Chương 4
Võ lâm minh chủ

Bảo-Hòa hướng vào đệ tử Tản-viên:
- Các vị có nghe Đỗ trưởng lão nói không? Một là Đỗ thưởng lão không biết võ công Tản-viên. Hai là Đỗ trưởng lão không thực thà. Rõ ràng tôi xử dụng ba chiêu liên tiếp. Chiêu đầu tên Kị-ngưu qui gia, chiêu sau tên Song ngưu đồng lao rồi tới chiêu Tứ-ngưu phân thi. Thế mà Đỗ trưởng lão bảo đó không phải võ công bản phái còn trời đất nào nữa?
Xích-Thập bị Bảo-Hòa lột mặt nạ, y luống cuống. Chợt trong đầu y lóe lên tia sáng. Một đoạn trong Hồng-thiết kinh nói:
"...Phàm đối với quân thù, không thể đạo đức. Khi gặp việc phải tranh luận trước dân chúng, thì mình đen, cứ nói làm trắng. Mình xanh cứ nói rằng đỏ. Nói lui, nói tới, nói hoài, nói mãi, cũng có người tin...".
Y thản nhiên trả lời Bảo-Hòa:
- Trong Phục-ngưu thần chưởng quả có hai chiêu Song-ngưu đồng lao và Kị ngưu qui gia, nhưng chiêu số, biến hoá đâu có giống như cô nương xử dụng? Cô nương ơi! Cô nương đã xử dụng hai chiêu võ của Hồng-thiết giáo, rồi bảo rằng Phục-ngưu thần chưởng. Chính cô nương đã phạm qui luật. Cô nương bị thua rồi.
Bảo-Hòa thấy Xích-Thập mặt dầy quá, chưa biết đối đáp sao, đã nghe tiếng Khai-Quốc vương nói vào tai:
- Đem vấn đề đó hỏi Nhật-Hồ lão nhân.
Bảo-Hòa tỉnh ngộ:
- Trong khi hăng say, Xích-Thập quên mất Nhật-Hồ lão nhân đang muốn loại y ra khỏi chức trưởng lão, vì chính y làm gian tế cho Tống. Ta mượn lão để đánh bại tên ma đầu này.
Nàng hướng vào Nhật-Hồ:
- Giáo chủ. Xin giáo chủ xử cho. Mấy chiêu tiểu nữ đánh ra có phải võ công Hồng-thiết giáo không?
Nhật-Hồ vuốt râu:
- Trong Hồng-thiết giáo không có ba chiêu đó. Cô nương nên biết Phục-ngưu thần chưởng do tổ sư Sơn-Tinh chế ra, đặt trên căn bản dương cương. Đến thời Lĩnh-Nam, Khất đại phu với Bắc-bình vương tìm ra cách vận khí bằng kinh mạch, cho nên trở thành dũng mãnh vô cùng, thuần dương. Còn võ công Hồng-thiết do hai thánh Mã-Mặc và Lệ-Anh chế ra, đặt căn bản trên việc xử dụng độc chất, nên khi đánh ra có khí âm hàn, trong nội công dương cương.
Đỗ Xích-Thập nghĩ thầm:
- Nếu mình dùng Phục-ngưu thần chưởng, mình không biết đủ ba mươi sáu chiêu, thành ra giữa chiêu nọ với chiêu kia có một khoảng cách. Trong khi con nhỏ này biết đủ, nó phát chiêu mau hơn. Tuổi nó còn nhỏ, công lực không làm bao, dù chưởng pháp tinh diệu đến đâu cũng vô ích. Ta dùng chưởng pháp khác. Đấu một lúc, nội lực nó giảm, ta thu phục nó cũng không muộn.
Tuy vậy y vẫn cãi:
- Vừa rồi ta sơ ý. Như vậy không kể. Tiểu cô nương! Chúng ta tái đấu.
Nói dứt lời, y tấn công trước. Lần này y không dùng Phục-ngưu thần chưởng, mà dùng Phục-hổ chưởng, là chưởng pháp tuy không tinh diệu bằng Phục-ngưu, nhưng cho đến nay còn lưu truyền đầy đủ. Công lực của y cực kỳ thâm hậu, chưởng phong xoáy như con lốc.
Bảo-Hòa bị tấn công thình lình. Nàng vọt mình lên cao tránh. Xích-Thập hướng chưởng lên trời. Bảo-Hoà chĩa tay xuống, phóng một Lĩnh-Nam chỉ. Công lực Xích-Thập tuy mạnh, nhưng Phục hổ chưởng phát ra quá rộng. Trong khi Lĩnh-Nam chỉ thu gọn lại như mũi dùi. Chỉ xuyên qua làn chưởng phong xuống đầu Xích-Thập. Y kinh hãi nhảy lui lại. Trong khi Bảo-Hòa đá gió một cái, người nàng đáp ra xa.
Xích-Thập không nhân nhượng, tung chiêu khác tấn công. Bảo-Hòa lại xuất chỉ. Chỉ lực phát ra kêu lên những tiếng vi vu. Công lực Xích-Thập tuy cao, nhưng chỉ pháp của Bảo-Hòa thu gọn lại như mũi dùi vô hình. Y cứ phải nhảy nhót tránh nhé.
Phạm Hổ rút kiếm tung cho Xích-Thập:
- Lĩnh-Nam chỉ pháp cực kỳ tinh diệu. Phải có võ khí mới chống được. Này kiếm đây!
Xích-Thập tiếp kiếm khoa một vòng. Y đã dành được chủ động. Bảo-Hòa tấn công mười chiêu, y đỡ được năm sáu.
Tại khán đài phái Đông-a, Thanh-Mai hỏi Trần Kiệt:
- Sư thúc! Tại sao Lĩnh-Nam chỉ pháp lại chỉ có những chiêu tấn công. Nếu sư thúc là Xích-Thập, sư thúc sẽ đối phó ra sao?
Trần Kiệt lắc đầu:
- Lĩnh-Nam chỉ pháp thuộc vô hình kiếm khí. Xưa hai đại tôn sư Khất-đại phu với Đào Kỳ chế ra, không chút sơ hở. Nếu ta ở hoàn cảnh Xích-Thập, cũng đến chịu chết, chứ không sao chống lại.
Đặng Đại-Khê đến gần đài quan sát. Ông thấy Bảo-Hòa xử dụng Lĩnh-Nam chỉ chưa thuần thục, ông biết nàng mới luyện gần đây, chưa kinh nghiệm chiến đấu. Ông than thầm:
- Xử dụng Lĩnh-Nam chỉ, tiêu hao rất nhiều công lực. Trong khi đó Bảo-Hòa không biết lợi dụng thắng y ngay lúc đầu. Nếu đấu trong vòng năm chục chiêu nữa, nàng nguy mất.
Quả nhiên, chỉ pháp của Bảo-Hòa dần dần bớt mạnh, Xích-Thập đã tiến đến cách nàng hơn trượng.
Đặng Đại-Khê bứt rứt không yên. Ông chợt nhớ đến một câu quyết trong tâm pháp Lĩnh-Nam chỉ:
"...Khi công lực không đủ, đừng nên xử dụng cả lục kinh, mười hai chỉ. Nên thu về một chỉ, rồi hợp với chưởng...».
Giữa lúc Bảo-Hòa cũng cảm thấy nguy. Đặng Đại-Khê dùng Lăng-không truyền ngữ nhắc nàng. Bảo-Hòa tỉnh ngộ:
- Mình đáng chết thực.
Nàng thu về một tay, vận khí phát ra huyệt Trung-xung ở đầu ngón giữa. Lập tức chân khí thu về một chỉ, mạnh như núi lở băng tan.
Bỗng choang một tiếng, kiếm của Xích-Thập bị trúng chỉ, gẫy làm nhiều mảnh bay lên cao. Phạm Hổ lại tung cho y thanh bảo đao. Nhưng chỉ được mấy chiêu đao lại gẫy.
Đến đây công lực Bảo-Hòa đã hơi cạn, chỉ pháp hết linh diệu.
Trong tất cả anh hùng hiện diện, chỉ có phò mã Đào-cam-Mộc, giòng dõi Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng phu nhân tức công chúa An-Quốc biết rõ những võ công Bảo-Hoà xử dụng. Lúc đầu Bảo-Hòa lên đài, phò mã không nhận ra được nàng. Đợi đến khi nàng bỏ mười hai chỉ, thu lại một chỉ, phò mã nói sẽ vào tai công chúa:
- Thì ra đứa cháu tiên nữ của công chúa. Ta phải lên đài cứu nó.
Hầu vọt lên đài. Lúc còn lơ lửng trên không, hầu đã phát một chiêu Thiết-kình phi chưởng của phái Cửu-chân, ngăn giữa hai người. Miệng hô:
- Khoan! Ngừng tay.
Bình một tiếng, Bảo-Hòa, Xích-Thập cùng bật lui lại. Cánh tay Xích-Thập gần như tê liệt. Y chửi thầm:
- Mẹ cha quân chó đẻ nào mà hách thế?
Ngoài miệng y hỏi:
- Các hạ là ai, mà can thiệp vào phái Tản-viên nhà ta?
Đào Cam-Mộc chắp tay xá Đỗ Xích-Thập:
- Tại hạ vốn con cháu Bắc-bình vương, họ Đào tên Cam-Mộc.
Cả quảng trường cùng bật lên tiếng »úi chà», kinh ngạc. Vì cách đây hai mươi năm, Đào Cam-Mộc nổi danh anh hùng vô địch. Khi vua Lê Ngọa-triều băng. Ông đã hăng hái đứng ra áp lực với quần hùng tôn Lý Công-Uẩn lên ngôi vua. Nhiều người phản đối, nhưng ai đấu với ông, cũng chỉ được mười chiêu, bị hạ. Sau đó ông cùng công chúa An-quốc bỏ chức tước ngao du sơn thủy, tuyệt tích giang hồ. Nay bỗng nhiên ông xuất hiện.
Ông hướng vào Nhật-Hồ lão nhân:
- Thưa giáo chủ. Hồi nãy Đỗ trưởng lão hứa rằng, nếu Trần cô nương đỡ được của người mười hai chiêu, người nhường chức chưởng môn cho. Thế mà nãy đến giờ, Trần cô nương đấu với Đỗ trưởng lão trên trăm chiêu. Vì vậy tại hạ lớn mật xin giáo chủ xử cho vụ này.
Nhật-Hồ vuốt râu:
- Xích-Thập! Người giữ lời hứa đi chứ?
Xích-Thập bị dồn đến chân tường. Tuy nhiên y vẫn cãi:
- Xưa ngũ tổ họp nhau, cùng thề rằng: Nếu sau này ai có thể tìm được Lĩnh-Nam chỉ cùng ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu, sẽ được giữ chức chưởng môn. Còn không, ai có võ công cao nhất lên cầm quyền. Như vậy Trần cô nương phải thắng tại hạ, tại hạ mới phục.
Đào Cam-Mộc cười:
- Lĩnh-Nam chỉ với Phục-ngưu thần chưởng, xưa nay có hai nơi lưu truyền. Một ở phái Tản-viên. Hai ở họ Đào nhà tại hạ. Tại hạ biết Trần cô nương đây học được cả ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng âm, lẫn dương. Lĩnh-Nam chỉ pháp, trưởng lão đã thưởng thức rồi. Còn Phục-ngưu thần chưởng, Đỗ trưởng lão chưa thấy qua, lấy gì làm tin bây giờ?
Xích-Thập cười nhạt:
- Dù những chiêu đã thất truyền, nhưng khi đánh ra, chiêu số, độ số, biến hoá. Ta há không nhận ra sao?
Đào Cam-Mộc nói với Bảo-Hòa:
- Trần cô nương, phiền cô nương biểu diễn ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu dương cương hầu Đỗ trưởng lão ấn chứng cho.
Bảo-Hòa dạ một tiếng, nàng khoan thai diễn từng chiêu một. Đến chiêu thứ ba mươi sáu thì ngừng lại, rồi lễ phép chắp tay hướng Đào Cam-Mộc:
- Xin phò mã chỉ điểm cho những chỗ sai lầm.
Đào Cam-Mộc nói với Xích-Thập:
- Đỗ trưởng lão. Như vậy ngôi vị chưởng môn phái Tản-viên đã định. Xin trưởng lão trao búa lệnh cho Trần cô nương.
Bất đắc dĩ Xích-Thập trao cây búa cho Bảo-Hòa. Y hỏi:
- Trần cô nương. Chẳng hay cô nương đệ tử của vị nào trong bản phái?
Nghe Xích-Thập hỏi, Bảo-Hòa chợt tỉnh ngộ: Nàng học võ sơ tâm với song thân. Khi đến tuổi mười hai, chính ông nội dạy nàng. Ngoài ra chỉ có Đặng Đại-Khê, người không ở trong huyết tộc đã dạy nội công tâm pháp Tản-viên, cũng như Phục-ngưu thần chưởng cho nàng. Song ông không thu nàng làm đệ tử.
Có tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nàng:
- Không cần phải bái sư, mới là đệ tử. Phàm học một chiêu, một chữ ở ai, người đó cũng thành thầy.
Bảo-Hòa tỉnh ngộ. Nàng chỉ vào Đặng Đại-Khê:
- Tiểu nữ học võ công Tản-viên với Đặng sư bá.
Cả quảng trường đều bật lên những tiếng kinh ngạc. Một, xưa nay phái Tản-viên vốn cừu thù, đối đầu mạnh nhất với Hồng-thiết giáo. Bảo-Hòa lên đài trong y phục giáo chúng Hồng-thiết, hơn nữa chính Dương Ẩn giới thiệu nàng sang Tây-dương học đạo với giáo chủ Hồng-thiết mới về. Thì sao nàng có thể là đệ tử Tản-viên? Hơn nữa, rõ ràng Đặng Đại-Khê không biết Lĩnh-Nam chỉ pháp cũng như toàn bộ Phục-ngưu thần chưởng, sao ông lại làm sư phụ nàng? Ba, theo lời Lê Ba, nàng được gửi sang Tây-dương từ nhỏ, mới trở về Đại-Việt mấy hôm nay. Thế, nàng học võ công Tản-viên từ bao giờ, mà có bản lĩnh ngang với những đại cao thủ bậc nhất Lĩnh-Nam?
Sự thực Bảo-Hòa chơi chữ. Nàng nói: Tôi học võ công Tản-viên với Đặng sư bá. Có nghĩa nàng chỉ học võ công Tản-viên của ông. Còn chữ sư bá, ý nói ông là bạn của phụ thân nàng. Thế nhưng quần hùng hiểu lầm nàng làm đệ tử một vị nào đó trong phái Tản-viên, thấp vai hơn Đặng Đại-Khê, nên nàng gọi ông bằng sư bá. Ông làm chưởng môn, trong phái, ông muốn dạy võ công cho ai cũng được!
Đỗ Xích-Thập ngơ ngác hỏi Dương Ẩn:
- Dương đạo huynh. Có đúng tiểu cô nương đây tên Trần Quỳnh-Hoa được chúng ta gửi sang Tây-dương học đạo năm nào không? Cô nương đã làm đệ tử bản giáo, tại sao lại có thể theo học phái Tản-viên?
Cách đây hơn hai mươi năm, bấy giờ triều Lê ra lệnh truy lùng, chém giết thẳng tay giáo chúng Hồng-thiết. Thầy trò Nhật-Hồ lão nhân phải ẩn thân nay đây mai đó. Tuy trốn tránh, nhưng họ vẫn có nhiều giáo chúng trung thành, che dấu cho họ. Thầy trò Nhật-Hồ vẫn lùng bắt những thiếu nữ xinh đẹp về làm cây thuốc luyện công. Trong số cây thuốc đó, có hai người làm cây thuối, ai đã bầy lễ, hương khói sẵn sàng cho sứ đoàn? Rồi khi thuyền vào đến hồ Động-đình. Thình lình lão Tôn đổi ý không chịu đưa sứ đoàn viếng núi Tam-sơn như dự tính. Lập tức con thuyền nhỏ xuất hiện cản đường với những nhạc cụ đơn giản, nhưng phát ra âm thanh kỳ quái khiến hai lão Tôn, Lê cho đuổi theo, cuối cùng sứ đoàn lại được lên Tam-sơn?
Nàng nghĩ thầm:
- Nhất định chú hai làm việc này chứ không ai khác. Nhưng mình gần chú không rời nửa bước. Đâu thấy chú có hành động gì lạ. Thế thì làm sao chú có thể sai người tạo ra những truyện kia?
Bốn người khoan thai lên đỉnh Tam-sơn. Núi Tam-sơn không cao, ít đá. Khắp sườn mọc đầy hoa Tầm-xuân. Bấy giờ tuy đang mùa Đông không hoa, chỉ còn lại thân cây đầy gai. Chim âu bay khắp mặt hồ kiếm mồi, rồi lại về đậu lên những cây trên núi.
Đỉnh Tam-sơn là khu đất bằng phẳng, rải rác khắp nơi còn lại những bức tường đá xiêu vẹo theo thời gian. Đó là vết tích của lễ đài xây thời Lĩnh-Nam chưa bị hủy hết.
Gió hiu hiu thổi, làm quần áo bay phần phật. Khai-Quốc vương đứng trên đỉnh núi, ngắm nhìn hồ. Vương than thầm:
- Đất tổ là đây, mà nay đã thành đất người. Biết bao giờ đòi lại được?
Thiệu-Thái hỏi:
- Mỹ-Linh này, mình có tới hai Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng lên đây thưởng hoa Xuân. Đúng không?
- Đúng đấy! Quốc-tổ Kinh-Dương cùng công chúa con vua Động-đình. Quốc-tổ Lạc-Long cùng Quốc-mẫu Âu-Cơ. Huyền sử nói Quốc-tổ Kinh-Dương cùng Quốc-mẫu truyền ngôi cho con, rồi bay lên trời. Quốc-tổ trở thành Ngọc-Hoàng thượng đế. Quốc-mẫu trở thành Cửu-trùng thánh-mẫu hay Thượng-thiên thánh-mẫu.
- Sự tích Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ anh đã thuộc làu. Huyền sử nói các ngài chia tay. Năm mươi con theo mẹ lên núi. Năm mươi con theo cha xuống biển. Còn trong chính sử cũng như bia đá của công chúa Phật-Nguyệt ghi các ngài phong cho một trăm con, mỗi người làm vua một vùng, sau thành Bách-Việt. Thế Quốc-tổ Kinh-Dương có bao nhiêu con?
Mỹ-Linh biết Thiệu-Thái được nghe kể nhiều hơn là đọc trong sách. Nàng đáp:
- Tương truyền nơi này mấy nghìn năm trước Quốc-tổ Kinh-Dương cùng công chúa con vua Động-đình thành hôn rồi lên đây hưởng phúc thanh nhàn. Sau đó sinh rất nhiều con. Tộc Việt coi Tam-sơn là đất thiêng. Trong tín ngưỡng người ta nói: Quốc-tổ bay lên trời thành Ngọc-hoàng thượng đế. Ngài có bốn Quốc-mẫu mang tên Cửu-trùng hay Thượng-Thiên thánh mẫu, Địa-tiên thánh-mẫu, Thượng-ngàn thánh-mẫu, Thủy-cung thánh-mẫu.
Thiệu-Thái thích quá reo lên:
- Anh biết rồi. Thượng-thiên thánh mẫu cai trị thần tiên khắp nơi. Thượng-ngàn thánh mẫu cai trị thần tiên vùng núi rừng. Thủy-cung thánh-mẫu cai trị thần tiên bốn biển cùng sông ngòi.
- Sao anh biết?
- Anh xem lên đồng, nghe cung văn hát chầu thánh thì biết. Sự tích này thuật trong bài chầu văn Thượng-thiên thánh mẫu.
- Anh có nhớ không?
- Không những nhớ, mà còn biết ca nữa.
- Anh đọc lên một đoạn cho em nghe thử. Em chưa xem hầu bóng bao giờ.
Thiệu-Thái định đọc, thì tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống hoà nhịp cùng tiếng ca vọng lại. Thiệu-Thái nhận ra đó là bản chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu.
Ngự cung trung, Cửu-thiên thánh vị,(1)
Ở trên trời sửa trị bốn phương.
Lòng chầu trong sạch như gương,
Thần thông biến hoá, sửa sang cõi trời.
Mặt hoa, mày liễu tốt tươi,
Hình dung yểu điệu miệng cười như hoa.
Lưng ong tóc phượng tay ngà.
Áo xông hương xạ, hài hoa thêu rồng.
Cửu-trùng ngự chín tầng mây,
Quan cai các lộ thiên tiên thượng đình.
Có phen chầu mặc áo xanh,
Ngự chơi Đông-điện,đàn tranh quyển trầm.
Áo xanh thay đổi áo hồng,
Cõi Nam chính ngự ngai rồng đỉnh đang.
...
Ngự thôi chầu mới ban ra,
Áo thắm quạt ngà ngự tới Tây-cung. (1)
Ghi chú
(1) Đoạn này chúng tôi trích trong bài chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu. Chúng tôi phiên âm theo bản chữ Nôm của viện Khảo-cổ Sài-gòn.
Biết người tấu nhạc cùng hát là ba kỳ nhân trên thuyền ban này. Thanh-Mai vận nội lực nói lớn:
- Đa tạ các vị đã cho nghe bản chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu.
Thiệu-Thái hỏi:
- Thế tại sao người ta nói Thượng-ngàn thánh-mẫu là Hồ tiên cô? Thủy-cung thánh mẫu là đức Mẫu-Thoải tức Gia-Hưng công chúa? (2)
Ghi chú
(2) Hiện tại vùng trấn nhậm của công chúa Gia-hưng dọc bờ biển Quảng-đông, dân chúng còn thờ Giao-long tiên nữ, thường hầu bóng ngài, gọi ngài là Thánh-mẫu thủy cung.
Mỹ-Linh bật cười:
- Nguyên thời Lĩnh-Nam nữ tướng Hồ Đề tổ chức được tám đạo quân gây kinh hoàng cho Hán là Ưng, Hổ, Báo, Ngao, Phong, Hầu, Tượng. Sau khi ngài qua đời vẫn còn hiển linh, được dân chúng coi như bà mẹ chung, vì vậy người ta cho rằng ngài chính là Thánh-mẫu thượng-ngàn giáng hạ. Cũng như nhị Trưng nguyên là công chúa trên thiên cung bị đầy. Còn công chúa Gia-Hưng Trần Quốc đánh trận Nam-hải oai trấn Trung-nguyên, dân chúng huyền thọai ngài là Thủy-cung thánh-mẫu, thường gọi bằng đức mẫu Thủy. Để kiêng tên ngài người ta đọc chữ chữ thủy trệch đi thành Thoải.
Thiệu-Thái nhắc lại:
- Quốc-tổ Kinh-Dương có bao nhiêu con?
Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Thiệu-Thái cười:
- Anh xem lên đồng hoài, hẳn biết hơn em chứ?
Thiệu-Thái ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Anh nhớ ra rồi. Vua Kinh-Dương có mười hoàng tử, bốn công chúa. Đương thời ngài phong cho năm con lớn giữ năm nhiệm vụ, giới hầu bóng thường gọi là năm quan lớn. Năm vị được trao năm nhiệm vụ: Đệ-Nhất trấn trung ương hộ-dân, sau thành Quốc-tổ Lạc-Long. Đệ-Nhị thượng-ngàn cai trị vùng rừng núi. Đệ-Tam trấn quốc cầm quân. Đệ-Tứ trị thủy trấn sông ngòi, ao, biển. Đệ-Ngũ Tuần-Tranh giám sát dân chúng; công thưởng; tội phạt. Còn năm vị sau không rõ. Bốn vị công chúa là Khâm-Sai, Bạch-Hoa, Thượng-Ngàn, Thủy-Điện.
Thanh-Mai bảo Thiệu-Thái:
- Như vậy là thời đó nước ta coi nam cũng như nữ. Chứ không phải như Trung-quốc chỉ biết có nam, còn nữ thì bị giam trong phòng the.
Khai-Quốc vương hỏi:
- Thiệu-Thái có thuộc đoạn chầu văn nào nói tới hồ Động-đình không? Đoạn nào nói về vua Kinh-Dương có mười con?
- Cháu nhớ lõm bõm mấy câu. Như nói về vua Kinh-Dương:
Động-đình sông vắng ngã ba,
Tối linh thượng đẳng trên tòa uy nghi,
Đôi bên ngựa đứng voi quỳ,
Nhơn nhơ phượng múa hạc thì chầu lên...
( Đức vua Bát Hải văn )
Đoạn nói về mười hoàng tử của vua Kinh-Dương như sau:
Vua cha Bát Hải Động-đình,
Sinh ông Hoàng Cả anh linh ra đầu,
Hoàng đôi vua sinh ra sau,
Thiên hạ đảo cầu ông ngự đền vương.
...
Mười ông đã được làm quan,
Sắc lệnh Ngọc-hoàng hộ quốc tý dân.
(Bát Hải Động-đình văn)
Thanh-Mai cãi:
- Đó là bài hát chầu văn nói về vua Bát Hải Động-đình chứ có phải nói về vua Kinh-Dương đâu?
Mỹ-Linh giảng giải:
- Thưa thím, vua Kinh-Dương còn có danh hiệu là Bát Hải Động-đình. Khác với Trung-nguyên, họ chỉ nói đến tứ hải là Đông, Tây, Nam, Bắc. Vua Kinh-Dương theo tín ngưỡng còn làm vua trên thượng giới. Mà thượng giới cũng có bốn biễn nữảa Tiếng đàn, tiếng phách lại vang lên, rồi có tiếng hát giọng chầu văn:
Bóng trăng thanh gió vàng phơi phới,
Động-đình hồ Bát-hải Long-vương,
Có ông Hoàng-quận phi thường,
Phi thăng thượng giới đẹp duyên cỡi rồng.
(Đức Hoàng-quận văn)
Thiệu-Thải giảng giải:
- Đây là bài hát chầu văn nói về ông Hoàng-quận, con thứ sáu vua Kinh-Dương. Trong các ông Hoàng con vua Kinh-Dương thì ông hoàng Đệ-tam làm tướng cầm quân trấn Bắc trấn sông Trường-giang, Nam bảo vệ đất nước. Có bài hát chầu văn ca tụng thường gọi là Quan-lớn đệ tam.
Thiệu-Thái vừa dứt thì tiếng đàn, tiếng phách, cùng giọng hát vọng lại:
Tranh giang biên, nước nguồn lai láng,
Đôi vầng hồng soi sáng nam linh,
Vốn xưa thủy quốc Động-đình
Đệ tam hoàng tử giáng sinh đền rồng.
Đức gồm vẹn nhân, hòa, dũng lược,
Bẩm sinh từ tư chất dung nhan,
Có ông hoàng tử đệ tam,
Phương phi diện mạo dung nhan tuyệt vời.
( Đệ tam hoàng tử văn)
Thiệu-Thái giảng giải:
- Bài vừa qua là bài chầu văn Quan-lớn đệ tam.
Rồi chàng kết luận:
- Tóm lại, nước ta xưa ở vùng này, nên hầu hết các bài chầu văn đều nói tới hồ Động-đình. Cháu xin đọc thêm vài đoạn:
Khắp tam giới Động-đình Tứ-phủ,
Hội công đồng văn vũ bách quan.
Hay:
Đại càn tứ vị vua Bà,
Cộng-đồng thánh mẫu, tam tòa chúa Tiên.
Rồi Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
- Mỹ-Linh à! Đồng bóng từ đâu mà có? Thực sự các thánh về đồng nhập vào người ta, hay chẳng qua một thứ u mê, quàng xiên?
Mỹ-Linh chỉ thuộc những gì trong kinh sách nói, còn phán đoán, kiến giải, nàng không hơn Thiệu-Thái làm bao. Bất giác nàng đưa mắt nhìn chú, chờ một sự giải thích. Khai-Quốc vương mỉm cười, kéo vương phi ngồi trên tảng đó gần đó rồi vẫy hai cháu xuống bên cạnh. Vương bẹo má Mỹ-Linh:
- Lớn rồi! Tập nhìn xa cho quen đi. Nào! Thử giải thích chú xem nào! Trước tiên nói về những nhân vật thường thượng đồng đã. Rồi hãy phê bình nó là thứ u mê quàng xiên hay linh thiêng? Sự thực ra sao?
Mỹ-Linh được chú khuyến khích, nàng đáp:
- Ngoài các vị thời vua Kinh-Dương, Lạc-Long ra, con thấy họ thường hầu các vị thánh: Thánh Tản-Viên, thánh Gióng hay Phù-Đổng thiên vương, Chử đạo-tổ. Hai vị đầu tiên là đại tôn sư khai sáng ra võ phái Tản-viên, Sài-sơn. Vị thứ ba có tính chất thần thoại là Chử đạo-tổ tức Chử Đồng-tử và công chúa Tiên-Dung. Người ta nói Chử đạo tổ bay lên trời thành Thái-Thượng lão quân.
Khai-Quốc vương vỗ vai cháu:
- Giỏi! Đấy là những bậc thánh trước thời Lĩnh-Nam. Còn các vị thời Lĩnh-Nam?
- Con thấy các bà hầu đồng vua Trưng cùng Trưng-Nhị. Ngoài ra còn có công chúa Hồ Đề tức Hồ tiên-cô, cô Bơ tức ngài Hoàng Thiều-Hoa, Gia-Hưng công chúa Trần Quốc, Nghi-Hòa công chúa Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Cô Sáu tức Đăng-châu công chúa Đào Phương-Dung. Ông hoàng Mười tức Thiên-ưng đại tướng quân Đào Nhất-Gia tái đầu thai... Tất cả mười tám vị.
- Đúng thế! Con thử nghĩ xem, thời Lĩnh-Nam vua Trưng có một trăm sáu mươi hai tướng. Cho đến nay, bộ lễ bản triều đã ban sắc phong cho tất cả các vị. Nhưng thực sự hiển linh tới một trăm ba mươi sáu vị. Thế tại sao lại chỉ có chưa tới hai mươi vị về đồng?
- Con không hiểu!
- Con không hiểu cũng phải, để chú giải thích cho. Trong các anh hùng tuẫn quốc thời vua Bà, hầu hết tự cho rằng mình đã làm tròn bổn phcó mười trưởng lão. Đệ thập trưởng lão Hoàng Liên đã cỡi xe Hồng-xà về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh. Hôm nay trước anh hùng thiên hạ. Ta đã cử Ngô Bách-Vân thay thế. Mặt khác, chính bản thân ta, cũng như các trưởng lão khác... Nếu đệ tử nào muốn thay thế, cứ việc lên đài thách đấu.
Bảo-Hòa chợt nghe tiếng Khai-Quốc vương dùng Lăng-không truyền ngữ nói:
- Thách đấu với tên Phạm Hổ, chứ đừng đấu với tên Đỗ Xích-Thập.
Bảo-Hòa đã làm việc cạnh Khai-Quốc vương. Nàng hiểu ông cậu này rất rành. Đối với tên Đỗ Xích-Thập, nàng đã đuổi y khỏi địa vị đại tôn sư cùng chưởng môn phái Tản-viên. Bao nhiêu đệ tử của y bị nàng thu hết. Y như chim hết lông, giết y cũng vô ích. Y làm gian tế cho Tống, khắp thiên hạ ai cũng khinh khiến. Không trước thì sau gì Nhật-Hồ lão nhân cũng giết y. Còn tên Phạm Hổ, y có rất nhiều thế lực, giao du với không biết bao nhiêu đại thần trong triều, đệ tử y đông. Cần đánh bại y, mới là điều quan trọng.
Nhật-Hồ hỏi Bảo-Hòa:
- Tiểu cô nương. Trong mười trưởng lão của bản giáo, Hoàng Liên đã về Thượng-giới Hồng-xà. Hoàng Văn, Vũ Nhất-Trụ hiện vắng mặt. Ở đây còn bẩy vị trưởng lão. Không biết cô nương muốn thay thế vị nào.
Bảo-Hòa im lặng tính toán:
- Vô tình cậu hai với lão này cùng có ý nghĩ như nhau, không muốn hạ tên Xích-Thập vội, mà muốn ta hạ tên Phạm Hổ.
Nàng khoanh tay nói với Nhật-Hồ:
- Tiểu nữ bạo gan, muốn thay thế đệ cửu trưởng lão Phạm Hổ.
Nhật-Hồ hướng vào khán đài Hồng-thiết vẫy tay gọi:
- Đệ cửu Phạm trưởng lão. Trần cô nương muốn cùng trưởng lão so tài.
Bảo-Hòa hoá trang bằng lớp sáp mỏng bên ngoài trông mặt đã lạnh lùng kinh khủng. Bây giờ Phạm Hổ lên đài. Y đeo chiếc mặt nạ da người, trông mặt y cực kỳ xấu xa ghê tởm. Tuy mặt y xấu, nhưng cử chỉ của y lại ôn nhu văn nhã như một văn nhân. Y chắp tay hướng vào Bảo-Hòa:
- Trần cô nương! Phạm mỗ tuổi đã gần bẩy mươi. Tự biết mình vô tài, bất đức, ẩn thân bấy lâu. Không ngờ hôm nay được cô nương chiếu cố. Thực hân hạnh.
Bảo-Hòa đã được thông tri cho biết Phạm Hổ chính thị gã Trịnh Hồ, chủ nhân Ngọc-lan đình cùng tửu lâu Động-đình. Vì vậy nàng muốn lột mặt nạ y cho mọi người biết. Nàng cũng đáp lễ:
- Tiểu nữ muốn lĩnh giáo võ công cao siêu của Phạm tiền bối. Mong Phạm tiền bối nhẹ tay cho.
Nói rồi nàng phát một chiêu Long-Hổ chưởng của ông nội dạy nàng. Long-Hổ chưởng là chưởng pháp cực kỳ huyền diệu. Bởi mỗi chiêu, một tay như rồng tấn công, một tay như hổ phản công. Hai thứ kình lực cuộn xoáy lấy nhau.
Phạm Hổ lùi một bước, y trả lại bằng một chiêu thức rất kỳ lạ. Bình một tiếng. Y bật lui một bước, khí huyết trong người chạy nhộn nhạo cả lên. Trong khi Bảo-Hòa cảm thấy cánh tay tê dại.
Bảo-Hòa dùng võ công Tây-vu, khiến khắp quảng trường đều kinh dị. Trong khi Phạm Hổ vẫn dùng đủ thứ võ công. Khi Đông-a, khi Tiêu-sơn, khi Sài-sơn. Cho nên không ai biết gốc tích y ra sao.
Đấu được trên trăm chiêu, phò mã Đào Cam-Mộc dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai nàng:
- Dùng Phục-ngưu thần chưởng. Đánh liền mười chiêu dương, rồi đổi sang chiêu âm. Phải cẩn thận. Nếu y dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng, phải đổi ngay sang một tay xử dụng âm, một tay xử dụng dương. Bấy giờ muốn thắng y, đổi sang dùng phương pháp phản công của Trần Tự-An ngay.
Nghe Đào Cam-Mộc nhắc, Bảo-Hòa nghĩ thầm:
- Ông chú đã biết mình chỉ mình luyện Phục-ngưu âm, lẫn dương. Lại cũng biết mình luyện Mục-ngưu thiền chưởng không thành, rồi Phục-ngưu biến đối thành chưởng mới, mỗi chiêu nửa âm, nửa dương, sát thủ kinh người. Nhưng sao ông khuyên mình đánh như vậy kìa?
Bảo-Hòa đang dùng Long-Hổ chưởng, thình lình nàng lui liền ba bước, vận khí ra các bối du huyệt, rồi theo Đốc-mạch đưa lên huyệt Đại-trùy, phát chiêu Ngưu-hổ tranh phong. Chưởng phong rít lên đổ ụp xuống. Phạm Hổ bị bất ngờ. Y phân tâm một chút, chưởng của Bảo-Hòa đã bao trùm khắp người. Y kinh hoàng vọt người lên cao. Ở trên cao, y phóng xuống một chưởng. Quảng trường kêu lên tiếng kinh hoàng. Vì đó chính là chiêu Long-hổ chưởng của phái Tây-vu. Nhưng chưởng của y hùng mạnh hơn những chiêu trước đây của Bảo-Hòa nhiều.
Bảo-Hòa nhảy lui liền hai bước, chuyển sang chiêu Song-ngưu đồng lao. Bình một tiếng. Nàng cảm thấy tai kêu lên những tiếng vo vo không ngớt. Trong khi Phạm Hổ bật lui ba bước. Lễ đài rung rinh như muốn xụp đổ.
Bảo-Hoà đánh đến chiêu thứ mười, nàng mới nhận ra tên Trịnh Hồ quả thực bác học vô cùng. Trong mười chiêu Phục-ngưu thần chưởng của nàng. Y đều dùng Long-hổ chưởng phản công. Cứ mỗi chiêu, lực đạo tăng lên một chút. Đến chiêu thứ mười, kình lực dương cương của y phát ra tối đa. Hai chưởng chạm vào nhau, Bảo-Hoà cảm thấy trời long đất lở.
Bật lui bốn bước, tiến lên phát chiêu Ngưu-thực ư dã, nàng vận âm kình. Trịnh Hồ thấy Bảo-Hoà đánh lại chiêu cũ, kình lực như có như không. Cho rằng Bảo-Hoà kiệt quệ chân khí, y phóng ra chiêu Long-hổ với lực đạo dương cương mạnh nhất, mong kết liễu tính mệnh nàng.
Quần hùng cùng kêu thét lên kinh hoàng vì họ thấy Bảo-Hòa phát chiêu không lực, mà chiêu của Trịnh Hồ như sấm nổ. Nhưng khi hai chưởng sắp giao nhau, Trịnh Hồ cảm thấy có gì bất ổn, bao nhiêu kình lực phát ra mất tích, mất tăm. Xèo một tiếng như chậu nước dội từ trên cao xuống. Chưởng của Trịnh Hồ như nắm muối bị ném vào bể. Mặt y tái nhợt, người lảo đảo lùi lại.
Bảo-Hòa xử dụng âm chưởng lần đầu, bất thần đắc thế. Nếu như nàng đánh tiếp ba chiêu nữa, Trịnh Hổ mất mạng ngay. Nhưng nàng không có kinh nghiệm, bỡ ngỡ một chút. Trong khi đó y lấy lại được căn bản. Để kéo dài thời gian, y chắp tay hướng Bảo-Hoà:
- Trần cô nương. Lão phu thực hủ lâu, không biết chiêu võ công cô nương vừa xử dụng tên gì vậy?
Câu hỏi của lão, cũng chính là câu hỏi của quần hùng.
Bảo-Hoà ngay thực định trả lời, bỗng tiếng phò mã Đào Cam-Mộc dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai:
- Cháu chậm một chút, thành ra y phục hồi được tư thế. Bây giờ cứ một chiêu âm, một chiêu dương tấn công như mưa sa, gió cuốn. Hoặc dùng lối hỗn hợp âm dương.
Bảo-Hoà hít một hơi, phát chiêu, miệng nói:
- Trịnh trưởng lão! Người khéo giả vờ. Coi chiêu nữa đây.
Trịnh Hồ thấy lần này Bảo-Hòa phát chiêu dương cương. Y trả lại bằng một chiêu Long-hổ. Bình một tiếng. Cả hai bật lui. Bảo-Hòa chuyển tay trái phát chiêu Ác-ngưu nan độ âm nhu. Trịnh Hồ thuận tay đẩy ra chiêu Long-hổ chưởng nữa. Vèo một tiếng, kình lực của y mất tích.
Hai người đấu được năm mươi hiệp nữa, thình lình Phạm Hổ lùi liền bốn bước, rồi phát ra một chiêu rất thô kệch, mùi tanh hôi nồng nặc khắp khán đài. Bảo-Hòa vọt người lên cao. Ở trên cao nàng phóng xuống một Lĩnh-Nam chỉ đến véo một cái. Chỉ xuyên vào giữa chưởng. Phạm Hổ cảm thẩy tay như bị một cái dùi đâm vào. Y lùi lại, nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn.
Bảo-Hoà vận âm kình tay trái, dương kình tay phải. Rồi mỗi tay phát một chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Như vậy chưởng trái bẩy phần âm, ba phần dương. Ngược lại chưởng phải bẩy phần dương, ba phần âm. Trịnh Hồ đâu biết loại chưởng lực quái ác, mà Bố-Đại hoà thượng kinh hãi lo lắng Bảo-Hòa xử dụng đối nới loại người chưa đáng tội chết.
Trịnh Hồ tuy bác học, nhưng y nào biết gì về loại chưởng mới này. Thấy kình lực như có như không. Cho rằng Bảo-Hòa kiệt lực, y vận đủ mười thành công lực phát một chiêu, mong kết liễu tính mệnh nàng.
Bộp, bộp. Bốn chưởng chạm nhau. Trịnh Hồ cảm thấy kình lực có sát thủ kinh khủng xuyên vào người y, khiến người y như bị hàng trăm hàng nghìn con dao băm vằm.
Y chưa hết kinh hoàng, Bảo-Hòa lại phát hai chiêu khác. Tay phải phát chiêu Tứ-ngưu phân thi. Tay trái phát chiêu Song ngưu đồng lao. Trịnh Hồ kinh hoàng, nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Hai chưởng chạm vào khán đài. Bộp hai tiếng. Hai cây trụ khán đài to bằng bắp đùi bị tiện đứt. Một cây biến thành bột bay trắng xóa. Một cây, các thớ cong queo, mỏng như vỏ bào tung lên cao, từ từ rơi xuống.
Cả quảng trường, bác học như Nhật-Hồ, Đại-Việt ngũ long, mà cũng không hiểu Bảo-Hòa xử dụng lọai võ công gì. Đoàn Huy dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi Đặng Đại-Khê:
- Đặng huynh, hai chiêu vừa rồi, rõ ràng thuộc Phục-ngưu thần chưởng. Mà sao âm không ra âm nhu. Dương cương không ra dương cương. Mỗi chiêu cương, nhu không đều. Hoá cho nên kình lực có sức sát thủ khủng khiếp.
Đặng Đại-Khê cũng nhận thấy thế. Ông hỏi phò mã Đào Cam-Mộc:
- Đào hầu! Kình lực kỳ lạ của Bảo-Hòa phải chăng quân hầu dạy cháu?
Đào Cam-Mộc trả lời:
- Đặng huynh dạy Bảo-Hòa tâm pháp luyện Phục-ngưu dương. Sau cháu có cơ duyên học trọn bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, tự luyện mà thành. Tại hạ dạy Bảo-Hòa tâm pháp luyện Phục-ngưu âm. Trong khi chiêu số chính tại hạ không biết. Cháu tự luyện thành cả hai. Còn kình lực kỳ lạ vừa rồi, không có gì lạ cả. Cháu muốn phát một tay âm, một tay dương, mà không phân tâm được, nên có trình độ đó.
Hồng-Sơn đại phu rời khỏi chỗ ngồi. Ông bốc một ít bột gỗ cùng thớ gỗ do chưởng Bảo-Hòa đánh ra, cầm lên xem, rồi gật đầu:
- Thực kỳ duyên. Cô bé này được Đặng chưởng môn, Đào hầu dạy, luyện thành cả âm kình, dương kình. Cô không làm được công việc của Vạn-tín hầu, Bắc-bình vương, muốn phát tay nào âm, dương tùy ý. Chỉ một tay phát dương, một tay phát âm. Muốn đổi tay dương sang âm, hoặc ngược lại, phải có khoảng thời gian ngăn cách. Vì vậy địch thủ có thời giờ phản công. Bây giờ cô được Di-Lặc Bồ-tát dạy cách phát lực của Thiền-công Tiêu-sơn. Trong khi người không có Thiền-lực, mà chỉ có âm kình, dương kình. Cô lại không trấn nhiếp nổi tâm thần, cho nên tay dương chỉ có bẩy phần dương, pha ba phần âm. Tay âm, cũng chỉ có bẩy phần âm, ba phần dương. Kình lực thành hai thứ luân phiên tấn công.
Các đại tôn sư nghe Hồng-Sơn đại phu luận, đều kinh ngạc về kiến thức của ông. Chỉ liếc qua, ông đã phân được kình lực kỳ lạ. Minh-Không thiền sư than:
- Chưởng này truyền rộng ra ngoài, e võ lâm trải qua thời kỳ sát nghiệp không biết bao giờ mới thoát ra.
Tự-An gật đầu:
- Chưởng này trúng ai, coi như xương, thịt, tạng phủ nát hết. Ta dùng chống ngoại xâm. Hễ bọn chúng lĩnh chưởng, ắt chết ngay. Cần gì thương xót quân cướp nước?
Tuy chưởng của Bảo-Hòa làm Trịnh Hồ kinh hoảng. Nhưng y dùng Nhật-Hồ độc chưởng, nên nàng cứ phải tránh né, không giám cho chưởng gặp nhau. Tự-An thấy vậy, ông nhắc nàng:
- Dùng phương pháp vận công chống độc của Đông-a.
Bảo-Hòa tỉnh ngộ, vừa lúc đó, một chưởng Trịnh Hồ đánh ra, nàng vọt người lên cao tránh. Trong khi đáp xuống, nàng đã vận công bằng kinh mạch theo phương pháp chống độc chưởng của Trần Tự-An chế ra. Ba kinh âm ở tay phòng thủ. Trong khi ba kinh dương dồn chân khí tấn công. Tay phải phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Tay trái phát chiêu Song-ngưu đồng lao. Nàng vận công theo Bố-Đại dạy.
Phạm Hổ không biết. Y tấn công bằng một Chu-sa độc chưởng nữa. Chưởng của y chạm vào chưởng Bảo-Hòa, y thấy kình lực tấn công như ba mũi kim xuyên qua chưởng của y, đẩy chất độc trở lại người y. Trong khi chân khí y xuyên vào gặp thủ tam âm của Bảo-Hòa, kình lực chống trả rất nhu hòa.
Thanh-Mai luyện tập nội công Đông-a, Tiêu-sơn, thứ nội công nhà Phật. Ba kinh tấn công, ba kinh thủ. Nàng không được gì hết. Chỉ trừ khi đấu nội lực, nàng mới thu được công lực đối thủ.
Còn Bảo-Hòa, luyện công theo lối hợp âm-dương của Đào Kỳ chế ra. Chân khí của Phạm Hổ dồn ra bao nhiêu, nàng thu vào cơ thể bấy nhiêu.
Phạm Hổ, là một kỳ tht:10px;'>
Thình lình có tiếng tiêu vọng lại, rồi vèo một cái, ba bóng người chạy qua trước mặt. Mọi người nhìn rõ, chính là ba nhạc công đã trêu hai lão Tôn, Lê. Họ vừa vọt qua, thì hai lão Tôn, Lê thở hồng hộc đổi theo.
Khai-Quốc vương hỏi Thiệu-Thái:
- Cháu thử đoán xem ba nhạc công đó thuộc loại người nào?
- Ngay từ lúc thiếu niên mới xuất hiên trên sông Tương, cháu đã nghi y là Lê Văn. Vì y thuộc phái Sài-sơn, nên mới giỏi âm nhạc đến trình độ đó. Nhất là y dùng viên chì của dây câu điểm huyệt. Trên thế gian này, chỉ mới có cậu cháu mình biết khoa này mà thôi.
- Khá đấy! Thế ai cùng tấu nhạc với Lê Văn trên con thuyền nhỏ giữa hồ?
- Người đàn ông tuổi khoảng gần bốn mươi. Tuy để râu tóc rối bù, nhưng khuôn mặt cực kỳ hùng tráng. Mỗi khi vuốt mạnh tay trên chậu, bàn tay y quay tròn đẹp vô cùng, giống như ra chiêu Đông-hải lưu phong. Lúc y nhảy lên bờ, rõ ràng thân pháp Đông-a. Khi y xuất hiện, cháu thấy Vương Văn với mợ nhìn nhau, cười mà không phải cười. Vậy người đó nhất định là thân nhân của mợ. Trong phái Đông-a, có sư huynh của mợ tên Trần Bảo-Dân nổi danh giỏi âm nhạc. Cháu đoán là ông. Còn người đàn bà, cũng xử dụng khinh công phái Đông-a, nhưng kiến thức cháu hủ lậu, nên không đoán ra.
Thanh-Mai bật cười:
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thiệu-Thái đã tinh tế hơn xưa rồi. Người đàn bà đó, chính mợ cũng không biết là ai. Có thể là vợ của nhị sư huynh.
Ba người chạy xuống đến bờ hồ, nơi cách chiến thuyền không xa. Từ trong bụi cây rậm rạp, một con thuyền xuất hiện. Ba người nhảy xuống con thuyền nhỏ. Con thuyền dương buồm chạy ra giữa hồ.
Hai lão Tôn, Lê trở về chiến thuyền hô nhổ neo đuổi theo con thuyền nhỏ. Dường như ba người trên con thuyền nhỏ chủ tâm trêu ghẹo hai lão, nên cứ cho trôi thong thả. Tiếng đàn, tiếng trống du đương vọng trở lại như đâm vào tim hai lão. Trong lúc vội vàng, hai lão quên mất bốn người khách quan trọng.
Thanh-Mai nhìn Khai-Quốc vương. Cả hai bật cười. Nàng nói với vương:
- Anh trêu hai lão như vậy cũng đủ rồi. Bây giờ hai lão hóa điên, không còn bình tĩnh nữa. Chúng ta thản nhiên đi Biện-kinh.
Thiệu-Thái chợt tỉnh ngộ:
- Thì ra tất cả những biến chuyển từ Hành-Nam đến đây đều do cậu mợ mình tạo ra. Quái, rõ ràng mình luôn ở bên cậu, vậy làm thế nào cậu ra lệnh cho người ta trêu hai lão kia?
Mỹ-Linh thấy vẻ mặt ngơ ngác của Thiệu-Thái, bất giác nàng thương hại:
- Anh chưa hiểu ư?
- Thú thật anh cũng muốn điên đầu lên như hai lão kia. Nếu anh ở vào trường hợp hai lão chắc anh cũng hóa khùng quá.
Khai-Quốc vương hỏi Mỹ-Linh:
- Con có hiểu rõ không?
Mỹ-Linh dựa đầu vào vai chú:
- Con chỉ biết rõ từ khi gặp chị Bảo-Hòa. Chú dùng Lăng-không truyền ngữ nói với chị ấy, dặn dò nhiều điều. Chị ấy cho biết viên đầu bếp trên chiến thuyền dành cho sứ đoàn là người của phái Đông-a. Vì vậy khi xuống thuyền, chú muốn truyền lệnh gì, cứ dùng lăng không truyền ngữ dặn y. Hàng ngày y phải lên bờ mua thực phẩm. Chị Bảo-Hòa hoặc Thông-Mai sẽ đón gặp y trong chợ để nhận lệnh.
Trời về chiều, một con thuyền từ bên phía Quân-sơn thả buồm tới gần Tam-sơn. Thanh-Mai thấy trên cánh buồm có hình con ó cực kỳ lớn. Nàng reo lên:
- Nhị sư huynh tới đón chúng mình kìa. Thôi ta lên đường. Giờ này Lê Văn đã dụ cho hai lão đuổi theo tới Nghi-đô không chừng.
Con thuyền cập vào chỗ mỏm đá bằng phẳng. Quả nhiên Trần Bảo-Dân đứng trên mũi thuyền, tay cầm đàn chậu vẫy:
- Mời các vị xuống thuyền thôi.
Thanh-Mai tung mình lên cao, tà tà đáp xuống mũi thuyền. Tiếp theo Khai-Quốc vương rồi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Bảo-Dân thi lễ với Khai-Quốc vương:
- Thỉnh vương gia vào.
Y chỉ vào một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp nói với mọi người:
- Tiện thê.
Khoang thuyền đã bầy tiệc rượu. Bảo-Dân mời Khai-Quốc vương vào chủ vị. Y ngồi vai chủ nhân bồi tiếp. Vợ y tiếp Thanh-Mai, cuối cùng tới Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Bảo-Dân vỗ hai tay vào nhau hỏi Thanh-Mai:
- Sư phụ cùng với Thông-Mai, Bảo-Hòa báo cho sư huynh biết trước việc sứ đoàn sang đây cả tháng. Sư huynh chờ mỏi mắt. Vì đại sư huynh bận việc quan, nên mọi việc do ta xếp đặt hết. Ta sai Thông-Mai lên đỉnh Thiên-đài bỏ quyển Lĩnh-Nam giản sử, trong đó ghi chép những chi tiết trên đường đi cho sự muội. Giữa lúc đó năm ông thiên-lôi từ Biện-kinh tới.
Chàng lắc đầu:
- Chúng phá quá, hơn cả bọn ta hồi xưa nhiều.
Nghe đến năm ông thiên lôi Tôn-Đản, Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông, Lê Văn mọi người đều bật cười. Thanh-Mai hỏi:
- Chúng nó có tuân lệnh nhị sư huynh không?
Bảo-Dân cốc lên đầu Thanh-Mai:
- Hỏi thế mà cũng hỏi. Cầm đầu tuy là Tôn-Đản, nhưng thực sự do Tự-Mai. Khi ta nói gì, sư muội không nghe, ta còn kí vào đầu, huống hồ tên bé con Tự-Mai. Ta ra lệnh mà nó dám cãi ư? Có mà nhừ đòn, ta nấu cháo nó liền.
Chàng bật cười:
- Chúng ta bàn kế bắt đám trưởng lão bang Nhật-hồ. Tự-Mai xin đảm trách bắt năm tên. Lê Văn bắt năm tên. Còn Tôn Đản, Thiện-Lãm, Thuận-Tông đảm trách việc ở khu Tương-đài. Vợ chồng ta phụ trách đoạn đường trên hồ này.
Chàng cười hô hố:
- Bảo-Hòa, Thông-Mai bàn nên đón đường điểm huyệt bắt chín tên trúng sơ tuyển phò mã của ba châu, rồi lấy quần áo, hóa trang bắt đám trưởng lão. Thằng bé Tôn Đản rất giỏi việc quân sự. Nó đi thám thính địa hình, tìm chỗ nên xuất hiện để dụ chúng đuổi theo, sau đó gặp khúc quẹo, ra tay bắt sống.
Mỹ-Linh hỏi:
- Võ công bọn chúng cao lắm. E Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn cố gắng chưa chắc ngang tay, làm sao mà bắt được?
Bảo-Dân nhăn mũi:
- Dễ quá. Chúng chỉ cần đến gần, thình lình dùng Lĩnh-Nam chỉ điểm huyệt, bọn kia đâu có thể dở bản lĩnh ra được? Riêng lão Ngũ, Lê Văn điểm hụt, diễn ra trận đấu. Suýt nữa nó mất mạng vì Chu-sa chưởng. Cũng may Bảo-Hòa dùng Phục-ngưu thần chưởng cứu kịp. Công lực Bảo-Hòa cao thâm là thế, mà cũng phải đấu đến chiêu thứ chín mươi khiến y mệt nhừ, rồi dùng Lĩnh-Nam chỉ điểm ngã.
Mỹ-Linh nghe mấy cậu em hành sự, nàng thích quá:
- Việc Lê Văn bắt hai lão Tứ, Ngũ trước mặt bọn em, coi thực ngon. À, con thuyền tấu nhạc là của sư huynh chế ra hay của Lê Văn?
- Của chung! Gắn ống trúc trên cột buồm gió thổi thành tiếng tiêu, vá da trâu trước thuyền thành trống là của ta. Còn lại, phương pháp lái thuyền cho tiếng tiêu, tiếng trống hợp với tiếng đàn, tiếng phách là tài của y. Sau khi y dụ được ba lão Nhất, Nhị, Tam đuổi tới Tương-đài. Ta với Thông-Mai, Bảo-Hòa phải khó khăn lắm mới bắt được chúng. Bản lĩnh chúng cao thâm thực. Ta bị trúng một Chu-sa chưởng suýt mất mạng. May Bảo-Hòa cho uống thuốc giải tạm thời. Bây giờ mới nhờ Thiệu-Thái trị cho.
Thiệu-Thái lật áo Bảo-Dân lên, trên lưng y có vết tím bầm. Chàng để bàn tay vào, rồi vận công hút. Khoảng mười khắc, vết bầm tan biến đi.
Khai-Quốc vương thấy tính tình Bảo-Dân hào sảng, không câu nệ lễ nghi. Thời bấy giờ, dù là ruột thịt, khi em gái tuổi mười ba, anh cũng không thể cầm tay. Thanh-Mai tuổi đã hai mươi, hiện là vương phi cao quý biết mấy. Thế mà y cốc tay lên đầu, bẹo tai như nàng còn năm, sáu tuổi. Y không hề dùng những tiếng vương gia, vương phi, công chúa, thế tử. Y hỏi Thanh-Mai:
- Đố sư muội biết, rõ ràng vợ chồng ta với Lê Văn cùng xuống thuyền dụ cho hai lão Tôn, Lê đuổi theo. Tại sao chúng ta lại trở về đây đón sứ đoàn.
- Em cũng đang định hỏi sư huynh điều đó?
Y hỏi Khai-Quốc vương:
- Ông em rể! À xin lỗi, vương gia. Vương gia thử đoán xem.
Khai-Quốc vương cười:
- Thì có gì lạ đâu, thuyền sư huynh có cửa ngách phía trước. Sư huynh với sư tỷ chui vào thuyền, rồi mở ngăn cửa đó chuồn xuống nước lặn đi. Đợi cho chiến thuyền rời khỏi, mới trồi lên. Trong khi đó phía sau, đệ tử của sư huynh cho con thuyền khác vớt sư huynh sư tỷ lên.
Bảo-Dân dơ ngón tay trỏ lên:
- Giỏi.
Y hỏi Thanh-Mai:
- Sư muội thử đoán xem, giờ này hai lão Tôn, Lê ra sao? Lê Văn dụ chúng đi đâu?
- Nếu mưu kế do Lê Văn bầy ra, em không đoán được. Còn do anh thì em biết như em biết em vậy.
-?
- Chúng ta dự trù tách hai lão già với sứ đoàn, để sư huynh đưa chúng em đi Biện-kinh phải không?
- Đúng thế.
- Sư huynh đưa bọn em đi, ắt đưa bằng thuyền. Đi Biện-kinh từ hồ Động-đình phải theo Trường-giang xuôi hướng Đông đến bến Xích-bích. Từ Xích-bích qua sông, vào Hồng-hồ. Từ Hồng-hồ theo Kinh-giang sang sông Hán-thủy. Cuối cùng theo Hán-thủy lên Tương-dương.
- Giỏi.
- Vì vậy Lê Văn phải dụ cho hai lão đi ngược chiều với sư huynh, nghĩa là đi về hướng Giang-lăng. Sau khi vượt quãng đường từ đây đến Giang-lăng, hai lão ắt trở thành điên, quyết đuổi đến cùng. Lê Văn sẽ trêu cho chúng đuổi tới Nghi-đô, không chừng tới Nghi-xương cũng nên.
Đến đó thuyền đi vào địa phận sông Trường-giang. Con thuyền hơi nhỏ, nên phải men theo Nam-ngạn, xuôi về hướng Đông.
Bảo-Dân chỉ bà vợ:
- Sư muội! Sư muội bảo vợ ta có đẹp không?
Nghe Bảo-Dân hỏi, mọi người mới chú ý tới vợ y. Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
- Trước kia ta tưởng Lâm Huệ-Phương, Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Đào Hà-Thanh là ba người đẹp không thể có tới bốn. Nay vợ Bảo-Dân có sắc đẹp cực kỳ quyến rũ. Y lưu lạc trên đất Tống, mà sao có được cô vợ đẹp thế này.
Thanh-Mai ngắm nhìn bà chị dâu, rồi hỏi:
- Anh cưới chị bao giờ?
- Không hề cưới. Ta vào hoàng cung nhà Tống cướp đem ra đấy chứ.
Mọi người nghe Bảo-Dân kể, đều biết y nói thực. Trên đời không có người nào to gan hơn. Bảo-Dân kể:
- Sư tỷ họ Khấu, tên Kim-An, là con gái tể tướng Khấu Chuẩn.
Mọi người bật lên tiếng ồ lớn.
Bảo-Dân kể:
- Một ngày thăm Biện-kinh, vô tình ta qua khu vườn dinh tể tướng, nhác thấy nàng đang dạo chơi trong vườn hoa. Hồn phách ta bay phơi phới. Đêm hôm đó ta lần mò vào hoa viên dinh tể tướng, rồi dùng ống tiêu tấu nhạc cho nàng nghe.
Mỹ-Linh bật cười:
- Đại ca thổi tiêu như vậy, mà Tể-tướng không biết ư?
- Biết thế chó nào được. Ta dùng nội lực chuyển âm thanh vào khuê phòng của nàng mà thôi. Còn ngoại giả không ai nghe được. Quả nhiên ta tấu được một bản, nàng mở cửa phòng nhìn ra ngoài. Ta tha hồ mà ngắm. Hôm sau ta lại tấu đàn tranh, rồi đàn bầu, đàn Hồ, nhị. Hồi đầu ta còn ẩn thân. Sau ta xuất hiện ngồi trên cây, vừa nhìn nàng vừa tấu nhạc. Lúc đầu thấy ta, nàng còn e thẹn. Dần dà nàng cười nói với ta. Cứ như vậy hơn nửa năm.
Y nhìn vợ mỉm cười:
- Một đêm ta đánh bạo, sau khi tấu nhạc, nhảy cửa sổ vào phòng nàng. Nàng không sợ hãi, tiếp ta. Dần dần, đêm đêm chúng ta gặp nhau ở vườn hoa. Cho đến một hôm như thường lệ ta đến thăm nàng...
Đến đây y ngừng lại thở dài.
Nghe Bảo-Dân nói, mọi người đều thấy y lớn gan, nhưng lại lãng mạn đa tình đến cùng cực. Y tiếp:
- Nàng khóc lóc cho biết rằng có chiếu chỉ truyền phụ thân phải đem nàng tiến cung dâng cho hoàng đế. Ta như người trên mây rơi xuống đất. Ta rủ nàng đi trốn. Nhưng biết làm sao hơn. Nàng không cả gan làm như thế. Vì sợ cha nàng bị tội.
Thanh-Mai đáp lại:
- Đối với bố cháu, cần đem đại nghĩa ra khích mới được.
Minh-Thiên lên đài, đến trước Tự-An, chắp tay:
- Trần hiền đệ. Hôm trước hiền đệ nói với bần tăng rằng Giặc ngoài dễ đánh. Giặc trong khó phòng. Bần tăng coi bộ Nhật-Hồ lão nhân muốn dung dưỡng Xích-Thập trưởng lão trong Hồng-thiết giáo. Hiền đệ nghĩ sao?
Tự-An mỉm cười, ông chưa muốn ra tay vội. Ông cần suy nghĩ đã. Nhật-Hồ ngồi cạnh ông. Thấy ông im lặng, lão cho rằng ông sợ thế lực của lão. Lão hất hàm ra lệnh cho Nguyễn Chí.
Nguyễn Chí hướng vào anh hùng thiên hạ:
- Thưa các vị. Vừa rồi bọn Tống tới đây quấy rối, một mình Hồng-thiết giáo chúng tôi đánh bại chúng. Cho nên khi ra đi, Triệu Thành hứa rằng nếu có một tôn sư võ lâm lên làm vua, Tống sẽ đồng ý cho ta giữ quốc hiệu Đại-Việt, cùng cho dùng niên hiệu Hoàng-đế. Nghĩ cho kỹ, còn ai xứng đáng bằng Hồng-Sơn đại phu. Nhưng dường như Hồng-Sơn đại phu không muốn làm vua thì phải. Hồng-Sơn đại phu không muốn làm vua, vậy sư phụ chúng tôi phải được tôn lên. Tôi yêu cầu các vị tôn sư phụ tôi làm hoàng đế Đại-Việt.
Phạm Trạch tiếp:
- Sư phụ chúng tôi lên ngôi Hoàng-đế, ắt trong nước thanh bình an vui. Tống không có cớ mang quân sang nữa. Quân Chiêm, Lào, không còn mối đe doạ. Trái lại, giáo chúng Hồng-thiết giáo ở đó sẽ nổi lên chiếm đất, rồi xin phụ thuộc vào nước Việt. Đại-Việt ta gồm cả Chiêm, Lào, Chân. Nước chúng ta lớn, giầu. Chúng ta kéo quân đòi lại Lưỡng-Quảng, thống nhất Đại-lý. Bấy giờ nước ta hùng mạnh. Ta chỉ ngọn cờ chiếm Tống, Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn, lập ra Thiên-hạ Hồng-thiết giáo».
Đỗ Xích-Thập tiếp:
- Khi nước Đại-Việt trở thành Thiên-hạ Hồng-thiết, chúng ta sẽ qui phục giáo chủ Hồng-thiết Tây-phương. Thế là dưới gầm trời này đ....... (bản gốc bị thiếu. CDDLT ghi chú)
Phạm Trạch hướng vào quần hùng hỏi:
- Có ai phản đối việc tôn bản giáo, giáo chủ lên làm hoàng đế Đại-Việt không?
Một loạt tiếng có vang dậy. Phạm Trạch đưa mắt nhìn. Y kinh hoảng. Vì hầu hết võ lâm đều chống đối. Y đưa mắt nhìn Lê Đức. Lê Đức vốn nhiều mưu. Y nghĩ:
- Hồng-thiết giáo phải tranh phong với quần hùng có khác gì tự tử. Chi bằng ta áp đảo mấy tên bằng Chu-sa độc chưởng. Những tên khác sẽ kinh sợ mà cúi đầu.
Nghĩ vậy y hướng vào quần hùng:
- Ở đây có mười hai phái, bốn đại bang. Cộng chung thành mười sáu. Nếu tất cả cùng đấu với nhau tranh ngôi vua, e hỗn loạn tất cả. Bây giờ thế này. Mỗi phái, mỗi bang không đồng ý tôn sư phụ ta làm Hoàng-đế hãy cử lấy một người võ công cao nhất lên đấu với bản giáo. Người của phái nào, bang nào thắng được một trưởng lão của bản giáo, coi như bang phái đó thuộc thành phần được chống. Còn như người của bang phái nào bị một trưởng lão của bản giáo đả bại, bang phái đó thuộc thành phần tôn kính giáo chủ bản giáo lên làm Hòang-đế. Dĩ nhiên bang phái nào tự ý quy thuận bản giáo, không cần phải cử người ra đấu nữa. Tuy vậy, bản giáo vẫn hy vọng Hồng-Sơn đại phu trở lại ngôi vua. Mười trưởng lão bản giáo sẽ thành khai quốc công thần.
Thấy mặt trời đứng bóng, Mỹ-Linh làm chưởng môn phái Mê-linh, giữ quyền chủ động của ban tổ chức, yêu cầu ngừng hết mọi cuộc đấu, ăn cơm.
Các đệ tử phái Mê-linh thay nhau mời chư vị tôn sư, chưởng môn, bang trưởng đến một nhà rạp ăn cơm. Đám Hồng-thiết giáo thích ăn sống, với thực phẩm đặc biệt như cây nhân sâm. Vì vậy họ kéo ra bãi đất trước cổng khu hành lễ hội họp riêng.
Xa giá Thuận-Thiên hoàng đế rời khu lễ đài vào nhà rạp của hoàng-gia, chứ không vào nhà rạp chung với các anh hùng. Còn các vị Thái tử, Công-chúa, đệ tử phái nào, ngồi theo phái đó.
Khai-Thiên vương, Khai-Quốc vương theo về phái Tiêu-Sơn. Hai vương đến trước thiền sư Minh-Không hành đại lễ.
Thấy Khai-Thiên vương hiện ra sắc tướng kỳ dị. Minh-Không biết trong lòng đệ tử đang lo âu về vụ Hoàng Văn tiềm ẩn trong vương phủ, Triệu Liên-Phương làm cây thuốc cho bọn Hồng-thiết. Trịnh Hồ, bạn tâm giao của Vương thành Phạm Hổ. Ngài sẽ để tay vào huyệt Đại-trùy Vương:
- Trên thế gian, không có cái gì trường cửu cả. Hôm nay trời nắng, không chừng ngày mai trời mưa. Vua Hùng lập quốc, cai trị Văn-lang mấy nghìn năm. Vua An-Dương xây thành Cổ-loa, diệt năm trăm nghìn quân Tần oai danh một thủa. Vua Trưng phất cờ, làm nghiêng Hán. Thế nhưng nay xương cùng thịt các ngài đều thành tro bụi. Vương phải biết như thế, mọi lo âu biến đi.
Ngài buông tay trên huyệt đại trùy của vương ra rồi tiếp:
- Cái vạ Hoàng Văn gây ra với Triệu Liên-Phương. Cái ách Trịnh Hồ lại thành Phạm Hổ đâu phải một chốc, một lát mà đưa đến? Đó chẳng qua do nghiệp chướng từ muôn vàn kiếp trước.
Vương chắp tay:
- Đa tạ sư phụ chỉ dạy.
Huệ-Sinh bảo Khai-Quốc vương:
- Chúng ta lại có vấn đề mới, đó là vấn đề Nhật-Hồ lão nhân đòi làm vua. Bất cứ ai cũng có thể làm vua Đại-Việt, trừ bọn quỉ này.
Thiền-sư Minh-Không, lại bên Thiên-trường ngũ kiệt bàn:
- Các vị đại hiệp. Hôm trước chúng ta chỉ bàn nhau đối phó với bọn Tống trong hai phương diện:
Một, không thể để chúng làm nhục quốc thể trước quần hùng.
Hai, không để mắc vào âm mưu ủng Lê, ủng Lý, chia rẽ võ lâm chém giết nhau.
Khai-Quốc vương cùng Trần ngũ kiệt thiết kế đẩy Hồng-thiết giáo ra đối đầu với Tống. Trai cò tranh đấu, Đại-Việt hưởng lợi. Điều này đã thành công. Vì vậy cho đến lúc này, võ lâm vẫn còn nguyên một khối, không chia rẽ, tương tàn như Tống muốn. Nhưng bây giờ nảy ra cái vạ Nhật-Hồ lão nhân muốn làm hoàng-đế, điều này không thể chấp nhận được.
Trần Kiệt tỏ ý cương quyết:
- Chúng ta cần có đường lối nào ít tổn hại nhất. Trước đây chúng ta tránh tổn hại tinh lực võ lâm, mới đẩy Hồng-thiết giáo ra chống bọn Tống. Chúng ta không ngờ bọn Hồng-thiết lại điên khùng đòi làm vua. Theo thiển ý, sở dĩ Nhật-Hồ lão nhân coi thường võ lâm. Vì y biết rằng các phái võ ở hải ngoại như Phật-thệ, Vạn-tượng, Cửu-long, Thiên-tượng, Động-đình chắc chắn sẽ không quan tâm đến việc ai làm vua Đại-Việt.
Ông ngừng lại, lắc đầu, tiếp:
- Nhật-Hồ còn biết rằng dù năm phái này chống hay không, cũng chẳng ích lợi hay tai hại cho y. Còn trong sáu phái quốc nội, phái Đông-a, Sài-sơn ủng Lê. Phái Mê-linh, Tản-viên, trước đây trung lập. Chỉ còn phái Tiêu-sơn, Tây-vu ủng Lý. Nếu mười hai phái cứ lẻ tẻ lên đài đấu với họ, họ áp đảo dễ dàng. Việc trước mắt, phải làm sao kéo năm phái quốc ngoại về với Đại-Việt. Sau đó sáu đại môn phái thống nhất ý chí, cùng cử ra ba người đấu với họ. Lỡ có hao tổn, chỉ hao tổn ba người mà thôi.
Huệ-Sinh cũng nói:
- Dù chúng ta lên đấu với Hồng-thiết giáo lẻ tẻ, thắng họ, ít ra đám trưởng lão chết hết. Giáo chúng không người cầm đầu, tản mát vào dân, chia rẽ nhau, chém giết nhau. Ấy là chưa kể họ chém giết nhau với phái khác. Bây giờ chúng ta thống nhất mà thắng họ, chỉ tổn hại cao nhất ba người hay sáu người bằng ba trận đấu. Sau đó, ta để cho họ tồn tại. Như thế tinh lực Đại-Việt mới còn nguyên vẹn. Bọn Tống mới bỏ ý định đánh chúng ta.
Hồng-Sơn đại phu tiếp lời Huệ-Sinh:
- Phải chi có người nào trong chúng ta đủ sức thắng Nhật-Hồ lên làm giáo chủ, mọi việc tốt đẹp hết.
Trần Kiệt đưa mắt hỏi ý kiến Đặng Đại-Khê. Đặng Đại-Khê nói:
- Ngay bây giờ chúng ta cần cử lấy một vị minh chủ. Minh chủ cần có đủ ba điều kiện:
Một phải biết mình, tức biết khả năng các môn phái.
Hai phải biết người, biết hết tình hình Hồng-thiết giáo.
Ba phải đủ mưu trí đối phó với Tống, với Hồng-thiết giáo.
Hàn Ngọc-Quế thuộc phái Thiên-tượng, Đại-lý nói:
- Không biết Minh-Không Bồ-tát có chịu đứng ra làm minh chủ không?
Chưởng môn phái Vạn-tượng, Phủ-Văn lắc đầu:
- Nếu cần người đạo đức, khiến chúng nhân khâm phục, ngoài Minh-Không đại sư ra, không ai có thể so sánh. Nhưng ở đây chúng ta cử người lấy trí mà thắng Hồng-thiết. Những người có trí bậc nhất ở đây phải kể Long-thành song hiệp. Sau đến Thiên-trường ngũ kiệt. Hoặc Đoàn vương-gia nước Đại-lý.
Chưởng-môn phái Cửu-long Kim-Sinh hỏi sẽ bang trưởng Hồng-hà Sử Anh:
- Long-thành song hiệp là ai vậy?
- Là đại sư Huệ-Sinh với đạo sư Nùng-Sơn tử.
Nùng-Sơn tử chắp tay tạ từ:
- Cảm ơn Phủ huynh. Tiểu đệ không đủ khả năng lĩnh trọng trách đó.
Vũ Anh đứng dậy chắp tay:
- Tại hạ giám đem danh dự phái Đông-a cùng Thiên-trường ngũ kiệt ra bảo lĩnh rằng: Nếu chúng ta cử một người. Người này không phải tôn sư, cũng chẳng phải chưởng môn bất cứ môn phái nào. Võ công không tuyệt cao. Nhưng mưu không thua công chúa Phùng Vĩnh-Hoa. Trí chẳng kém tể tướng Nguyễn Phương-Dung. Mỗi mỗi hoạt động của Tống, của Hồng-thiết giáo, của anh em chúng ta, người đều biết.
Đặng Đại-Khê định lên tiếng. Hoàng Hùng xua tay:
- Đặng sư huynh đừng nói ra vội. Chúng ta đều lấy giấy, viết tên người đó vào, rồi thứ tự mở ra, xem có giống nhau không.
Ngô Thuần-Trúc, trưởng ban tiếp tân của phái Mê-linh lấy giấy bút trao cho ba mươi người, vừa chưởng môn, vừa tôn sư các bang, các phái. Mỗi người đều cầm bút viết, rồi gấp lại.
Minh-Không thiền sư bảo Mỹ-Linh:
- Trong các chưởng môn cũng như đại tôn sư ở đây, Công-chúa trẻ nhất. Xin Công-chúa thử mở những tờ giấy ra. Rồi trao cho tôn sư bang Hồng-hà, Sử lão huynh là người cao nhất kiểm điểm lại.

Truyện Lời nói đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 g treo không thiếu thứ nhạc cụ nào. Ngoài ra một vách khác treo đủ mọi loại binh khí.
Chu-các hướng mũi về phương Bắc, băng ngang Trường-giang.
Bảo-Dân mời khách ngồi. Tỳ nữ dâng trái cây, cùng trà. Y nói:
- Với con thuyền này, vợ chồng ta ngao du khắp nơi trong thiên hạ. Hôm sư phụ qua đây, người bàn rằng, lúc trở về người sẽ cùng chúng ta dùng Chu-các ra biển, thăm hết các đảo Đông-hải cho tới Xiêm-la, nêân chúng ta không thể rời thuyền, mà ở đây chờ người.
Thanh-Mai muốn biết tin về năm ông mãnh. Nàng hỏi:
- Năm ông Thiên-lôi đâu rồi?
- Chỉ có bốn ông thôi. Bảo-Hòa, Thông-Mai đi biện kinh trước cùng Trường-giang thất hiệp với trưởng lão Nhất-Bách. Ta sai bốn ông mãnh thay nhau chọc hai lão Lê, Tôn chưa về.
Mỹ-Linh ngạc nhiên:
- Một ông mãnh nữa đi đâu?
- Còn đi đâu nữa. Y đi theo phái Hoa-sơn định ăn cắp cô vợ như ta.
Mọi người biết ngay ông mãnh vắng mặt là Tự-Mai. Kim-An hỏi Khai-Quốc vương:
- Thế nào vương gia định ngày mai tự lên đường đi Biện-kinh hay đợi hai lão Tôn, Lê?
Khai-Quốc vương hỏi ngược lại:
- Khấu sư tỷ biết nhiều về triều Tống. Xin sư tỷ cho một lời khuyên.
Mắt Kim-An chiếu sáng long lanh nhìn thẳng vào mặt Khai-Quốc vương. Nàng nghĩ thầm:
- Vị vương gia này trí tuệ kinh thiên động địa. Ông ta thừa sức chọn đường lối hành động. Tại sao lại phải nhờ ta? À, thôi phải rồi, ông biết phụ thân mình bị Lưu hậu hại. Mà hai người trợ thủ đắc lực là lão Tôn, Lê. Bây giờ ông muốn dành cho ta một cơ hội trả thù đây.
Nàng chắp tay:
- Đa tạ vương gia.
Bốn mắt nhìn nhau, như cùng hiểu thấu tâm tư của nhau. Kim-An tiếp:
- Lưu hậu với Định-vương Nguyên-Nghiễm hiện đang ngấm ngầm hạ nhau. Đinh-vương vắng nhà. Lưu hậu sai Tào Khánh đi đón sứ đoàn, rồi cho Trường-giang thất quỷ xuất hiện, định ép sứ đoàn đào kho tàng. Thất bại. Bà sai hai lão tín cẩn nhất áp tải sứ đoàn. Thất bại. Tuy vậy quyền trong tay bà ta. Triều đình cũng như phe Nguyên-Nghiễm đâu biết những việc bà ta đã thất bại. Định-vương đã về đến Biện-kinh. Ông ta hiện nắm lại binh quyền. Bây giờ vương gia âm thầm tới Biện-kinh, rồi thẳng tới cổng thành đưa danh thiếp xin vào chầu. Như vậy tỏ rõ Lưu hậu thất bại. Bà quá xấu hổ, ắt xử tử hai tên Tôn, Lê. Hoặc ít nhất cũng cách chức chúng.
Nàng mỉm cười:
- Chúng bị cách chức, lòng đầy phẫn hận. Trong khi chúng bị vương gia làm cho hóa điên. Bây giờ chúng càng điên thêm. Chúng sẽ quay lại phá phách, phản Lưu hậu.
Mọi người phải ngừng truyện trò, vì sóng Trường-gian reo hò bên ngoài. Con thuyền lớn là thế, mà luôn lắc lư. Kim-An an ủi mọi người:
- Bây giờ là tiết Đông-chí, gió thổi từ Bắc-qua, nhẹ nhàng nhất trong năm mà còn thế. Chứ vào tháng bẩy, tháng tám, con thuyền này lắc lư như lá bay trong gió.
Mỹ-Linh chợt nhớ ra điều gì:
- Khấu sư thúc! Dường như chỗ này tám trăm năm trước có trận đánh kinh thiên động địa giữa Tào Tháo với Chu Du. Chu Du đốt quân Tào tám mươi ba vạn. Lửa làm đỏ cả một vùng, vì vậy cái tên Xích-bích có từ đó. Sự thực ra sao?
Kim-An lắc đầu:
- Đó là huyền sử. Thực sự theo bộ sử Tam-quốc-chí của Trần-Thọ, thì bấy giờ là năm Mậu-Tý (208 sau Tây-lịch) niên hiệu Kiến-An thứ mười ba thời vua Hiến-Đế nhà Hán. Vua Hán phong Tào Tháo làm thừa tướng. Tháo đem hai mươi vạn quân đánh Tôn Quyền. Tôn Quyền liên binh với Lưu Bị chống lại. Nhân bấy giờ thủy quân Hán kết lại với nhau thành bè để vượt sông cho dễ. Chu Du dùng hỏa công đốt chiến thuyền Hán. Trận đánh diễn ra tại chỗ này đây. Cái tên Xích-bích có từ đó.
Thuyền đã tới bờ Bắc Trường-giang. Trên trời xuất hiện cặp chim ưng đang bay lượn. Thiệu-Thái nhận ra đôi chim của Bảo-Hòa, chàng huýt sáo gọi nó xuống. Mỹ-Linh mở ống tre dưới chân chim ưng lấy thư trao cho Khai-Quốc vương. Vương mở ra đọc:
Mạ mạ sai chim truyền tin cho biết bọn trưởng lão Lạc-long giáo gốc Hồng-thiết giáo có nhiều hành vi khác lạ. Nhật-Hồ lão nhân, Vũ Nhất-Trụ phá giới, xuất hiện khống chế giáo chúng Lạc-long, tái lập Hồng-thiết giáo. Vũ Nhất-Trụ, Đặng Trường, Hoàng Văn theo Dực-Thánh vương. Đỗ Xích-Thập, Phạm Trạch, Lê Đức theo Đông-Chinh vương. Nguyên-Hạnh, Ngô Bách-Vân theo Vũ-Đức vương. Đại-Việt ngũ long chỉ có Minh-Không đại sư hiện diện. Còn lại đang du thuyết Đại-lý, Xiêm-la, Lão-qua, Chân-lạp, Chiêm-thành, Ngô-Việt về việc thống nhất tộc Việt.
Khai-Quốc vương hỏi Bảo-Dân:
- Nhị sư huynh! Quốc-trượng hiện ở đâu?
- Hôm chia tay với ta, người cùng Hồng-sơn đại phu nói rằng lên chùa Thiếu-lâm vãng cảnh.
- Hệ thống của nhị sư huynh có thể liên lạc được với người không?
- Được chứ.
- Sư huynh liên lạc với người khẩn cấp, xin người với Hồng-Sơn đại phu mau trở về trấn Đại-Việt. Người trấn Thiên-trường làm thế ỷ đốc cho Thăng-long. Còn Hồng-Sơn đại phu trấn Thanh-hóa. Nếu Đàm Toái-Trạng, Nguyên-Hạnh trở mặt còn khống chế kịp. Đệ sẽ liên lạc với sư bá Đại-Khê cùng với phò mã Thân- Thừa-Quý trấn Bắc-biên, phòng khi ta có biến loạn quân Tống tràn qua.
Vương bảo Mỹ-Linh:
- Cháu truyền lệnh cho phái Mê-linh gửi một số cao thủ về ở trong hoàng cung. Thiệu-Thái truyền anh em Đào Nhất, Nhị, Tam-Bách phải về giữ tổng đàn Lạc-long giáo cho chắc.
Vương nắm tay Thanh-Mai thở dài:
- Thanh muội. Anh thực có lỗi với Bố. Khi bọn trưởng lão Hồng-thiết qui phục Thiệu-Thái. Bố khuyên anh nên giết hết chúng đi. Người cho rằng một khi chúng học Hồng-thiết kinh, không bao giờ có thể trục ma tính ra khỏi người chúng. Anh không tin. Bây giờ hối thì đã muộn.
Sau khi thành hôn với Thanh-Mai, vương gọi Tự-An bằng quốc-trượng. Ông cau mặt không bằng lòng, vì ông thích con gọi bằng Bố. Từ đấy vương dùng tiếng Bố gọi ông.
Sau hai ngày, thuyền đi vào địa phận sông Hán-thủy. Chim ưng Bảo-Hòa lại báo cho biết:
Triều đình Tống cực kỳ bối rối, vì trong bẩy ngày không nhận được tin tức sứ đoàn. Tư-mã Đàm-châu tấu rằng hai lão Tôn, Lê cho các chiến thuyền của Vương Văn, cùng thiết kị hộ tống trở về Hành-Nam. Chỉ có một chiến thuyền chở sứ đoàn vượt hồ Động-đình. Triều-đình sai Tư-mã Giang-lăng đem thiết kị chờ ở bên sông đã mười ngày, không thấy thuyền chở sứ đoàn qua. Đang cho người đi tìm. Lưu hậu cực kỳ bối rối. Lê Văn, Tôn Đản dụ hai lão Tôn, Lê tới Tỷ-qui. Hai lão hóa điên, giết thuyền trưởng. Thủy thủ sợ hãi bỏ thuyền trốn mất.
Xin đọc tiếp bộ
ANH LINH THẦN VÕ TỘC VIỆT
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 2 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Q3 - Cẩm Khê Di Hận Q4- Anh Hùng Tiêu Sơn Q5- Thuận Thiên Di Sử Q6- Anh Hùng Bắc Cương Q7- Anh Linh Thần Võ Tộc Việt Q8- Nam Quốc Sơn Hà Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông