc xoạc Tư-dát muốn rụng cả tim và Kim-điệu thấy ớn cả xương sống.
. Chuẩn bị xong xuôi, anh đồng-râu và bọn trẻ cải trang làm một gia đình hồi cư, từ chiến khu băng đồi núi, qua đường quốc lộ về đồng bằng. Con đường quốc lộ khét lẹt mùi Ô tô, mùi xăng- Những thôn xóm giặc vừa tràn qua, dấu giầy đinh còn chi chít trên các lối đi. Tre, cau đổ gục ngả nghiêng như sau một cơn bão lớn. Nhà cửa bị giặc đốt vẫn còn nghi ngút khói. Chúng gặp nhiều o, nhiều bà mệ, ông cụ vùa khóc, vừa kể lể, bới các đống tro than tìm những đồ đạc còn sót lại chưa cháy hết. Một em bé gái cổ chân đeo cái vòng bạc bị đại bác phanh ruột cạnh một gốc mít, ruồi nhặng bâu kín eả mặt em.-. ' Nhìn những cảnh tượng đó, lần đầu tiên sáu đứa được biết thế nào là lòng căm thù giặc. ÐÓ là một cái gì làm cho ruột gan chúng sôi sục lên- Một nỗi tức giận mà chúng chưa từng biết đến, bốc ngùn ngụt trong đầu Trong giây phút ấy chúng bỗng thấy thèm ghê gớm có sức khỏe, có võ nghệ phi thường như Trương Phi, như VÕ Tòng, như Tề Thiên Ðại Thánh, như Phù đổng Thiên Vương. Chúng sẽ nhổ phăng cả cây mít to như cột đình kia, và cứ thế múa tít xông thẳng đến chỗ bọn giặc đang đóng. Chúng sẽ quật gốc mít vào bọn giặc cho xương thịt nát bét, bắn tung tóe khắp cả tỉnh Thừa Thiên...
Bồng và Châu-sém tính cục hay nổi nóng nhất đội.
Mắt hai đứa vụt đỏ kè như mắt con kỳ nhông lúc cắn nhau. Bước mấy bước hai đứa lại ngoái đầu nhìn xác em bé gái cồ chân đeo vòng bạc bị đạn giặc phanh ruột bên gốc mít. Hai đứa cùng lầm bầm chửi:
- Mả cha tụi Tây!
Mỗi lần đi ngang qua những ngôi nhà cháy có các o các mệ vùa đào bới tro than, vừa khóc lóc kể lề, cả sáu đứa mặt đều cúi gầm và cố rảo bước thật nhanh- Chúng tưởng như các o, các mệ đều biết chúng là Vệ Quốc Ðoàn - HỌ đang nhìn theo chúng, chỉ chỏ, xì xầm bàn tán- "Mấy cái thằng mang tơi lá vừa đi qua là Vê-cu-đê chính cống đó- Tụi hắn không vất súng chạy dài thì mô đến nỗi Tây đến được đây mà đốt hết cửa nhà của bà con mình?" Phải đi mất gần hai ngày hai tổ liên lạc và quân báo mới về đến chợ Sịa, một vùng quê cách Huế chừng mươi cây số Sịa là một làng to giàu có, trù mật, bao quanh những trảng cát. Những người hồi cư tụ tập Ở đây khá đông, sửa soạn đò giang xuôi sông về Huế. NÓ phảng phất cái không khí vùng chợ Bao Vinh ngày Huế còn vây hãm giặc.
Sau khi bổ trí chỗ ăn Ở của tổ liên lạc, giao cho Hiền làm tổ trưởng, quy định ngày giờ và mật hiệu liên lạc anh Ðồng-râu thuê chiếc đò nhỏ một mui đưa tổ Quân báo xuôi sông về Vĩ Dạ.
Ở Vĩ Dạ anh có người o ruột ngoài sáu mươi tuổi- Bà góa chồng sớm, chỉ có một người con trai đi bộ đội Nam tiến từ năm bốn sáu đến nay không có tin tức gì về- Bà sống một mình với túp nhà tranh nhỏ bé và khu vườn rào dậu kín đáo, trồng cây ăn quả- Tính bà rộng rãi và cứng đầu cứng cổ có tiếng Ở trong vùng. Thấy việc phải, dù thiệt hại đến thân cũng làm, thấy việc chướng tai gai mắt là can thiệp- Cách can thiệp và chống lại những chướng tai gai mắt của bà là chửi, về khoa chửi của bà thì vô địch, chửi có sách, có vần, có vè, như bà con trong xóm thường nói.
Hồi quân ta còn vây giặc trong thành phố, bà con lối xóm tản cư hết, chỉ riêng một mình bà vẫn Ở lại bám chắc lấy nếp nhà tranh và vườn cây quả của mình- Mấy lần anh đồng-râu về giục o đi tản cư, nhưng bà đều khăng khăng- "Tau chẳng chạy đi mô hết- Sống chết nhờ trời. Nếu có rủi ro xuống phải đạn giặc mà chết thì chết ngay trên thềm nhà mình còn sướng hơn là chết đường chết chợ"-.
Anh đồng-râu biết chắc o mình vẫn Ở lại nhà. Anh quyết định đưa tổ quân báo về Ở nhờ nhà o trong buổi đầu đặt chân lên Huế và sau đó sẽ tùy cơ ứng biến.

3

khoảng sáu giờ chiều, con đò về đến Vĩ Dạ. Từ Vĩ Dạ có đường cái lớn chạy thẳng về đến Huế và khoảng cách chừng hai cây số.
Kim-điệu, Tư-dát và Lượm thò đầu ra khỏi, mui đò, mặt ngớp ngớp nhìn về phía Huế, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Chúng bồn chồn hồi hộp và cảm động đến nghẹt thở. Mới xa Huế chưa đầy tháng mà chúng có cảm tưởng như đã xa Huế hàng năm trời. Biết bao kỷ niệm da diết... Huế tưng bừng, sôi sục trong ngày tổng khởi nghĩa Huế lẫm liệt ngang tàng nổ súng kháng chiến. Huế gầm thét dữ dội năm mươi ngày đêm vây hãm quân thù. Huế hài hước cười cợt bất cứ trong hoàn cảnh nào. Rồi bóng dáng thân thương những thằng bạn cùng đội mà nay không còn nữa... Những thằng bạn cùng hát- chung một bài hát, cùng cắn chung một miếng bánh bột lọc, cùng đắp chung một chiếc mền, cùng lặn lội trong cái chiến hào mặt trận B, mặt trận C... Thằng Vịnh, thằng để, thằng Lộc, thằng Sơn... Chúng đã mãi mãi nằm lại cùng với Huế Ở cái tuổi mười ba, mười bốn, mười lăm. Những đứa trẻ bán báo đánh giày, bán kẹo gừng, đậu phụng rang, bán "cà-rem' đã chết cho Huế.
Chết vẻ vang oanh liệt như những anh hùng trong sử sách xưa.
Tất cả, tất cả, hiện ra dồn dập trong trí nhớ chúng- Phút chốc ba đứa bỗng thấy mắt mờ đi, cảnh vật vụt nhòe như nhìn qua một tấm kính đục- Chúng đã khóc lúc nào không biết.
Anh đồng-râu chui khỏi mui đò, bước đến đứng đầu mũi, đưa tay chỉ cho ông lão chỗ đò cập bến.
Con đò nhẹ nhàng ghé vào cái bến đất, có cây sung to mọc nhoài ra sông.
Bốn người tay xách bọc quần áo, khoác áo tơi lá, chào ông lão chèo đò, nối nhau bước lên bờ. Trời vẫn rả rích mưa, khoác tơi lá mà đi vào xóm thật hợp thời Tư-dát nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nói nhỏ với các bạn- - ước chi có tê-lê-phôn, quay lên Xê-ca báo cho tụi trên đó biết: Ba thằng mình đã đổ bộ an toàn lên Huế.
Anh đồng-râu dẫn ba đứa đi men theo con đường đất pha cát ven sông, rẽ vào một đường kiệt hai bên hàng rào dâm bụt mọc cao quá đầu- Xóm vắng tanh- Bốn người dừng lại- Một nếp nhà tranh nằm sâu giữa một khu vườn xum xuê cây ăn trái: mãng cầu, chanh, bưởi, ổi, thanh trà. Xung quanh vườn cây kín hàng rào chè tàu cao quá đầu ba đứa. Cổng ngõ đóng kín bằng cánh cửa tre ken dày những cành tre gai.
Anh Ðồng-râu nhón chân nhìn qua hàng rào và gọi nhỏ:
- O ơi, o! O ơi!
- Chớ ai gọi chi ngoài đó rứa? - Trong nhà có tiếng bà già hỏi vọng ra.
- Cháu đây o ơi! Thằng Ðồng đây mà o. Tiếng bước chân tất tưởi chạy ra- Cánh cổng tre hé mở- Trước mắt bọn trẻ là một bà già trạc sáu mươi. Tóc bà mới đốm bạc, chải gọn ghẽ, búi thành lọn sau gáy- Mắt bà tinh anh và lưng thẳng như lưng con gái- Anh đồng-râu kêu "O-" còn ba đứa lễ phép chào "chào mệ ạ?".
Bà già cứ đứng trân trân nhìn "bốn cha con, rồi bất chợt kêu lên giọng vừa mừng vừa lo:
- Ủi chao! chớ tụi bay về đây khi mô rứa?
- VÔ trong nhà cái đã rồi cháu sẽ thưa chuyện với O.
Anh đồng-râu quay lại giục ba đứa. - VÔ nhà cả đi, mấy em vô nhà cả đi!
Trong lúc mảy "cha con" đi vô nhà thi bà o, bước ra đường ngó ngược ngó xuôi, rồi mới trở vô đóng cánh cổng cài thật chắc.
Trong nhà chẳng có đồ đạc gì nhiều. Một bộ phản mọt, cái chõng tre để bộ ấm chén, cây đèn dầu hỏa, mấy cái ghế đẩu- Chính giữa gian giữa, trên cao treo cái trang thờ Phật buông tấm màn vải điều, thoang thoảng mùi trầm hương- Chái nhà bên phải là gian buồng ngăn bằng liếp tre đan, cánh cửa cũng bằng tre, khép hờ.
Bà o bước vào nhà, hết nhìn anh Ðồng-râu lại nhìn ba đứa như vẫn chưa hết sửng sờ ngạc nhiên. Bà ngồi xuống phản, nói mà miệng hơi mếu:
- Rứa mà o cứ tưởng chẳng còn khi mô được gặp lại tụi bay nữa. Tây hắn thả truyền đơn nói là đã giết sạch các tụi bay rồi, xương cốt Vệ Quốc đoàn chừ đã mục hết trên núi xanh. Ngó chỗ tụi bay mà o cứ tưởng nằm mê- Anh đồng-râu cười:
- Miệng Tây đít trẻ còn lạ chi o ơi!
Tư dát ngồi im từ nãy đến giừ đã thấy ngứa miệng Gặp dịp liền nói leo vô:
- Mệ ơi, xương cốt tụi cháu sắt nguội còn thua, dễ chi mục được mệ? Tụi cháu về đây là cốt để dần cho tụi Tây mục xương, để mệ coi cho sướng chơi. - Bà o đang mếu phải phì cười:
- được rứa thì mệ vật ngay con heo trong chuồng tê bà chỉ xuống phía bếp. - Mệ khao tụi bay ngay.
Tối hôm đó bà cho "bốn cha con" ăn một bữa cơm khá thịnh soạn- Những món ăn mà mỗi người dân Huế, dù đi đến cuối đất cùng trời, nếm đủ cao lương mỹ vị cũng không thể nào quên được. Cá bống thệ kho khô, rắc hạt tiêu, thịt heo ba chỉ luộc chấm tôm chua, canh cá tràu nấu dưa chua, chao.
đã lâu lấm mới ăn được một bữa cơm ngon miệng đến vậy, nên bốn cha con chẳng khách khí tí nào. Nhất là bọn trẻ, đứa nào cũng lén nới thắt lưng. Tư-dát lúc ngồi xuống ăn người như que diêm, lúc đứng dậy bụng như con ệnh oang.
Suốt bữa ăn bà o chỉ chống đũa nhìn "bốn cha con".
Bà thủ thỉ hỏi ba đứa nhà cửa Ở mô, cha mẹ làm chi, có mấy anh chị em, đi việc nước từ khi mô. Nghe chúng kể, chốc chốc bà lại kéo vạt áo lau nước mắt, chép miệng nói:
- Nhỏ nhoi như các cháu mà đã biết bỏ nhà bỏ cửa, xa cha xa mạ để đi lo việc nước việc dân. đời mệ tra trừng ni tuổi mới được thấy là lần đầu.
Tiện thể, anh đồng-râu bắt luôn chuyện, muốn nhờ o nuôi giấu, che chở cho "bốn cha con" anh hoạt động.
Anh không ngần ngại nói cho bà rõ, việc chứa chấp "bốn cha con" anh, không phải là không nguy hiểm. "Nếu tụi Tây biết được, không tha chi chúng không đốt nhà o, cho o vô Lao Thừa Phủ cho rệp ăn thịt". Bọn trẻ rất không ngờ bà cụ già mau nước mắt này đã trả lời rất khẳng khái:
- Mấy đứa bay đầu còn xanh tuổi còn trẻ còn dám liều thân vì nước vì dân, huống chi o đây đã gần kề miệng lỗ lại còn tham sống sợ chết, tiếc của tiếc nhà.
Chuyến ni o cũng quyết liều cái mạng tra với ba toong Tây một phen. Sống mà để tụi hắn đè đầu cưỡi cổ thì thà chết còn hơn!
Cơm nước xong xuôi, o đi dọn dẹp chỗ ngủ cho 'bốn cha con". Bà nói: "Tụi bay phải đi ngủ sớm để còn lấy sức mà lo việc nước". Ba đứa vừa đặt lưng xuống phản mắt đã ríu lại- Chúng ôm nhau ngủ say mùi mẫn, anh đồng-râu còn ngồi lại nói chuyện với bà o bên ngọn đèn vặn nhỏ. Anh bàn tính với o kế hoạch che mắt bà con hàng xóm và tai mắt tụi ngụy quyền, việc "gia đình" anh đến Ở nhờ nhà o.
Quá nửa đêm Tư-dát bỗng tỉnh giấc. Nhà tối om, gió thồi xào xạc ngoài vườn khuya. Bà mệ ngủ trong buồng, anh đồng-râu ngủ trên chõng tre, im ắng lạ lùng- Tư-dát lay lay Lượm nằm sát bên cạnh, thì thào gọi:
- Lượm-sứt? Lượm-sứt!
Lượm vốn rất tỉnh ngủ- Ngủ đang say thế mà Tư-dát mới gọi nhỏ hai tiếng nó đã choàng ngay dậy- NÓ hỏi khẽ giọng lo lắng?
CÓ chuyện chi rứa mi? - Ðầu nó hơi ngóc lên lắng nghe động tĩnh xung quanh.
- Tau đau bụng quá! - Tối om, không nhìn rõ mặt, nhưng nghe giọng Tư-dát, Lượm cũng biết Tư- dát vừa nói vừa nhăn nhó.
- Chắc tại tối qua mi ních nhiều quá chớ chi? Tham thực thì cực thân mi ơi!
- Thì mi ních cũng kém chi tau! - Tư-dát làu bàu cãi lại.
- Mi lấy dầu hỏa bôi vô giữa rốn. Hồi Ở nhà hễ đau bụng tao cứ bôi dầu hỏa là khỏi.
- Nhưng tao mót đi ca-bi-nê.
- Thì đi đi.
- Nhưng tối quá! mà tao không biết chuồng tiêu chỗ mô- Ðánh thực mệ dậy hỏi, tao ngại lắm.
- Mi cứ mò ra sau nhà đi tạm. Mai dậy thật sớm mà hót, mệ không biết mô.
- Ư - rứa tao đi nghe! - Giọng Tư-dát coi bộ đã cuống quít lắm.
- Lượm cố nhịn cười, giục:
- Mau lên không lại tháo ra quần thì ê chệ lắm mi ơi!
Tư-dát tụt xịch xuống phản. Lượm dặn với theo:
- Mệ già tinh ngủ lắm đó. Mi phải cố đi nho nhỏ nghe. "Bắn súng máy" vô cho lắm, mệ nằm trong buồng nghe tiếng là "lộ bem" ngay.
- Nhưng lỡ không... ấy được thì làm răng - Rứa thì cố nín hơi, rặn từ từ. Hãm bớt "ga" lại, đừng có bắn liên thanh mà phải chơi phát một "cú pạc" Tư-dát ừ ừ lia lịa, sờ soạng trong bóng tối, rút then, kéo nhẹ cánh cửa lách ra ngoài.
Lượm vừa đặt lưng nằm xuống đã nghe phía sau hè nhà tiếng pành pạch nổi lên liên tiếp. NÓ giật mình lẩm bẩm.
Chết cha rồi! Anh Tư-dát không hãm được "ga" bắn ghê quá. NÓ vội vàng ho lên sù sụ để át bớt tiếng "súng liên thanh" của Tư-dát. Hễ sau nhà tiếng pành pạch nổi lên, nó lại họ sù sụ, hết pành pạch nó lại im.
Phối hợp rất ăn khớp, nhịp nhàng.
Sáng hôm sau, anh đồng-râu bảo Lượm:
- Em phải giữ ấm cổ, lấy phula quàng vào. đêm qua anh nghe em ho nhiều lắm đó.
Lượm cười khúc khích, ghé vào tai anh thì thầm.
Anh tủm tỉm cười rồi cốc vào đầu nó.
Anh đến chịu tụi bay! - Quay sang hỏi Tư-dát. - Ðã dọn sạch chưa?
Tư-dát liến thoắng:
Em giải quyết xong "chiến trường" từ lúc trời chưa sáng.

4

Sau bữa cơm sáng, anh đồng-râu họp tổ để giao Nhiệm vụ.
Trước khi bàn vào công việc, anh nhắc lại những nguyên tắc mà mỗi đội viên quân báo hoạt động trong lòng địch phải tuyệt đối tuân theo.
"Giữ bí mật cho đội!" lời thề của toàn đội trước bàn thờ TỒ quốc hôm làm lễ tuyên thệ chính lúc này đây cần phải ghi nhớ, giữ trọn, hơn lúc nào hết.
"Giữ bí mật" là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của công tác quân báo. Một sơ hở nhỏ, lộ bí mật, có thể làm hỏng hết mọi việc, bản thân mình và đồng đội, dễ dàng sa vào tay giặc, bị tù đày, bị giết. Nếu không may bị giặc bắt được thì mỗi đội viên phải làm đúng lời thề thứ năm trong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Ðoàn: "Lỡ bị quân thù bắt dược, dù bị cực hình tàn khốc đến thế nào, cũng quyết không bao giờ phản bội xưng khai"- Ðể khắc sâu thêm ý nghĩa thiêng liêng của lời thề vào trí nhớ ba chú đội viên nhỏ, anh đồng-râu kể cho chúng nghe những tấm gương bất khuất của các bậc cách mạng tiền bối như: Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong. Riêng Lượm nó muốn kể thêm vào bên cạnh tên những nhà cách mạng lừng danh trong cả nước đó, tên người cha thân yêu của mình: Trần Hàm- Cha Lượm bỏ nghề dạy học đi làm chánh trị cộng sản. Năm 1934 (lúc lượm mới hai tuổi) cha bị tụi Pháp bắt được- Tụi mật thám tra tấn cha chết đi sống lại nhiều lần, bắt khai tên các đồng chỉ của cha- Nhưng cha đã khinh bỉ trả lời chúng- "Tên các đồng chí của tôi, tôi biết là để mưu đồ việc cách mệnh chứ không phải để khai ra với các người"- Chúng đày cho lên Buôn Mê Thuộc- Cha vượt ngục, chúng bắt lại, cha lại vượt ngục, vượt đúng năm lần, rồi bị bắt lại- Chúng đày cha ra Côn Lôn, và bắn chết Ở ngoài đó- Sau ngày cách mạng thành công, dân làng Thượng Thủy đã nhất trí đồng thanh đặt tên cho con đường cái chính chạy qua làng là đường Trần Hàm.
Gian nhà cửa đóng kín, tối mờ mờ- Mùi nhang thắp trên trang thờ Phật tỏa ngào ngạt. TỔ quân báo ngồi quây quần trên phản gỗ. Giọng anh đồng-râu kể nho nhỏ vừa đủ cho ba chú đội viên nghe. Bà o Ở trước vườn, vừa cuốc xới vừa làm nhiệm vụ canh gác. Không gian một màu xám nhạt rây rây làn mưa bụi đầu xuân- Cuộc họp thân mật, đơn sơ nhưng không khí nghiêm trang, cảm động khác thường- Ba đứa ngồi xếp bằng tròn, không nhúc nhích, mắt mở to chăm chú như nuốt từng lời kể. Nghe chuyện nhà cách mạng Lê Hồng Phong trong tù bị giặc đánh vào đầu giữa lúc đang bưng bát cơm ăn, máu đầu chảy chan đỏ cả bát cơm. Lê Hồng Phong không thèm kêu một tiếng đưa bát cơm lên miệng, và cơm nhai nuốt, chẳng coi tụi giặc ra chi. Ba đứa thấy khắp người nổi hết gai ốc. Chúng kiêu hãnh nhủ thầm: "Rứa mà chừ đây được là cháu của Lê Hồng Phong, được làm đội viên quân báo của trung đoàn, chui hẳn vào giữa bụng giặc mà đánh chúng, thật sướng nhất đời. Rồi mai đây có thể tụi giặc bắt được mình bỏ tù, tra tấn hoặc đem mình đi bắn như Hoàng Văn Thụ, như Trần Phú"- và nếu mình trung thành, bất khuất, cũng dám như Lê Hồng Phong bưng bát cơm chan đỏ máu đầu lên miệng mà và, thì mấy chục năm sau chắc cũng sẽ có người kể lại chuyện mình cho tụi con nít nghe như bữa ni anh đồng-râu kể với tụi mình".
Và trong giây phút đó, cả ba đứa cảm thấy thèm muốn ghê gớm được lập ngay những chiến công thật vang dội; được mặt đối mặt với kẻ thù để tỏ rõ lòng gan dạ, bất khuất, trung thành với TỔ quốc; được chết thật vẻ vang, thật oanh liệt...
Anh đồng-râu đã kéo chúng ra khỏi những mơ ước sôi nổi, và đòi hỏi chúng phải tuân theo những kỷ luật cần thiết trước mắt, rất bình thường nhưng lại rất khó khăn. Anh nói:
- Các em tuyệt đối không được liên lạc với gia đình.
Theo anh biết thì các em đều có gia đình, họ hàng, bà - con Ở Huế, có thể là họ đã hồi cư. Các em phải cố hết sức tránh mặt những người quen, dù là cha mạ, anh, chị. nếu bất thình lình gặp họ dọc đường. Gặp người quen hoặc gia đình, các em sẽ rất khó lòng, dấu được các em trở về Huế để làm gì. Việc lộ bí mật là bắt đầu từ đó - Anh ngừng lại, nhìn chằm chằm cả ba đứa.
Cặp mất ẩn dưới đổi mày mũi mác rất rậm, ánh lên vẻ nghiêm khắc- Anh nói giọng gần như ra lệnh:
- Các em nhớ chứ?
- Dạ nhớ ạ.- Cả ba đứa cùng đáp, mắt cúi nhìn xuống, chột dạ trước lời dặn nghiêm khắc và khá bất ngờ với chúng.
Thật tình, vừa đặt chân lên Vĩ Dạ cả ba đứa đã có ngay ý định sẽ lên tìm về thăm nhà.-- Bây giờ thế là hết.
Anh đồng-râu như đi guốc trong bụng chúng - Chúng thầm nghĩ vậy - Và anh đã ngăn chặn răn đe.
Anh giao nhiệm vụ cho từng đứa: Kim phụ trách khu vực mặt trận B cũ- Tư-dát khu vực mặt trận C, và Lượm khu vực mặt trận A cũ. Trong vòng ba ngày, mỗi đứa phải cố gắng thu lượm sơ bộ tình hình và tin tức hoạt động của địch trong khu vực được phân công:
những nơi bọn giặc đóng quân, nơi chúng để kho tàng quan trọng như đạn dược, xăng, lương thực. những cầu cống bị phá sập đang được chúng sửa hoặc xây lại, những địa điểm chúng đặt công sở v.v... Những vị trí trọng yếu phải vẽ sơ đồ... Anh nhấn mạnh thêm:
- Hiện nay ban Tham mưu trung đoàn đang rất nóng ruột chờ tổ chúng ta cung cấp những tin tức tình báo này.
Anh vạch kế hoạch cho chúng khi vào thành phố hoạt động sẽ đóng giả những chú bé chạy tản cư bị lạc mất cha mất mạ, lần mò về Huế để tìm gia đình... Nếu bọn giặc chặn xét hỏi thì tuy cơ ứng đối. Sau này tùy tình hình, anh sẽ nghiên cứu bố trí cho mỗi đứa làm một công việc gì đó thích hợp như bán báo, đánh giầy hoặc cắp sách đi học, để tiện việc đi lại và che mắt địch.
Riêng Lượm, anh giao nhiệm vụ trong ngày mai phải trở về Sịa gặp tổ liên lạc, thông báo cho tổ liên lạc biết tình hình của tổ quân báo, bàn định kế hoạch ngày giờ, địa điểm gặp gỡ để nhận tin tức, và kế hoạch bố trí đường dây liên lạc từ thành phố về chiến khu.
Một tuần lễ trôi qua. Công việc của tổ tình báo chạy đều và khá tốt. Tuy mới vào nghề nhưng cả ba đứa đều tỏ ra có năng khiếu tình báo. Chúng nhanh trí tháo vát, thông minh và đặc biệt tích cực. Những tin tức, tình hình địch chúng thu lượm được, gửi về C.K. được Ban Tham mưu trung đoàn đánh giá cao. đích thân trung đoàn trưởng đã gửi lời về biểu dương khen ngợi chúng.
Thành phố Huế lúc này người hồi cư đã khá đông. Một số hiệu buôn, hàng ăn uống? hàng tạp hóa đã mở cửa- Các chợ đông Ba, An Cựu, Bao Vinh, người họp đã gần kín chợ. Ngày càng có nhiều người từ các làng quanh thành phố vào mua bán, sắm sanh đô lề- Trên sông Hương ghe đò xuôi ngược. Trên đường phố nhộn nhịp trẻ con bán kẹo gừng, bán báo, cà-rem, đậu phụng rang, bánh mì nóng giòn. đi lại lăng xăng, rao hàng inh ỏi. Nhờ vậy, việc trà trộn đi lại để làm nhiệm vụ của tổ tình báo ngày càng thêm thuận lợi.
Ba đứa hàng ngày phải luôn luôn đụng đầu với bọn lính Pháp, Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh, nên dạn dĩ dần nên. Và chỉ sau một tuần, chúng đã học được khá nhiều cách đối phó, nghĩ được khá nhiều mưu mẹo để đánh lừa, che mắt bọn này.
Sau mỗi ngày hoạt động ba đứa lại trở về Vĩ Dạ gặp anh đồng-râu, báo cáo công tác và nhận nhiệm vụ mới.
"Bốn cha con" lại ngồi quây quần chung quanh mâm cơm tối, vừa ăn vừa chuyện trò- Chúng kể cho anh nghe những tin tức, tình hình địch thu lượm được trong khu vực phụ trách, những tình huống khó khăn hiểm nghèo chúng vấp phải, những sáng kiến chúng ứng phó để thoát ra... Anh thủng thẳng và cơm, lặng nghe chúng.
Qua những báo cáo miệng của chúng, anh tổng hợp lại, và đã dần dần nắm được tình hình của bọn giặc trong thành phố Huế. Trong bụng anh rất vui vì nhận thấy ba chú đội viên nhỏ của mình tiến bộ rất nhanh trong công tác mới mẻ, khó khăn, và nguy hiểm này- Với mỗi đứa anh đều có nhận xét, góp ý trong từng trường hợp cụ thể. Qua đó, anh bồi dưỡng, huấn luyện cho chúng về nghiệp vụ tình báo, và uốn nắn những hớ hênh, thiếu sót sai lầm mà chúng có thể mắc phải. Và không lần nào anh không nhắc đi nhắc lại với ba đứa phải tuyệt đối giữ bí mật, không được chủ quan, không được tếu trong công tác.
Khi ba đứa ôm nhau ngủ say trên bức phản gỗ mọt anh ngồi xuống bên ngọn đèn tù mù, kê trên chiếc chõng tre viết báo cáo trên những tờ pơluya rất mỏng, để hôm sau Lượm kịp chuyển về cho tổ liên lạc, gửi lên chiến khu.

5

Một buổi sáng, Lượm mang báo cáo của anh đồng-râu về Sịa cho tổ liên lạc. đây là lần thứ năm, nó mang báo cáo về Sịa, kể từ ngày tổ tình báo đặt chân lên Huế.
Ði liên lạc từ Huế về Sịa mỗi ngày một trở nên khó khăn, nguy hiểm. Bọn giặc bắt đầu đánh hơi thấy có nhiều bộ phận của Việt Minh, trà trộn theo những người hồi cư, lọt về Huế- Lác đác nơi này nơi khác trong thành phố đã có những tên mật thám, việt gian bị bắn chết; lựu đạn nổ trong công sở, truyền đơn kêu gọi kháng chiến rải trên đường phố, Ở chợ hoặc dán Ở những chỗ đông người qua lại.
để ngăn chặn sự xâm nhập đáng sợ của Việt Minh, bọn giặc cấp tốc dựng thêm nhiều trạm kiểm soát dọc các con đường ra vào thành phố. Trên sông, chúng lập những trạm kiểm soát lưu động bằng thuyền, xuồng máy- Ðàn ông, đàn bà, cả trẻ con ngang qua trạm kiểm soát chúng đều chặn lại khám xét rất gắt gao. Chúng còn tổ chức nhiều cuộc vây ráp, khám xét bất thình lình Ở khắp các ngả đường.
Qua mấy lần đi liên lạc, lần nào Lượm cũng bị các trạm kiểm soát chặn lại khám xét rất kỹ. Nhưng nhờ gan dạ, bình tĩnh, nhanh trí, Lượm đều đi về trót lọt.
Tất nhiên cũng có những lần chúng làm cho Lượm toát mồ hôi hột.
Mỗi lần đi, Lượm đều thay đổi cách cất giấu tài liệu và cách hóa trang. Lần nó đóng vai thằng nhỏ đi chợ tay xách rỏ rau, tay xách mấy con cá tràu, cá trê; dây lạt xâu mang. Báo cáo, tài liệu nó cuộn tròn, bọc giấy bóng, nhét sâu vào bụng cá. đến nơi, thằng Hiền, Tổ trưởng tổ liên lạc phải dùng dao mổ bụng cá mới lấy được tài liệu ra, có lần nó đóng vai cháu đi về quê thăm bà ngoại, tay xách một xâu bánh ít. Ruột bánh đã được Tư-dát khéo léo moi hết tôm thịt ra chén, và nhét thay vô đó tài liệu CÓ lần nó giả làm thằng bé chạy chơi lêu lổng ngoài đường. Chân đất, đầu không nón không mũ, mặc phong phanh cái áo sơ mi cộc tay với quần đùi. Tay nó cầm đẫn mía, vừa đi vừa cắn, nhai, hít nước ngọt, nhả bã. Ngang trạm kiểm soát, bọn giặc chặn nó lại, bắt giơ cao hai tay lục tìm khắp người. Bọn giặc cứ việc soát nó cứ bình thản cắn mía, nhai rạo rạo, hít nước, nhả bã. Nước mía nhậu cả xuống cằm. Soát không thấy gì, bọn giặc cho nó đi- Nhưng nó chưa đi vội, cứ đứng đó cắn tước mía, làm ra vẻ tò mò xem chúng lục soát những người qua đường khác. NÓ còn cố ý làm vướng chân vướng cẳng bọn cảnh sát, làm chúng phát cáu.
Một thằng quất cho Lượm một roi cặc bò quắn mông đít trợn mắt chửi:
- Con mạ mi còn đứng đó lảm chi? cút!
Bấy giờ nó mới ôm mông đít, nhăn nhó xuýt xoa, rồi cắm cổ chạy biến- Tài liệu nó gấp nhỏ đặt giữa lòng bàn tay cầm đẫn mía: Cách giấu này có vẻ như rất hớ hênh nhưng lại rất kín đáo. Kín đáo vì bất ngờ. Bọn giặc kiểm soát không thể ngờ tới được.

*

Lần đi liên lạc này, Lượm đóng giả một thằng bé đi bắn chim. đầu nó đội cái mũ phở, áo sơ mi cộc tay, quần "sóc" xanh vá đít. Một tay cầm súng cao su lắp sẵn viên đạn sỏi, tay xách xâu chim bắn được: ba con sẻ, một con chào mào, một chim cu gáy. Hai túi quần nó cộm lên những viên sỏi, viên nào cũng tròn vo - những viên đạn sỏi xứng đáng với một tay bắn súng cao su thiện nghệ. NÓ phải mất khá nhiều công phu chọn những viên đạn sỏi này Ở mấy đống sỏi ven đường- Tuy mới vào nghề tình báo, nhưng nó đã thấu hiểu đôi khi chỉ vì một sơ suất rất nhỏ trong công tác mà hỏng mất việc lớn, có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ví dụ- Nếu không chịu khó, bốc bừa một nắm sỏi bỏ túi gọi là cho có Những cặp mắt cú vọ của bọn giặc kiểm soát có thể đánh dấu hỏi: "Với những viên sỏi ba vạ như ri mà nó bắn trúng chim được à? Thằng ni chắc chưa biết bắn súng cao su- Nhưng làm răng hắn lại bắn được cả một xâu chim kia?" Thế là chúng sẽ nghi ngờ, khám xét kỹ hơn và thế là tài liệu cất bị phát hiện.
Trong tổ chỉ có Tư-dát là thiện nghệ bắn ná cao su.
Hồi còn đánh nhau Ở Huế, cả đội đều phải ghen với nó về tài bắn ná. Cái ná cao su Lượm đang cầm chính là mượn của Tư-dát. Tư-dát có thói quen, bắn được con chim nào đều lấy máu bôi vào cán ná để lấy khước. Do thế, cái cán ná gỗ ổi đen kịt những máu khô. Còn xâu chim thì chiều qua, Lượm sang tận chợ Bến Ngự mua của mấy ông đi bẫy chim, bằng tiền của quỹ quân báo.
Sáng nay, nó buộc chân treo từng con chim một lên,. nhờ Tư-dát bắn chết. NÓ cuộn, xe tròn bản báo cáo của anh đồng-râu thành cái que nhỏ bằng mút đũa, dài bằng ngón tay trỏ. NÓ vạch mỏ con chim ngói, đút cuộn báo cáo vào bụng. Nhưng nghĩ ngợi thế nào nó lại rút ra, đút vào bụng con chào mào- NÓ lấy dây buộc chim chết thành một xâu. Tất cả phải làm cho thật giống, thật tự nhiên, hệt một tay bắn chim thiện nghệ, làm cho bọn giặc kiểm soát không một chút mảy may nghi ngờ.
Suốt dọc đường đi, thỉnh thoảng nó nghếch nghếch mặt nhìn ngọn cây, nghiêng nghé, chăm chú tìm chim cúi Tom khom, giương ná lên lại hạ ná xuống. Mấy lần làm như quá mải mê, nó vờ suýt đâm sầm vào những người qua đường làm họ gắt ầm lên.
Bọn con nít gặp nó dọc đường, đều nhìn xâu chim nó xách tòng teng, trầm trồ thán phục. Lúc đó mặt nó hơi vênh lên, tỏ vẻ ta đây thiện xạ tài ba. Tất cả đều phải cho thật giống như một diễn viên giỏi lúc lên sân khấu.
Qua khỏi cầu Bao Vinh một quãng, nó chạm trán một trạm kiểm soát lưu động của bọn cảnh sát. Trạm có ba thằng. Chúng hỏi:
- Thằng tê? đi mô?
Em đi bắn chim chơi! - Lượm đưa xâu chim lên trả lời như khoe.
Một thằng hai má gày hóp, cặp mất sâu như hai lỗ đáo, để ria con kiến, lưng gù gù, "giò heo" đeo xệ bên hông, không nói không rằng thọc tay vào túi áo túi quần Lượm, lục soát- Hắn sờ nấn khắp tà áo, lưng quần, cổ áo, lai quần- Hắn lật cả cái mũ phờ Lượm đội xem xét kỹ bên trong mũ. Bọn nầy vừa được sở mật thám phòng Nhì Pháp phổ biến: tụi liên lạc Việt Minh hay cất giấu giấy tờ vào các chỗ kín đó.
Soát không thấy gì, hắn trợn mắt nạt nộ:
Chim nhà nước nuôi, ai cho mi được phép bắn.
Và nó giật luôn xâu chim trong tay, Lượm. Lượm tái mặt. Một tình huống hoàn toàn bất ngờ- Nhưng chỉ một thoáng nó đã lấy lại được bình tĩnh, nói với giọng thật ngây thơ, dễ thương:
- Bác cho cháu xin Cháu bắn nó đậu trên cây mà.
Thằng cảnh sát đứng cạnh, miệng sáng lóa răng vàng, cười hô hố:
Thằng ni nói lạ, chim không đậu trên cây thì đậu trong chảo mỡ phi hành à?
Lượm nhìn ba tên giặc giận tím ruột, nhưng mắt phải làm như sắp khóc, nói giọng van vỉ:
- Các bác có lấy thì lấy con chim cu, to mà béo. Cho cháu lại mấy con chim nhỏ (nó cố tránh tiếng chào mào) không tí nữa về nhà, em cháu nó đòi, nó khóc, dì ghẻ đánh cháu chết mất.
Vẻ mặt và giọng van xin của Lượm hình như cũng làm chúng động lòng thương hại- Thằng răng vàng đầy mồm nói với thằng cướp xâu chim:
Thôi "xếp quăng lại cho nó mấy con chim sẻ, ăn không dính chân răng mà vặt lông cũng đủ hết ngày hết buổi.
Hắn cầm lấy xâu chim trong tay thằng để ria, đưa tay nắn nắn, bóp bóp lườn con chim cu, đầu gật gù- - Con cu gáy béo thiệt! béo thiệt.
Trong khoảnh khắc ấy, Lượm có cảm giác đang đứng cheo leo bên một bờ vực sâu hun hút, và dưới đáy vực là lởm chởm đá nhọn. Hai mắt nó tối sầm lại vì một nỗi kinh hoàng không sao lấn lướt nổi- Chỉ cần thằng cảnh sát ngứa tay nắn cổ con chào mào... thế là đi đứt!
Một dự tính lướt qua rất nhanh trong óc nó- Nếu tay hắn nắm qua con chào mào, và mặt hắn đổi sắc là mình sẽ lao ngay ra bờ sông, nhào xuống nước, lặn một hơi ra đến giữa sông, rồi lặn một hơi nữa qua thấu bên kia bờ.
NÓ chăm chăm nhìn mặt thằng cảnh sát, mắt quên chớp. NÓ bỗng thấy người nhẹ hẳn đi, như đang bơi gần kiệt sức, sắp chìm nghỉm, hai chân bỗng chạm nền đất cứng... Tên răng vàng đầy mồm bứt con chim cu ra khỏi xâu chim quăng trả lại mấy con sẻ và con chào mào cho nó. NÓ đưa tay hứng xâu chim. Và trong đời nó chưa bao giờ biết mừng rỡ như lúc này.
Thằng để ria vẫn với giọng nạt nộ:
- Lần ni thì ông nội mi tha cho mi! Lần sau mà còn bắn bậy chim của nhà nước, ông nội mi cho tù mọt gông nghe chưa? A lê! cút!
- Dạ! Lượm xách xâu chim đi như chạy, làm như sợ chúng sẽ cướp lại. Ði một quãng đã khá xa, nó còn nghe tiếng cười hô hố của cái thằng miệng đầy răng vàng đuổi theo- Bất giác, nó thấy hai mắt mờ đi- NÓ đưa tay lên vuốt mặt. Mặt nó mồ hôi chảy lút, như vừa bị ai dội lên đầu cả một gầu nước đầy.

6

Lượm xách xâu chim về đến đầu làng Mậu Tài, một làng nghe nói bọn giặc đã lập xong hội tề. Trước mặt nó là chiếc cầu ván, bắc qua con hói nước đục như nước hến, chảy lờ đờ- Ngay đầu cầu bên kia, một cây si cổ thụ, cành lá ngã ra che rợp đến hai phần cầu. Mặt trời gần đứng bóng. đường vắng tanh, không một bóng người qua lại trên cầu. Chỉ có một thằng ngồi câu cá bên mép cầu.
Thằng câu cá trạc tuổi Lượm, cởi trần, mặc cái quần đùi đen bạc phếch hai ống vo lên đến bẹn. Ðầu nó đội cái nón mê sùm sụp mặc dầu cầu rợp bóng mát. Nước da nó cháy nắng, đen thui, đen như cái cần câu hóp gác giàn bếp nó đang cầm trong tay- NÓ ngồi câu coi bộ chăm chú lắm, cái cần câu không động đậy.
Vừa nhác thấy thằng câu cá, tự nhiên Lượm chột dạ, chân hơi khựng lại, tưởng như trên cầu bất ngờ xuất hiện một trạm kiểm soát của bọn giặc- Lượm nhớ rất rõ, ba lần trước đi qua cầu, đều gặp đúng cái thằng câu cá nước da đen thui này, và lần nào, Lượm đi ngang qua sau lưng hắn, hắn cũng làm như vô tình, ngoái đầu lại, nhìn vào mắt Lượm- Khuôn mặt hắn to bè bè, mũi hếch ngược, trán vừa hẹp vừa thấp, coi bộ rất ngu, nhưng riêng cặp mắt hắn thì thật đáng gờm. Cặp mắt vụt lóe sáng dưới vành nón mê rách tả tơi, chỉ trong khoảnh khắc mà xuyên thấu ruột gan Lượm.
Hắn chỉ nhìn Lượm một cái, lẹ như chớp, rồi quay ngoắt lại, cúi xuống với cái phao nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Nhưng không hiểu sao, Lượm cảm thấy ánh nhìn chớp lóe, xoi mói của hắn cứ như dính chặt vào người, và theo suốt cả chặng đường liên lạc. Lượm đã báo cáo chuyện này với anh đồng-râu, anh có vẻ suy nghĩ hung lắm, và lần nào trước khi ra đi anh cũng dặn: "Em nhớ cẩn thận với thằng câu cá. Nếu có thể tránh hắn được thì em phải tìm cách tránh".
Lần này, Lượm đã đổi giờ đi, hy vọng sẽ không gặp hắn. Nhưng không ngờ hắn đã ngồi chực sẵn đó rồi.
Lượm muốn lộn lại, lội hói vòng qua cánh đồng, nhưng không được. NÓ có cảm giác thằng câu cá đã nhìn thấy nó từ xa. Nếu lộn lại, hắn sẽ nghi ngay. Chỉ còn một nước là phải đi thảng tới, đối đầu với nguy hiểm.
Lượm làm bộ rất thản nhiên bước lên cầu. Ðến giữa cầu, nó dừng lại chỉ cách thằng câu cá vài bước chân, nghếch mặt nhìn ngọn cây tìm chim..- NÓ muốn tỏ cho thằng này biết mình hoàn toàn vô tâm, chẳng hề chú ý gì đến hắn. Thằng câu cá vẫn không hề ngẩng mặt lên. Mấy lần nó đưa ná lên lại hạ xuống làm như con chim định bắn bay mất rồi. Cứ thế nó đi qua cầu, mặt vẫn ngước nhìn ngọn cây. Qua khỏi cầu chừng mấy bước, nó làm như mải nhìn đuổi theo đường bay một con chim, ngoái đầu lại. Và ngay lúc dó. mắt nó chạm phải cặp mắt lóe sáng của thằng câu cá, nó vội ngước nhìn lên ngọn cây, tránh cặp mắt của hắn, nó kéo ná cao su bắn bừa một phát, óc thì nghĩ: "đúng thằng ni ngồi chực Ở đây để theo dõi mình chứ câu kéo chi?" Ði cách cầu chừng vài trăm thước, Lượm bỗng có cảm giác có người theo sau lưng mình- NÓ ngoảnh lại, thằng câu cá! Hắn đã rời chỗ câu từ lúc nào, vác cần câu trên vai, đi theo sau Lượm chỉ cách mấy chục bước.
Trống ngực Lượm đập thình thịch. "Tổ cha mi! - nó tức tối chửi thầm. - mi định gây sự với tau chắc?" NÓ cố rảo bước nhanh hơn, gặp một con đường kiệt, nó rẽ luôn và nghĩ bụng: "Nếu hắn không rẽ theo mình, là mình chỉ sợ bóng, sợ gió"- Nhưng khi ngoái đầu, nó thấy cái nón mê rách bươm của thằng câu cá, nhấp nhô đằng sau. Biết không xong với thằng câu cá mà không thể lẩn vào đâu được, nó đành quay phắt lại thủ thế- NÓ gằn lên trong cổ họng: "Mi đã muốn sinh sự thì tau quyết chơi nhau với mi một trận cho mi biết tay. Nhỏ tau là nhỏ Vệ Quốc Ðoàn, có mô tau sợ mi?" Thằng câu cá vác cần câu lừng lững đi đến. Còn cách Lượm vài bước, hắn đứng lại, đưa tay hất cái nón mê về đằng sau. Lượm tức tối trừng mắt nhìn hắn- Hắn chẳng phải tay vừa, trừng cặp mắt ốc nhồi nhìn lại, ra vẻ: "Mi chẳng dọa nổi tau mô!" Trông hai đứa, giống hệt cặp gà trống choai sắp sửa nhảy vào đá nhau.
Thằng câu cá hất mặt, hỏi trống không, đặc giọng anh chị:
- Ni, đi mô mà coi bộ hấp ta hấp tấp dữ rứa?
cái mặt ngạo và giọng hỏi anh chị của hắn làm - Lượm nổi xung:
- đi mô thì việc chi đến mi? - Lượm cũng hất mặt đáp lại giọng anh chị không kém.
- Không việc chi à? - Hắn cười khẩy. Tau đi guốc trong bụng là mi đi mô rồi. Hỏi là hỏi chơi rứa thôi. Tau gặp mi qua lại cầu ni ba lần. Mòn cả mặt!
Lượm cũng giở giọng khinh khỉnh đáp:
- Qua lại mấy lần thì mặc kệ người ta, việc chi đến mi mà cũng xỏ mồm vô?
Hắn bỗng quăng cái cần câu đang vác trên vai xuống đất, chỉ tay vào mặt Lượm, nói như quát:
- Tau biết mi là ai rồi? Ðừng có lấy vải sưa mà che mắt thánh!
- Ai? - Lượm quát trả.
- Là Việt Minh chính cống? Tau phải trói cổ mi đem nộp cho ông lý trưởng để ông đem lên đồn nộp cho Tây.
ông lý làng tau ra lệnh hễ ai bắt sống được Việt minh đem nộp lên đồn sẽ được thưởng một trăm đồng Ðông Dương. Tau đang thiếu tiền ăn bánh bột lọc đây.
- Mi chỉ nói láo- Lượm cố lấy giọng tức tối cãi- Mi chỉ được cái vu tội chết cho người ta.
Thằng câu cá lại cười khẩy:
- Mi mà không phải Việt Minh thì tau cứ đi đầu xuống đất.
"Phải xông vô tấn công thằng Việt gian ni trước khi hắn chưa kịp đề phòng. đập cho hắn lộn nhào rồi chạy!"- Quyết định đó lóe lên trong óc Lượm và không kịp suy nghĩ gì thêm, nó nhào tới, vung tay trái (nó thuận tay trái) nhằm đúng quai hàm thằng câu cá đấm một cú móc rất mạnh. Nhưng thằng câu cá nhanh không kém. Hắn thụp đầu tránh được. Cú đấm trượt làm bay cái nón mê trên đầu hắn lên hàng rào bông cẩn gần đó. Thằng câu cá hét lên:
A! Thằng ni gớm hè? - Và nhào tới định đánh trả.
Ngay lúc đó từ ngách con đường kiệt phía sau chỗ Lươm đứng, nhảy ra một thanh niên cao lớn, lực lưỡng. Tay thanh niên này ôm phắt ngang mình Lượm, bó gọn luôn cả hai cánh tay nó vào trong vòng tay đen cứng như tre đực gác giàn bếp lâu ngày của mình. Lượm chưa kịp vùng vẫy thì tay thanh niên đã nhấc bỗng nó lên chân hổng đất, nhẹ như nhấc con ếch. Thằng đi câu rút luôn cuộn dây dừa dắt sẵn trong cạp quần, xông vào trói giật cánh khuỷu Lượm. Lượm quẫy đạp lung tung, giẫy giụa như con cá bất thình lình mắc phải lưới. Thằng câu cá vừa trói vừa hằm hè.
- TỔ cha mi! Ðã muốn đạp, tau trói luôn cả chân!
- Trói cho mi mệt, - Tay thanh niên nói mặt tỉnh khô- Hắn mà còn đạp, tau sẽ bẻ cặp giò hắn kêu cái cắc, như bẻ giò gà.
Biết có chống cự cũng vô ích, Lượm đành đứng im Và làm như bị trói đau quá, nó thả cái ná cao su và xâu chim đang cầm chặt trong tay xuống rê cỏ ven lối đi.
Tưởng thoát, nhưng thằng câu cá cúi xuống nhặt luôn cái ná, xâu chim và cái cần câu của hắn. Tay thanh niên nói:
- Chừ ta dong hắn ra sau miếu Cây Thị, soát người hắn coi có tài liệu, súng đạn chi không, sau đó ta giải lên nộp ông lý.
Thằng câu cá nói, vẻ thích chí ra mặt:
- được tiền thường hai anh em ta chia đôi. Anh năm chục, tui năm chục.
Lượm vừa lo sợ, vừa căm tức nghĩ bụng- "Giọng lưỡi hai thằng ni đúng giọng lưỡi Vê-giê(Việt gian) chính cống".
Chúng lôi Lượm đi vào con đường kiệt, rồi tạt vào một ngôi miếu rêu phong đồ nát. Cạnh đó có một cây thị cổ thụ, tán lá phủ trùm mái ngói và cái sân gạch nát um tùm cỏ dại.
- Tau giữ tay chân hắn, mi lột áo quần hắn ra khám nghe.
Thằng câu cá vứt đồ đoàn trong tay xuống thềm miếu, rồi cởi cúc áo, cúc quần Lượm. Lượm vùng vẫy không cho cởi. Hắn cúi nạy một viên gạch vỡ, giáng cao trước mặt Lượm, trợn mắt nói:
- Mi mà còn vùng, tau choang hòn gạch ni bể sọ dừa mi ngay.
Nghe giọng và nhìn vẻ mặt.hắn, Lượm biết hắn sẽ choang thật chứ không phải dọa.
Khi bị lột quần, trần như nhộng, Lượm co người lại vì xấu hổ. Thằng câu cá nói, không nhìn mặt Lượm:
- Toàn đàn ông với nhau cả, việc chó chi mà phải Ôốc dôộc (xấu hổ.).
Hắn cầm quần áo Lượm, sờ nắn tìm kiếm rất kỹ, còn kỹ hơn cả mấy thằng cảnh sát lúc nãy. Hắn còn giang rộng áo, quần đưa lên trời soi. Vẫn không thấy gì Lượm bấy giờ mới được thể nói:
- Người ta đã nói người ta đi bắn chim chơi, mà cứ vu oan cho người ta.
Tay thanh niên buông tay giữ Lượm, nói giọng có vẻ ngờ:
- Hay không phải?
Thằng đi câu sa sầm nét mặt, hết nhìn Lượm lại nhìn bộ áo quần trong tay, giọng ấm ức:
Tui theo dõi hắn đúng ba bữa liền, vừa gặp hắn lần thứ nhất tui đã ngờ ngay... Hay hắn dấu chỗ mô?
Hắn chợt nhìn trật xuống xâu chim và cái ná cao su vứt trên thềm miếu- Hắn cầm lên. Trước tiên hắn xem xét cái ná. Hắn lật đi lật lại, xem xét từ cái miếng da để bọc đạn, đến chỗ buộc chun, cái cán ná. Không thấy gì hắn dắt ná vào cạp quần, soát đến xâu chim. Hắn vạch cánh, lật đuôi nắm bụng từng con chim một. Lượm ớn lạnh suốt dọc xương sống, mồ hôi toát đầm đìa hai bên thái dương. Hắn nắn đến con chim chào mào, cồ con chim có đút cuộn tài liệu, ngẩng ra một cách không tự nhiên. Cặp mắt thằng đi câu vụt lóe sáng. Hấn bậm môi cầm đầu chim, giật mạnh. CỔ chim đứt lìa. Cuộn tài liệu bọc giấy bóng từ trong bụng chim văng ra, rớt xuống đất, Lượm nhào ngay tới, định chộp cuộn tài liệu cho vào miệng nhai nuốt. Nhưng thằng câu cá nhanh hơn, xô Lượm ngã chúi sang một bên, vồ lấy cuộn tài liệu- VỒ được hắn cầm thật chặt như sợ bị cướp mất, tay run lẩy bẩy vì quá mừng. Hắn reo lên, giọng hả hê, đắc thắng:
- Tui đoán có sai mô anh! Hắn bịt răng được mắt tui?
Hắn bỗng quay lại, trợn trừng mắt nhìn Lượm. cái bộ mặt to bè của hắn méo mó đi vì tức giận. Và hết sức bất ngờ hắn hét tướng:
- đồ Vê-giê? ăn cứt Tây! - Và tiếp luôn là một quả đấm tạt ngang, đúng giữa quai hàm Lượm. Hai tay bị trói, cú đấm lại rất mạnh, nên Lượm bị mất đà ngã nhào xuống đất như võ sĩ trên đài bị quả nốc ao.
Nằm bẹp dưới đất, Lượm đau đến nổ đom đóm mắt, nhưng chưa bao giờ nó thấy mừng rỡ đến như thế- CÓ thể nói mừng đến ứa nước mắt- Lượm cố hết sức ngóc đầu lên, hét trả vào mặt thằng câu cá:
- Ðây không phải Vê-giê? Ðây là Vê-cu-đê!
Người thanh niên và thằng câu cá chụm đầu lại cùng đọc bức thư mất của anh Ðồng-râu.
Còn Lượm vẫn nằm dài dưới đất, nhìn hai người vừa trói đánh mình, với cặp mắt hả hê của người thắng cuộc.
Sau khi đọc xong bức thư, cả hai nhìn nhau, rồi bật cười to:
- Té ra cánh Việt Minh ta cả!
Cả hai cùng cúi xuống nâng Lượm dậy, cởi trói và cười với nó như muốn xin lỗi. Lượm mặc quần áo. Ba người cùng ngồi xuống bậc tam cấp. Thằng câu cá trả lại bức thư, cái ná, xâu chim, nói với Lượm:
- Chắc đằng nớ giận mình lắm hè? Lúc đó mình tưởng đằng nớ là Vê-giê thật, tức quá nên đấm có hơi mạnh tay...
Lượm đưa tay lên quai hàm, sờ sờ nắn nắn chỗ vừa bị đấm, phì cười:
Chút nữa thì bay mất quai hàm còn hỏi- Nhưng lúc nghe cậu hét: đồ vê-giê, tớ biết ngay cậu cũng là Việt Minh nên tớ quên cả đau. đúng là bị đấm đau nổ đom đóm mắt mà thấy sướng hơn ăn thịt ăn chả. Rứa cậu làm chi cho Việt Minh Ở đây?
Tớ là liên lạc của du kích xã.
- Rứa anh- Lượm quay sang hỏi anh thanh niên:
- Cũng họ "du" như thằng ni. - Anh chỉ thằng câu cá - Anh vừa đi gác về thì được lệnh của chỉ huy xã đội ra ngay cầu ván phối hợp bắt Vê-giê chính cống. CÓ ngờ mô bắt nhầm phải Vê-cu-đê!
Em nghe nói làng ni Tây kéo về bắt lập hội tề rồi tê mà?
Anh thanh niên cười:
Tề ấm ờ. Ngoài miệng thì tề mà trong bụng thì Việt Minh đặc sệt.
- Cậu tên chi? - Lượm hỏi thằng câu cá.
- Tặng! Rứa cậu?
- Lượm, Vê-cu-đê Trung đoàn trăm lẻ một. - Mũi nó hơi phổng lên một tý. - Làm răng cậu lại nghi tớ là Việt gian chính cống được?
Chú chỉ huy xã đội giao tớ hàng ngày phải ra cầu.
ván giả đò đi câu cá, theo dõi những người lạ mặt khả nghi đi qua làng. đã có mấy thằng Việt gian lọt vô làng, điều tra chỉ điểm cho Tây trên Huế kéo quân về càn, đốt hơn chục nóc nhà, bắt đi sáu bảy người có tham gia du kích. Du kích căm lắm, quyết theo dõi tóm cho được mấy thằng đó, đem chặt đầu mới hả tức- Tớ để ý thấy cậu thường đi qua lại đây. Mỗi lần ăn bận một khác. Tớ ngờ ngay: "Không khéo thằng ni là Vê-giê". Tớ báo cáo với chú chỉ huy xã đội, chú ra lệnh: " Nếu còn thấy hắn qua đây là phải tìm cách bắt cho được". Chú còn cử thêm anh Cận phối hợp với tớ bắt cậu cho thật gọn. Lúc bắt phải giả đò Việt gian bắt Việt Minh, để giữ bí mật.
Ba bốn hôm ni, ngày mô tớ cũng vác cần câu ra cầu, ngồi từ sáng sớm chờ cậu- Không thấy cậu trở lại, tớ chán cách chi! Bởi rứa, khi thấy bóng cậu từ đàng xa, tớ mừng chảy cả nước đái! Tớ nghĩ ngay: Hễ mà tóm đúng vê-giê chính cống, việc đầu tiên là phải quại cho hắn một cú vẹo quai hàm bõ cái công mấy ngày chờ đợi?
Lượm cười, giọng trách yêu:
- Cậu hớp tớp quá. Ai lại chưa xét kỹ giấy tờ đã quại luôn. Quai hàm tớ mà không cứng thì bể rồi còn chi?
Tặng cười xí xóa:
- Ai khiến cậu. Trông bộ dạng cậu giống Việt gian thấy tổ?
Lượm sực nhớ, nói với cả hai người:
- Chuyện chi đọc được trong tờ giấy nớ là phải tuyệt đối giữ bí mật đó nghe.
- Cậu không phải dặn. - Tặng nói. - Tớ cũng được chú xã đội giao đưa công văn tối mật lên huyện luôn.
- đây là công văn lên tỉnh, còn quan trọng hơn. Chừ mình phải đi cho kịp- Ðường đến trạm liên lạc còn xa lắc.
Anh Cận nói:
- Nếu em không vội thì về nhà anh làm bụng cơm đã Nhà bữa ni có nồi cá tràu kho xơ mít ngon lắm.
- Anh cho em khi khác- Bữa ni em sợ muộn mất, đưa xong thư em còn phải trở lại Huế trước giờ thiết quân luật.
Tặng bỗng đứng phắt dậy.
Cậu gắng ngồi đây chờ tớ một tẹo thôi- Tớ có cái ni cho cậu đi đường phòng thân.
Chưa kịp để Lượm hỏi, nó vùng chạy biến vào ngõ.
xóm. Chừng mười phút sau đã thấy nó từ trong ngõ phóng ra, tay cầm con dao rựa, vai vác cây mía tím to bằng bắp tay dài hơn một sải. NÓ chống cây mía xuống trước mặt Lượm, giơ cao con dao rựa phứt mạnh một lát Cây mía đứt làm đôi.-Nó ấn cả hai đẫn mía vào tay.
Lượm, nói:
- Giống mía mừng đó, ngọt và mềm lụn. Cậu ăn đi một đẫn, còn một đẫn làm ba toong chống cho đỡ mỏi, mà đập chó, đập rắn, đập Việt gian cũng tốt. Lúc mô khát nước lại ăn luôn.
Lượm cầm hai đẫn mía, mắt tự nhiên rưng rưng.
Vừa mới choảng nhau gần vỡ quai hàm đó, chừ đã cho nhau mía, mà giọng nghe thân thiết làm răng! Tưởng như đã cùng Ở với nhau một đội từ ngày Huế mới nổ súng.
Lượm chào anh Cận và Tặng, rồi lên đường. Hai ba lần nó ngoái đầu lại vẫn thấy Tặng đứng giữa đường, chống con dao rựa xuống đất, nhìn theo, đầu gật gật...

7

Ðã hơn mười một giờ đêm- Thành phố Huế vùi dần Trong yên tĩnh. Con sông Hương sau một ngày náo động mệt lả bởi đò dọc đò ngang, ca nô, xuồng máy giặc chạy ngược, chạy xuôi, lúc này dường như cũng đã thiu thiu ngủ. Tiếng sóng vỗ bờ uể oải như tiếng thở dài buồn bã trong mơ.
Giờ thiết quân luật, cả thành phố không còn một bóng người dân qua lại. Thỉnh thoảng một chiếc xe tuần tiễu của giặc ầm ầm lướt qua dọc các đại lộ hai bên cầu Tràng Tiền- Trên xe lố nhố bóng mũ sắt và nòng súng.
Một vài toán Bảo Vệ Quân xách súng đi rong nện giầy đinh côm cốp trên hè phố.
Riêng trong khu vực thành nội im ắng hoàn toàn.
Bọn giặc ỷ thành nội có thành cao, hào sâu, các cửa thành như Thượng Tứ, đông Ba, Nhà đồ, Chánh Tây đều có bốt gác, Việt Minh khó lòng đột nhập nổi, nên chúng không tổ chức tuần tra nghiêm ngặt như ngoài phố. Nhiều con đường tối om không có đèn đóm gì.
Nhiều công sở không có lính gác. đại Nội, hồ Tĩnh Tâm, khu Tam Tòa lục bộ, khu Ngọ Môn, dãy nhà để súng thần công v.v... Vắng lặng đến rợn người.
Chính giữa cảnh tối tăm vắng lặng đó, bỗng xuất hiện hai bóng đen nhỏ bé, lúc ẩn lúc hiện, dọc con đường um tùm bóng cây, chạy qua khu Tam Tòa lục bộ.
Một bóng đen đeo một cái giỏ, còn bóng kia cầm cái cần câu dài ngoằng- Hai thằng bé câu ếch.
Một phần trời tối, một phần chúng đi len lỏi dưới bóng các tán cây đen xẩm, nên không thể nhìn rõ mặt Xem chừng chúng chỉ đeo giỏ vác cần cho có lệ chứ chẳng câu kéo gì hết- Mà cung cách chúng đi có vẻ dè dặt, lén lút, lo sợ người bắt gặp- Ngang qua một gốc cây một cột điện hoặc cổng một ngôi nhà công sở. Hai đứa đều dừng lại. Thằng vác cần câu rút trong ngực áo ra- một vuông trăng trắng, kêu sột soạt. Thằng đeo giỏ thọc vào miệng giỏ một cái que đen đen, rồi cầm que quệt quệt lên gốc cây cột điện. Thằng vác cần câu dùng cả hai tay áp vật trăng trắng vào đó. Thằng đeo giỏ thì thào: "Khéo cả lộn ngược!" - Thằng vác cần nói, đầu không ngoái lại- "Cứ yên trí!". Khi hai đứa rời chỗ, trên thân cây, cột điện, bức tường màu xám nhờ, hiện ra một hình chữ nhật trăng trắng như đột ngột trổ ra một khuôn cửa nhỏ.
Cứ như thế hai đứa đi dọc theo các con đường lớn trong thành nội. Và lúc qua nửa đêm, hai thằng mất hút sau dãy nhà dài để súng thần công trước cửa Ngọ Môn.

*

Một giờ hai mươi phút sáng. Phía khu vực đồn HỘ Thành bỗng lóe chớp và tiếp theo là một tiếng nổ lay chuyển cả trời đêm- Rồi tiếng súng máy, súng trường và cả tiếng lựu đạn nổ dồn dập, xối xả. Ðạn lửa bay đỏ lừ, rạch ngang rạch dọc bóng tối như muốn cắt thành từng tảng lớn nhỏ.
ôi quang cảnh hào hùng, sôi sục của năm mươi lăm ngày đêm chiến đấu bao vây giặc như bỗng chốc hiện về, dựng cả thành phố dậy. Cả thành phố đang ngủ say nhảy quáng quàng trên giường xuống đất, nằm bẹp, co đầu, rụt cổ. đồng bào vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa sợ.
HỌ thi thào hỏi nhau trong bóng tối: "Răng tụi hắn rải truyền đơn, đăng nhật trình, nói là Việt Minh đã bị tụi hắn tiêu diệt sạch rồi!"- "Cứ chờ đó mà coi, chưa biết ai tiêu ai!". Và phần đông bà con trong bụng chỉ thầm mong tiếng súng cứ thế mà nổ mãi, nổ mãi, to hơn nữa, mạnh hơn nữa, rung trời rung đất hơn nữa? Dù có phải tản cư lần nữa, dù có phải mất hết đồ đạc, tan cửa nát nhà lần nữa, HỌ cũng sướng bụng.
Chỉ mới trong vòng một tháng sống trong lòng thành phố giặc chiếm, mà đồng bào đã thấy thấm thía gớm ghê nỗi tủi cực của người dân mất nước.
Nhưng thật đau lòng, chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau, tiếng súng thưa dần rồi im hẳn.
Rạng sáng hôm sau, một tin lan truyền đi rất nhanh khắp thành phố: Vệ Quốc đoàn không biết bằng cách nào đã lọt vào được thành nội, tập kích đồn HỘ Thành do hai trung đội Bảo Vệ Quân đóng giữ. HỌ đã giật bom sập rụi cổng đồn, giết hơn một chục lính Bảo vệ cắt mất mấy ngàn thước dây điện thoại- đặc biệt hơn nữa, trên nhiều gốc cây, cột đèn điện, tường các công sở, dán trắng xóa truyền đơn của Việt Minh.
Truyền đơn kêu gọi đồng bào Huế hãy tin tưởng vào kháng chiến. Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi? Cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc, bán nước hại dân. mật thám, an ninh, Bảo Vệ Quân v. v... Kháng chiến không Ở đâu xa mà ngay sát nách chúng. Nếu chúng không mau mau hồi tỉnh thì kháng chiến sẽ thẳng tay trừng trị. Nhiều người còn thêm thắt đồn đại là truyền đơn được dán bằng một thứ hồ gì mà dính đến nỗi tụi cảnh sát bóc mãi không ra, phải lấy lưỡi lê mà cạo.
Bọn Pháp và tay sai bị một đòn sấm sét bất ngờ, vừa khiếp đảm, vừa tức tối. Chúng đã bị Việt Minh làm cho mất mặt với đồng bào Huế. Mới hôm qua, báo, loa còn oang oang nói thánh nói tướng nào là trật tự hoàn toàn đã được lập lại trên toàn cõi Ðông Dương, nào là bọn đội Việt Minh đã bị tiêu diệt đến tên cuối cùng. Thế mà đùng một cái, Việt Minh chơi cho một vố ngay giữa trung tâm thành nội, có thành cao hào sâu bao bọc.
để vớt lại thanh thế, bọn giặc huy động một lực lượng quân khá đông, vây ráp khu thành nội. Từ năm giờ sáng, chúng đã cho đóng chặt các cửa ra vào, đặt các trạm kiểm soát trước mỗi cửa thành- Chúng ra lệnh dân chúng thành nội, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ai dám trái lệnh, xích cổ đưa về lao Thừa Phủ. Chúng chia quân thành nhiều toán, súng cắm lưỡi lê, đạn lên nòng, lùng soát vây ráp, ngồi trên xe bọc thép có gắn đại liên, chạy ngược chạy xuôi như ngựa tế. Tên chỉ huy vây ráp oang oang ra lệnh cho các toán quân vây ráp: "Kẻ nào khả nghi, có ý chạy trốn hoặc chống lại, cho phép nổ súng hạ sát ngay tại chỗ!".

8

Chính vào lúc đó, trên con đường kiệt Ở ngã tư âm Hồn, đột ngột xuất hiện Tư-dát và Lượm. Chúng đang đi về phía cổng Tam Tòa, nơi bọn giặc đang đi lại lố nhố rất đông. Hai đứa đầu trần chân đất, mặc sơ mi cộc tay màu cháo lòng, quần đùi xanh- Nếu nhìn kỹ, khắp trên hai má, cánh tay, cẳng chân, nốt muỗi đốt dày dịt, và nhiều vết gai cào xước. Lượm đi tay không, Tư-đát tay ôm một quả bóng tết bằng lá chuối khô và dây chuối. Trông dáng bộ nó ôm quả bóng lá chuối khô mà giống hệt một cầu thủ nhà nghề ôm bóng da ra sân cỏ. Thỉnh thoảng nó làm điệu dội bóng xuống mặt đường, nhưng quả bóng nằm bẹp dí như cục bùn- NÓ lấy bàn chân hất ngược bóng lên, bắt lấy, cầm quả bóng xoay xoay, xem xét.
- Banh non hơi! - nó nói - đi đá tranh giải vô địch, đoạt "cúp" sư tử vàng mà banh biếc ra ri thì gay thiệt!
Ngang qua một gốc cây có dán tờ truyền đơn mà bọn cảnh sát chưa kịp bóc, nó vội lánh xa sang bên kia lề đường, mắt liếc xéo một cái rất nhanh nói nhỏ với Lượm:
- Dán lộn ngược rồi mi ơi! Chừ ai muốn đọc là phải làm xiếc trèo lên cây, móc hai chân vào cành cây đầu chúc xuống đất mà đọc. Khổ!
Lượm phì cười nói:
- Theo tao thì nhổ cây lên, dựng ngược rễ lên trời mà đọc đỡ mệt hơn. - Hay để tao sang bóc ra dán lại hí! - NÓ dợm chấn như định chạy sang bên gốc cây bóc tờ truyền đơn. Biết nó đùa mà Lượm vẫn hoảng, chụp níu tay nó lại, cau mắt nói khẽ.
- Ba láp vừa chứ mi?
Cả hai đứa đều nhớ rõ là đêm qua khi dán đến tờ - truyền đơn này, tờ truyền đơn cuối cùng thì phía đồn HỘ Thành rung lên tiếng bom nổ- Hai đứa giật mình, chui bùa qua một hàng rào bông cẩn cao quá đầu người, ngồi thụp xuống chân rào- Lượm thì thầm hồi hộp nói:
"Chắc là các anh lớn lọt vô choảng tụi nó rồi! Hèn chi trong tờ lệnh của ban Tham mưu trung đoàn tối hôm qua tao đưa về cho anh Ðồng-râu, có dặn là tổ mình phải rải truyền đơn đúng vô đêm ni. Lúc đọc cái lệnh đó tao đã hơi.ngờ..." - Không biết đơn vị mô đang chơi trận ni mi hè?
Tao đoán là tiểu đoàn mười tám- Vỡ mặt trận, không thấy tiểu đoàn mười tám rút lên chiến khu Hòa Mỹ.
Chửng hai tai lắng nghe tiếng súng một lúc một nổ rát- Tư-dát băn khoăn.
- Các anh lọt vô lối mô được mi hè? các cửa thành thì không qua được rồi nghe, lính gác đặc! Mà trèo thành thì trèo làm răng- Cao nghêu, lại có hồ sát chân thành?
XÌ-- mi cứ lo chim không biết bay?
Tư-dát vẫn mải theo đuổi ý nghĩ của mình- NÓ nói- - Nếu là tiểu đoàn mười tám thì chưa chừng có thằng Vệ-to đầu đang đánh Ở đó- Tao nhớ hắn quá mi ơi?
Tiếng súng, tiếng lựu đạn, thưa thớt dần rồi im hẳn.
Lượm nói:
- Chắc các anh rút rồi.
- Rứa, tau với mi cũng phải tìm cách mà chuồn ra khỏi thành thôi chứ mi?
- Chuồn lúc ni là rất nguy. Tao chắc tụi lính gác các cửa thành đang đốt hết đèn đóm lên, canh gác còn ngặt gấp mười lúc thường- Theo tao chui hẳn vô giữa vườn tìm chỗ kín núp chờ cho trời sáng. Cửa thành mở, ta cứ đàng hoàng đi ra, tụi hắn mới khỏi nghi.
Tư-dát nghe phải. Hai đứa lủi như hai con chuột vào giữa vườn, ngồi dựa vào lưng nhau dưới gốc một cây bưởi. Xung quanh cỏ tốt ngập đầu, muỗi hơn trấu. Muỗi bâu lại cắn hai đứa mỗi lúc một dày đặc. Chốc chốc, hai đứa lại đưa bàn tay xoa một cái, lòng bàn tay dính dính máu. Tư-dát đã thiu ngủ. NÓ giả giọng "các mệ" nói trong trạng thái dở thức dở ngủ:
- Mi mắc cái màn buồm với trải cái đệm lông chim cho "mệ" nghỉ lưng một chút-.. Mệ hơi oải ba sườn.
NÓ nằm dài luôn xuống đất lổn nhổn gạch đá, đầu gối bừa lên một búi cỏ, và bắt đầu ngáy. Lượm cũng mệt và muốn ngủ không kém, nhưng nó cố hết sức chống chọi- Hai đứa, phải có một đứa thức, lỡ gặp phải chuyện chi còn biết đường mà xoay trở - NÓ nghĩ vậy. NÓ căng mắt cố nhìn xuyên bóng tối bao quát cả khu vườn. Khu vườn như bỏ hoang lâu ngày không có người chăm xóc, chắc chủ nhà chưa hồi cư... điều nhận xét này làm cho nó hơi yên bụng. NÓ nâng đầu Tư-dát đặt lên đùi nó rồi nhổ búi cỏ làm phất trần xua muỗi cho bạn và cho mình. Tư-dát vẫn ngủ say mê mệt. NÓ còn ú Ớ nói mê khá to, làm Lượm hốt hoảng đưa tay bịt mồm nó lại.
Ðến một lúc, - Lượm cũng không còn đủ sức chống lại cơn buồn ngủ. Búi cỏ làm phất trần tự nhiên tuột khỏi tay, đầu nó ngoẹo sang một bên, gật lia gật lịa rồi dựa hẳn vào gốc cây ngủ thiếp luôn.
Khi hai đứa choàng tỉnh dậy, trời đã sáng trợt. Hai đứa bò trong cỏ rậm, định chui rào ra ngoài. Nhưng ngoài đường tiếng xe chạy rầm rầm, tiếng giày đinh cồm cộp, tiếng súng lên đạn rôm rộp. Hai đứa vội thụt đầu bò lùi lại, nép sau một bụi chuối- Hú vía! Nếu chui ra thế nào cũng chạm trán tụi giặc đang vây ráp.
Nhưng Ở lại trong vườn cũng không xong. Lỡ chủ nhà đi ra vườn, trông thấy hai đứa, họ hô hoán lên lại càng chết. Chưa biết làm cách nào, Lượm chợt trông thấy những bẹ lá chuối khô liền nảy ra một mẹo. NÓ ghé sát tai Tư-dát thì thầm. Tư-dát gật gật đầu.
- Mẹo nghe được! Nghe được.
Lượm bứt lá chuối khô để thành một đống.
Tư-dát cuộn lá chuối lại, dùng dây chuối bện thành một quả banh lớn hơn quả bưởi. Tư-dát bện banh lá chuối phải nhận là thiện nghệ- Chỉ một loáng, đống lá chuối đã biến thành một quả banh khá tròn.
Chờ cho ngoài đường im ắng hẳn, hai đứa ôm banh chui ra...
Và lúc này hai đứa đang đi về phía cửa Thượng Tứ.

*

Dọc đường hai đứa chạm trán hết toán lính Tây Lê Dương này, lại toán Bảo Vệ Quân khác - Súng cắm lưỡi lê sáng quắc, mắt trợn trừng trợn trạc, chúng hằm hè xông vào các khu vườn, các ngôi nhà hai bền đường, lúc soát.
Hễ nhìn thấy một toán giặc từ xa đi lại là Tư-dát thả quả banh xuống đường. Hai đứa làm bộ làm tịch tranh banh rất hăng - Vừa tranh banh vừa la lối om sòm.
- ê? ê! Cấm chơi xấu! Cấm chơi xấu?
- Mi bị "manh" rồi! "Manh-pê-răng-ti" hẳn hoi nghe!
Mi bị cú "coóc-ne" thì có. Tau phải sút phạt mi cú "coóc-ne"!
Và hai đứa làm như vô tình sút luôn quả banh vào chân bọn giặc.
Tụi Bảo Vệ Quân tức tối nạt nộ:
đồ con ranh con lộn? Con cái nhà ai, hả?
- đây là chỗ tụi bay chơi đây, hả?
- Ai cho tụi bay được đá banh giữa đường?
- A lê cút?
Tư-dát vội nhặt quả banh, miệng liến thoắng rối rít:
Dạ, dạ... Tụi cháu lỡ... Xin các bác tha!
Khi chúng qua khỏi, hai đứa đưa mắt nháy nhau, nhe răng cười. Tư-dát nói nhỏ:
- Tụi hắn chắc đang tức Vệ Quốc Ðoàn nổ lòng bóng mi hè?
- Tức mà thôi à? Sợ đái ra quằn ấy chứ!
- Lọt ra thành thôi chứ mi?
Ra chưa được mô. Mi không nghe tụi hắn loa- Cấm dân trong thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập à?
Tư-dát nhăn nhó:
- Lỡ mả cha hắn động, cấm hết cả ngày ni thì làm răng Tau đói xều mếu rồi. Tau xấu máu đói lắm. - - được, cứ để coi cái đã Lúc đó ta sẽ nghĩ mẹo mà ra. Chừ tao với mi giả đò lừa banh đến trước cửa đồn HỘ Thành, điều tra tình hình coi các anh đánh có kết quả không, để về báo cáo với anh đồng-râu.
Hai đứa vừa chạy đuổi nhau vừa lừa quả banh lá chuối đến trước cửa đồn HỘ Thành. Cổng đồn xây bằng gạch khá kiên cố, lúc này chỉ còn là một đống gạch vụn.
Bên trong đồn, giữa sân, đồ đạc 'bàn ghế vứt lung tung lộn tùng phèo như cảnh bị nhà cháy. Tụi lính nhốn nháo đi lại thu dọn, mang vác...
Hai đứa lừa banh qua cổng đồn, mắt liếc rất nhanh bao quát toàn cảnh bên trong- Mặt chúng tự nhiên ỉu xìu, trong lòng dậy lên một nỗi buồn tiếc ghê gớm- Chỉ trừ cái cổng đồn, còn nhà ngang dãy dọc vẫn nguyên vẹn cả. lúc mà đêm qua, ngồi trong khu vườn hoang lắng nghe tiếng bom tiếng súng, chúng hồi hộp, hả hê hình dung cả cái đồn này đang bị các anh nghiền thành cám.
Bên trái cổng đồn, cạnh đống gạch vụn ngổn ngang, có một xác chết đặt nằm giữa trên tấm cửa chớp. Xác chết ăn mặc áo quần Vệ Quốc đoàn, da mặt đen xạm dập nát, bám đầy bụi vôi, bồ hóng, miệng há to như đang hét xung phong. Vạt áo trước. rách tả tơi, loang lổ máu khô bầm. Bên vai anh vẫn còn đeo một đòn bánh tét Ruồi, nhặng xanh vo ve bâu kín mảng áo dính máu, bò ngang bò dọc trên mặt anh. Chắc anh bị thương rồi chết vùi dưới vôi gạch, đơn vị rút vội không kịp phát hiện để mang đi. Bọn giặc bới được xác đem bêu ra đây cho người qua lại ngó thấy.
Lừa quả banh qua khỏi cổng đồn chừng vài trăm thước. Lượm như bỗng kiệt sức. NÓ lảo đảo ngồi phịch xuống lề đường. Cặp mắt đỏ hoe, chăm chăm nhìn về phía cổng đồn. Tư-dát tái mặt lay lay vai bạn nói gần như van vỉ:
- đi mi! đi. Ngồi đây lâu, tụi hắn nghi chết.
Lượm như không nghe thấy bạn nói gì. NÓ lắp bắp thì thào như trong cơn mơ ngủ.
- Thấy mấy con ruồi xanh bò bò trên mắt anh, tao chỉ muốn chạy lại xua tay đuổi... Ngó mà không làm chi được tao đau ruột quá mi ơi. Nói đến đó, miệng Lượm bỗng mếu xệch.
Tư-dát nhìn bạn, miệng tự nhiên cũng mếu theo. NÓ ngồi xuống cạnh bạn, giọng dỗ dành:
- Nhưng biết làm răng được chừ... mi- Tụi hắn chết mười, bên mình chết có một... như rứa chắc anh ấy cũng thỏa.
Lượm nghẹn ngào:
- Cớ chi biết được nhà cha mạ anh ấy Ở mô hè... mà tìm báo cho cha mạ anh biết, lên xin đem xác về chôn...
Tư dát đứng ra giữa đường đo bóng nắng, kêu:
- Trưa quá rồi mi ơi. Phải tìm cách mà lọt ra thôi.
Anh đồng-râu Ở nhà chắc đang nóng ruột lắm.
Lượm như chợt tỉnh, đứng lên- Hai đứa lại lừa trái banh lá chuối về phía cửa đông Ba.
Lúc này bọn giặc đã mở cửa thành, cho người vào ra, nhưng lục soát rất gắt gao. Một toán vừa Bảo Vệ Quân vừa Cảnh Sát, An Ninh, đứa súng trường, đứa súng lục đứng lố nhố trước cửa thành.
Còn cách cửa thành chừng trăm thước. Lượm với Tư-dát sút banh thảng về phía cửa thành- Tư-dát lăn xả vào chặn banh, nhảy như choi choi, miệng la bai bải:
- ê- Không được chơi xấu? Không được chơi xấu!
khi trái banh lăn tới còn cách cửa thành chừng chục bước, Lượm la lên:
- É "manh rồi"! "Manh" pê-răng-ti hẳn hoi nghe!
- "Manh" mô mà "manh"' Chi trúng Ở cùi chỏ thôi!
Tư-dát gân cố cãi.
- Mi chơi ăn gian! "Manh pê-răng-ti" sờ sờ còn chối- Biết điều thì giữ gôn đi cho người ta sút phạt!
Tư-dát tỏ ý chịu thua- Hai đứa loay hoay tìm chỗ làm cọc gôn. Tư-dát chỉ từ bên này lề đường sang bên kia lề đường:
"Gôn" ri được chưa?
Hẹp quá! - Rộng thì có! Mi coi cổng gôn ngoài "Xịt tát" cũng còn hẹp hơn.
Lượm chịu. Tư-dát đứng ra giữa đường, chổng mông ra phía cửa. Nó xắn tay áo, lưng cúi lom khom, vẻ mặt căng thẳng, làm bộ tịch anh giữ gôn đang sẵn sàng đón bắt quả banh sút phạt đền sáu mét.
- Ðúng sáu bước nghe!
Một tên Bảo Vệ-quân, cầm cây roi cặc bò bước đến quát:
- Tụi con ranh con lộn' Chỗ ni là chỗ tụi bay chơi đấy hả? - Hắn quất luôn một roi vào cái mông nhọn veo của Tư-dát đang chổng về phía hắn.
Tư-dát nhảy dựng lên kêu: "ối?" Vừa lúc đó, Lượm sút rất mạnh, quả banh vọt qua chân Tư-dát, lăn ra đến tận bên ngoài cửa thành. Lượm nhảy lên reo to.
- Bờ-ra-vô! Thủng lưới rồi!
Tư-dát ôm cái mông gày nhom, nhăn nhó.
- Phải sút lại! sút lại' Tại bác Bảo Vệ đánh tau đau quá, tau mới không bắt được. - Nó quay lại, mếu máo nói với tên Bảo Vệ Quân:
- Bác làm cháu bắt trật mất cú phạt "manh pê răng-ti" oan quá!
Tên Bảo Vệ Quân giáng cao cây roi lên, chửi:
Con mạ mi, Có xéo ngay không?
Tư-dát nhảy tránh ra gần phía cửa, mắt le lé nhìn cây roi trong tay tên Bảo Vệ Quân, Lượm chạy đến kêu:
- Ðược rồi, cho mi chạy ra nhặt banh vô, tao sút lại.
Lần này mà còn bắt trật là mặc kệ mi đó nghe!
Làm bộ quá mải chơi, hai đứa cùng một lúc chạy ùa ra khỏi cửa thành, xô đến bên trái banh lá chuối nằm lăn lóc cạnh lề đường. Chúng vừa la hét ầm ĩ vừa gàn chân nhau giành banh, hăng hái như một trận quyết đấu vậy Rồi làm như vô tình, hai đứa cứ sút mãi trái banh mỗi lúc một xa cổng thành, trước hàng chục cặp mắt của bọn lính Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh.

9

Khoảng mười giờ sáng hôm đó. Kim-điệu từ phía -trường Pơ-rô-vi-đăng đi ra đường ngang- Ðến Nông khố ngân hàng cũ, (bây giờ là một đống gạch vụn) nó rẽ xuồng con đường qua đập Ðá để sang Vĩ Dạ- Chiều qua, trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, anh dặn cả tổ: Muộn lắm là mười giờ sáng mai phải có mặt ở nhà để báo cáo công tác.
Nhưng mới đi được mấy bước, nó lộn trở lại, vòng lên lối Trung bộ phủ cũ, và ra bến đò ngang sông Hương- "Bây giờ chưa đến mười giờ, ta qua chợ Ðông Ba, ních bụng bánh khoái rồi về cũng không sao - nó nghĩ vậy". Nó không bao giờ ngờ được rằng, mấy bước lộn trở lại đó đã mang lại biết bao nhiêu tại họa khủng khiếp cho cả tổ quân báo... Và cho chính cả cuộc đời nó.
Từ tám giờ đêm hôm qua, nó đã rải xong số truyền đơn được giao. Nó không khỏi hứng chí tự đắc về thành tích của mình - Mấy buổi đầu bắt tay vào công tác tình báo nội thành nó run lắm. Gặp khó khăn nguy hiểm nó dễ hốt hoảng, rối trí, mất bình tĩnh. Nhưng chỉ sau một tuần, quen dần với hoàn cảnh và công việc, qua vài lần rải truyền đơn, dán báo giết giặc", vẽ bản đồ kho tàng, vị trí địch trót lọt, được anh Ðồng-râu biểu dương trước cả tổ, thế là nó phổng mũi- Nó sinh chủ quan, nghĩ bụng: Tướng công tác tình báo nội thành khó khăn như răng, chứ dễ ợt như ri thì mình có thể hoạt động được cả đời Cầu trời, ban quân báo Trung đoàn giao cho mình những công tác thật khó thật nguy hiểm cả đội không đứa mô làm nổi. Mình làm nổi, cả đội phải phục lác mắt. Vụt thấy mình tài giỏi, can đảm hơn hẳn các bạn, nó đã tự ý làm một vài việc không cần thiết, có thể dẫn đến tai họa. Chẳng hạn, đêm qua nó dành lại một tập truyền đơn và sáng nay nó đi thật sớm, đem rải trước ngõ mấy nhà những đứa bạn trước đây cùng học với nó ở trường Khải định. Hoặc như lúc này, đáng lý phải về ngay nơi trú quân nó lại lẻn qua chợ Ðông Ba ních bánh khoái.
Con đò ngang ở bên kia bờ. Trên bến, lác đác mấy người gồng gánh ngồi, đứng đợi đò. Kim-điệu hai tay đút túi quần, miệng khe khẽ huýt sáo điệu nhạc bài hát "nước non Lam Sơn", năm đầu ngón chân khẽ nhịp nhịp.,Ngắm làn nước xanh trong, nhăn nhăn sóng, nó thấy lòng rộn ràng vui thích. Nó đang tưởng tượng cái cảnh mấy thằng bạn thân lúc ra ngõ vớ được những tờ truyền đơn nó vừa rải sáng nay... Tụi hắn lượm lên gọi nhau í ới, châu đầu lại đọc. Mới đọc được mấy dòng, mặt đứa nào cũng xanh mét cả lại. Chúng nó chạy té tát hết vào nhà, nói lắp bắp không thành tiếng "Truyền đơn Việt Minh rải trắng ngõ nhà mình, cha ơi! mạ ơi!.." Tụi hắn chắc đứa mô cũng tưởng cái ông Việt Minh gan cóc tía dám đi rải những tờ truyền đơn đó, phải tài giỏi lắm- Võ nghệ cao cường lại có tài biến hóa xuất quỷ nhập thần như Long hình quái khách người Nhạn trắng. Côn lôn tiểu khách. Tụi hắn có đến nằm mê cũng không đám tin cái ông Việt Minh rải truyền đơn đó lại chính là thằng Kim, bạn nối khố của tụi hắn!
Nghĩ đến đó nó khoái chí, bật cười to, làm mấy người ngồi đợi đò phải ngoảnh lại nhìn. Nó cứ tiếp tục huýt sáo, nhịp chân, tảng lờ như không biết.
Ðò vẫn chưa sang. Người tụ tập đợi đò mỗi lúc một đông. Tụm năm, tụm bảy, họ thì thầm bàn tán về trận đánh đồn Hộ Thành tối qua, chuyện truyền đơn Việt Minh rải tứ tung bát giác, khắp cả ngoài phố, trong thành, mấy trăm Bảo vệ quân chia nhau đi lượm cả buổi sáng không hết!
- Nghe nói đi rải truyền đơn toàn là quân cảm tử.
Kim-điệu thôi huýt sáo. Nó lắng nghe chuyện mọi người thì thầm bàn tán. Nó khoái chí đến tột độ. Da mặt như căng lên, rần rật, nó bỗng thấy ngứa mồm ngứa miệng cách chi! Nó thèm được bước lên mấy bước, vỗ ngực nói với những người đợi đò: "Quân cảm tử Việt Minh chính là tôi đây! Chắc bà con không ai ngờ hè?" Vừa lúc đó có mấy tên lính Bảo vệ quân mang súng đi đến. Chúng nghiêng nghiêng, ngó ngó, nhìn những người đợi đò, trợn trạc, dò xét, nhác trông thấy tụi lính, sự thèm muốn khoe khoang ngông cuồng trong lòng nó vụt tan biến hết. Mặt nó tự nhiên hơi tái đi, chân run run, tim đập thon thót. Nó chụm môi lại cố huýt sáo, nhưng huýt mãi không thành tiếng. Nó hụt hơi.
Ðò cập bến. Người dưới đò bước lên. Người trên đò tranh nhau bước xuống.
Con đò sang đến bến chợ Ðông Ba. Kim đi vào chợ.
Nó lượn một vòng quanh chợ, rồi sà luôn vào cửa hàng bánh khoái. ăn một bụng no nê đã đời, môi đỏ mọng lên vì húp nước lèo và cắn rau ráu ớt tươi.
Nó bước khỏi cửa hàng mấy bước thì bất ngờ chạm trán Nguyễn Trì, ông anh nuôi của nó hồi còn ở Trung đoàn bộ.
Phải gánh vác trách nhiệm nặng nề của người chiến sĩ cứu nước, nhưng các đội viên đội Thiếu niên trinh sát vẫn còn là những chú bé. Các em thèm khát được yêu thương, vỗ về, chăm chút, và thỉnh thoảng được làm nũng với cha, mạ, anh chị... Xa gia đình, cha, mạ, anh, chị ruột các em nhận cha nuôi, mẹ nuôi, anh, chị nuôi.
Anh, chị nuôi là các chiến sĩ hơn tuổi cùng đơn vị, hoặc ở các đơn vị khác mà mỗi em cảm thấy gắn bó, yêu thương. Phần lớn các đội viên trong đội Thiếu niên trinh.sát đều có anh nuôi, chị nuôi. Riêng Kim-điệu không những chỉ có một mà đến ba bốn ông anh nuôi, ba bốn bà chị nuôi. Nó xinh trai, láu lỉnh nhất đội nên được nhiều anh, nhiều chị thích nhận làm em nuôi. Và nó rất biết lợi dụng cái ưu thế của nó. Nó nhận anh chị nuôi này một thời gian thấy không thích nữa, lại bỏ, nhận anh chị nuôi khác. Và nó cũng rất thích thú, hãnh diện khi thấy vì nó mà các anh chị nuôi, nhất là các chị nuôi, giận hờn, ghen tức nhau. Có chị còn khóc đỏ cả mắt khi thấy người khác tranh mất đứa em nuôi xinh trai của mình.
Nguyễn Trì là ông anh nuôi thân thiết, gắn bó nhất của nó. Trước ngày Huế nổ súng, Nguyễn Trì làm quản lý của cơ quan Trung đoàn bộ. Ngày đó Lượm và Kim đều là liên lạc của trung đoàn bộ. Nguyễn Trì yêu Kim bao nhiêu thì ghét Lượm bấy nhiêu. Ngược lại Lượm cũng ghét Nguyễn Trì ra mặt ngay từ buổi đầu mới gặp Lượm thấy ghét Nguyễn Trì mà chính nó cũng không hiểu tại sao. Không những ghét Nguyễn Trì, nó còn ghét luôn cả Lê Thành, thư ký đánh máy của Trung đoàn bộ, bạn thân của Trì. Do ghét mà tự nhiên Lượm thường xuyên để mắt xem xét lời nói, việc làm của Trì và Thành. Một hôm nó nghe lỏm được Nguyễn Trì bàn với Lê Thành: sáng hôm sau đi nhận gạo ở kho quân lương của Trung đoàn, Nguyễn Trì sẽ lấy cắp hai bao một trăm cân gạo, giao cho Lê Thành đi bán. Trì hẹn Thành đón gạo ở chân cầu Ðông Ba cũ. Lượm gặp tham mưu trưởng Phùng Ðông - sau này là chi huy trưởng mặt trận C - báo cáo điều nghe lỏm được. Tham mưu trưởng bèn bố trí lính cảnh vệ bí mật theo dõi, và bắt quả tang hai đứa ăn cắp gạo. Cả hai bị tống cải hối thất.
Sau khi ra khỏi cải hối thất, tham mưu trưởng đưa Nguyễn Trì về một đại đội làm lính trơn. ít lâu sau nhờ chú em nuôi Kim, Nguyễn Trì biết được chính Lượm đã tố cáo hắn. Ðối với Lượm, Nguyễn Trì không phải chỉ là ghét mà thù hận. Có lần Trì nói với chú em nuôi dễ thương và xinh trai của mình: "Nếu tình cờ anh gặp thằng chó chết đó ngoài mặt trận, anh thề sẽ cho hắn ăn đạn". Nét mặt Trì sa sầm và cười gằn một cách dữ tợn.
Kim lo lắng kể chuyện lại với - Lượm, và khuyên:
"Hay là mi chịu khó tìm anh ấy mà xin lỗi...".
Lượm tức tối nói: "Việc chi tau phải xin lỗi thằng ăn cắp của Vệ Quốc đoàn? Hắn có đạn cho tau ăn dễ chừng tau không có đạn cho hắn ăn chắc?"

*

Nguyễn Trì đang từ cửa hàng bún bò khô đi ra. Trì vẫn như ngày làm quản lý ở Trung đoàn bộ. Mặt đầy trứng cá, nặn nhiều nên từng đám đen bầm, đầu tóc đít vịt chải bị-dăng-tin bóng loáng tưởng ruồi đậu cũng phải trượt chân ngã oạch; cổ tay đồng hồ vàng lấp lánh.
Chỉ có khác trước kia là Trì mặc quân phục kaki gabađin, bây giờ mặc "Com lê" mới tinh như vừa lấy ở hiệu may ra, chân dận giày da đen mõm nhái soi gương được đầu đội mũ phớt, mắt đeo kính râm.
Kim đâm bổ tới, mừng rỡ gọi:
- Anh Trì, anh Trì!
Trì quay lại, nhìn Kim vẻ hơi ngớ ra một chút.
Nhưng chỉ thoáng một giây, Trì đã đổi ngay nét mặt tươi cười vồn vã:
- Kim đấy à? Dạo này chú em lớn và đẹp trai quá ta?
Mặt Kim rạng rỡ lên vì được khen. Nó bước đến sát bên anh nuôi thì thầm hỏi:
- Chớ anh về đây khi mô?
Trì đưa mắt nhìn quanh vẻ sợ sệt, nhíu trán lại nói khẽ với Kim:
- Ðứng đây nói chuyện không tiện. Anh em mình ra cái ghế đá ngoài kia.
Trì dắt tay Kim ra khỏi chợ, đến cái ghế đá gần đầu cầu Tràng Tiền- Hai anh em ngồi sát bên nhau. Trì rút thuốc lá châm hút, vừa thở khói vừa hỏi:
- Em đi mô mà qua đây?
Em ở bên nhà qua. Mạ em biểu qua chợ mua mấy hộp hương vòng thắp bàn thờ Phật... - Lúc này Kim đã nhớ lại lời dặn của anh đồng-râu.
Em hồi cư lâu chưa? Chạy đến mô thì lộn lại?
- Em rút theo Trung đoàn bộ, ra đến Hiền Sĩ thì gặp gia đình em tản cư ở đó. Em liền bỏ trốn về nhà.
Em theo cha mạ hồi cư đã được gần tháng nay. Rứa anh?
- Anh thì chán quá! - Nguyễn Trì lắc lắc đầu vẻ buồn bã trả lời- Chạy ra đến Cổ Bi bị lạc mất đơn vị- Anh tìm đỏ cả mắt đến tận Mỹ Chánh cũng chẳng thấy tăm dạng. Chắc các cha hoảng quá, chạy tuốt ra thấu Vinh hay rút lên núi rồi cũng nên. Anh đành phải chôn súng chôn đạn bò về Huế. Dọc đường, mấy lần suýt bị Tây bắn chết...
Nguyên Trì thở dài, búng cái tàn thuốc ra xa, nói tiếp giọng uất ức:
- Không ngờ Vệ Quốc Ðoàn ta lại tan rã mau đến rứa! Bao nhiêu công lao cướp chính quyền, làm cách mạng, rứa là tan ra mây khói hết?...
Kim-điệu lúc này tự nhiên thấy thương hại cho ông anh nuôi to xác, diện ngất trời của mình. "Chắc là anh ấy chưa được biết chuyện chiến khu, chưa được học tập về ba giai đoạn kháng chiến... nó nghĩ thầm vậy". Nó nói, mặt hơi vênh lên:
- Anh cứ tưởng rứa chứ tan răng được anh?
- Em nói không tan, răng chẳng còn thấy bóng một mống Việt Minh nào?
- Rứa anh không nghe chuyện Vệ Quốc Ðoàn đánh đồn Hộ Thành đêm qua với truyền đơn rải trắng đường phố đó à? - Nó suýt buột miệng khoe- "Chính em rải truyền đơn đó chứ ai. Anh đang ngồi cạnh Việt Minh chính cống mà anh không biết". Nhưng nó đã cố gắng hết sức kiềm lại được. Nguyễn Trì châm điều thuốc khác, chuyển giọng trầm trồ thán phục.
- Không biết đơn vị mô của Trung đoàn mình chơi cái vố Hộ Thành tối qua khá thiệt!
Kim-điệu hơi ngập ngừng một chút, rồi hỏi:
- Giả dụ anh mà được gặp họ anh có theo không?
Nguyễn Trì đang đưa lưng vào thành ghế đá, thở khói liền ngồi thẳng ngay dậy, giọng sôi nổi.
- Răng lại không theo? Em tưởng anh không nát ruột nát gan trước cảnh nước mất nhà tan ni à?
- Tưởng anh bây giờ đã đi làm việc cho Tây?...
Làm cho Tây ấy à? - Nguyễn Trì khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước bọt qua kẽ răng. - Thà chết đói chết khát, xách bị đi ăn mày, chứ đời mô thanh danh là mọt thằng lính Vệ Quốc đoàn cũ như anh lại chịu nhục đi làm việc cho Tây.
Vẻ mặt và giọng nói cảm khái của ông anh nuôi làm Kim-điệu tan biến hết mọi lo lắng, nghi ngờ. Nó cho rằng đã có thể thổ lộ với Nguyễn Trì những điều bí mật, và cùng chia sẻ với anh nuôi nỗi vui thích hãnh diện đang tràn ứ trong lòng. Nó còn nảy ra ý định sẽ dắt Nguyễn Trì về Vĩ Dạ giới thiệu với anh đồng-râu, đề nghị anh kết nạp Trì vào tổ quân báo- "Thêm được một người, tổ mình càng mạnh, thả sức mà hoạt động" Như đoán được chú em nuôi xinh.trai, bồng bột, nhẹ dạ đang nghĩ gì, Nguyễn Trì làm vẻ mặt đau đáu, thở dài nói:
- Nếu anh mà được biết quân mình bây giờ đang ở đâu, thì a-lê hấp! Anh sẽ quăng hết những thứ này xuống sông. - Trì trỏ bộ áo quần, giày, mũ phớt, đồng hồ vàng. - Dù họ có ở tận rừng xanh, rú đó anh cũng mò tới tìm theo.
Kim hạ thấp giọng:
- Em chắc quân mình không ở xa mô. Có khi ở sát ngay bên nách anh em mình cũng nên...
Làm chi có chuyện đó em- - Nguyễn Trì ném mẩu thuốc lá xuống đất. - đánh xong là phải tìm đường rút.- Tây, Bảo vệ quân ở đầy thành phố. Việt Minh có ba đầu sáu tay cũng chẳng dám ở lại...
Kim nói gần như thì thầm:
- Rứa anh có dám tham gia hoạt động không?
- Hoạt động cái chi rứa? - Nguyễn Trì hỏi lại giọng ngờ nghệch.
- Hoạt động tình báo!
Nguyễn Trì ghé sát mặt chú em nuôi, giọng run lên hồi hộp: - Nhưng biết chỗ họ ở mô mà đến xin hoạt động em?
- ở đây chứ còn ở mô nữa! - Kim đưa ngón tay cái chỉ vào ngực mình, cặp mắt long lanh đắc thắng hãnh diện. Nó thích thú thấy Nguyễn Trì cứ nhìn nó, mặt ngây ra. - Em không giấu gì anh, không phải em theo gia đình hồi cư mô... Em được Trung đoàn cử về Huế hoạt động tình báo. Tất cả những truyền đơn đó đều do tay em rải cả.
Nó đưa tay lên định phác một cử chỉ để nhấn mạnh thêm cho điều bí mật quan trọng mà nó vừa tiết lộ. Bất ngờ tay nó chạm phải một vật cứng và lạnh dắt bên sườn ông anh nuôi khuất bên trong áo vét tông. Tay nó rụt ngay lại như chạm phải lửa. "Ui trời? Súng lục:". nói muốn kêu lên vậy mà không thành tiếng. - Hay là. Nó bàng hoàng nhìn Nguyễn Trì. Nó vùng đứng ngay dậy, định bỏ chạy. Nhưng ông anh nuôi với bàn tay cứng như sất nguội đã chộp lấy vai nó kéo giằng xuống, và nói qua kẽ răng:
- Ngồi im đó- Cựa quậy tao cho ăn đạn ngay!
Kim-điệu mặt tái nhợt, nhìn ông anh nuôi, giọng như sắp òa khóc:
- Anh Trì, anh mà nở đối với em rứa à?
Nguyễn Trì không trả lời, đưa mắt nhìn sang bên kia đường, đưa hai ngón tay lên búng tách một cái ra hiệu.
Từ dãy phố bên kia đường, một thanh niên mặc áo ca rô, đầu đội bê-rê lệch, quần ống tuýp, đi giày bốt tin trắng, vừa huýt sáo vừa băng qua đường, đến đứng khép nép trước mặt Nguyễn Trì, Trì nói nhỏ giọng ra lệnh:
- Giữ thằng này ngồi yên tại đây, chờ tao. Việt Minh chính cống đó. Coi chừng để nó thoát là mày phải thế mạng.
- Thưa xếp, thằng em đã canh giữ, thì nó có chạy đằng trời? Thằng mặc áo ca rô ngồi xuống sát bên Kim đưa tay choàng qua vai ra chiều thân mật, kiểu đôi bạn tri kỷ khoác vai nhau dốc bầu tâm sự- Kim vừa quay người lại thì một hóng súng lục thúc đau nhói bên mạng sườn- Hắn gằn giọng nói:
- Cứ ngồi yên vị như lứa? Mi mà cựa quậy, con "chó lửa" ni tức mình sủa lên là rồi đời đó nghe! - Hắn thúc mạnh hơn họng súng vào mạng sườn Kim để nhấn mạnh cho lời hăm dọa. Kim-điệu ngồi chết cứng trên ghế đá, mồ hôi vã ra, ướt đẫm suốt từ đầu tới chân.
Nguyễn Trì đi đến một bót cảnh sát gần đó.
Chừng hai chục phút sau một chiếc xe "jép" chạy đến đỗ xích sát lề đường, trước mặt ghế đá, máy vẫn nổ rù rù- Trên xe, ngoài thằng lái xe, còn có hai tên Bảo vệ quân cầm tiểu liên. Nguyễn Trì từ phía bót cảnh sát đi NAME = Desktop đến. Hắn đưa hai ngón tay búng đánh tách, ra lệnh cho thằng mặc áo ca rô:
- đưa nó về Ty An Ninh!
Thằng này đứng lên, xốc nách Kim đứng lên theo dìu đến bên cửa xe, nói:
- Mời chú em lên xe!
Kim như người mất hồn, run rẩy đặt một chân lên thùng xe. Thằng này lên gối thúc mạnh vào lưng Kim.
Mất đà, nó ngã nhào vào trong xe, đầu va phải cái cạnh ghế ngồi, máu lõa ra, chảy đỏ lòm cả mặt.
Chiếc xe rồ máy lao đi, giữa những cặp mắt hãi hùng ngơ ngác cửa những người qua đường.

10

Gần hai giờ chiều. ở Vĩ Dạ, anh Ðồng-râu hết đi ra lại đi vào. Anh bồn chồn nóng ruột, đợi mãi không thấy Kim về. Mâm cơm để phần nó vẫn còn úp lồng bàn trên phản.
Lượm và tư-dát về từ lúc mười một giờ kém mười lăm. Hai đứa ăn cơm chưa kịp uống nước, xỉa răng đã phải tất tả mang báo cáo về cho tổ liên lạc ở Sịa. Lần này anh cử Tư-dát cùng đi với Lượm, để nó quen đường.
Lở khi Lượm vắng mặt, nó có thể đi thay. Theo thông báo của ban quân báo trung đoàn, lần này phải chuyển về Huế khá nhiều truyền đơn và báo Giết giặc.
Tư-dát cùng đi với Lượm, lở đọc đường gặp chuyện bất trắc, hai đứa có thể giúp nhau, bàn bạc, giải quyết.
Bà o cũng vừa cắp rổ đi chợ. ở nhà chỉ còn một mình anh. Quanh xóm im ắng khác thường. Xóm này người hồi cư còn thưa thớt. Nhiều nhà còn cửa đóng, then cài, sân đầy rêu, bậc cửa mốc meo.
Anh vào buồng định chợp mắt một tí- Chờ đến ba giờ nêu không thấy Kim về, anh sẽ nhờ bà o lên phố dò la tin tức.
Anh vừa đặt lưng xuống giường, bỗng nghe ở phía đầu xóm có tiếng lao xao lạ tai- Anh bật ngồi dậy dỏng tai chăm chú lắng nghe- Tiếng nhiều bước chân huỳnh huỵch và tiếng xát quy-lát súng. Tiếng một con chó sủa váng lên, hốt hoảng. Linh tính dường như báo cho anh biết có sự chẳng lành- Anh nhảy đến góc buồng, mở thập gạo, thọc tay vào lôi ra một khẩu súng mô-de, quấn trong cái khăn mặt cũ. Anh mở ra, lau nhanh khẩu súng, tháo băng đạn, kiểm tra rồi lắp vào và bật chốt an toàn. Ngay lúc đó, phía trước ngõ nổi lên một tiếng còi chói tai, và tiếng hàng rào bị đạp gãy răng rắc.
Tiếng hô dữ tợn vang lên:
- Không được để nó chạy thoát!
Biết mình đã bị bao vây, anh Ðồng-râu đạp mạnh bức phên sát đầu chõng tre (bức phên này anh đã cẩn thận mở bứt nhiều nốt lạt buộc từ trước). Bức phên đổ ụp' Anh dẫm lên bức phên đổ lao ra phía vườn sau. Anh thấy lố nhố giữa những hàng cầy ăn quả, mũ sắt và những họng súng.
- Nó thoát ra phía ni bay ơi Bắn!
Một viên đạn rít, nóng bỏng sát sau gáy anh. Anh cúi khom người, siết chặt khẩu súng trong tay, bươn về phía bờ tre bên trái khu vườn.
Tiếng bọn giặc nhao nhao hò hét:
- đứng lại? Ðứng lại! Hàng thì sống!
Súng nổ từng loạt, tiếng chân rầm rập đuổi theo anh Ðồng-râu vọt qua bờ tre- Gai tre móc áo, kéo rách toạc từ ngực ra lưng.
- Bắt sống? Bắt sống, Vòng ra bên trái đón đầu nó.
Tiếng bọn giặc la hét rầm rầm. Anh vẫn chạy quay khẩu mô-de, bắn một phát qua vai. Một tiếng kêu rú đau đớn- ôi? Tiếng người ngã đánh uych. Nhiều tiếng la ré.
- Thằng ni có súng Cẩn thận đấy?
Gặp một con đường kiệt, anh rẽ ngang định lao ra bờ sông- Nhưng muộn mất rồi. Nhiều họng súng đón đầu anh- Cùng đường, anh lùi lại, vọt bừa qua mấy hàng rào đầy gai, bươn đến một ngôi đình bị phá hoại chỉ còn trơ mấy bức tường. Anh vọt mấy bậc tam cấp xây đá, lên nền đình ngổn ngang gạch vụn Ðưa mắt bao quát địa hình, anh đứng nép sau bức tường rạn nứt, cao quá đầu- Anh cúi khom người nhìn qua khe nứt, thấy bốn năm tên giặc, cầm súng lăm lăm chạy vào sân đình, mắt nhớn nhác tìm kiếm.
Một thằng cao lòng khòng, tay cầm khẩu "côn-đu", vẫy vẫy ra lệnh cho những thằng trước sân đình:
- Chặn tất cả các lối ra xóm! Hắn đang núp sau mấy bức tường nứt kia thôi!
Bắt tay lên miệng làm loa, tên này gọi to:
Ðồng-râu! Bỏ súng hàng đi! Chúng tao sẽ tha chết, Chống cự vô ích! Mày không thoát nổi mô!
Anh Ðồng-râu bàng hoàng trong khoảnh khắc "Tại sao tụi hắn biết tên mình! Thôi đúng rồi, Chắc là thằng Kim...".
Một loạt đạn trung liên bắn thẳng vào bức tường anh đang nấp, cắt ngang ý nghĩ của anh. Vôi vữa gạch vụn bay rào rào quanh anh. Anh chỉ nòng khẩu Mô-de qua khe nứt, nhắm đúng ngực thằng chỉ huy, siết cò- Trượt! Viên đạn bay vù qua vai hắn, làm đứt tung cái cầu vai áo khía. Thằng này nổi nóng, vẫy khẩu "côn" bắn liền một băng vào khe tường nứt.
Anh Ðồng-râu đổi vị trí bắn. Anh luồn sang bức tường bên phải, có cái cửa tròn chữ Thọ. Anh quỳ xuống nâng súng ngắm một thằng cầm tiểu liên "Tôm-sơn" đang cúi lom khom, lò dò bước lên bậc tam cấp. Anh bắn liền hai phát. Tên giặc đang cúi bỗng dướn thẳng người lên, cổ ngay ra như bị hóc xương, cặp mắt trợn ngược, miệng há to như sắp quát mắng. Bất thần hắn ngã vật ra đằng sau, gáy đập mạnh vào thềm đá. Khẩu tiều liên văng sang một bên. Hắn co quắp giẫy giụa, kêu ú ớ, và một dòng máu đỏ tươi vọt ra chính giữa trán.
Ðạn hết, anh thò tay vào túi áo móc mấy viên đạn dự trữ, định lắp tiếp vào súng. Nhưng ngay lúc đó, một tên giặc đội mũ sắt, vòng ra phía sau ngôi đình, nhô đầu lên khỏi bức tường đổ. Anh chưa kịp quay đầu lại, hắn đã chĩa khẩu tiểu liên vào lưng anh, kéo hết một băng đạn. Cả băng đạn mấy chục viên ghim hết vào lưng anh.
Anh chết tức khắc. Thân hình anh đổ nhào xuống cái bệ vôi có đặt những chiếc bát nhang sành sứt mẻ. Tay phải anh vẫn nấm chặt khẩu mô-de hết đạn. Bàn tay trái ngón quặp chặt bốn viên đạn vừa móc trong túi ra. Mái tóc rễ tre rậm lù xù thoáng điểm những sợi bạc, mồ hai dính bết trước trán. Chòm râu quai nón vênh ngược, bám trắng bụi vôi, đôi mắt có nhiều nếp nhăn rẽ quạt ở đuôi mắt mở to bất động.
Bọn giặc xúm đen xúm đỏ quanh xác anh. Chúng bẻ những ngón tay anh ra tước lấy khẩu súng và mấy viên đạn. Tên chỉ huy ra lệnh lấy dây dừa buộc hai chân anh, kẻo xác ra tận đường cái. Một chiếc Ô tô tải G.M.C; thùng xe vải bạt bít kín, đỗ ở đó. Trong góc thùng xe, Kim-điệu mặt mũi tím bầm, sưng húp, ngồi thu lu, mặt gục xuống đầu gối.
Chính nó đã dẫn đường cho bọn giặc vây bắn anh Ðồng-râu. Sự việc xảy ra khá đơn giản: Mười một giờ trưa hôm đó. Nguyễn Trì đưa Kim về đến Ty An Ninh.
Lúc này nó đã rõ ông anh nuôi yêu quý, mà một giờ trước đãy nó có ý định giúp đỡ, dắt dẫn vào con đường hoạt động tình báo, lại chính là trưởng ban Di động của Ty An Ninh. Ban Di động của hắn đang lồng lộn tìm kiếm dầu vết, manh mồi của trận tấn công đồn Hộ Thành và rải truyền đơn đêm qua. Cách đây mấy hôm các quan thầy Pháp bên sở mật thám Phòng Nhì vừa "xà lù" Ty An ninh là kém cỏi, bất lực. Việt Minh ngày càng làm mưa làm gió ngay trước mũi mà không tóm nổi một tên nào?
Cả Ty An Ninh lo sốt vó trước lời mắng mỏ của quan thầy. Dùi đánh đục, đục đánh sảng. Gã Ty trưởng trút hết nỗi lo sợ bực dọc lên đầu hắn, người chỉ huy đội quân điều tra, chỉ điểm của Ty. Gã gọi hắn là "Trưởng ban ăn hại".
Một sự may mắn tình cờ, hắn được gặp lại chú em nuôi quý hóa...
Chỉ sau mấy cái tát, mấy cú đấm của tên Năm-ngựa trước kia là dân dao búa côn đồ, bây giờ là chuyên nghiệp tra tấn của ty, Kim-điệu đã phun ra hết. Cả Ty An Ninh mừng rơn. Một mặt, tên Ty trưởng cho điều một trung đội Bảo vệ quân về Vĩ Dạ, do Kim dẫn đường, vây bắt anh đồng-râu. Mặt khác, Nguyễn Trì dẫn một tồ Di động viên về đầu cầu Bao Vinh đón bắt Lượm và Tư-dát từ Sịa trở về.
Bọn Bảo vệ quân vứt xác anh đồng-râu vào thùng xe, ngay trước mặt Kim. Cái xác nằm ngửa. nhìn thấy cái vạt ngực áo bà ba đũi Mỹ Lợi thân thuộc của người chỉ huy, đầm đìa những máu, và cặp mắt anh mở trừng, bất động, Kim kêu thét lên, hãi hùng, hoảng loạn. Nó ôm chặt lấy tên Bảo vệ quăn ngồi cạnh như cầu xin sự che chở.
Xe nổ máy, chở xác anh về đến đầu đập Ðá. Chúng đỗ xe, lôi xác anh xuống đặt nằm trên vạt cỏ sát lề đường. Cạnh xác chúng cắm một tấm biển có dòng chữ:
"Tên Ðồng-râu. Việt Minh đầu sỏ chỉ huy đánh đồn Hộ Thành và các vụ ám sát nhân viên nhà nước đã bị Ty An Ninh Thừa Thiên điều tra phát giác, phối hợp với Quân đội quốc gia lùng bắt được và bắn chết tại Vĩ Dạ vào lúc ba giờ bốn lăm phút ngày..-. tháng.-.. năm Chúng bêu xác anh tại đấy suốt ba ngày ba đêm khi đã gần thối rữa mới đem chôn.

11

Lượm và Tư-dát về đến trạm liên lạc khi mặt trời đã xế bóng. Trạm đóng trong nhà một cán bộ Việt Minh xã ở sâu cuối ngõ xóm.
ổ trạm lúc này chỉ có Hiền và Bồng. Châu đi liên lạc lên chiến khu từ chiều hôm kia chưa về. Công việc của tổ liên lạc khá vất vả. Chỉ có ba đứa mà phải lên về chiến khu xoành xoạch. Ðường từ Sịa lên chiến khu phải băng qua nhiều trảng cát, vượt đường quốc lộ Một lội qua mấy con sông, len lỏi qua nhiều xóm ấp nằm sát bên vị trí địch, đi hàng mấy giờ liền dọc những sườn đồi đá sỏi, gốc cỏ tranh mọc lởm chởm nhọn sắc như gai..
lúc lên về chiến khu, ba đứa phải cải trang làm trẻ chăn trâu đi tìm trâu lạc. Ðó là hình thức cải trang thuận tiện, che mắt giặc tốt hơn cả.
Ðầu đội nón mê (tài liệu thường cài trong lá nón), tay cầm roi, áo quần cộc rách vá tứ tung, bùn lấm từ đầu đến chân; dọc đường, hễ gặp người lớn có khi là tề dõng. Bảo vệ quân, là chúng lại mếu máo hỏi: "Anh ơi chú ơi, hoặc ông ơi, có thấy con trâu Ô sừng quặp của tui chạy lạc qua đây không?" Bồng mắc bệnh gì ngoài da không biết, cứ đến mùa đông da nổi vẩy lên như vẩy rắn, cả đội gọi nó là Bồng-da-rắn. Nó không chịu, bảo vẩy nó giống vẩy trăn hơn. Nhưng cả đội không đứa nào chịu cải tên cho nó là Bồng-da-trăn, cứ gọi Bồng-da-rắn. Nó ức lắm, mấy lần sinh sự đánh nhau.
Bồng-da-rắn trước khi vào Vệ Quốc đoàn làm đủ nghề, bán đậu phụng rang, bắp rang, "bánh mì nóng mới ra lò", "Cà-rem" v.v...
Châu có một vết rám ở má bên trái, như bị lửa cháy sém, các bạn gọi Châu-sém. Châu-sém là con nhà thuyền chài trên sông Hương. Châu-sém trạc tuổi Hiền, nhưng khỏe gấp hai gấp ba. Người nó đen trùi trũi, tay chân đã có bắp thịt săn chắc như thừng neo thuyền.
Bồng-da-rắn và Châu-sém cải trang làm trẻ chăn trâu thì không còn phải bàn. Như lột. Riêng Hiền trắng trẻo, xinh trai, dáng dấp đặc biệt học trò thành phố, đóng giả chăn trâu dễ lộ lắm. Nhưng nó vốn là đứa cứng đầu cứng cổ, không dễ gì chịu hàng trước khó khăn. Công việc càng khó khăn càng say mê hấp dẫn nó. Nhận lấy những việc thật khó, ít ai làm nổi, rồi làm tròn một cách xuất sắc, đó là điều nó luôn luôn mơ tưởng. Ngược lại; những việc dễ dàng làm cho nó buồn chán bỏ dở.
Khi mới bắt tay vào việc đi liên lạc lên chiến khu, Bồng-da-rắn, Châu-sém đều tỏ ý lo lắng, không tin tưởng Hiền có thể đóng giả trẻ giữ trâu. Chúng nói:
"Nước da mi trắng như bột lọc, bàn tay bàn chân sạch bong như tay chân mấy o nữ sinh Ðồng Khánh rứa mà mi đòi giả đò đứa đi giữ trâu, thì tụi Tây, tụi Bảo Vệ Quân có mù cũng biết là giả đò! Hay thôi mi ở nhà giữ nhà đề hai đứa tau đi cũng đủ.".Hiền cười:
C- ảm ơn lòng tốt của tụi bay. Nếu ở nhà giữ nhà thì tao ở quách nhà tao, việc chi phải lặn lội đi Vệ Quốc Ðoàn làm chi cho mệt?
Và cũng từ hôm đó, nó cởi trần, mặc quần đùi chạy ngoài đồng cát dang nắng ngày này qua ngày khác-Chỉ mấy ngày mà tóc tai, da thịt nó khét lẹt mùi nắng- Nó để đầu tóc bù xù, tóc phủ gáy. trố như tổ quạ.Vốn là đứa sạch sẽ nhất đội, nhưng bây giờ nó tập ăn ở nhớp còn hơn cả Bồng-da-rắn là đứa nồi tiếng ở nhớp. Tay chân nó chỉ rửa qua quýt, móng tay móng chân ghét dắt đen kịt. Tối đi ngủ, nó học Châu-sém, Bồng-da-rắn rửa chân khô: Ngồi lên chõng, xoa xoa hai bàn chân vào nhau, vỗ đánh bép một cái, thế là xong. Ðêm đầu tiên ngủ theo lối "rửa chân khô", nó trằn trọc hoài không sao ngù được. Cái cảm giác gai gai, sạn sạn, nhớp nhúa ở hai bàn chân như ngấm khắp cơ thể nó, làm nó mất ngủ- Nó đổi bộ áo quần đẹp nhất của nó lấy bộ áo quần vá chằng vá đụp, hôi rinh rích của một thằng bé chăn trâu trong xóm- Lúc mặc bộ áo quần này vào người da thịt nó nổi hết gai ốc. Những hôm không phải đi liên lạc, nó ra bãi thả trâu, đánh bạn với bọn giữ trâu. Nó học cách gọi trâu lạc, nghé lạc: "Nghé ơi, nghé ơi!"..- Nó cỡi những con trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ, nằm ép bụng lên lưng trâu để quần áo, da thịt nó ướp mùi trâu.
Chỉ sau chưa đầy một tháng, Tư-dát gặp lại nó, suýt nữa không nhận ra- Tư-dát há miệng trợn mắt kêu lên:
- Ui chao! Mi đó à Hiền?
Vẻ sửng sốt, ngạc nhiên của Tư-dát làm Hiền thích thú hãnh diện ra mặt. Thích thú và hãnh diện không kém gì những người vốn nghèo khổ, rách rưới nay trở nên giàu có, trưng diện làm bạn cũ suýt không nhận ra.
Trong ba đứa, nó đi bộ yếu nhất. Hồi còn ở nhà chân nó mấy khi rời khỏi được dép. Gót chân đỏ ong không có một vết nứt, một tí chai. Buổi đầu đi liên lạc lên chiến khu trở về, hai bàn chân nó sưng húp, gót chân nứt nẻ, rườm máu. Bồng-da rắn, Châu-sém thương nó quá. Hai đứa xúm lại chăm sóc. đứa nấu nước nóng, đứa đi mượn chậu hòa muối cho nó ngâm chân. Hai đứa nhìn gan bàn chân nó, xót xa nói:
- úi chao, mi đi thêm vài lần nữa e què mất! Thôi để hai đứa tao đi thay cho.
Thằng Hiền lắc lắc cái đầu tóc bù rối như tổ qua nói giọng ông cụ non:
Hai đưa mi có đi thay lau cũng chỉ thay được năm bảy lần, chứ có thay được hết cả đời tau không?
- Rứa mi định đi liên lạc hết cả đời mi à?
- Ư, tau nghĩ kỹ rồi, tau phải rèn luyện cặp giò để làm chiến sĩ cách mạng như ông Minh-trâu mà thằng Lượm vẫn kể cho tau nghe.
- ông Minh-trâu là ông mô rứa?
- ông là đồng chí cách mạng với cha cậu Lượm. ông tên Minh nhưng dáng người cục mịch đen đúa như cụ trâu, nên các đồng chí ông đặt biệt hiệu Minh-trâu. Hai đứa mi chưa biết chứ thằng Lượm là con nhà cách mạng nòi đó. Cha hắn làm chiến sĩ cách mạng từ thời tụi mình chưa đẻ, bị Tây bắt rồi vượt ngục mấy lần- Tụi mật thám Tây bắn chết cha hắn ở nhà tù Côn sơn lúc hắn mới có hai tuổi. ông Minh-trâu làm chủ nhiệm Việt Minh huyện Hương Thủy. Hồi cách mạng tháng Tám, ông chỉ huy cả huyện nổi dậy cướp chính quyền.
Ngày còn hoạt động bí mật, ông chuyên việc đi liên lạc cho Ðảng Cộng sản- Mà có phải đi liên lạc kiểu ấm ớ như mấy đứa mình từ đây lên chiến khu, từ chiến khu về đây mô? ông đi phải đi từ Huế vô đến Công Tum Ðắc Lắc, rồi ra tới Nghệ An, Thanh Hóa.
- Nhưng chắc ông ta đi mô, tàu hỏa?
- Ði tàu hỏa Ô tô, thì nói làm chi! ông toàn đi bộ, xuyên rừng mà đi! Mang toàn công văn tài liệu của Ðảng Cộng sản mà đi tàu hỏa, Ô tô, để mật thám tóm cho rồi đời à!
Châu-sém, Bồng-da-rắn lè lười khiếp phục.
Thằng Lượm kể chi ngó hai bàn chân ông cũng đủ biết ông đã đi bộ mấy nghìn mấy vạn cây số. Bàn chân to mà vuông như lưỡi cuốc tượng, Gan bàn chân dày cộm toàn chai, gót chân nứt nẻ như củ sắn bở luộc quá chín. Ði vấp phải mảnh lu, mảnh ghè, kêu cái cong!
Làm chủ nhiệm Việt Minh huyện mà ông vẫn cứ đi đất, chẳng có thứ giày dép mô vừa chân ông ta cả...
Hiền nhúng hai bàn chân sưng húp, rát bỏng vào chậu nước muối nóng, mắt đăm đăm nhìn ra trảng cát chói nắng. Nó nói, giọng nghiêm trang như muốn thổ lộ một niềm tâm sự thầm kín, một nỗi áo ước nung nấu từ lâu:
- Sau này lớn lên, nếu tau cũng được vào đảng Cộng sản, đảng có hỏi tau: "Ðồng chí Hiền muốn nhận công tác chi?". Tau sẽ xin với đảng: "Cho tui được đi liên lạc cho Ðảng như ông Minh-trâu".
- Rứa mi không đi làm xiếc nữa à? - Bồng-da-rắn thật thà hỏi?
- xiếc xót chi! Tại hồi đó còn con nít nên tao hay thích loăng quăng.
Nó làm như bây giờ nó đã người lớn lắm, và cái hồi còn thích đi làm xiếc ấy đã cách đây hàng bao nhiêu năm.
Châu-sém và Bồng-da-rắn cũng lây niềm mơ ước sôi nổi của nó. Hai đứa cùng nói:
- Lớn lên tau cũng sẽ xin vô Ðảng Cộng sản như mi.
- Có được không mi hè? VÔ Ðảng Cộng sản là phải tài giỏi lắm, chứ mấy đứa liên lạc ấm ớ như tụi mình thì ai cho vô. - Châu-sém nói.
- Ðể hôm mô gặp anh Ðồng-râu tụi mình hỏi thử coi- Giọng Hiền lộ vẻ băn khoăn. - Tau nghe lỏm mấy anh trên ban Tham mưu trung đoàn nói anh đồng-râu là Ðảng viên Cộng sản từ thời còn bí mật.
Bồng-da-rắn nói:
- Thằng Vịnh-sưa mà còn sống nhất định hắn phải được vô đảng Cộng sản- Hồi ở mặt trận Xê, tao hay nghe các anh lớn bàn nhau: Vô đảng Cộng sản trước hết là phải anh dũng. Cách mạng cần việc chi, làm việc đó Chết cũng không sợ. - Nó bỗng la lên, hết sức bất ngờ:
- Có hai con gà trống nhà ai đang đá nhau ngoài ngõ ghê quá bây ơi Ta ra coi đi!
Thế là cả ba đứa chạy ùa ra ngõ, xúm quanh đôi gà trống nhà ai đang cơn say máu chọi nhau, cánh đập phành phành, bụi đất, lông, bay mù. Mỗi cú đá hay, ba đứa đều nhảy dựng lên, cười reo, hoan hô, cổ vũ.

12

Lượm và tư-dát sửa soạn lên đường trở lại Huế thì châu-sém từ chiến khu về, tay xách ba đòn bánh tét khá to. Nó reo lên mừng rỡ:
- Hay quá? May tau về vừa kịp không thì ba đòn bánh tét ni để mấy hôm chờ mi, thiu mất.
Lượm hỏi:
- Bánh chi đó?
- Giết giặc!
Lượm hiểu ngay trong ruột bánh là báo "Giết giặc", tờ báo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên.
Ngoài ba đòn "Giết giặc còn bốn đòn "truyền đơn đưa về Sịa từ hai hôm trước. Hai đứa phải mang cả bảy đòn này đưa về Huế.
Tư-dát cười hề hề:
- Mấy ông Tham mưu trung đoàn mất lập trường quá. Vệ Quốc đoàn mình thì đói vàng mắt lại cứ gửi bánh tét hết đòn to, đòn nhỏ cho Tây với Việt gian ăn!
Hiền hỏi:
- Truyền đơn rải còn dễ chứ báo Giết giặc thì tụi bay làm răng?
Lượm nói:
- Lúc đầu tụi tau cũng lúng túng lắm, không biết làm cách chi để đồng bào đọc được- Nếu đem rải như truyền đơn thì tờ báo to rứa, ai dám lượm? Sau anh Tư-dát nhà mình, - nó đưa mắt nhìn Tư-dát cười, - nghĩ được một mẹo- Mua báo Bình minh của tụi Việt gian, khổ cũng vừa in tờ Giết giặc, cắt lấy đầu đề báo, dán thay vô đầu đề báo Giết giặc. Rứa là mũ thì Bình minh mà đầu thì Giết giặc. Ba đứa tau cứ việc chia nhau báo, đem đi đón công khai giữa ban ngày, dán đúng vô những chỗ tụi hắn thường dán báo- Ðồng bào xúm xít tha hồ đọc.
Hiền, Châu-sém, Bồng-da-rắn ôm lấy Tư-dát vật xuống đất, cù cho một trận.
- Trời ơi, mi khôn thiệt! Mi cũng là loại cách mạng nòi.
Tư-dát lăn lộn dưới đất cười chảy cả nước mắt đứt dây lưng quần thì ê chề lắm!
Lượm hỏi Châu-sém:
- Tình hình chiến khu dạo ni ra răng? Ðội mình còn ở trên đó hay về đồng bằng hoạt động?
- à, tau quên chưa nói cho tụi bay biết. Tụi tây vừa kéo lên đóng đồn ở Ðất đỏ, cách chiến khu chỉ non bốn cây số Nghe nói tụi Tây đóng đồn ni toàn là quân thiện chiến nhất nhì Ðông Dương- Tụi hắn muốn chặn ngang cổ họng chiến khu, không cho đồng bằng tiếp tế lên.
Nhìn thấy vẻ mặt lo lắng bồn chồn của các bạn, nó nói thêm như an ủi. - Nhưng ăn thua chi! Chặn đường đó ta đi đường khác. Chán vạn chỉ đường! Chừ nhà cửa chiến khu mọc lên nhiều lắm. Có cả bệnh viện, xưởng bào chế, xưởng quân giới, nhà Văn hóa đại chúng to rộng như cái đình. Còn đội mình không ở trong núi xanh nữa mà ra làm lán ngoài tiền chiến khu, ngay trên bờ sông Ô Lâu.
Các tổ được phân công về đồng bằng hết. Tổ bám đường quốc lộ theo dõi xe cộ giặc đi lại hàng ngày, tổ bám vị trí giặc nắm tình hình tin tức càn quét, hành quân.
Công việc tụi hắn cũng vất vả gớm lắm bay ạ. Cả đội chỉ còn lại thằng Mừng với thằng Quỳnh-sơn-ca ở nhà làm liên lạc cho đội trưởng. Hai đứa nhỏ mà đau luôn, nên đội trưởng bắt phải ở nhà. Tụi hắn khóc đã gớm. Ðội trưởng phải mua chè sắn dỗ mãi mới chịu nín. Thằng Mừng dạo ni chăm học lắm. Mấy lần lên chiến khu, tau đều gặp hắn ngồi trước cửa lán, cầm tờ báo Giết giặc, đánh vần đọc ê a. Lần vừa rồi lên, tao thấy hắn đang cởi trần phơi nắng, giăng áo ra bắt rận. Tau ngứa miệng nói chơi. "Mi đọc báo Giết giặc đó à? Có tin chi hay không?" Hắn cau mặt, xạc tau luôn: "Anh ăn nói ba láp quá! Ai lại đi ví cái áo rách đầy rận ni với tờ báo của Chiến khu giết giặc. Ui chao, giọng hắn răng mà giống đúc giọng thằng Vịnh-sưa hồi ở Huế. Thằng Quỳnh-sơn-ca mới làm được bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến", hay lắm. Cả chiến khu ai cũng hát- Trung đoàn trưởng, chính ủy đều khen hay- Trung đoàn trưởng có viết thư gửi anh Dồng-râu đây, dặn anh mua cái đàn,,măng tre" "măng lồ-ô" chi đó, lần sau tụi bay mang ra đây để tao xách lên cho ông, ông thưởng cho hắn.
Châu-sém moi trong cán cái roi trâu ra một mảnh giấy cuộn tròn đưa cho Lượm- Tư-dát cầm đọc thư của Trung đoàn trưởng gửi anh Ðồng-râu, dặn anh tìm mua một cái đàn măng-đô-lin loại thật tốt, để thưởng cho em Quỳnh-sơn-ca đã có công sáng tác được một bài hát hay về dòng sông Ô Lâu, dòng sông của chiến khu cách mạng.
Tư-dát cười ngặt nghẹo:
- Ðàn măng-đô-lin mà mi nhớ ra thành đàn măng tre, măng lồ-ô, thì đến Bụt trên chùa cũng không nhịn được cười!
Châu-sém, cũng cười:
- Thì ai biết mô, cứ nghe nói măng là tao nghĩ là măng tre, măng lồ-ô, chứ cái măng-đô-lin thì cha ai mà nhớ được. ổng thử dặn tau mua cá coi. Có giống cá trời tau cũng nhớ!

13

Sắp đến gần cầu ván Mậu tài, Lượm nói với Tư-dát:
- Mi đưa bánh tét đây tao xách cho. Mi đi trước chừng trăm bước, giả đò bắn ná. Thấy có chi động dạng thì giương ná lên như sắp bắn, ra hiệu cho tao biết.
Tư-dát trao bảy đòn bánh tét cho Lượm, rút ná cao su trong túi ra, lắp đạn, đi vượt lên trước.
Bước lên cầu ván, Tư-dát lại gặp thằng Tặng ngồi vắt vẻo bên mép cầu câu cá.
Lúc sáng qua đây, hai đứa đã gặp nó ngồi ở đó rồi.
Lượm giới thiệu Tặng với Tư-dát. Hôm trước nó đã kể chuyện cho cả tổ nghe trường hợp oái oăm nó làm quen với thằng Tặng. Bây chừ được gặp mặt, Tư-dát thích lắm, cười nói:
- Không khéo mi rồi thành ông Lã Vọng mất.
Lã Vọng là việc chi không biết, chỉ biết là mới sáng hôm qua, thu tóm được một thằng Vê-giê đi qua đây Vê-giê chính cống chứ không phải loại Vê-giê ấm ớ như thằng ni mô. - Tặng cười khì khì chỉ vào Lượm.
Lượm sờ cằm:
- Ðúng là đánh nhau bể đầu mới nhận ra anh em chú bác. Cằm tau vẫn còn hơi ê ê.
- Rứa cho hai đứa bay đứng chờ đây, tau chạy về nhà chặt cây mía đến ăn là hết ê ê ngay. Nó định đứng lên chạy về nhà chặt mía, nhưng Lượm nói:
- Thôi Tặng ạ, để khi khác. Lần này hai đứa mình có việc vội lắm, phải đi ngay cho kịp.
Tặng nhìn hai đứa, vẻ ái ngại:
- Cuộc đời vê cu-đê coi bộ cũng tất tả gớm hè!
Tư-dát vừa cười vừa ngâm nga:
"Ðời cách mạng từ đây tui đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày- Là gươm kề tận cổ súng kề tai " Mi chưa nghe nói đó à? - Nó bỗng nhìn xuống nước kêu ầm lên: Giật! Giật! Phao chìm rồi! - Nó chộp lấy cần câu trong tay Tặng, giật phắt một cái thật mạnh làm lưỡi câu dính con cá rô văng ngược lên cành si và mắc luôn trên đó. Con cá bị treo mỏ giẫy giụa như điên, làm chỉ câu càng quấn chặt thêm vào cành si.
Tư-dát xắm nắm định trèo lên gở. Tặng nói:
- Ðể đó tau gở cho. Hai đứa bay cứ đi đi cho kịp công việc. Này! cái đời cách mạng chi mi vừa đọc đó, mi viết giúp cho tau vô tờ giấy, tao đánh vần đọc chơi nghe!
Ðó là thơ, - Tư-dát nhìn Tặng ngạc nhiên, - mi cũng thích thơ à? Bài đó dài lắm, để tau chép hết cả bài cho mi, tha hồ đọc.
- Nì, có viết nhớ viết rõ rõ mà chữ to vô nghe. Ðây mới học bình dân, chữ thảo mà ngoằn ngoèo như chỉ câu rối là đây xin hàng đó nghe!
Nghe nó nói, tự nhiên Tư-dát thấy gương mặt Tặng trở lên sáng sủa, thông minh và dễ thương quá chừng.
Bây giờ trở về, nhìn thấy Tặng ngồi câu, Tư-dát mới chợt nhớ là quên chưa chép thơ cho nó. Tư-dát cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ.
Bên cạnh chỗ ngồi. Tặng để sẵn hai đẵn mía tím, gióng rất dài, chặt rất đều như đo mà chặt. Hai đẵn mía để dằn lên một tờ giấy trắng khổ rộng, có kẻ dòng.
Tư-dát hỏi:
- Ðược mấy con rồi?
- Một trê, một diếc. - Tặng cầm một đẫn mía đưa cho Tư-dát. - Phần của mi. Còn đây là tờ giấy để mi viết thơ đời cách mạng.
Tư-dát xua tay:
- Thôi, thôi, giấy thì ở Huế thiếu chi. Mi để đó mà học. Lần sau đi qua đây tau nhất định sẽ mang thơ cho mi. Tau sẽ chép đẹp như chữ in, không cần biết chữ cũng đọc được? Thằng Lượm đang đi sau kia- Chừ tao phải đi cái đã... Tau làm nhiệm vụ xích hầu. Tư-dát vừa xướt mía ăn vừa vượt nhanh qua cầu để giữ đúng cự ly một trăm bước.
Lượm bước lên cầu. Tặng đứng lên, đưa mía cho Lượm.
- Cây mía ni tau chặt đúng cái bụi cây lần trước đó.
Ngọt hết chê!
Tặng chợt nhìn trật xuống xách bánh tét trong tay Lượm bằng cặp mắt ranh mãnh.
- Bánh tét mua à?
- Không- Của bà cụ quen ở Sịa gửi cho con gái bán hàng nước ở Cầu Ðông Ba cũ.
Tặng cười tủm tỉm:
- Bà cụ cậu quen chắc là hay lừa đảo ghê lắm Bánh gửi cho con gái ngó bộ thì to, mà xách thì nhẹ bỗng.
Chắc bên trong, bà chỉ độn toàn giấy nhật trình.
Nhận xét của Tặng làm Lượm giật bắn người. Ðó là một sơ xuất mà nó và tổ liên lạc không nghĩ ra. Những đòn bánh tét này xách quá nhẹ.
Nó nói, giọng khâm phục: - Cậu mà làm Việt Minh thì chết cha Việt gian! Cậu mà làm Việt gian thì chết tổ Việt Minh? Nhưng cho biết làm răng hè? Không thể mở ra mà chêm thêm đá vô cho nặng được... Mà cứ xách kiểu ni về đến Huế, lỡ gặp phải tụi kiểm soát cũng khôn như cậu thì rồi đời.
Tặng nghênh nghênh cái đầu húi "cua" gần như trọc, cái trán nhăn, vẻ nghĩ ngợi:
- ừ gay thiệt! Mở ra thì lôi thôi lắm. Chỉ còn một cách lả phải giả đò xách nặng...
Tặng cầm lấy xâu bánh tét trong tay Lượm, đi thử qua cầu. Một vai nó lệch về một bên, bàn chân phía tay xách dẫm lên ván cầu vẻ nặng hơn hẳn bàn chần kia.
Lượm nhìn theo càng thêm cảm phục: "Trời ơi, điệu bộ nó mới tuyệt chứ! Nhìn đúng như nó đang xách xâu bánh tét thật, nặng hàng bảy tám kí lô"! Tặng vòng lại đưa xâu bánh tét cho Lượm:
- Cậu đi đi, không thì về đến Huế tối mất!
Xách xâu bánh tét, qua khỏi cầu được một đoạn.
Lượm quay đầu lại. Tặng đang đứng giữa cầu nhìn theo cười ranh mãnh, đầu gật gật như có ý bảo- "Ðược đó, Ðược đó" đi như rứa được đó! Cứ rứa mà đi nghe?".

14

Nguyễn Trì đội mũ phớt, đeo kính rậm, mặc bộ áo quần ga-bạc-đin màu tro, ngồi vắt chéo chân trong tiệm cà phê nhỏ mới mở, cách cầu Bao Vinh chừng ba trăm thước. Hai tên nhân viên di động đứng ở bên kia đường.
Mỗi đứa dựa lưng vào một gốc cây, cách nhau vài trăm thước, vẻ như người đi đường dừng lại nghỉ chân.
Ba tên chó săn rình phục ở đây từ lúc một giờ ba mươi phút chiều. Coi bộ cả ba bồn chồn nóng ruột lắm.
Nguyễn Trì ngồi khuất sau tấm rèm cửa sổ nhìn ra đường, một tay lần lần trên má nặn trứng cá, mắt hết nhìn phía cầu Bao Vinh lại nhìn đồng hồ đeo tay. Hắn đã gọi đến cốc cà phê thứ ba, đốt hết điếu thuốc lá này đến điếu khác.
Theo lời khai của thằng Kim thì tên Lượm thường đi liên lạc về Sịa vào lúc mười giờ sáng và trở lại Huế khoảng ba bốn giờ chiều. Sao đến bây giờ đã gần bốn rưỡi, vẫn chưa thấy bóng hắn mò về? Hay nó về rồi nhưng bằng con đường khác? hay chiều nay nó không về? Mỗi lúc hắn càng thêm tức tối nóng ruột. "ông nội mi! - Hắn gầm gừ chửi thầm, - tau mà tóm được, trước tiên tau phải cho mi rụng hàm răng cửa?" Bàn' tay hắn đang đặt trên đùi siết lại thành nắm đấm. Cánh tay giật giật như lên cơn động kinh- Hắn khoái trá tưởng tượng đến cái phút được giáng cật lực nắm đấm vào miệng cái thằng đã từng làm cho hắn phải vô cải hối thất hồi ở Trung đoàn bộ..- Tự nhiên hắn nhếch mép cười gằn, làm o bán hàng cà phê liếc nhìn hắn, lo lắng, ngơ ngác.
Toàn bộ con người hắn, từ diện mạo đến cử chỉ toát ra cái vẻ hung hãn, liều lĩnh của kẻ phản bội, quyết bán mình cho giặc, vì tiền bạc và cả vì thù hận.
Ngày Huế vỡ mặt trận, hắn theo đơn vị chạy ra đến Hiền Sĩ thì bỏ trốn. Hắn quanh quẩn trong vùng này cho đến ngày bọn Pháp tràn đến. Hắn ra hàng giặc và tâng công bằng cách chỉ cho chúng bắt và bắn chết ba chiến sĩ bị thương không rút kịp, sống trà trộn trong dân- Hắn lại chỉ cho giặc đào được hai khẩu đại liên- hốt kít của đại đội liên pháo chôn giấu, mà do một sự tình cờ hắn biết được. Bọn giặc đưa hắn về Huế và cho làm trưởng ban Di động Ty An Ninh.
Thật ra, trong nghề mật thám, hắn chẳng có tài ba gì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liều lĩnh và hay gặp vận may- Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn.
Sau vụ quân ta đột kích đồn Hộ Thành và rải truyền đơn, dán báo Giết giặc, bọn Pháp hết sức lo lắng và tức giận- Vì ảnh hưởng của vụ này trong dân chúng quá lớn. Ba tổ chức mật thám của Pháp và ngụy quyền.
Phòng Nhì, sở Mật thám Liên bang và Ty An Ninh dưới sự chỉ huy chung của tên quan ba mặt thám Sô-lê, đã huy động gần hết lực lượng tác chiến để điều tra manh mối. Quan ba Sô-lê còn treo giải thưởng ba ngàn đồng Ðông Dương cho nhân viên nào phát hiện và bắt được những kẻ có liên quan trong vụ này.
Nhờ gặp chú em nuôi mà món tiền thưởng đó.
Nguyễn Trì coi như đã cầm chắc trong tay.
sau khi cùng với đội hành động bắn chết anh đồng-râu ở Vĩ Dạ. Nguyễn Trì dẫn hai nhân viên di động về phục ở đầu cầu Bao Vinh để đón bắt Lượm trên đường từ Sịa về Huế. Hắn rất hy vọng sau vụ này, sẽ được bọn Pháp cất nhắc lên chức phó ty An ninh.
Chính trong cái phút hắn đang mơ màng danh vọng đó, thì Tư-dát đi ngang qua trước quán cà phê mà hắn không để ý!
Trước hết, hắn không biết mặt Tư-dát. Và cũng theo lời khai của thằng Kim thì Tư-dát thường ở nhà với đồng-râu, Lượm chỉ đi liên lạc 1 mình về Sịa lúc vây bắt Ðồng râu không tìm thấy Tư-dát. Hắn đoán thằng Tư-dát được sai đi đâu đó nên đã may mắn trốn thoát.
Sổng mất, Tư-dát, hắn có ý tiếc, nhưng tự an ủi: "Bắt được thằng Lượm, là coi như bắt được tất cả".
Theo lời khai của Kim-điệu, trong ba đứa- Lượm được đồng-râu tin cẩn nhất. Nó tuy nhỏ nhưng là dân "cách mạng nòi". Cha nó làm cộng sản bị Tây bắn chết từ khi nó mới lên hai tuổi. Sau ngày Cách mạng tháng Tám, tên cha nó được dân làng đặt tên cho con đường chính chạy qua làng. Nó được đồng-râu giao riêng việc liên lạc với chiến khu. Nhiều việc bí mật, Ðồng-râu chỉ cho một mình nó biết. Bao nhiêu truyền đơn, báo Giết giặc, đều do một tay nó đưa về Huế- Trận đánh đồn Hộ Thành đêm qua nó cũng được Ðồng-râu cho biết trước và có thể chính nó đã dẫn đường cho Vệ Quốc đòan lọt vào thành nội. Việt Minh đột nhập nội thành bằng đường nào, và bằng cách nào? Rút ra đường nào? đã rút ra hay còn lẩn quất trong thành nội? Chắc là nó biết rõ.
Sáng nay, trong phòng tra tấn của Ty An Ninh, thằng Kim chỉ mới nếm sơ mấy quả đấm của Năm-ngựa, đã phun ra không thiếu một điều gì. để nhẹ bớt tội bao nhiêu việc lớn nhỏ, có nhiều việc nó bịa đặt thêm thắt, trút hết lên đầu Lượm.
Bởi vậy, cả ty An ninh và Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp hết sức quan tâm đến việc phục bắt Lượm. "Trần Lượm, một tên tình báo Việt Minh hết sức lợi hại và nguy hiểm. Nếu bắt được hắn, sẽ khám phá ra nhiều tổ chức hoạt động bí mật của Việt Minh trong thành phố Huế" Viên chủ sự Ty An ninh đã điện cho quan ba mặt thám Sô-lê như vậy.