Hồi 10
Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc

 Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc

(Chu Mạnh Trinh, Đề Cổ-loa miếu)
Dịch nghĩa:
Bia tàn cây cỗi cố quốc nghìn thu hận
Chu Tường Qui kêu lên:
– Đào công tử, người có sao không?
Nàng chạy lại bên cạnh Đào Kỳ. Đào Kỳ giả vờ ôm ngực ngồi dậy, mặt nhăn nhó khổ sở:
– Cám ơn cô nương, tôi không sao cả.
Đào Kỳ ngồi dậy nói:
– Chu công tử, tôi còn thiếu công tử bảy chiêu nữa.
Minh Châu cản:
– Đào công tử, ngươi không địch nổi sư huynh tôi đâu, chịu thua đi cho xong chuyện.
Đào Kỳ lắc đầu:
– Cám ơn cô nương có lòng chiếu cố. Nhưng tôi còn thiếu Chu công tử bảy chiêu nữa.
Rồi nó đứng dậy thủ thế.
Chu Quang vọt người lên, đá một phi cước vào người nó. Chân trái vào ngực, chân phải vào mặt... Kình lực mạnh như vũ bão.
Đào Kỳ chờ cho chân Chu Quang sắp chạm vào người mình, nó mới thụp người xuống, loạng choạng như người say rượu, miệng đếm:
– Bốn chiêu.
Chu Quang thấy mình đá hụt, nổi giận, đánh một chưởng chiêu số rất kỳ ảo. Đào Kỳ cúi đầu xuống, hai tay che lấy mặt, vận sức chịu đòn. Miệng đếm:
– Năm chiêu.
Cứ thế đến chiêu thứ chín, nó nói:
– Chu công tử, còn một chiêu nữa.
Chu Quang móc trong túi ra hai vật đen thui như hai trái dưa màu vàng liệng xuống trước mặt Đào Kỳ. Minh Châu, Chu Tường Qui đồng kêu thét lên:
– Chết!
Đào Kỳ thấy ánh lửa loé lên. Nó biết là điều bất tường vội nhảy vọt người lên cao. Tai nó nghe hai tiếng nổ kinh hồn dưới chân, khói đen mờ mịt. Ở trên cao, nó đá gió một cái người rơi xuống đất. Chân chấm đất, nó ngửi thấy mùi khét rất khó chịu. Biết là trong khói có chất độc, nó vội nín hơi, nhảy liền ba bước, ra khỏi vùng khói.
Nó vận khí, hít một hơi dài, thấy chân khí lưu thông như thường, nó mới yên tâm nhìn Chu Quang.
Thấp thoáng bóng xanh, một người đã nhảy đến trước mặt Chu Quang tát y hai cái bốp, bốp mắng:
– Đồ hèn mạt!
Đào Kỳ trông nhận ra người đó là Lê Đạo Sinh, y chắp tay:
– Lục-trúc tiên sinh!
Minh Châu, Tường Qui cùng hành lễ:
– Thái sư phụ!
Lê Đạo Sinh hỏi Đào Kỳ:
– Cháu thử hít hơi mạnh xem có sao không?
Đào Kỳ hít một hơi dài, không thấy có gì khác lạ. Nó lắc đầu. Lê Đạo Sinh chỉ mặt Chu Quang mắng:
– Mi là đồ hư thân. Đào công tử không thù, không oán, cũng không có lời lẽ xúc phạm tới mi, mà mi dùng võ công thượng thừa để đánh người. Mi đánh thua còn dùng ám khí. Ta phải đập chết mi mới được. Mi mau lại tạ lỗi với Đào công tử.
Đào Kỳ xua tay:
– Lão tiên sinh! Chúng cháu là ngoại hậu bối, qua lại với nhau mấy chiêu, không đáng để tiên sinh phải quan tâm.
Lê Đạo Sinh mặt đỏ lên:
– Mi thấy không, Đào công tử đây tác phong danh gia, nên không chấp với mi đó.
Bất đắc dĩ Chu Quang phải đến bên Đào Kỳ chắp tay tạ ba lễ.
Lê Đạo Sinh chỉ mặt Chu Quang nói:
– Mi phải đi về với ta. Ta sẽ phạt mi 36 roi đòn về tội hành sự vô thiên vô pháp hôm nay.
Nguyên Lê Đạo Sinh chế ra một thứ ám khí cực kỳ khủng khiếp là Hoả-lưu. Vỏ bên ngoài bằng chì pha với đồng, bên trong là mấy trăm hạt chì nhỏ, trộn với thuốc kịch độc và lưu hoàng thành một thứ chất nổ. Khi ném ra lưu hoàng chạm vỏ chì, phát thành tiếng nổ, làm cháy thuốc độc và mấy trăm viên cùng bắn ra. Người nào bị viên chì văng trúng là bị thương. Vết thương có chất độc, sẽ đau đớn rên la trong mười ngày rồi thịt thối ra mà chết cực kỳ thảm thiết. Trái Hoả– lưu này chỉ những đệ tử của Lê Đạo Sinh mới được giữ mỗi người một trái. Chu Quang là đệ tử đời thứ ba đáng lẽ không được giữ, nhưng vì đã học được bản lĩnh cao ngang hàng với sư thúc, sư bá, nên Lê Đạo Sinh đặc biệt cho y hai trái. Trong lúc sắp bị thua cuộc Đào Kỳ, phải làm nô bộc suốt đời theo lời hứa, y mới đem ra dùng, mong kết liễu tính mệnh nó. Nhưng nó dùng khinh công thượng thừa tránh được.
Lê Đạo Sinh dắt con ngựa của ông cho Đào Kỳ nói:
– Đào công tử, người với Minh Châu, Tường Qui tiếp tục dạo chơi, và cố quên chuyện hôm nay đi. Đây ngựa của lão phu, công tử cỡi mà đi chơi.
Thấy Đạo Sinh xử sự nghiêm cẩn, Đào Kỳ sinh ra kính phục. Với những hành động như thế hèn chi thiên hạ không tôn ông là Lục-trúc tiên sinh. Nhưng hình ảnh nhà tù giam Nguyễn Phan với Đặng Thi Kế lại trở về trong đầu nó, khiến nó tự hỏi:
– Lục-trúc tiên sinh là người xấu hay người tốt? Việc ông đối xử với ta phân minh: Khi ta thua phải làm nô bộc, thì ông bắt ta làm nô bộc. Khi hết hạn nô bộc, chịu lời uỷ thác của Nghiêm đại ca, ông coi ta là khách. Như vậy ông tốt với ta. Nhưng ông giam Đặng Thi Kế với Nguyễn Phan thì thực là trái với nghĩa hiệp. Hiện ta khó mà phân biệt được ông là người tốt hay xấu.
Đào Kỳ lên ngựa, cùng Tường Qui, Minh Châu rời trang Thái-hà dạo chơi. Ba người đến bờ sông nhỏ, giòng nước đục ngầu, vì sông thông với sông Hồng-hà. Tường Qui hỏi Đào Kỳ:
– Đào đại ca! Tôi gọi vậy t cả. Bố, mẹ! Hôm nay con được chết với bố mẹ là sung sướng rồi.
Hai người kia đuổi kịp đến nơi. Người trẻ đi trước nói:
– Vũ Công Chất, hôm nay ngươi phải chết dưới lưỡi gươm của châu Bạch-hạc ta, để mi hối hận về những lời nói vô lễ của mi.
Đào Kỳ nghe giọng rất quen thuộc. Thoáng một cái, nó nhớ ra, đó là gã họ Trần, đệ tử của Đức Hiệp. Gã được lệnh sư phụ đi quy tụ dân, họp thành một châu lớn, rồi hắn làm Châu-trưởng, đó là châu Bạch-hạc.
Nó lẩm bẩm chửi thầm:
– Thì ra bọn Thái-hà trang đang đuổi người ta để bức bách. Nếu cần, ta phải ra tay cứu người.
Lại nghe lão già tên Vũ Công Chất thở dài:
– Ta không hối hận! Con gái ta là ngọc, là ngà trên thế gian, thà chết chứ không chịu làm vợ bọn châu Bạch-hạc các người. Các người có giỏi, cứ vào đi. Ta há sợ gì?
Người đuổi theo thắp lên ngọn đuốc sáng lòa. Đào Kỳ nhận rõ y là một trung niên nam tử khoảng 40 tuổi, khí vũ hiên ngang. Phía sau là một người già đeo bảo đao. Cả hai rút đao xông vào. Vũ Công Chất cũng rút kiếm ra. Thế là năm người nhảy vào hỗn chiến.
Được mười hiệp, bỗng kiếm của thiếu nữ đi với Công Chất bị đánh bay lên trời. Nàng đang luống cuống thì tên trung niên nam tử đã chụp lấy cô cặp vào nách lùi lại phía sau. Vũ Công Chất xả liền ba kiếm để cứu con gái, dường như ông đánh thí mạng, không cần phòng thủ, mặc cho đao của đối phương phóng tới. Trung niên nam tử quát lớn:
– Lão không muốn sống nữa ư?
Choangmột tiếng nữa, kiếm trên tay vợ Vũ Công Chất bị rơi xuống đất. Lão già dí kiếm vào cổ bà. Vũ Công Chất quăng kiếm xuống đất nói:
– Được, ta thua các người. Các người muốn giết ta cứ giết đi. Ta vì trúng độc của người, chứ thực ra, các người không phải là đối thủ của ta. Trần Cảnh Trung, ngươi thực là hèn hạ, thế mà cũng xưng là anh hùng, không ngờ đến đời ngươi lại tàn tệ như thế. Ta, đệ ngũ Thái-bảo phái Sài-sơn, một đời nghĩa hiệp, đâu có sợ chết.
Vũ Công Chất chỉ lão già đi theo Cảnh Trung:
– Ngươi là ai mà lại bịt mặt như vậy? Nếu là anh hùng hảo hán thì mở khăn ra cho ta nhìn mặt?
Người bịt mặt cười ha hả, tiếng cười rung động màng nhĩ mọi người:
– Ta là ai? Không đến cái thứ như ngươi hỏi đến. Sắp chết đến nơi rồi còn lên giọng ngạo mạn.
Vũ Công Chất nói:
– Ngươi tuy bịt mặt, nhưng ta cũng nhận được võ công ngươi. Ngươi dùng nội công của phái Tản-viên, nhưng kiếm pháp của ngươi lại thuộc phái Cửu-chân. Ngươi định gây tội ác rồi đổ cho phái Cửu-chân phải không? Âm mưu của ngươi ta đã biết rồi. Ha...ha...
Người bịt mặt nói:
– Đáng lẽ ta tha cho vợ con ngươi, chỉ giết mình ngươi thôi. Nhưng ngươi đã khám phá ra tông tích của ta, vậy ta phải giết cả nhà ngươi.
Đào Kỳ nghe giọng nói của lão già, chợt rúng động tâm can. Thì ra lão là Đức Hiệp, đại đệ tử của Lê Đạo Sinh.
Đức Hiệp vung đao chém xuống đầu Công Chất. Vũ Công Chất thản nhiên chịu chết. Đào Kỳ thấy vậy, định nhảy ra can thiệp. Bỗng véo một cái, một người từ bóng tối nhảy ra vung tay búng vào kiếm của Đức Hiệp. Thanh kiếm bay khỏi tay y.
Y giật mình nhìn lại. Người búng kiếm của y là một lão già gầy gò. Y buột miệng kêu lên:
– Lục-trúc tiên sinh! Tại sao người lại can thiệp vào chuyện của ta? Giữa Thái-hà trang với châu Bạch- hạc xưa nay không thù, không oán...
Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh chắp tay sau lưng nói chậm rãi:
– Việc thiên hạ thì người thiên hạ can thiệp là chuyện thường. Trần tiên sinh, châu Bạch-hạc của tiên sinh mấy trăm năm nay nổi tiếng giang hồ là hành hiệp trượng nghĩa, tại sao tiên sinh lại hành động đê tiện như thế này?
Trần Cảnh Trung chắp tay xá Đạo Sinh một xá, lùi lại nói:
– Vãn bối tham kiến Lục Trúc tiên sinh. Tiên sinh là cao nhân đương thời, xin tiên sinh chủ trì cho một việc. Vãn bối, về võ công, tư cách cũng không đến nổi nào. Vãn bối nghe Vũ Công Chất có người con gái là Vũ Trinh Thục, vãn bối mang lễ đến cầu hôn để kết thân giữa hai nhà Trần-Vũ, sau để nối thêm tình giữa hai trang Phượng-lâu với châu Bạch-hạc. Việc cầu hôn là sự thường, đồng ý hay không là tuỳ lão. Không ngờ lão kiêu ngạo, chửi bới người mai mối, còn đánh đến bị thương. Cái nhục ấy, vãn bối không trả sao được?
Đạo Sinh nói:
– Vũ tiên sinh tuy có nóng giận, nhưng Trần-châu trưởng cũng không nên vì thế mà giết người. Lão cả gan dám xin Trần tiên sinh cho Vũ tiên sinh thuốc giải.
Trần Cảnh Trung móc trong túi ra hai viên thuốc đưa cho vợ chồng Vũ Công Chất:
– Đây là thuốc giải. Ta vì nể lời Lục-trúc tiên sinh mà cho vợ chồng ngươi.
Vợ chồng Vũ Công Chất cầm lấy thuốc cho vào miệng uống.
Trần Cảnh Trung và người bịt mặt chắp tay vái Lê Đạo Sinh:
– Xin hẹn ngày tái ngộ.
Đạo Sinh rút trong túi ra một thẻ tre, trên có khắc chữ, đưa cho Cảnh Trung rồi nói:
– Trần châu trưởng, hiện thời đất Lĩnh Nam các gia, các phái, lại thêm các động, các châu có đến hàng ngàn. Anh hùng Lĩnh Nam không thiếu gì người tài, thế mà Kiến Vũ thiên tử và triều đình nghe lời xàm tấu của các quan lại người Hán, coi chúng ta như những bọn man di, ban lệnh cấm tập võ. Vì vậy, lão phu dự định tổ chức một đại hội, bầu lấy người minh chủ, rồi cử một phái đoàn sang Trung-nguyên, tâu xin thiên tử cho phép được tập võ.
Trần Cảnh Trung tiếp thẻ tre, hỏi:
– Vãn bối tưởng rằng Ngũ-lệnh của Tô thái thú cấm tập võ, chứ không phải là của Kiến Vũ thiên tử?
Lê Đạo Sinh lắc đầu:
– Không phải thế đâu, Châu trưởng. Tô thái thú ban hành lệnh cấm tập võ là do chỉ dụ của Kiến Vũ thiên tử. Lĩnh-nam công đã thượng tấu về triều để xin chỉ dụ chính thức. Còn lệnh cấm tập võ, ngài coi như của Tô thái thú, nên đã thu hồi. Vì vậy, tôi định tổ chức đại hội vào ngày 15 tháng tám sang năm tại Tây-hồ. Xin Châu trưởng tới dự.
Trần Cảnh Trung và Đức Hiệp cầm thẻ tre, chắp tay nói:
– Vãn bối xin tuân lệnh tiên sinh.
Vũ Công Chất chấp tay hướng về phía Đạo Sinh hành lễ:
– Đa tạ Lục-trúc tiên sinh cứu mạng.
Đạo Sinh phất tay làm hiệu. Phía sau có bốn người xuất hiện. Y ra lệnh:
– Các người mau đem kiệu của ta đưa Vũ tiên sinh về Thái-hà trang dưỡng thương.
Đợi cho bọn Đạo Sinh đi rồi, Đào Kỳ, Nguyễn Anh, Phương Dung, Thánh Thiên mới từ bụi rậm chui ra. Nguyễn Anh nói:
– Cái tên bịt mặt là ai? Kiếm thuật của y đúng là phái Cửu-chân, nhưng nội công của y lại thuộc phái Tản-viên. Âu Lạc huynh, anh là người thông thạo võ công nhiều phái, anh có biết lai lịch y không?
Đào Kỳ gật đầu:
– Tôi biết rất rõ. Y họ Lê tên Đức Hiệp, đại đệ tử của Lê Đạo Sinh. Y hiện thống lĩnh Thái-hà trang, thay sư phụ. Mọi việc của Thái-hà, y quyết đoán hết. Võ công y rất cao thâm.
Thánh Thiên vò đầu:
– Thực khó hiểu. Lão bịt mặt là Đức Hiệp giúp Trần Cảnh Trung, trong khi đó, sư phụ lão là Lục-trúc tiên sinh lại cứu Vũ Công Chất. Thế là thế nào?
Đào Kỳ cũng không hiểu, nói:
– Trần Cảnh Trung là đệ tử đời thứ hai của Lê Đạo Sinh. Y vâng lệnh Thái sư phụ lên mạn ngược, tập họp dân chúng, kết các động lẻ tẻ lại thành châu Bạch-hạc, đặt thuộc quyền Thái-hà trang.
Phương Dung nãy giờ im lặng, bây giờ mới lên tiếng:
– Em thử giải đoán xem có đúng không nghe. Lục-trúc tiên sinh cho năm đệ tử ra làm Huyện-uý, cầm quân năm huyện. Người lại cho năm đệ tử đi gom dân lập trang, ấp, thống nhất các động nhỏ thành châu. Thế lực của người ngày một lớn. Người muốn đi đến một bước nữa là thống nhất các môn phái Lĩnh Nam. Phái nào người cũng có chân tay, vì thế, người thao túng được cả. Duy có phái Sài-sơn, tám vị Thái-bảo đạo cao đức trọng, chưa chịu tuân phục nên người tìm cách mua chuộc tình cảm. Vì vậy, người sai Trần Cảnh Trung cùng Đức Hiệp bày ra việc cầu hôn, gây xích mích, rồi người đứng ra cứu Vũ Công Chất, như thế là vị đệ ngũ Thái-bảo phái Sài-sơn đã nằm trong tay người.
Đào Kỳ kêu ủa một tiếng đầy vẻ ngạc nhiên. Vì Nguyễn Trát thân với Hoàng Đức, kính trọng Lục-trúc tiên sinh là bề trên, trong khi Phương Dung lại nhìn y như một tên nguÿ quân tử. Nàng giải đoán sát với những hành động ám muội của Lê Đạo Sinh.
Nguyễn Anh lắc đầu:
– Ta không đồng ý. Lục-trúc tiên sinh là một bậc khiêm khiêm quân tử, tiếng tăm nghĩa hiệp lừng thiên hạ. Không bao giờ người lại có những thủ đoạn đê hèn như thế.
Phương Dung cười:
– Anh cả! Anh đừng lấy lượng quân tử mà đo lòng người. Phải nhìn vào sự thực mới được. Chuyện trước mắt: Lê Đạo Sinh giả nhân giả nghĩa, rồi Đức Hiệp trùm khăn đánh người, thế mà anh còn tin tưởng y ư?
Thánh Thiên thêm vào:
– Chị phải về thưa với cữu phụ ngay để người lột mặt nạ Lê Đạo Sinh mới được.
Đào Kỳ hỏi:
– Chị Thánh Thiên, cậu của chị là ai vậy?
Phương Dung đáp thay:
– Cậu của chị Thánh Thiên cũng là sư phụ của chị. Ngài là một người lừng danh thiên hạ. Ngài chính là đệ tam Thái-bảo phái Sài-sơn, họ Trần tên Công Minh. Ngài hiện đang điều khiển nghĩa quân ở châu Ký-hợp, xưng là Nam Thành vương, đã đánh quân Hán nhiều trận kinh thiên động địa.
Đào Kỳ kêu lên:
– Nam Thành vương à? Tôi đã nghe bố tôi nhắc đến nhiều lần.
Thánh Thiên thở dài:
– Âu Lạc, chị vẫn chưa biết tên họ em là gì đấy!
Cả bọn lấy ngựa, tiếp tục lên đường về Cổ-đại để dọ thám tin tức gia đình Thánh Thiên. Họ đi rất nhanh, khoảng giờ Tý đã tới Cổ-đại.
Thánh Thiên cho buộc ngựa nơi cây bàng trước chợ, rồi nói:
– Sư huynh Nguyễn Anh ở đây giữ ngựa, em với Âu Lạc, Phương Dung về nhà dò thám xem sao.
Nguyễn Anh đồng ý. Cả bọn men theo bờ của trang vào nhà. Họ cùng nhảy qua hàng rào trúc tới sân. Thánh Thiên khẽ gõ cửa ba tiếng. Không thấy ai trả lời. Nàng lại gõ ba tiếng nữa. Trong nhà vẫn im lìm.
Nàng nóng nảy dùng tay đẩy mạnh cửa. Cánh cửa kêu kẹt một tiếng rồi mở tung ra. Nàng nhảy vào nhà, dùng đá đánh lửa lên soi khắp nơi, nhưng vẫn không thấy cha nàng. Đồ đạc trong nhà đổ ngổn ngang. Cả bàn thờ tổ tiên cũng sập xuống, chứng tỏ tại đây trước đó đã có trận đánh khá dữ dội.
Phương Dung tìm ra vết máu ở giữa nhà. Đào Kỳ tìm ra một thanh kiếm gẫy. Thánh Thiên nhận ra đó là thanh kiếm của cha nàng. Phương Dung suy nghĩ rồi nói:
– Kẻ địch với sư bá có quen biết, và có hai người, nên trên bàn có ba chén nước chưa uống. Em đoán như thế này: Kẻ thù tới chơi, thương thảo một việc gì đó với sư bá. Sau đó sư bá không đồng ý, mới xảy ra trận đấu. Sư bá dùng kiếm đã đánh một đối thủ bị thương, vì vậy kiếm của sư bá có vết máu. Một trong hai đấu thủ có chưởng lực hùng hậu, thuộc loại dương cương nên mới đánh vỡ được bàn thờ. Rồi sau đó, diễn biến thế nào thì không biết.
Ngừng một lát, Phương Dung tiếp:
– Nhất định sư bá bị bắt chứ không phải bị giết. Nếu bị giết thì xác còn đây. Nếu sư bá không bị bắt thì đã trở về đây bày lại bàn thờ tổ tiên. Vì người Việt chúng ta dù còn một chút hơi tàn, khi thấy bàn thờ tổ tiên bị đổ ngổn ngang, cũng phải bày lại.
Phương Dung suy nghĩ, rồi tiếp:
– Chúng ta thử đoán xem kẻ thù là người Hán hay người Việt? Thêm nữa, kẻ thù còn là người thân nên mới được sư bá pha trà tiếp đãi. Nếu kẻ thù là người Hán, quyết lão bá không cho vào nhà, chứ đừng nói tới mời uống nước. Sau khi chủ khách phân ngôi, chúng mới đề nghị một việc gì đó, sư bá không chấp thuận, nên xảy ra cuộc chiến, rồi sư bá bị bắt.
Thánh Thiên nói:
– Võ công của bố chị không lấy gì làm cao cho lắm, nên cao thủ bậc trung cũng dư hại người.
Đào Kỳ nói:
– Chúng bắt lão bá đi là vì chị Thánh Thiên, quyết chúng không hại lão bá đâu.
Đào Kỳ, Phương Dung giúp Thánh Thiên dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, đóng cửa cẩn thận, rồi cùng trở lại chỗ Nguyễn Anh đang chờ. Từ xa đã nghe thấy tiếng binh khí chạm nhau. Cả ba chạy vội lại. Nguyễn Anh đang dùng kiếm đấu với hai người mặc theo Việt và một người mặc theo Hán. Nguyễn Anh đã có vẻ luống cuống lắm rồi.
Phương Dung nói:
– Âu Lạc, võ công anh cao nhất, đứng ngoài lược trận, đề phòng địch có cứu viện và đừng cho chúng chạy. Để em với Thánh Thiên nhập cuộc được rồi.
Nói rồi, Phương Dung rút kiếm hô lớn:
– Anh cả đừng sợ, có em đây.
Lời vừa dứt, ánh kiếm loáng véo một tiếng, đâm thẳng vào lưng tên Hán. Tên này thu côn trở về gạt kiếm của Phương Dung, đáng choang một tiếng. Phương Dung cảm thấy cánh tay tê chồn, suýt nữa văng mất kiếm. Đào Kỳ đứng ngoài ngẫm nghĩ:
– Kiếm pháp của Long-biên lấy mau thắng chậm, lấy nhu chế cương mà Phương Dung lại dùng sức, thành ra lấy cái sở đoản của mình chọi với sở trường của địch, hỏng mất. Ta phải nhắc nàng mới được.
Nghĩ rồi, Đào Kỳ hô lớn:
– Phương Dung, Tam hư thất thực.
Phương Dung tỉnh ngộ. Đánh ra liên tiếp ba hư chiêu, tên Hán tưởng nàng đánh thực, vội vung côn đỡ. Y đã mất khá nhiều sức, đến chiêu thứ tư y cho rằng Phương Dung vẫn đánh hư chiêu, nên côn đến nửa chừng thì thu về. Không ngờ chiêu đó lại là thực. Xoẹt một tiếng, kiếm đâm rách vai áo y, máu chảy ròng ròng. Y tức quá chửi lớn:
– Con bà nó, con nhỏ Nam man.
Rồi y vung côn đập chát, chát. chát, ba lần.
Đào Kỳ lại hô lên:
– Tam hư, thất hư.
Phương Dung hiểu ý, đánh toàn hư chiêu. Chỉ một lát thì tên cầm côn mệt nhừ, lùi dần về một góc. Còn tên Việt đánh với Thánh Thiên ngang sức. Đào Kỳ nhận thấy y sử dụng võ công của phái Tản-viên, bản lĩnh y cũng vào loại bình thường. Tuy y dùng kiếm, nhưng nguyên lý vẫn nằm trong võ công Văn-lang. Còn Thánh Thiên sử dụng võ công Sài-sơn rất thành thạo nên hai người ngang nhau. Về phía Nguyễn Anh thì chàng đàn áp đối phương không còn đường chống chọi.
Được thêm vài hiệp, tên Hán hô lớn:
– Chạy!
Y chém bậy một đao rồi bỏ chạy. Nhưng y bỗng đâm sầm vào một người dù y đã cố gắng dừng lại để khỏi đụng vào người đó, nhưng không kịp nữa. Hai người đụng vào nhau đánh bộp một cái, người y văng trở lại, lộn đi hai vòng. Y đành buông tay nói:
– Ta chịu thua.
Nguyên khi thấy tên Hán bỏ chạy, Đào Kỳ nhảy ra chặn đường, định bắt sống. Không ngờ y mải chạy, không nhìn thấy Kỳ, nên đụng vào người chàng. Công lực y yếu hơn nên bị văng trở lại, bị Phương Dung dí kiếm vào cổ.
Tên đánh với Thánh Thiên nghe đồng bọn hô chạy, y chém bậy một kiếm rồi biến vào đêm tối.
Đào Kỳ quay lại xem Nguyễn Anh thế nào thì thấy Nguyễn Anh đã bắt được tên đánh với chàng.
Phương Dung nói:
– Đại ca, anh ở ngoài này giữ ngựa, tại sao lại xảy ra cuộc đụng độ? Chúng là ai?
Nguyễn Anh nói:
– Ta đang đứng giữ ngựa, không hiểu ba tên này ở đâu tới, xông vào đánh. Chúng không nói một lời nào cả.
Phương Dung bàn:
– Chúng ta đưa hai tên này vào nhà chị Thánh Thiên thẩm vấn xem chúng là ai? Tại sao lại tấn công chúng ta?
Vào nhà Thánh Thiên, Phương Dung đốt đèn lên. Nàng điệu một tên ra ngồi đối diện, rồi rút kiếm nhắm người y đâm một nhát nhanh như chớp. Y sợ quá hét lên, nhưng Phương Dung đã thu kiếm về, cười hì hì. Rồi nàng ra trước sân, chặt một cây trúc, cắt thành từng đoạn ngắn, dài khoảng hơn gang tay, một đầu vót thực nhọn.
Thánh Thiên, Nguyễn Anh và Đào Kỳ đều không hiểu nàng định làm gì. Nhưng họ biết Phương Dung hành sự quái dị, mưu kế không biết đâu mà lường, nên đành ngồi nhìn xem nàng định làm gì.
Phương Dung hỏi Thánh Thiên:
– Nhà chị có chày giã cua không? Chị cho em mượn.
Thánh Thiên không biết Phương Dung định làm gì, nhưng nàng chắc rằng cô bé này định bày trò doạ mấy tên bị bắt. Nàng vội xuống bếp lấy cái chày giã cua đưa lên.
Phương Dung cầm một đoạn trúc, chĩa đầu nhọn xuống đất, vận kình đóng chày vào đầu kia. Đoạn trúc ngập xuống tận đuôi. Nàng cầm một đoạn trúc khác ướm thử lên đầu tên Hán, dơ chày định nện xuống. Thánh Thiên vội kêu lên:
– Đừng em, không nên.
Tên quân Hán cũng kêu lên:
– Đừng, cô nương, đừng làm thế!
Phương Dung cười:
– Tại sao lại không được? Cái chày này đóng đoạn trúc vào giữa đỉnh đầu thì khi ta hỏi ngươi mới khai thực. Nếu không, ngươi sẽ nói láo.
Tên quân Hán bở viá, lắp bắp:
– Cô nương hỏi gì, tiểu nhân xin nói thực hết.
Phương Dung cười:
– Ta hỏi một câu, mi trả lời một câu. Nếu mi nói láo một câu, ta sẽ đóng vào đầu mi một đoạn trúc. Mi nói sai hai câu, ta đóng vào mắt trái. Mi nói sai ba câu, ta đóng vào mắt phải, mi nhớ không? Tên mi là gì?
–ràng sư phụ ngươi đã hãm hại sư phụ để học kiếm pháp trấn môn, nếu không làm sao ngươi biết mà truyền cho con nhỏ này?
Đào Kỳ ngồi dưới, chàng biết rõ bọn Lê Nghĩa Nam bắt giam sư phụ, được Nguyễn Phan truyền thụ kiếm pháp, nội công giả cho chúng. Chúng luyện tập suốt hơn hai năm qua, không kết quả. Bây giờ chúng còn đổ tội cho Nguyễn Thuật, sư phụ Nguyễn Trát, thì thực là xảo quyệt, ác độc. Chàng không nhịn được, buông tiếng cười gằn:
– Lê tiền bối! Địa vị người trong phái Long-biên cũng không nhỏ. Đã là cao nhân thì phải quang minh chính đại. Đâu có chuyện mình làm những điều sai quấy, lại đi đổ cho kẻ khác. Khổng-tử nói rằng: Những điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác. Ngài lại cũng nói: Người quân tử đã làm điều sai quấy thì phải sửa đổi. Những điều tiền bối làm, tại sao lại cứ đổ cho tiền bối Nguyễn Thuật?
Nghe Đào Kỳ nói, bọn Lê Nghĩa Nam đều nổi da gà, vì trong lời nói của chàng dường như chàng đã biết hết thủ đoạn cuả chúng.
Hoàng Đức Tiết là người thâm trầm. Y hỏi Đào Kỳ:
– Thiếu niên này, ngươi là ai?
Đào Kỳ cười lạt:
– Ta tên là Âu-Lạc. Cha ta là Lạc-long quân, mẹ ta là Âu-Cơ. Ta không phải đệ tử phái Long-biên. Gia đình ta chẳng may gặp tai biến, nên phải đến sống nhờ ở trang Cối-giang đã hơn năm nay.
Mai Huyền Sương thấy chàng trải lời bằng giọng đâm họng, y thị nhảy vèo đến, phóng một chưởng vào người chàng. Đây là chưởng âm nhu của phái Long-biên, Đào Kỳ đã được Nguyễn Phan chỉ dạy. Chàng biết chiêu này tay phải đối thủ sẽ đánh thẳng vào mặt mình. Tay đẩy từ dưới lên trên. Đối thủ không biết, đưa tay gạt, tức thì, hai tay, hai chân sẽ bị gãy. Đào Kỳ giả vờ ngơ ngẩn, khoa tay múa loạn lên, nhưng chàng đẩy về phía Mai Huyền Sương chiêu Ngưu ngoạ ư sơn âm nhu trong Phục ngưu thần chưởng. Kình lực của Mai Huyền Sương gặp kình lực nhu hoà của chàng, bị tan biến mất tăm.
Không những Mai Huyền Sương kinh hoàng, cả đến bọn Nguyễn Trát cũng ngẩn người ra. Vì ông thấy Mai Huyền Suơng ra chiêu nội lực hùng hậu nhưng không hiểu Đào Kỳ đã ra chiêu gì để hoá giải kình lực của y thị dễ dàng như vậy.
Hoàng Đức Tiết nói với Mai Huyền Sương:
– Sư muội, đừng nóng nảy.
Rồi y tiến lên hỏi Đào Kỳ:
– Tiểu bằng hữu, vừa rồi ngươi sử dụng một chiêu giống như võ công Tản-viên, nhưng sao lại dùng nội công âm nhu của bản môn?
Đào Kỳ nói ngang:
– Võ công trong thiên hạ, dù nhu, dù cương cũng do người chế ra. Người này chế ra được, người khác cũng chế ra được. Chiêu thức và nội công của ta do ta chế ra.
Hoàng Đức Tiết còn muốn tra hỏi, nhưng y chợt nghĩ lại:
– Việc chính mình tới đây là để chiếm chức chưởng môn với Nguyễn Trát, hơi đâu lý luận đến việc khác?
Nghĩ vậy y bèn nói với Lê Nghĩa Nam:
– Sư huynh! Vừa rồi Nguyễn Trát đã quyết định từ chức chưởng môn để trả về cho chúng ta. Vậy sư huynh hãy tiếp nhận đi.
Nghĩa Nam tiến lên, hướng vào các đệ tử Long-biên:
– Các ngươi nghe đây! Nguyễn Trát biết tội, thoái vị chưởng môn. Kể từ hôm nay ta là chưởng môn. Các ngươi phải tuyệt đối tuân lệnh ta. Kẻ nào chống đối sẽ bị giết không tha.
Hội trường im phăng phắc nhưng không kh style='height:10px;'>
Như thiết, như tha,
để ca tụng đức độ của ông. Ông hiện là Thái sư thúc của chưởng môn Tản-viên, sư thúc của Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công. Hai người này năm trưg mưu đồ phản Hán phục Việt. õ công đệ nhất. Ông tuy làm quan với Hán nhưng đỻ hồ Tây vào ngày rằm tháng tám sang năm để dự đại hội. Thứ ba, Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng đã làm chuyện khi sư nghịch đạo, đuổi ra khỏi môn phái. Chiếu môn quy, phải rời khỏi trang Cối-giang nội ngày hôm nay cùng với vợ con.
Phương Dung thấy cha cùng sư thúc cúi đầu, nước mắt chảy dài, nàng không nhịn được, bước ra hỏi:
– Các người tự thị là cao nhân tiền bối đến đây để đoạt chức chưởng môn. Chức chưởng môn vừa vào tay đã bắt chúng ta quỳ gối trước mặt người Hán, thực là một điều sỉ nhục lớn lao của môn hộ. Chúng ta không tuân theo.
Mai Huyền Sương hất hàm ra lệnh cho Lê Nguyên Phong:
– Nguyên Phong, ngươi hãy bịt miệng con nhỏ ngạnh đầu cho ta.
Nguyên Phong là đệ tử đắc ý nhât của Lê Nghĩa Nam, tuổi y khoảng 40, võ công không kém Nguyễn Trát là bao. Nghe Mai Huyền Sương ra lệnh, y nhảy vào vung tay tát Phương Dung hai cái. Thân pháp y nhanh không tưởng được. Nguyễn Trát định xuất chiêu cứu Phương Dung nhưng đã trễ. Không ngờ khi hai tay y sắp tới mặt Phương Dung, nàng đã chuyển thân mình, thoáng một cái, đã ở phía sau Nguyên Phong. y tát vào khoảng không.
Mai Huyền Sương kêu lên:
– Ủa!
Phan Đông Bảng cũng ngạc nhiên:
– Úi chà!
Lê Nguyên Phong được lệnh sư thúc trấp áp một cô gái vào hàng hậu bối, ra tay đánh trộm mà bị hụt. Y nổi giận, quát lên một tiếng, tay trái vận sức, quay thành vòng tròn xuất chưởng đánh vào ngực Phương Dung. Tay phải biến thành trảo chụp vào mặt nàng. Phương Dung chờ cho chưởng, trảo đối phương sắp tới người, mới nhảy vọt lên cao, chân nàng đá gió một cái, người đã bắn ra xa Nguyên Phong.
Nguyên Phong giận quá, rút kiếm, ra chiêu Hoa khai nguyệt hạ. Kiếm quay tròn, biến thành 18 chiêu hư, bao trùm người Phương Dung. Tất cả hội trường đồng kêu lên:
– Chết!
Họ đều nhắm mắt lại, không dám nhìn cảnh một cô gái xinh đẹp như vậy bị giết chết. Nhưng bóng trắng thấp thoáng, Phương Dung chuyển động thân hình, đồng thời rút kiếm phóng ra một chiêu thần tốc, quái dị. Kiếm chiêu đâm vào giữa vòng tròn kiếm quang của Lê Nguyên Phong. Rồi nàng thu kiếm về, tra vào vỏ đến cách một cái. Kiếm của Nguyên Phong đã bị rơi xuống đrồng trên nóc cổng nhả ra một viên châu. Cổng có ba cửa vào, cửa chính ở giữa lớn, lúc nào cũng đóng. Hai cửa hai bên vừa hai người đi thì mở cho khách tới lễ. Vào trong cổng là một cái hồ nhỏ trong trồng sen, có cá chép vàng bơi lội. Trên bờ hồ trồng đủ mọi loại hoa. Trước khi vào đền, phải qua một cái hàng hiên. Hai bên hiên có hai ngôi tượng rất lớn, tay cầm đao, đó là hai thần giữ cửa. Vào trong đền, ở giữa tượng An-dương đắp bằng đất, rất linh động, lưng đeo bảo kiếm, ngồi trên ngai. Bên phải một người cực kỳ cao lớn, đeo bảo kiếm, bên trái một người khác mặc quần áo võ quan, tay cầm cung, tay cầm tên. Phía trước một người cầm gậy đập xuống đầu ba người quỳ gối: Một nam, một nữ còn trẻ và một người già.
Chu Thổ Quan:
– Người ngồi giữa là vua Thục An Dương. Người to lớn hùng vĩ là Vạn-tín hầu Lý Thân, người đeo cung tên là Cao-cảnh hầu Cao Nỗ. Người cầm gậy đánh vào đầu kẻ gian là Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung. Ba người quỳ gối thì nữ là Mỵ Châu, nam là Trọng Thuỷ, còn lão già là Triệu Đà.
Trong đền hương khói nghi ngút, huyền ảo. Ông từ giữ đền thấy năm người vào lễ, vội bước ra chào:
– Quý khách ở phương xa tới lễ đức vua phải không?
Đào Kỳ gật đầu:
– Vâng, chúng tôi xin được lễ đức vua và các vị trung thần.
Ông từ gọi hai thiếu nữ mặc áo vàng lên điện. Một người đánh chuông, một người đánh trống. Đào Kỳ quỳ trước điện, Minh Châu, Tường Qui đồng quỳ xuống bên cạnh. Đào Kỳ lễ bốn lễ rồi khấn:
– Đệ tử là Đào Kỳ, thuộc phái Cửu-chân, xin khấn trước các vị tổ sư: Đệ tử nguyện xin dâng cả cuộc đời cho công cuộc phản Hán phục Việt. Xin các vị tổ sư linh thiêng, phò hộ cho đệ tử sớm được gặp những bậc anh tài để phò tá.
Bên cạnh Đào Kỳ, Minh Châu, Tường Qui cùng khấn theo, nhưng hai nàng khấn nhỏ quá, Đào Kỳ không biết các nàng khấn những gì.
Ba người cùng lấy tiền đưa cho ông từ để mua đèn hương và tu bổ đền. Đào Kỳ còn lưu luyến không muốn rời khỏi đền, nó hỏi ông từ:
– Lão bá, chẳng hay đền được xây từ hồi nào vậy?
Ông từ mắt mơ màng nhìn về xa xưa nói:
– Sau khi giòng họ Triệu bị người Hán đánh dẹp, dân chúng các nơi kéo về đây họp nhau, thu góp tài vật xây đền. Cho đến nay gần 100 năm rồi. Quý khách đây là con dân Việt hay đệ tử của Âu-lạc?
Đào Kỳ chỉ Tường Qui, Minh Châu giới thiệu:
– Hai vị cô nương đây coi như đệ tử của Vạn-tín hầu.
Còn chàng chỉ Chu Thổ Quan:
– Tiên sinh với tôi đều là đệ tử của Trung-tín hầu.
Ông từ mặt đầy vẻ thiện cảm:
– Thế thì mời quý vị viếng thăm giếng Trường hận là nơi Trọng Thuỷ nhảy xuống tự tử, sau khi đã chôn xác Mỵ Châu.
Ông dẫn năm người đến dưới gốc cây đa thực lớn, chỉ cái giếng khá sâu:
– Đây là cái giếng Trọng Thuỷ đã nhảy xuống tự tử chết theo Mỵ Châu. Từ ngày đó, trong thành Cổ-loa mọc ra một thứ hoa màu tím, có lấm tấm trắng. Trong nhuỵ quả hiện ra hình một người đàn ông cúi đầu như khóc. Người ta đồn đó là hình Trọng Thuỷ, hoa được gọi là hoa Trường-hận.
Tường Qui mắt phượng mở to quát:
– Trọng Thuỷ! Nếu hồn ngươi có sống quanh đây hãy nghe ta nói: Ta chỉ là một cô gái Việt nhỏ bé, tuổi chưa quá 17, nhưng ta đã trải qua nhiều đêm nhìn trăng uống hận vong quốc. Ngươi được vua An Dương thương yêu, cho ở rể. Được Mỵ Châu tin tưởng ngươi. Ngươi nỡ lòng nào dẫm lên đại lượng của vua An Dương, chà đạp lên tình yêu của Mỵ Châu, phá vỡ hết hệ thống nỏ thần trên thành, ăn cắp bí mật chế nỏ, rồi chiếm nước người... Dù ngươi hối hận chết đi một lần, chứ chết đi đến một trăm lần cũng không chuộc được tội ngươi.
Nàng rút kiếm lia một nhát, bao nhiêu hoa Trường-hận trên bờ giếng đứt sát hết tới tận gốc. Cơn giận hình như chưa hết, mắt phượng sắc như dao, còn nhìn vào những cây hoa nằm dưới đất như muốn băm vằm ra.
Chu Thổ Quan rút trong túi ra một ống tiêu, đưa lên miệng thổi, tiếng tiêu cao vút lên tận mây xanh, toả vào không gian vô tận, dài liên miên bất tuyệt. Đào Kỳ nhận ra tiếng tiêu đó là bản Cổ-loa di hận mà nó đã được nghe cách đây mấy năm ở trên bờ sông Hồng-hà do Nguyễn Tam Trinh tấu. Có điều Tam Trinh tấu trên sông nước mênh mông. Còn Chu thổ Quan lại tấu ngay trên cảnh điêu tàn của Cổ-loa, thành ra tiếng tiêu thê thảm như con mất cha, nức nở như tiếng vợ mất chồng và ai oán như thiếu phụ nhan sắc mặn nồng giữa ngày xuân phải xa tình lang, khiến người ngồi đó phải cúi đầu khổ não.
Tường Qui rút kiếm chỉ về phương Bắc nghiến răng:
– Đệ tử, Chu Tường Qui, xin thề trước Quốc-tổ, sẽ dùng cả đời để phản Hán phục Việt. Nếu đệ tử không giữ lời thề, sẽ như cây này.
Nàng rút kiếm chém vèo một cái, cây lúc lác bên cạnh bị tiện trọn từ gốc.
Quách Thiên Lý tay kéo nhị, miệng ca:
Lĩnh Nam anh hùng,
Lĩnh Nam địa linh,
Lĩnh Nam anh kiệt,
Đất Lĩnh Nam chừ! Đã hai trăm năm,
Giặc Hán đến,
Anh hùng đâu?
Điêu tàn thành cổ, nước sông trôi,
Cây cỏ khóc chừ! Người đời vô tình,
Ai đó nghe ta hát chừ! Tỉnh giấc đi thôi,
Ăn ngon chừ,
Mặc đẹp chừ,
Nhà đẹp chừ,
Vợ đẹp chừ,
Cúi đầu như trâu như ngựa,
Non nước điêu tàn, vong quốc mênh mang.
(dịch bài Cổ-loa di hận)
Năm người xuất hồn, như mê như tỉnh. Chu Thổ Quan dẫn bọn Đào Kỳ đi vào giữa thành, chỉ vào lớp tường cao nói:
– Đây là lớp trong ng lỡ ra người ngoài bắt được thẻ đồng cũng vô dụng. Chàng đã được Nguyễn Phan giảng giải, nên hiểu hết. Bây giờ, nghe Nguyễn Trát nói, chàng không ngạc nhiên cho lắm.
Phương Dung hỏi Đào Kỳ:
– Hồi đêm, anh đánh với tên Hán, tại sao anh biết để nhắc em câu Tam hư, thất thực. Em sử dụng lý thuyết đó, thắng tên Hán dễ dàng. Anh biết kiếm pháp Long-biên à?
Nguyễn Trát giật mình nhìn Đào Kỳ:
– Này cháu, hôm trước ta đối chưởng với cháu, thấy trong chưởng lực có hòa lẫn dương cương với âm nhu. Dương cương thì giống như Tản-viên và Cửu-chân, còn âm nhu thì rõ ràng của Long-biên nhà ta. Đã mấy hôm nay ta cố suy nghĩ mà không tìm ra nguyên do. Hôm đó, ta có hỏi là cháu học võ với ai, cháu đã nói là có nỗi khổ tâm không thể nói ra. Cứ như ta suy nghĩ, nội công của cháu bao gồm cả Cửu-chân lẫn Tản-viên. Hồi đầu ta nghi cháu là đệ tử của Đào Thế Kiệt nhưng sau thấy không phải. Ta đã đấu với Đào Thế Kiệt trên trăm chiêu, nhưng chưởng lực của y thấp hơn ta một bậc. Còn hôm đó chiết chiêu với cháu, ta thấy nội công cháu thâm hậu hơn ta. Nội công của cháu không bằng Lê Đạo Sinh, nhưng ngang với Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công, hơn ta nhiều. Về nội công âm nhu hôm đó cháu sử dụng mới hai thành công lực nhưng đã hơn ta. Trên đời này, dù sư phụ ta sống lại cũng không bằng cháu. Chỉ có Thái sư phụ là có thể hơn cháu mà thôi.
Ngừng lại giây lát, ông nói tiếp:
– Cháu mới ngần này tuổi, võ công đã đến trình độ đó thì chỉ vài năm nữa, ngay đến Lê Đạo Sinh cũng thua cháu. Ta tự hỏi ai là sư phụ cháu? Về âm nhu, ta có thể nghi cháu được Thái sư phụ ta hiện còn tại thế, ẩn nấp ở đâu đó truyền thụ cho. Thuyết này khả dĩ tạm vững. Nhưng còn nội công dương cương, cháu học ai? Ta nghi phải hợp cả Đào Thế Kiệt với Đặng Thi Kế lại mới bằng cháu. Cháu lại biết Ngưu phục thần chưởng, cả những chiêu mà Lê Đạo Sinh cũng không biết thì thực kỳ lạ.
Đào Kỳ thầm khâm phục kiến thức của Nguyễn Trát. Nó nghĩ thầm:
– Các chưởng môn của Lĩnh Nam đều là những nhân vật kỳ vĩ ở thế gian này. Bố ta thì văn võ toàn tài, thao lược xuất chúng. Người lại thương đệ tử, yêu dân như yêu con. Chưởng môn phái Hoa-lư Cao Cảnh Sơn thì hào sảng, nhã lượng, cao trí. Chưởng môn phái Tản-viên Đặng Thi Sách thì hùng tâm, lược tài, cùng vợ là Trưng Trắc đang mưu đồ phản Hán phục Việt, khắp nơi cúi đầu tuân phục. Còn Nguyễn Trát, chưởng môn phái Long-biên kiến thức uyên bác, lòng dạ quảng đại. Chỉ gặp ta một lần, đưa ta về trang, đãi như thượng khách, không nghi ngờ gì cả. Người như vậy thực hiếm có.
 Thông thường, cứ trời sắp tối, Nguyễn Trát tập trung các đệ tử lại giảng võ đường để giảng dạy. Đào Kỳ là người khác phái, nên chàng tránh xa. Hôm ấy chàng hơi mệt nên về phòng ngủ trước. Một lát sau, chàng tỉnh dậy, khi nhìn sang giảng võ đường thấy còn đèn sáng. Chàng rón rén lại gần ghé mắt nhìn vào, thấy Nguyễn Trát đang bảo Nguyễn Anh:
– Để hiểu rõ Âu Lạc hơn, bây giờ con giả làm La Quý cầm côn đấu với Phương Dung. Đến chỗ nào Âu Lạc nhắc Phương Dung thì cho ta biết.
Đào Kỳ giật mình vì họ đang tìm hiểu chàng. Nguyễn Anh cầm côn hướng về phía cha làm lễ, đứng chờ đợi. Phương Dung cũng rút kiếm hành lễ rồi đứng chờ. Nguyễn Trát quát lên:
– Xuất chiêu!
Nguyễn Anh diễn lại những chiêu của La Quý không sai một chút. Sau bảy chiêu, chàng dồn Phương Dung vào góc. Chàng ngừng lại nói:
– Đến đây thì Âu Lạc nhắc Phương Dung Tam hư, thất thực.
Rồi chàng ra chiêu như La Quý, còn Phương Dung chiêu kiếm hư hư, thực thực ước khoảng mười chiêu nữa, Nguyễn Anh nói:
– Đến đây, Âu Lạc nhắc Phương Dung Thất hư, thất thực.
Phương Dung đổi kiếm pháp. Được vài chiêu nữa, cả hai cùng ngừng lại, bái tổ rồi cất vũ khí vào giá.
Nguyễn Trát thở dài:
– Phương Dung sử dụng kiếm rất đúng quy củ. Nhưng giữa hai chiêu Xuân đáo hoa khai và Xuân khứ hoa lạc có khoảng trống lớn. Âu Lạc đã nhắc Tam hư, thất thực chính là yếu quyết trấn môn của phái Long Biên. Về sau y nhắc Thất hư, thất thực cũng là một yếu quyết đó. Như vậy, y thông thạo hết 72 chiêu kiếm trấn môn và nội công của bản môn.
Phương Dung hỏi:
– Bố ơi, thế tại sao bố không truyền thuật đó cho chúng con?
Nguyễn Trát nói:
– Một là bố không biết, hai là bố có biết cũng chỉ truyền cho người thừa kế chưởng môn, chứ không truyền cho con.
Nguyễn Hùng hỏi:
– Tại sao bố là chưởng môn lại không biết?
Nguyễn Trát thở dài:
– Nguyên Thái sư phụ của cha tự nhiên mất tích. Các đệ tử của ngài họp nhau để bầu người chưởng môn. Cuộc bầu này bất thành vì chẳng ai chịu ai. Cuối cùng đi đến giải quyết bằng võ công. Sư phụ của ta đã thắng một sư huynh, một sư đệ, và một sư muội, giữ chức chưởng môn. Các vị đó giận dỗi bỏ đi phiêu bạt các nơi. Do vậy, môn phái ta yếu đi nhiều. Năm trước đây, ta với sư đệ, dự đại hội Lĩnh Nam, chiếm được ghế Lĩnh Nam đệ nhị võ công cũng có chút danh. Nhưng...
Nguyễn Trát buồn rầu nói tiếp:
– Nay đại hội Tây-hồ sắp đến, các vị sư bá, sư thúc của ta cho người nhắn rằng sẽ trở về đây để nhận nhiệm vụ cao nhân nhất phái Long-biên. Ta biết các vị sẽ tranh đoạt chức chưởng môn với ta. Chức chưởng môn không có gì quan trọng, nhưng những vị sư bá, sư thúc của ta hiện là những người làm việc với người Hán. Phái Long-biên chúng ta chủ trương phục quốc, chống Hán phục Việt, mà nay có vị chưởng môn làm việc với Hán thì còn gì là Long-biên nữa? Ngày mai, sư đệ Phan Đông Bảng sẽ đến đây bàn cách đối phó với biến cố này.
Chiều hôm sau, Phương Dung đến rủ Đào Kỳ ra bờ sông chơi. Đi cạnh Phương Dung, chàng chợt nhớ tới Tường Quy và buông tiếng thở dài. Phương Dung là một thiếu nữ cực kỳ thông minh, khi thấy Đðời:
– Có gì mà không hiểu. Chúng ta hoà hoãn với người Hán, để đợi một ngày kia, thực lực đã đủ thì mới khôi phục đất Lĩnh Nam. Đào công tử cũng thế. Công tử là con nhà danh gia, nhưng thân thiết với Lĩnh Nam công, thế thì không cùng đường lối với ta là gì?
Chu Tường Qui liếc nhìn Đào Kỳ:
– Đào đại ca, cách đây bốn năm, đại ca còn ít tuổi, tại sao lại thân được với Lĩnh Nam công, uy quyền bậc nhất thiên hạ, chỉ thua có vua Hán thôi?
Đào Kỳ thuật chi tiết trận đánh cảng Bắc, gặp Nghiêm Sơn thế nào cho mọi người nghe, rồi nó kết luận:
– Bố tôi dạy: Quân thù có gì tốt cũng phải nhận là tốt. Ta có gì xấu phải biết là xấu. Đừng vì ghét người mà cái xấu của mình bảo là của người. Đừng vì tự ái mà cái tốt của người lấy làm của mình. Người Hán có Nghiêm Sơn, có Lục tiên sinh, tôi nghĩ... thực đáng kính phục.
Cơm xong, mỗi người đi một ngả chơi. Tường Qui nheo mắt với Đào Kỳ một cái. Nó nghĩ thầm:
– Chắc nàng có điều gì muốn nói với ta đây. Ta phải đi theo nàng mới được.
Tường Qui lững thững đi về phía bờ sông. Trời đã về chiều, mặt trời toả ánh nắng đỏ rực, rọi ngang trên sông nước đỏ ngầu. Màu đỏ của nước, ánh đỏ của mặt trời tạo thành một màu đỏ óng ánh. Tường Qui xuống một con đò đậu ở bến. Đào Kỳ biết con đò to lớn trần thiết cực kỳ xa xỉ này là du thuyền của Lê Đạo Sinh. Thuyền có ba tầng, tầng dưới là phòng để uống rượu, đọc sách. Tầng giữa để ngủ và tầng trên cùng để đánh đàn, ngoạn cảnh.
Tường Qui xuống thuyền, dơ tay ngoắc Đào Kỳ. Tim nó đập loạn lên, không tự chủ được, bước theo.
Tường Qui dắt nó leo lên tầng trên. Trong căn phòng có treo đủ các thứ nhạc khí: Nào sáo, nào đàn, nào trống cơm... không thiếu một thứ gì.
Tường Qui phất tay một cái, thuyền phu nhổ sào, bẻ lái, con thuyền từ từ trôi ra giữa sông, rồi cho chạy xuôi giòng. Tường Qui cầm cây đàn bầu bật dây mấy cái, tiếng đàn kéo dài như rung rinh theo sóng nước. Nàng vừa đàn vừa ca:
Yến yến vu phi,
Si trì kỳ vũ,
Chi tử vui qui,
Viễn tống vu dã,
Chiêm vong phất cập,
Thế khấp như vũ.
Yến yến vu phi,
Hiệt chi hàng chi,
Chi tử vu qui,
Viễn vu tương chi,
Chiêm vọng phất cập,
Trữ lập dĩ khấp.
Yến yến vu phi,
Hạ thượng kỳ âm,
Chi tử vu qui,
Viễn tống vu Nam,
Chiêm vọng phất cập,
Thực lao ngã tâm.
Đào Kỳ biết nàng hát một bài ca trữ tình trong kinh Thi, mà ý nghĩa như sau:
Kìa trông yến bay,
Cánh lên, cánh xuống.
Nàng đi theo ai?
Tiễn nàng ra đồng,
Trông theo chẳng thấy,
Khóc lóc như mưa.
Kìa trông yến bay,
Hàng lên, hàng xuống.
Nàng đã theo ai?
Nhìn theo không kịp,
Theo nàng đi xa,
Đứng nhìn nhỏ lệ.
Kìa trông yến bay,
Tiếng kêu đau thương.
Nàng đi lấy chồng,
Tiễn nàng về Nam,
Nhìn theo chẳng hịp,
Lòng này khổ đau.
Đào Kỳ hồn bay bổng theo tiếng đàn:
– Tường muội, tại sao em lại ca bài ca đó?
Tường Qui vẻ buồn man mác:
– Anh là người văn võ kiêm toàn. Năm xưa nghe tiếng đàn của đệ tứ Thái-bảo phái Sài-sơn mà biết được tâm sự của ông. Ông khen đại ca là đệ nhất tri kỷ. Nay đại ca nghe tiếng đàn, câu hát của em không lẽ không hiểu sao?
Đào Kỳ tưởng nàng hát chơi một khúc, không ngờ trong tiếng đàn còn có ngụ ý gì nữa đây, mà nó không hiểu. Tường Qui cúi đầu xuống vừa đàn, vừa hát, tiếng hát ngân dài thê thảm:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cau,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủa nào ra?
Nàng hát xong, Tường Qui cúi đầu xuống nước mắt nhỏ từng giọt. Đào Kỳ rung động tâm hồn:
– Thì ra Tường Qui đã có chồng rồi. Bây giờ bèo mây dun dủi nàng gặp ta. Hai đứa ý hợp tâm đầu. Nhưng nàng như cá cắn câu, chim vào lồng, biết sao ra thoát.
Thuyền vẫn trôi đều trên sông. Trăng chiếu xuống nước lung linh. Đào Kỳ nhìn lên bầu trời, mây lững lơ bay về phương trời xa. Nó buông tiếng thở dài não nuột. Tường Qui đã lại ngồi bên nó, ngắm trăng. Hai tay nàng ôm gối, mặt hơi nghiêng nghiêng nhìn trời, nước mắt nhỏ xuống vai Đào Kỳ. Nó thấy một vật động đậy, lạnh buốt đụng vào tay nó. Nó nắm lấy, thì ra bàn tay của Tường Qui. Tường Qui gục đầu vào vai nó. Người nó như bay tít lên mây xanh, không tự chủ được nữa, nó ôm đầu nàng vào ngực. Thuyền vẫn cứ trôi. Tường Qui kể:
– Năm 15 tuổi, bố em hứa gã em cho con quan huyện lệnh Đăng-châu. Lễ lộc đã đủ. Mấy hôm nữa thì sẽ làm lễ cưới. Nhưng... trên đường về thăm ông ngoại, em gặp anh. Cùng một tâm tư phản Hán phục Việt, cùng trong làng võ với nhau, khiến em với anh như gặp nhau tự thủa nào! Nhưng... em không biết làm sao đây?
Thời bấy giờ phụ mẫu quyền cực kỳ mạnh. Cha mẹ quyết định cưới gle='height:10px;'>
– Anh thấy thế nào?
– Trong 72 chiêu này, ta hãy biến một chiêu thành ba, tức 216 chiêu đã. Nguyên lý như thế này:
Sinh sinh, tử tử, vượng vượng, ly ly.
Nhất khí, liên hoàn bất tự ly.
Chàng giảng cho Phương Dung thế nào là Sinh vẫn là sinh, thế nào là Tử sẽ không là tử, rồi Vượng vừa sinh vừa tử, cuối cùng là Ly không là ly. Làm thế nào để nối liền các chiêu lại, các chiêu đều theo một biến thái là vòng tròn. Cần tránh không cho chiêu thức trở lại lúc đầu. Lúc trước, Phương Dung đánh từng chiêu rời rạc. Bây giờ nàng đã hiểu, vung kiếm lên như vòng tròn nọ nối vòng tròn kia, liên miên bất tuyệt. Khi nàng đi được 72 thức thì thành cả muôn ngàn chiêu.
Trời đã ngả bóng. Nàng cảm thấy mệt nhoài. Đào Kỳ truyền nội công âm nhu cho nàng, bắt nàng tĩnh toạ, thở hít. Nàng vận khí một lúc thì thấy cơ thể mát rượi, bao nhiêu mệt mỏi đã tan biến đi hết.
Phương Dung phục quá, đứng dậy nói:
– Em không tin anh sáng chế ra. Chắc những bí quyết đó là võ công của nhà anh thì đúng hơn.
Đào Kỳ dặn:
– Những gì chúng mình sáng chế hôm nay, em đừng cho bố biết, người cười chúng mình chết.
Phương Dung gật đầu.
Hai người trở về trang trời đã xế chiều. Từ đấy, Đào Kỳ cứ đưa Phương Dung ra bờ sông luyện kiếm. Khoảng gần sáu tháng, nàng đã luyện xong bài quyết dài lê thê và 72 thức trấn môn. Đào Kỳ dùng kiếm đấu với Phương Dung, khi chàng dùng nhu, Dung dùng cương. Khì chàng dùng cương, Dung dùng nhu. Khi thì hai người song đấu, mỗi người đều dùng cả nhu lẫn cương. Hai người vung kiếm cuốn lấy nhau, không còn phân biệt được nữa.
Chiều hôm ấy, khi hai người về đến trang, người tỳ nữ đã vội nói với Phương Dung:
– Cô nương, mời cô nương lên gặp ông.
Phương Dung, Đào Kỳ lên nhà tổ, thấy có mấy người lạ ngồi đó.
Nguyễn Trát bảo Phương Dung:
– Con ra mắt sư thúc đi con.
Phương Dung phục xuống hành lễ:
– Cháu xin tham kiến sư thúc.
Đào Kỳ chắp tay chào:
– Tiểu bối Âu Lạc, xin tham kiến Long-biên nhị hiệp.
Phan Đông Bảng:
– Không dám, không dám. Tôi đã nghe sư huynh nói chưởng lực của tiểu hữu cao thâm khôn lường, sư huynh tôi cũng không bằng. Không ngờ tiểu hữu còn nhỏ tuổi như vậy.
Đào Kỳ nói:
– Không dám. Đó chẳng qua Nguyễn lão bá muốn dạy dỗ cho hậu bối đấy thôi.
Phan Đông Bảng nói:
– Tuyệt thực, tuổi trẻ, có chân tài, lại không lộ chí kiêu căng.

Xem Tiếp: Hồi 13

Truyện Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Hướng dẫn Hồi 1 Hồi 2 Hồi 3 Hồi 4 Hồi 5 Hồi 6 Hồi 7 Hồi 8 Hồi 9 Hồi 10 Hồi 11 Hồi 12 Hồi 13 Hồi 14 Hồi 15 Hồi 16 Hồi 17 Hồi 18 Hồi 19 Hồi 20 Hồi 21 Hồi 22 Hồi 23 Hồi 24 Hồi 25 Hồi 26 Hồi 27 Hồi 28 Hồi 29 Hồi 30 Hồi 31 Hồi 32 Hồi 33 Hồi 34 Hồi 35 Hồi 36 Hồi 37 Hồi 38 Hồi 39 Hồi 40 Hồi 40 PHỤ BẢN
Truyện Cùng Tác Giả Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Q3 - Cẩm Khê Di Hận Q4- Anh Hùng Tiêu Sơn Q5- Thuận Thiên Di Sử Q6- Anh Hùng Bắc Cương Q7- Anh Linh Thần Võ Tộc Việt Q8- Nam Quốc Sơn Hà Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông