Hồi 21
Tiêu-Sơn di hận

Bấy giờ là giờ Mùi (15-17 giờ), ngày 5 tháng 9, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên (DL.1174 Giáp Ngọ). Trong một soái thuyền lớn của hạm đội Âu-Cơ, neo tại căn cứ Đồn-sơn. Phụ-quốc thái-úy Trần Thủ-Huy cùng chư tướng ngồi ở phòng hội chính. Tất cả, vừa uống trà, vừa đàm đạo. Mỗi khi có tiếng chân ngựa phi, Thủ-Huy lại lắng tai nghe, phóng mắt nhìn ra ngoài, xem ai đến? Song đã không biết bao nhiêu ngựa tới, lui, mà Thủ-Huy với chư tướng vẫn lắc đầu.
Mặt trời đã xế về Tây, ánh sáng vàng vọt của buổi chiều Thu tỏa xuống rừng núi đầy lá vàng. Gió biển buổi chiều mang theo cái lạnh len lỏi ở trong.
Đã sang giờ Thân, Thủ-Huy không kiên nhẫn được nữa, công đứng lên nói:
- Thái-tử cùng Nghĩa-Thành vương hứa sẽ hiện diện hôm nay, để khích lệ chư tướng, cùng ban chỉ dụ cuối cùng, trước khi chúng ta vượt biên. Nhưng, cho tới giờ này, cũng không thấy hai vị giá lâm, chúng ta đành tùng quyền, mà hành sự.
Các tướng im lặng nghe lệnh.
Thủ-Huy để kiếm lệnh lên bàn, rồi hướng vào chư tướng:
- Tôi nhắc lại. Chúng ta tiến quân làm hai cánh, mỗi cánh có hai mũi. Cánh thứ nhất do Kiến-Ninh vương làm chánh tướng, Kiến-An vương làm phó tướng, thống lĩnh bốn hạm đội, chở năm hiệu Thiên-tử binh tiến đánh Quảng-châu, Khâm-châu. Để che mắt tế tác Tống, bốn hạm đội, cũng như năm hiệu binh hiện đều đồn trú tại Thanh-hóa. Vậy nhị vương khẩn lấy ngựa lên đường ngay đêm nay, chuyển quân xuống thuyền, truyền hạm đội nhổ neo. Nhớ phải ban lệnh cho hạm đội ra thực xa bờ, để tránh thuyền buôn, thuyền đánh cá Tống biết. Nếu trên đường đi gặp bất cứ thuyền nào, cũng bắt đem theo. Sau khi đổ bộ hãy thả ra. Khi tới ngoài khơi Quảng-châu, Khâm-châu, thì đổi hướng, vào bờ. Lúc di chuyển phải tính toán sao, để đúng giờ Dần ngày 15 tháng 9 thì đổ bộ.
Thủ-Huy lại hướng Long-Hòa, Tăng Khoa:
- Cánh thứ nhì do Kiến-Tĩnh vương làm chánh tướng, Vũ-kị thượng tướng quân làm phó, thống lĩnh bẩy hiệu Thiên-tử binh, hiệu kị binh Phù-Đổng, hiệu ngưu-binh Hoa-lư vượt biên đánh lên Ung-châu bằng đường bộ. Tất cả các hiệu binh này hiện đều đồn trú rải rác ở Thăng-long, Kinh-Bắc, Đông-triều, Lạng-châu. Đợi đến ngày 14 hãy di chuyển, đúng giờ Dần ngày 15 tháng 9, đồng vượt biên tràn sang đánh 18 ải, rồi tốc thẳng lên chiếm Ung-châu, Côn-lôn, Quế-châu, Linh-lăng, vượt Ngũ-lĩnh đánh Trường-sa.
Khoang soái thuyền rất rộng, cử tọa có trên trăm người mà không một tiếng động. Tiếng Thủ-Huy vẫn sang sảng:
- Tin tế tác cho biết hiện khắp vùng Quảng-Đông, Quảng-Tây, Tống chỉ có bảo binh và hai hiệu binh địa phương. Ta ra quân bất thình lình, đánh như sét nổ, bọn biên quan chưa tập họp được quân, thì thành đã bị chiếm.
Công hỏi cử tọa:
- Ai có gì thắc mắc không?
Kiến-Tĩnh vương hỏi:
- Thành Ung, Linh-lăng rất chắc. Trường hợp quân Tống rút vào trong cố thủ, thì tôi phải hạ được thành rồi mới tiến quân, hay cứ tiến quân?
- Thành chắc, nhưng quân thủ thành không đông, cũng không tinh. Ta không cần hạ thành. Cứ để lại một ít quân bao vây, rồi tiến quân tiếp.
- Có ai thắc mắc gì nữa không?
Chư tướng đều im lặng.
- Thôi, xin mời chư vị lên đường.
Các tướng cùng đứng lên.
Thình lình có nhiều tiếng ngựa phi. Thủ-Huy vẫy mọi người ngồi lại:
- Không chừng Thái-tử tới trễ.
Một thân binh vào báo:
- Thưa Thái-úy, có sứ giả tới xin cầu kiến.
Thủ-Huy giật mình:
- Sứ giả là ai vậy?
- Thưa là Dao-thụ Thái-phó, lĩnh Cần-chính điện đại học sĩ, Trường-yên quốc công, thượng thư bộ Lễ Ngô Lý-Tín.
Theo quan giai, thì hàm Dao-thụ Thái-phó của Ngô thấp hơn Phụ-quốc Thái-úy của Thủ-Huy nhiều. Nhưng Ngô là khâm sứ, nên Thủ-Huy phải ra đón.
Lễ nghi tất.
Thủ-Huy hô lớn:
- Chư tướng quỳ gối nghe chỉ.
Ngô Lý-Tín mở chiếu chỉ đọc:
Thừa thiên khải vận,
Đại-Việt hoàng đế chiếu viết:
Tự cổ từ Tam-hoàng, Ngũ-đế, các vị thánh nhân cai trị dân, đều nêu cao đức hiếu để làm gương. Từ khi đức Thái-tổ nhà ta thừa mệnh trời, ứng lòng người mà lập nền chính thống, trải 164 năm có dư, đều dạy dân lấy hiếu phụng dưỡng cha mẹ.
Long-Xưởng là hoàng trưởng tử, trẫm chiếu lời tâu của chư đại thần, lập làm thái-tử. Gần đây, long thể bất an, trẫm lại trao hết quyền hành cho. Ngày một, ngày hai, khi trẫm về chầu tiên đế, thì ngôi trời ắt truyền cho Xưởng. Thế mà y lại nảy lòng hươu dạ vượn, đêm hôm trước, lén nhập cấm cung, toan cưỡng dâm sủng phi, giết thái giám, cung nga.
Than ôi! Làm con mà bất hiếu đến như vậy, thì sao có thể cai trị thiên hạ? Làm đấng trừ quân mà tham dâm bất chính đến thế, thì sao có thể cầm giềng mối quốc gia? Trẫm lấy làm đau đớn trong lòng đã sinh ra đứa nghịch tử, nên đành nuốt lệ tế cáo trước lăng mộ các tiên đế. Nay trẫm tuyên chỉ với bách quan, với quốc dân ba điều.
Một là bắt giam đứa con bất hiếu, để chờ ngày xử tội, lại phế bỏ ngôi thái-tử, giáng xuống làm con út, tức con thứ bẩy.
Hai là, trong khi chờ đợi lập thái-tử mới, tạm truyền đóng cửa Đông-cung, giải tán Đông-cung triều.
Ba là các hiệu Thiên-tử binh, các hạm đội, thủy đội đâu ở yên đấy. Việc ra quân bãi bỏ. Bất cứ hoàng thân, đại thần, tướng sĩ nào còn bàn đến chuyện này sẽ bị xử trảm.
Vậy các hoàng tử, thân vương, phò mã, công chúa phải khẩn về Thăng-long chờ chỉ dụ.
Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên, tháng 9 ngày Canh Dần.
Khâm thử.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi cùng chư tướng ngơ ngác nhìn nhau, đồng lậy tạ rồi đứng dậy.
Ngô Lý-Tín nói với Thủ-Huy:
- Hoàng thượng truyền công chúa với phò mã dẫn ba vương Kiến- Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh khẩn về triều phục mệnh ngay. Việc hoàng tử Long-Xưởng phạm tội quá nặng, khiến hoàng-thượng buồn sầu mà long thể khiếm an, không biết sẽ băng hà lúc nào.
Nghe Ngô nói mà lòng Thủ-Huy chán cho tình đời, vì y dùng chữ hoàng tử Long-Xưởng, chứ không gọi là Thái-tử nữa.
Đoan-Nghi không kiên nhẫn được, nàng hỏi:
- Ngô Thái-phó, cái vụ này ra sao?
- Khải điện hạ, thần cũng không biết gì hơn nội dung của chiếu chỉ. Sáng nay, thần vừa thức dậy thì được báo cổng thành đóng kín. Trên thành, quân sĩ đi lại tuần hành. Đến giờ Thìn thì cổng thành mở cho các đại thần vào thiết triều ở điện Càn-nguyên.
Lý-Tín thở dài:
- Khi hoàng-thượng với Tuyên-phi ra ngự triều một lát, thì Thái-sư Tô Hiến-Thành với Tể-tướng Đỗ An-Di vào tâu rằng đã cho bắt hết cung nga, thái giám, thị vệ, bộc phụ Đông-cung giam lại. Tài vật thì niêm phong. Trong Hoàng-thành, binh sĩ canh phòng rất cẩn mật, trên kinh thành thì Thái-bảo Phí Công-Tín chỉ huy hiệu binh Sơn-Nam trấn đóng. Rồi Hoàng-thượng cho tuyên đọc chiếu chỉ này, và truyền thần khẩn mang lên cho điện hạ với phò mã tường.
Kiến-Ninh vương bảo Ngô Lý-Tín:
- Thôi, Ngô Thái-phó hãy trở về trước đi. Chúng tôi sẽ rút quân từ từ, khi nào xong, chúng tôi sẽ về phục mệnh phụ hoàng.
Ngô chắp tay vái:
- Khi thần lên đưởng, Hoàng-thượng ban chỉ rằng phải thỉnh cho được ba vị vương gia, công chúa phò mã về cùng, ngay ngày hôm nay.
Ngô nhìn ba vương, nói nhỏ:
- Hoàng thượng muốn ba vị điện hạ về ngay, để người còn chọn một vị phong làm Thái-tử thay thế hoàng tử Long-Xưởng. Vả bệnh tình hoàng thượng đang nguy kịch. Ba điện hạ không nên chậm trễ.
Bao nhiêu cái uất ức chồng chất không nơi phát tiết, bây giờ lại nghe lời thúc dục của Lý-Tín, dường như y muốn bắt mình. Kiến-Ninh vương nổi cáu, vương túm tóc y, rồi vung tay một cái, người y bay bổng lên cao, rơi xuống biển đến ùm một cái. Lý-Tín không biết bơi, y chới với dưới nước. Kiến-An vương hất hàm ra lệnh cho người thuyền trưởng. Anh ta ném sợi dây xuống cuốn lấy Lý-Tín, giật mạnh, người y tung lên cao, rơi xuống sàn thuyền.
Kiến-Ninh vương rút kiếm dí vào cổ Lý-Tín:
- Người là văn quan thì phải biết rằng: Tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải nghe lệnh vua. Vả nếu có chỉ dụ bắt bọn ta, thì hẳn phụ hoàng đã ban chiếu. Cái vụ bắt bọn ta về ngay, là do nhà người bịa ra, có phải thế không? Vì người có chiếu chỉ trong mình, bằng không ta băm người ra như băm chả. Khôn hồn thì người phải khai cho rõ, người bịa ra chỉ dụ của phụ hoàng hay có kẻ bắt người bịa?
Ngô Lý-Tín run lật bật không nói lên lời. Thủ-Huy đưa mắt cho Đoan-Nghi, với ý muốn Đoan-Nghi nhả ít Huyền-âm nội lực vào người Lý-Tín bắt y phải khai. Nhưng Đoan-Nghi lắc đầu:
- Y là sứ giả của phụ hoàng. Muội không thể...
Thủ-Huy chợt nhớ rằng mình đã hút ngũ độc cứu Đoan-Nghi, mình cũng có thể vận khí nhả nọc. Nghĩ đến đâu, chân khí tòng tâm chuyển vận. Ngón tay của Thủ-Huy run lên bần bật. Công sẽ vỗ vào vai Lý-Tín:
- Thôi, Thái-phó vào khoang thuyền thay y phục rồi về kinh phục mệnh.
Ngô lồm cồm bò dậy, nào biết đã bị truyền độc. Ngô vào trong khoang thuyền thay y phục. Lát sau y trở ra. Thủy-Huy nháy mắt cho Kiến-Ninh vương. Vương hiểu ý ông em rể, bảo Lý-Tín:
- Cái vụ người bịa ra chỉ dụ của phụ hoàng, khó mà biết thực hư. Vậy người hãy quỳ gối xuống, rồi thề rằng: « Chư vị thần linh Đại-Việt chứng cho. Nếu Ngô Lý-Tín có gian dối trong việc truyền chỉ thì sẽ bị đau đớn cùng cực trong 49 ngày rồi chết ».
Lý-Tín run run quỳ xuống, rồi thề như Kiến-Ninh vương nói. Khi y vừa đứng dậy, thì cảm như có con dao đâm vào ngực, đau đớn đến muốn ngất đi. Không chịu nổi y, hét lên:
- Ái...ái....ái.
Tiếp theo ba, bốn rồi năm con dao cùng đâm khắp người y. Y lăn lộn kêu gào thảm thiết.
Kiến-Ninh vương hỏi:
- Thì ra người thề gian, nên ngũ phương thần dùng dao đâm người. Bây giờ người khai thực đi, ta sẽ truyền chỉ bảo chư thần ngừng tay.
Lý-Tín vẫn lăn lộn:
- Thần không... Không hề thề dối! Ối...
Kiến-Tĩnh vương hỏi Thủ-Huy:
- Đại ca, đại ca nghĩ sao?
Thủ-Huy vẫy tay cho chư tướng vào khoang thuyền, sai canh gác cẩn thận, rồi nói:
- Tôi thấy trong vụ này ẩn tàng một điều gì khó hiểu. Nhất định cái việc Thái-tử nhập cấm cung cưỡng dâm cung nga là không thể có rồi. Bởi cứ lý mà suy, Thái-tử chỉ sủng ái có một mình vương phi Bùi Trang-Hòa mà thôi. Xung quanh Thái-tử không thiếu gì những cung nga xinh đẹp, mà có bao giờ người ngó ngàng tới đâu? Vậy, mặc dù có chiếu chỉ, chúng ta cũng không thể về Thăng-long vội. Ta phải sai người dò thám tình hình xem đã. Nhưng nếu chúng ta không về thì chẳng hóa ra tử bất hiếu, thần bất trung hay sao?
Đoan-Nghi bàn:
- Hay là bọn Tô Hiến-Thành làm loạn, có bọn tế tác Tống trợ giúp? Cứ như Ngô nói ban nãy thì Tô dùng hiệu binh địa phương Sơn-Nam chiếm đóng Kinh-thành, Hoàng-thành. Không biết hiệu binh này do ai chỉ huy?
Thủ-Huy trả lời:
- Là Mạc Hiển-Tích, trước kia y là gia tướng của Đỗ An-Di.
Mọi người cùng bật lên tiếng ồ kinh ngạc.
Đoan-Nghi thở dài:
- Có lẽ khi khởi sự, Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di cũng muốn dùng Thiên-tử binh. Nhưng chúng biết rằng Thiên-tử binh đều đang chuẩn bị Bắc chinh, nên chúng không thể dùng chỉ dụ để sai khiến họï, chúng mới nghĩ tới tìm một lực lượng địa phương. Di không ngần ngại gì mà dùng tình nghĩa cũ của chủ tớ, móc nối Mạc Hiển-Tích tham dự. Không chừng việc này chúng chuẩn bị từ lâu rồi mà ta không hay. Biết đâu y băét phụ hoàng, rồi ép ban chỉ cũng nên. Được, tôi sẽ dùng chim ưng liên lạc với mẫu hậu xem sao.
Nói là làm. Đoan-Nghi viết thư, rồi sai chim ưng mang đi. Hơn giờ sau, thì chim ưng trở về mang theo trong ống dưới chân một bức thư. Đoan-Nghi nóng ruột, mở ra đọc:
« Nhận được thư, mẫu hậu báo cho con hay: Anh Long-Xưởng bị giam ở đâu, hay hoăng rồi, mẫu hậu cũng không biết nữa. Cung Long-thụy có binh lính canh gác rất kỹ, không ai được vào. Chỉ thấy bọn Đỗ An-Di, Tô Hiến-Thành, Phí Công-Tín ra vào mà thôi ; phụ hoàng ban chiếu, thay đổi toàn thể các quan trong triều. Quyền nằm trong tay bọn Tô, Đỗ. Aùn binh tại chỗ, chờ tin tức. Đừng về vội, về thì chết hết ».
Đến đây Ngô Lý-Tín đau quá, chịu không nổi y hét lên:
- Xin chư thần tha mạng. Việc này là do...là do... Tuyên-phi bắt tôi phải làm như vậy.
Kiến-Ninh vương hỏi:
- Người muốn sống hay chết?
- Thần... muốn số..ố..ống!
Biết đã có hiệu quả, vương ngửa mặt lên trời ban chỉ:
- Hỡi chư thần! Hãy tạm ngừng hành hạ Ngô Lý-Tín, y xin khai thực. Nếu y có điều gì giả dối, chư thần hãy làm tội y cũng không muộn.
Nói dứt, vương túm cổ áo y nhắc dậy, trong khi đó chìa ngón tay chỏ điểm vào huyệt Đại-trùy. Toàn thân y tê liệt, cảm giác đau đớn biến mất, y lại tưởng linh thần tạm tha cho y.
Ngô Lý-Tín là một nho thần, thông minh, tài trí. Đúng ra từ cái việc thề, tới việc điểm huyệt, y cũng đoán ra. Nhưng sau khi bị kề kiếm vào cổ, bị ném xuống biển, rồi bị ngũ độc hành hạ, thần trí y mơ mơ, hồ hồ, y tin rằng mình bị chư thần phạt. Y khai:
- Những gì thần nói ban nãy đều không đúng sự thực. Chính Tuyên-phi bắt thần phải nói như vậy.
- Thế sự thực ra sao?
- Đêm hôm qua, vào giờ Tuất, tất cả các đại thần đều được thái giám đến tuyên triệu phải vào cung Long-thụy trong Hoàng-thành nhận chỉ dụ khẩn cấp. Khi thần vào tới nơi thì đã thấy Hoàng-thượng nằm dài trên long sàng, chân tay run lẩy bẩy vì giận dữ. Các đại thần như Thái-sư Tô Hiến-Thành, Tể-tướng Đỗ An-Di, Thái-bảo Phí Công-Tín, Thiếu-bảo Ngô Nghĩa-Hòa đang chắp tay đứng hầu, mặt người nào cũng đầy lo âu. Một lát Hoàng-thượng ban chỉ: Các người hãy sang cung Tuyên-phi, để thấy tận mắt cái việc mà đứa nghịch tử đã làm. Thái-sư Tô Hiến-Thành dẫn đầu, bọn thần theo sau. Trong khi đi, Đỗ Tể tướng thuật sơ cho biết rằng: Thái-tử đột nhập Hoàng-cung định cưỡng dâm Tuyên-phi.
Mọi người cùng bật lên tiếng ái chà!
-... Tuyên-phi chống trả, thì bị Thái-tử đánh trọng thương. Bọn cung nga, thái giám xúm vào ôm lấy Thái-tử cứu phi. Họ bắt được Thái-tử trói lại, nhưng tám trong mười người bị Thái-tử đánh chết. Hai người bị thương nặng. Thân mẫu của Tuyên-phi là Thạc-hòa Anh-văn phu nhân vội chạy sang cung Long-thụy cầu cứu với hoàng-thượng. Hoàng-thượng hô thị vệ theo người đến cung Tuyên-phi, truyền giam Thái-tử lại, rồi đích thân thẩm vấn bọn cung nga, thái giám. Chúng đều khai giống như Thạc-hòa phu nhân.
Kiến-Tĩnh vương quát lên:
- Vô lý! Không thể có việc đó.
Đoan-Nghi vẫy tay:
- Anh tạm buông lỏng cái nóng nảy, để Ngô Thái-phó thuật.
Nàng giục Ngô Lý-Tín:
- Xin Thái-phó tiếp cho.
- Bọn thần đến cung Tuyên-phi, thì thấy thị vệ vây kín cung. Bên trong, một cảnh kinh hoàng diễn ra. Ngay cửa cung, một thái giám nằm chết cong queo, đầu vỡ, óc, máu bê bết. Một thái giám nữa bị vỡ lồng ngực, nằm bẹp dí như con tép bị dẵm lên. Hai thái giám gẫy xương sống nằm sấp. Hai thái giám bị đánh bật vào tường đầu vỡ, ngực bẹp. Hai cung nga, một người nằm vắt vẻo trên cái án thư, khắp thân mạch máu vỡ ra, mũi, miệng, mắt, tai đều ri rỉ ra máu. Một người chết ngồi, ngực bị chỉ lực xuyên qua, mặt tươi tỉnh, miệng cười mà không phải cười. Hai cung nữ khác bị thương, đang ngồi bưng mặt khóc. Không thấy Tuyên-phi đâu, bọn thần hỏi mấy thị vệ, thì chúng nói Tuyên-phi bị thương nặng, đang ngủ trong tẩm phòng. Bọn thần nhờ Thạc-hòa Anh-văn phu nhân vào thỉnh phi ra. Phu nhân vừa vào tẩm phòng thì người khóc thét lên. Bọn thần tùng quyền chạy vào thì thấy Tuyên-phi thắt cổ toòng teeng trên sàn nhà. Phu-nhân cắt dây đỡ Tuyên-phi xuống, rất may chưa băng. Vừa lúc đó thì ngự y Hoàng-cung là y sư Trần-thị Phương-Thanh tới. Người cứu Tuyên-phi tỉnh dậy, rồi khám các vết thương của phi. Ngự y còn khám nghiệm xác tám người chết, chẩn bệnh hai người còn sống, dùng châm cứu chữa bệnh cho họ.
Thủ-Huy hỏi:
- Ngự y có đưa ra nhận xét gì không?
- Người ghi chú mọi sự việc, rồi ban lệnh: Tất cả xác chết đều không được chôn cất. Bọn thái giám bị thương không được ra khỏi Hoàng-thành. Người nói với Tô Thái-sư rằng cần giữ nguyên như vậy, chờ ba vương gia, công chúa điện hạ với Trần phò mã về, mới thấy rõ tội trạng Thái-tử.
Đoan-Nghi cau mặt:
- Rồi sao?
- Hoàng-thượng tuyên chỉ trao thị vệ, cấm quân cho Thái-sư Tô Hiến-Thành, Thái-bảo Phí Công-Tín giữ an ninh Hoàng-thành, Kinh-thành ; giải tán, niêm phong Đông-cung. Nhưng Tả-thiên Ngưu-vệ thượng tướng quân Tăng Quốc, Tổng-lĩnh thị vệ, kiêm thống-lĩnh cấm quân không chịu trao quyền. Tăng tướng quân nói rằng, quân luật của Đại-Việt từ đời đức Thái-tổ định rằng, người trực thuộc Phụ-quốc Thái-úy là phò mã, thì khi bàn giao, phải có sự chứng kiến của phò mã. Người chỉ tuân lệnh Thái-sư huy động thị vệ bảo vệ Hoàng-cung, và huy động cấm quân phòng vệ Kinh-thành mà thôi. Vì vậy Tể-tướng Đỗ An-Di mới xin hoàng-thượng ban chỉ gọi Vân-ma đại-tướng quân Mạc Hiển-Tích đem hiệu binh địa phương Sơn-Nam về trấn Thăng-long.
Lòng Thủ-Huy nóng như lửa công hỏi:
- Thế Nghĩa-Thành vương đâu mà hoàng-thượng không tuyên triệu người, mà tuyên triệu Thái-sư Tô Hiến-Thành?
- Vương gia đã lên đường đi Thanh-hóa, đích thân chỉ huy cuộc vận tải lương tiếp tế cho các hạm đội.
- Thế khi hiệu binh Sơn-Nam về, thì có đụng chạm với thị vệ ngự lâm quân không?
- Thưa không. Tô Thái-sư lệnh cho hiệu binh Sơn-Nam canh gác Hoàng-thành, các cung điện trong Hoàng-thành, niêm phong phủ Đông-cung, bao vây cơ sở Binh-bộ, các bến thủy quân, phủ thừa Thăng-long. Còn các cửa Kinh-thành, kho vũ khí, lương thực, Khu-mật viện, các phủ đệ của thân vương, đại thần thì khi quân Sơn-Nam tới, thị vệ, cấm quân không chịu trao cho. Thành ra Thăng-long đang có cuộc dằng co, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra cuộc giao chiến.
- Rồi sao?
Đoan-Nghi hỏi:
- Thế sao ban nãy người nói là sáng nay người nhập triều, rồi được chỉ dụ đi sứ?
- Khải điện hạ, khi thần lên đường thì Tuyên-phi dặn phải nói dối như vậy. Tuyên-phi trao cho thần một mật chỉ, dặn thần rằng: Sau khi tuyên chỉ thì phải nài nỉ sao để ba vương, công chúa, phò mã cùng về. Khi về tới Gia-lâm, qua làng Siêu-loại, thì đem mật chỉ ra đọc. Trong chỉ ban cho ba vương, phò mã, công chúa được chết. Đợi sau khi năm vị tự tử rồi, thì đem chôn ngay tại chỗ. Nhưng Tể-tướng Đỗ An-Di cho rằng phò mã, công chúa với ba vương là những người linh mẫn, không hồ đồ như thái-tử Phò-Tô với Mông-Điềm đâu, phải có kế hoạch an toàn. Tuyên-phi truyền Mạc Hiển-Tích sai một đội cung thủ phục sẵn ở đây. Nếu năm vị không tự tử, thì cung thủ sẽ ra tay.
Nói rồi Ngô xuất trong một ống bạc đeo bên hông ra một chỉ dụ. Kiến-An vương mở chỉ dụ xem, thì là bút tự của Tuyên-phi Từ Thụy-Hương, còn chữ ký thì đúng là của phụ hoàng.
Ghi chú của thuật giả:
Tần Thủy-Hoàng đã lập con trưởng là Phò-Tô làm thái-tử. Phò-Tô cùng tướng Mông-Điềm đem quân lên xây Vạn-lý trường thành. Ở kinh đô, Tần Thủy-Hoàng lâm bệnh. Khi sắp băng, nhà vua truyền gọi Phò-Tô về gấp để truyền ngôi. Chỉ vừa ban ra, thì Thủy-Hoàng băng. Thừa-tướng Lý Tư với Thái-phó Triệu Cao muốn chuyên quyền. Hai người tôn em của Phò-Tô là Hồ-Hợi lên ngôi vua, rồi giả chiếu chỉ của Thủy-Hoàng gửi cho Phò-Tô, Mông-Điềm kể một số tội, truyền cho được chết. Các tướng cản không cho Phò-Tô tự tử, mới khuyên rằng: Hãy về triều minh oan, rồi có chết cũng cam lòng. Phò-Tô ngửa mặt lên trời than: Vua bắt bầy tôi chết, mà không chết thì bất trung. Cha muốn con chết, mà không chết thì bất hiếu. Nói rồi rút gươm tự tử. Mông-Điềm cũng tự tử theo.
Kiến-Ninh vương bảo thân binh:
- Người đem Thái-phó về soái thuyền của ta, nhớ canh gác, hầu hạ cho chu đáo.
Ngô Lý-Tín biết mình bị giam lỏng, nhưng ông ta biết có phân trần gì cũng vô ích, nên líu ríu theo tên thân binh ra ngoài khoang thuyền.
Thủ-Huy lên tiếng hỏi bốn đô đốc chỉ huy bốn hạm đội và mười hai đô thống chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh:
- Các vị nghĩ sao về lời khai của Ngô Thái-phó?
Vũ-kị thượng tướng quân Tăng Khoa đứng lên nói:
- Thưa Thái-úy, thuộc hạ thấy sự việc xẩy ra có rất nhiều điều đáng nghi ngờ. Trước hết cái việc Thái-tử tham dâm cưỡng hiếp Tuyên-phi, có ba điều bô lý. Một là, bản lĩnh võ công mà Thái-úy truyền cho Tuyên-phi so với Thái-tử, thì một mười, một tám. Hôm trước Vân-Đài Vương Thúy-Thúy đấu với Thái-úy, bản lãnh nàng có lẽ cao hơn Thái-tử. Vân-Đài sang Đại-Việt từ nhỏ, bản lĩnh do sư phụ Trịnh Nam-Phương âm thầm truyền thụ mà còn cao như vậïy. Trong khi đó Tuyên-phi do đích thân vú Mai, nguyên là cao thủ Công-Chúa của Hoa-sơn, với phụ thân là Lạc-Nhạn chân truyền thì phải cao hơn Vân-Đài nhiều. Vậy, nếu như khi Thái-tử vừa định hành sự, mà Tuyên-phi chống lại, ắt có cuộc giao đấu ít ra phải vài trăm hiệp mới phân thắng bại. Bấy giờ vú Mai đứng ngoài, sao bà không cứu con gái? Bà là cao thủ Công-Chúa của Hoa-sơn mà? Lại nữa, Tuyên-phi bị bại, thì thương thế phải trầm trọng lắm, chứ có đâu chỉ sưng má, đỏ mặt? Hai là, thời gian giao đấu vài trăm hiệp, ít ra kéo dài đến hơn giờ (2 giờ ngày nay). Trong hơn giờ đó, thái giám cung nữ lại đứng nhìn ư? Nhất định chúng chạy đi báo với hoàng-thượng hay tri hô lên cho thị vệ giải cứu chứ? Tại sao lại chờ cho thái-tử bị bắt rồi mới báo cho Hoàng-thượng? Ba là, võ công cao như Tuyên-phi, mà còn bị đánh bại, hỏi với mấy đứa thái giám làm sao bắt sống được thái-tử?
Cử tọa đều công nhận lý luận của Tăng Khoa là hợp lý.
Thủ-Huy hỏi:
- Chiếu chỉ của Hoàng-thượng bắt ba vương, công chúa với tôi phải về Thăng-long ngay. Rồi khi về tới Gia-lâm lại ban chiếu thứ nhì bắt phải chết. Ngược lại Hoàng-hậu lại bảo đừng về. Vậy ta nên hành động ra sao?
Các tướng bàn luận phân vân, hơn khắc mà không tìm được lốii thoát.
Ngay lúc đó, thân binh chạy vào báo:
- Có hai thiếu nữ nhà quê xin cầu kiến công chúa, phò mã.
Thủ-Huy hỏi:
- Họ tên gì?
- Hai vị không chịu xưng tên.
Đoan-Nghi ban chỉ:
- Cho vào!
Lát sau thân binh dẫn hai người mặc quần lụa, áo cánh, đội nón; xuống thuyền. Vừa nhác trông thấy, Đoan-Nghi đã giật bắn người lên. Vì đó là Kim-Ngân với Phương-Lan. Hai nàng hành lễ với cử tọa.
Đoan-Nghi giới thiệu với mọi người:
- Đây là bà chị dâu và em gái của chồng tôi.
Thủ-Huy chưa kịp lên tiếng, thì Phương-Lan đã nói trước:
- Chú hai! Chị với Kim-Ngân lên gặp chú thím là việc tư. Song việc tư này có liên quan đến ch!!!5062_23.htm!!! Đã xem 257527 lần.

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 30 tháng 3 năm 2005

Truyện Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông Lời nói đầu Hồi 1 Hồi 2 Hồi 3 Hồi 4 Hồi 5 Hồi 6 Hồi 7 Hồi 8 Hồi 9 Hồi 10 Hồi 11 ân. Ngược lại, thân làm vua, mà đắm say nữ sắc, làm hại dân, hại nước, thì chỉ là tên ngu phu trước con đàn bà lăng loàn. Sử sách xưa không thiếu gì những gương sáng đó. Nào U-vương say Bao-Tự, Trụ-vương say Đát-Kỷ, Ngô-vương say Tây-thi, Hán-vương say Phi-Yến, Minh-Hoàng say Dương phi, cuối cùng hoặc xã-tắc nghiêng ngửa, hoặc mất ngôi, rồi bản thân chết như một con trâu thối tha trôi sông.
Bà chỉ vào Thụy-Hương:
- Mi say mê y thị, thì cứ say mê, ta không cấm cản. Nhưng mi đem giang sơn của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng ; mi đem sự nghiệp của năm vị tiên đế triều Tiêu-sơn chỉ để làm vui lòng thị thì không được.
Thái-phó Lý Kính-Tu bước ra:
- Thưa bà! Côi-sơn song ưng nức tiếng là người chính đạo, tý dân, hộ quốc, lão phu hằng tâm phục, khẩu phục hơn hai chục năm qua. Nhưng bà nhục mạ Hoàng-thượng như vậy là không chính đạo. Thánh nhân dạy: Để cho vua bị nhục, thì bầy tôi không đáng sống. Nay bà miệt thị Hoàng-thượng quá đáng, lão phu là bầy tôi, thì lão phu không thể chịu được. Lão phu chỉ là một văn thần trói gà không chặt. Nhưng cũng liều mình với bà.
Nói rồi ông mang hốt tiến lại đập vào Ưng-sơn nữ hiệp. Bà mỉm cười, dơ tay ra cho lão đập, bà không dám vận công, vì sợ lão bị thương. Mỗi lần cái hốt trúng tay bà, kêu lên tiếng lốc cốc như đập vào cái mõ. Đập được năm cái thì lão mệt quá không đập được nữa. Lão đến trước nhà vua, quỳ xuống lạy bốn lạy:
- Kẻ mạt thần không đủ sức hộ giá, nay xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ của các vị tiên đế.
Nói dứt lão đập đầu vào cái cột bằng đá của cung Long-hoa.
- Khoan! Chưa đến lúc chết như vậy!
Tiếng nói thanh thoát nhẹ nhàng, tiếp theo bóng xanh xẹt đến. Mọi người chỉ thấy lóa mắt một cái, rồi thân Kính-Tu bị nhắc bổng lên. Bóng xanh đó là Tô Phương-Lan.
Phương-Lan chỉ Ưng-sơn nữ hiệp:
- Thái-phó hãy nhìn xem người mắng Hoàng-thượng là ai? Ưng-sơn song hiệp có bao giờ hành sự ngoài đạo lý, ngoài luật pháp đâu?
Minh-Đạo vương mở khăn che mặt Ưng-sơn nữ hiệp ra. Cả sảnh đường cùng bật lên tiếng kinh ngạc, bởi ai cũng tưởng bà là vợ của đại hiệp Trần Tự-Hấp, thì ít ra tuổi của bà cũng phải trên dưới bốn mươi. Bây giờ thấy bà chỉ là một thiếu phụ tuổi khoảng hai chục, nhan sắc cực kỳ diễm lệ. Bất giác họ cùng so sánh với nhưng người đẹp hiện diện: Loại hơi lớn tuổi như Vân-Đài Trịnh Nam-Phương, Công-Chúa Triệu Mai-Hương, Mao-Nữ Hàn Dũ-Linh cho tới loại nhỏ tuổi Đoan-Nghi, Thụy-Hương, Trang-Hòa, Như-Như, Phương-Lan, Kim-Ngân, đều không thể so sánh với bà. Người người cùng bật lên tiếng kêu kinh ngạc:
- Ồ!
- Ái chà!
- Oái.
- Hỡi ơi.
Vừa nhìn thấy bà, thì từ nhà vua, hoàng-hậu, cho đến các thân vương, đại thần, cùng tới trước mặt Ưng-sơn nữ hiệp rập đầu:
- Thần nhi xin tham kiến Thái-hậu.
- Bọn thần xin khấu đầu trước Thái-hậu.
Vân-Đài Trịnh Nam-Phương thấy Ưng-sơn nữ hiệp là một thiếu phụ nhan sắc diễm lệ, trẻ hơn Thụy-Hương, mà sao mọi người đều cung cung, kính kính với bà? Hơn nữa lại gọi là Thái-hậu? Nam-Phương ngơ ngơ ngác, rồi hỏi Vương Cương-Trung:
- Sư huynh! Bà...Bà ta là vợ Ưng-sơn, mà sao họ lại gọi là thái-hậu?
- Bà này là một giai nhân nức tiếng Thăng-long hơn bốn mươi năm trước, tên là Hồng-Hạnh, được vua Thần-Tông đón vào cung phong làm Thần-phi. Khi cái ông vua bị thịt kia lên ngôi, tôn bà làm Thái-hậu. Bà không phải vợ của gã Trần Tự-Hấp kia đâu. Bà chỉ đi cùng y mà thôi.
- Sư huynh nói sao? Bà là Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu, vợ của vua Thần-tông ư? Không lẽ! Nếu đúng vậy thì năm nay bà phải gần sáu chục tuổi rồi chứ? Có đâu trẻ như gái hai mươi thế kia?
- Đúng vậy! Vì bà luyện thành Bảo-Hòa vạn hoa công của công-chúa Bảo-Hòa, nên trẻ hoài không già.
Ghi chú của thuật giả:
Công-chúa Bảo-Hòa là nhân vật lịch sử, lẫn thần thoại. Ngài là cháu ngoại của vua Lý Thái-tổ, con của công-chúa Lĩnh-Nam Bảo-quốc Hòa-dân với phò mã Thân Thừa-Quý. Ngài sống trải bốn đời vua nhà Lý: Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông, Nhân-tông. Không rõ hoăng năm nào. Tương truyền ngài có thuật dưỡng sinh, khiến cơ thể trẻ mãi không già. Hành trạng của ngài, tôi thuật rất chi tiết, rất đầy đủ trong các bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, Thuận-thiên di sử, Anh-hùng Bắc-cương do Xuân-Thu, và Nam-quốc sơn hà do Đại-Nam, Hoa-kỳ xuất bản.
Trước khi sang Đại-Việt, Nam-Phương từng nghe sư phụ, sư bá không ngớt nhắc nhở đến tiên nương Bảo-Hòa, nhân vật nửa lịch sử, nửa thần thoại này nhiều lần, và ước mơ sao tìm được Bảo-Hòa vạn hoa công để giữ tuổi Xuân không tàn phai. Hồi ấy nàng không tin trên đời lại có loại thần công kỳ diệu đến thế. Bây giờ thấy Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu, mẹ của Minh-Đạo vương, mà vương là anh lớn hơn nhà vua gần chục tuổi... sắc diện trẻ như thiếu nữ đôi mươi, thì trong lòng cực kỳ cảm phục.
Linh-Chiếu thái hậu vẫy tay:
- Miễn lễ cho các người.
Nhà vua cung cung, kính kính thỉnh Linh-Chiếu Thái hậu ngồi lên giữa sập. Bà thản nhiên lên ngồi, rồi hỏi nhà vua:
- Hoàng nhi. Hoàng-nhi hãy trả lời cho ta mấy câu.
- Thần nhi xin chờ chỉ dụ của mẫu hậu.
- Có phải khi ban chỉ phong Long-Xưởng làm Thái-tử, hoàng-nhi thể theo điển lệ thời tiên đế, cùng lời tâu của chư đại thần không?
- Quả như mẫu hậu minh kiến.
- Hơn mười năm qua, Long-Xưởng cùng Đông-cung triều đã làm cho dân giầu, nước mạnh như thời đức Thái-Tông, Thánh-Tông. Trong, việc nông tang phồn thịnh, học phong rực rỡ. Ngoài, nước lớn nể, nước nhỏ phục, lại mở ra một lối mới trong việc giao thiệp với các nước khác. Như vậy sau này có xứng đáng nối ngôi không?
- Tâu mẫu hậu, Xưởng nhi sau này sẽ là mộ danh thiên hạ. Chúng đều có tài, lại nắm giữ trọng binh, nếu như chúng cất quân soán ngôi vua, thì ta khó mà sống nổi. Được, ta phải tìm cách trừ hết bọn chúng, để tránh hậu hoạn. Người xưa nói, luận tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu... »
Vương đưa mắt nhìn Đoan-Nghi, nghĩ: «...Xưa vua Thuấn nhờ lấy hai công chúa Nga-Hoàng, Nữ-Anh của vua Nghiêu mà được truyền ngôi. Thái-tổ nhà ta nhờ làm phò mã vua Lê, cầm trọng binh mà lấy được thiên hạ. Nay Thủ-Huy cũng là phò mã, cũng cầm binh quyền, hơn nữa uy tín y trải khắp nước. Y còn nguy hơn đức Thái-tổ nhà ta nữa. Đúng ra, ta phải cho Thủ-Huy về chịu tang. Nhưng khi ta lên ngôi, thì phải phong chức tước cho bọn nịnh thần chống ta, để chúng ký vào biểu tôn ta lên ngôi. Nếu Thủ-Huy có mặt tất y phản đối. Cái bọn văn quan chống ta, chúng chỉ là con chó của phụ hoàng với Thụy-Hương. Chúng đâu có là mối nguy như Thủ-Huy. Hà! Lên ngôi rồi, ta ban mật chỉ cho bọn chúng, để bọn chúng bới lông, tìm vết kết tội bọn Thủ-Huy, bọn Kiến-Ninh, để loại trừ mối đe dọa. Muốn cho việc không bị cản trở, ta cần Thủ-Huy vắng mặt. Bởi nếu y có mặt, ta ăn làm sao, nói làm sao với y?. Vì vậy ta lấy cớ trao quyền cho y, để y không có mặt, ta mới dễ dàng hành sự ».
Nghĩ vậy Long-Xưởng nói với Thủ-Huy:
- Ta nghĩ rằng lần này phụ hoàng khó qua khỏi. Ta phải dẫn Kiến-Ninh, Kiến-Tĩnh, Đoan-Nghi về nhận di chiếu kế vị cùng chịu tang. Đúng ra theo luật bản triều từ thời đức Thái-tổ, thì Thái-úy không thể kiêm nhiệm một trong hai chức Thống-lĩnh Thiên-tử binh, Đại đô đốc thủy quân. Tuy nhiên Thiên-tử có thể đặc cách trao cho một thân vương. Bây giờ ta về để lên ngôi thì coi như chính vị rồi. Ta có quyền thay đổi luật. Nhị đệ là phò mã có đại công với triều đình, thì nào khác gì thân vương? Vậy nhị đệ hãy kiêm cả Thống-lĩnh Thiên-tử binh cùng quyền Đại đô đốc. Nhị đệ trấn cả hai mặt thủy bộ. Chúng ta dùng chim ưng liên lạc với nhau hằng ngày.
- Đại ca yên tâm.
Thấy Thủ-Huy thản nhiên không nghi ngờ gì, Long-Xưởng có hơi hối hận. Nhưng trong lòng lại nghĩ:
- Giết một tên Thủ-Huy, mà sự nghiệp Tiêu-sơn vững vàng, thì chẳng có gì đáng ân hận cả.
Long-Xưởng dẫn ba người em dùng ngựa, cùng Vũ Tán-Đường lập tức khởi hành. Năm người lên đường được một ngày mà không thấy chim ưng mang thư báo tin. Lòng Thủ-Huy nóng như lửa đốt. Mãi trưa hôm sau, thì thân binh báo:
- Trình Thái-úy có thân nhân lên thăm.
Thủ-Huy truyền mời vào. Thì ra Thủ Lý, Tô Phương-Lan ; Phùng Tá-Chu, Kim-Ngân ; Vương Thúy-Thúy.
Vừa nhìn thấy Thúy-Thúy, tim Thủ-Huy đập liên hồi. Công mất hết tự chủ, đứng ngây người ra nhìn nàng.
Đã lâu lắm, kể từ sau buổi hội trên con thuyền ở hồ Tây. Thủ-Lý hết sức khuyên Long-Xưởng để cho mình giết sạch bọn gian tế Tống, mà Long-Xưởng không quyết định. Thủ-Lý, Trung-Từ, Tá-Chu cho rằng Long-Xưởng là người thiếu quyết đoán, thì việc quốc gia đại sự khó mà thành. Cũng từ đấy, phái Đông-a tuyệt giao với Đông-cung, không trợ giúp gì nữa. Rồi sau quả như Thủ-Lý đoán, chính bọn gian tế Tống gây ra chính biến, suýt nữa vua nghe lời Thụy-Hương giết chết Long-Xưởng, Thủ-Huy, Đoan-Nghi và ba em trai Long-Xưởng. Việc Bắc phạt chuẩn bị hơn mười năm hóa thành một tuồng hư ảo, một trò đàm tiếu cho dân chúng. Tin này lọt ra ngoài, uy tín của Thủ-Lý, Phương-Lan, Trung-Từ, Tá-Chu, Thủ-Huy Đoan-Nghi lên cao. Từ trong triều, đến thôn dã, ai ai cũng chê nhà vua ù lỳ, chê Long-Xưởng nhu nhược, e tương lai không hơn vua cha.
Cũng từ ngày đó, Thủ-Huy chưa gặp lại anh. Bây giờ, thình lình thấy anh cùng nhiều người lên thăm, Thủ-Huy biết phải có điều gì quan trọng lắm.
Phùng Tá-Chu chỉ những người chầu hầu hỏi:
- Anh hai! Liệu những người xung quanh anh có thể tin cậy được không?
- Được! Họ đều là người mẹ tuyển cho anh cả.
Thủ-Lý ngồi ngay ngắn lại:
- Chú hai! Một biến cố cực kỳ quan trọng vừa xẩy ra, có ảnh hưởng lớn lao đến trăm họ Đại-Việt, nên anh phải lên gặp chú.
- Thưa là???
- Sáng qua, vào giờ Dần, sứ giả Vũ Tán-Đường vừa rời Thăng-long thì Thiên-cảm Chí-bảo hoàng đế băng hà.
Thủ-Huy giật bắn người lên:
- Ái chà!
Thủ-Huy cảm thấy đau nhói trong tim. Vua Anh-Tông tuy hiếu sắc, ù lỳ, không có chủ trương gì, nhưng giữa ngài với Thủ-Huy lại rất hợp với nhau. Từ hồi Thủ-Huy rời Thiên-Trường về Thăng-long lĩnh chức Thiện-nhân, rồi dẹp triều đình gà mái gáy, được phong hầu...Cuối cùng lên tới cực cao là Phụ-quốc Thái-úy. Lúc nào nhà vua cũng dùng lời lẽ ôn tồn đối với Thủ-Huy. Ngài lại hay ban thưởng cho công. Có thể nói, ngài thương yêu Thủ-Huy như con đẻ. Cho nên giữa bố vợ, chàng rể, có mối thâm tình nồng nàn. Nay nghe tin nhà vua băng hà, Thủ-Huy cảm thấy thương tiếc vô vàn.
Thủ-Lý vẫn tiếp tục:
- Bọn Thái-sư Tô Hiến-Thành, Thái-phó Lý Ngô Lý-Tín, Thái-bảo Phí Công-Tín, Thái-tử Thái-phó Lý Kính-Tu, Tể-tướng Đỗ An-Di đã tôn thằng bé con, mới có 26 tháng là Long-Trát lên làm vua.
- Thực vậy sao?
Phùng Tá-Chu gật đầu:
- Thực chứ giả sao được. Sau khi tôn thằng nhỏ Long-Trát lên ngôi vua. Chúng đặt cho thằng nhỏ cái tên là Trinh-phù hoàng đế. Chúng nhân danh thằng oắt con đặt miếu hiệu cho nhà vua là Anh-tông với một tràng tôn hiệu, ca tụng đức của ngài khi còn tại thế. Những từ đó, nếu ngài là người liêm sỉ, thì dù có nằm trong tử quan, cũng phải xấu hổ, ngồi bật dậy mà chửi: Tiên nhân cha bọn nịnh hót, bay đặt tôn hiệu như vậy có khác gì chửi ta không?
Nghe lời nói ngỗ nghịch, phạm thượng của Tá-Chu, Thủ-Huy không bằng lòng. Dù vậy công cũng hỏi:
- Tôn hiệu của phụ hoàng là gì?
- Anh hãy nghe cho rõ nhé: Thể thiên, Thuận đạo, Duệ văn, Thần võ, Thuần nhân, Hiển nghĩa, Huy mưu, Thánh trí, Ngự dân, Dục vật, Quần linh, Phi ứng, Đại minh, Chí hiếu hoàng đế.
Mọi người cười rộ lên.
Tá-Chu tiếp:
- Chúng còn nịnh hót con đàn bà dâm loạn Đỗ Thụy-Châu, làm chế, ra cái điều là thằng nhỏ làm, rồi tôn con mụ này lên làm Chiêu-thiên Chí-lý hoàng thái hậu. Chúng cũng tôn Hoàng-hậu lên làm Chiêu-linh Thánh-cảm hoàng thái hậu. Bọn chúng lại tôn hiệu cho thằng nhỏ một tràng dài, với những đức tính, mà chưa từng hoàng đế nào có như sau:
« Ứng càn, Ngự cực, Hoành văn, Hiến vũ, Linh thụy, Chiếu phù, Chương đạo, Chí nhân, Aùi dân, Lý vật, Duệ mưu, Thần chí, Hóa cảm, Chính thần, Phu huệ, Thị từ, Tuy du, Kiến mỹ, Công toàn, Nghiệp thịnh, Long hiện, Thần cư, Thanh minh, Quang hiến hoàng đế ».
Ghi chú của thuật giả:
Long-Trát lên làm vua, lấy hiệu là Trinh-Phù vào lúc mới có 26 tháng, khi băng hà được tôn miếu hiệu là Cao-tông. Long-Trát lên ngôi, mà cạnh không có một thân vương nào phò tá. Trong cung thì bà mẹ Đỗ Thụy-Châu chỉ biết dâm dật, rồi chết non, 37 tuổi. Triều đình thì bị tình nhân của mẹ là Mạc Hiển-Tích, bị cậu là Đỗ An-Di chuyên quyền. Nhà vua lớn lên hoang chơi vô độ, khiến cho Đại-Việt trải qua một thời kỳ cực kỳ rối loạn. Sự nghiệp vĩ đại kiến tạo Đại-Việt thành một nước có kỷ cương, có văn hiến, có nền pháp trị vững chắc của vua Thái-tổ, Thái-tông. Huân nghiệp đánh Tống, bình Chiêm của vua Thánh-tông, Nhân-tông bị ông vua vô giáo dục này phá nát. Đến đây có thể coi như triều đại Tiêu-sơn chấm dứt.
Thủ-Huy than:
- Trời ơi! Thực là bọn chồn cáo làm trò hề.
Thấy Thủ-Huy ngớ người ra, Tá-Chu vỗ vai:
- Cái việc này anh Thủ-Lý với bọn em đã đoán ra ngay hôm hội trên thuyền rồi. Còn anh, thì anh như người mê cuộc cờ. Anh cóc biết gì cả.
Thủ-Huy công nhận lời Tá-Chu đúng. Giá như hôm đó Long-Xưởng để cho Thủ-Lý, Tá-Chu, Trung-Từ giết Vương Cương-Trung với bọn Vân-Đài, Công-Chúa, Mao-Nữ thì đã không có vụ chính biến, và dĩ nhiên không có cái việc tôn thằng nhỏ Long-Trát lên làm vua.
Tá-Chu tiếp:
- Rồi mấy lão đại thần già còn làm trò khỉ bằng cách cho lão Tô Hiến-Thành bồng thằng nhỏ trong lòng mà ban chỉ ; ra cái điều chỉ này do vua, chứ không do lão. Thực là giống như mấy mụ lên đồng. Khốn thay, hiện thằng nhỏ đi tướt nặng. Cứ hơn khắc lại...bẹt...bẹt... ra tã, rồi khóc om sòm.
Mọi người không nín được, cùng bật cười, trong khi Thủ-Huy nhăn nhó khổ sở:
- Bọn này đáng chết thực.
- Chưa hết đâu.
Tá-Chu xua tay:
- Thằng nhỏ đi tướt mặc thằng nhỏ đi tướt. Cái lão Tô vẫn làm chiếu, rồi nói rằng do thằng nhỏ, để phong Đỗ An-Di làm Thái-sư đồng bình chương sự (Thái-sư, kiêm đồng thủ tướng). Còn tự phong mình làm Thái-úy phụ chính, bình chương quân quốc trọng sự (Tư lệnh quân đội, kiêm thủ tướng). Lại phong cho bố ghẻ thằng nhỏ là Mạc Hiển-Tích làm Tổng-trấn Thăng-long, Tổng-lĩnh thị vệ, cấm quân. Thế là triều đại Tiêu-sơn thành triều đại...cầu tiêu. Khi ban chiếu, chúng cũng thì thụp lạy tạ đàng hoàng lắm. Lạy tạ cái cầu tiêu!
Hồi niên thiếu, ba anh em Thủ-Lý, ba anh em Trung-Từ, với Phùng Tá-Chu sống chung với nhau trong trang Thiên-trường, do ông nội là Trần Tự-Kinh dạy dỗ. Suốt ngày họ không luyện võ, học văn, thì lại nô đùa với nhau. Cách nói năng của họ theo lối dân gian, hồn nhiên đã quen. Từ khi Thủ-Huy theo Long-Xưởng về Thăng-long, làm quan, rồi làm phò mã. Công nói năng cẩn trọng theo lối cung đình đã thành nếp. Trong khi đó ngày đêm đám Thủ-Lý vẫn sống lẫn với nông dân, suốt này đùa vui, bộc trực, riết rồi trong ngôn từ giữa Thủ-Huy với những người bạn thời thơ ấu không còn giống nhau nữa. Họ có một khoảng cách xa. Bây giờ trong lúc tinh thần trấn động, căng thẳng, nghe Tá-Chu nói lời trái tai, Thủ-Huy bực mình:
- Cái chú này chỉ nói tục! Triều đại mà chú ví với cầu tiêu, nghe nó có vẻ khinh bạc quá. Chú nên nhớ, chú có cái hàm phó Đại đô đốc của triều đình, mà chú lại có lời thô lỗ như vậy sao?
- Phó Đại đô đốc? Đó chẳng qua là hư vị. Em có mang y phục đô đốc bao giờ đâu? Có lĩnh một hột gạo, một đồng tiền nào của triều Lý đâu?
Thủ-Huy nhăn mặt:
- Dù sao Long-Trát cũng là giọt máu của phụ hoàng, là một hoàng tử.
Tá-Chu càng trêu già:
- Hoàng tử đã bằng Phật Thích-ca Mâu-ni chưa? Có thể so sánh với Khổng-tử không? Ông Thích, ông Khổng, hồi còn bé cũng đi tướt như thường, đâu phải mình thằng bé con Long-Trát.
Thủ-Huy hừ một tiếng, công im lặng.
Tá-Chu bẹo tai Thủ-Huy:
- Cái anh này đang lên đồng chắc? Thánh nào nhập vào anh đây? Cô Bơ Hoàng Thiều-Hoa? Cô Sáu Đào Phương-Dung? Thánh-mẫu thượng ngàn Hồ Đề? Em hỏi anh nhé.
- Chú cứ hỏi.
- Khi vua Khâm-tông bị bắt đem về Kim, có phải con ông ta là Thái-tử Kinh cải thành họ Mạc không?
- Ừ thì phải.
- Cái gã Mạc Hiển-Tích có phải là con của Thái tử Kinh không? Tên Vương Cương-Trung ép Tuyên-phi Thụy-Hương dâng hiến cái lỗ chôn mả tổ họ Triệu cho gã họ Hiển-Tích xài hai đêm. Sau hai đêm đó, Thụy-Hương có mang sinh ra Long-Trát. Đúng không?
- Cái đó là nghi vấn. Chứ sự thực thì Long-Trát giống phụ hoàng như hai giọt nước.
- Hứ! Em thì em tin Long-Trát là con tên Hiển-Tích. Bây giờ Long-Trát lên làm vua, thì có phải là họ Triệu của Tống cai trị Đại-Việt không? Như thế có phải họ Lý bị ném vào cầu tiêu rồi không?
- Bậy nào! Long-Trát giống phụ hoàng như hai giọt nước, sao có thể là con của Mạc Hiển-Tích?
Tá-Chu cười:
- Thôi bỏ chuyện ấy đi. Nhưng nay anh mất chức Thái-úy rồi. Chỉ nội ngày nay gã Tô Hiến-Thành sẽ bồng thằng nhỏ đi té re, ban chiếu chỉ gọi anh về Thăng-long. Vì vậy bọn em lên đây báo cho anh biết. Bằng không anh cũng tuân chỉ té re, về thì thụp lạy thằng bé con Long-Trát, thì nhục lắm.
- Anh không tin bọn Tô Hiến-Thành dám làm vậy!
Phùng Tá-Chu hỏi:
- Vì lý do nào mà anh bảo sự ấy không xẩy ra được?
- Vì Long-Xưởng là Thái-tử, thì họ phải đợi anh ấy về, rồi lên ngôi chứ! Nước có luật, chứ đâu ai muốn làm gì thì làm. Tô chỉ có mấy người, các quan dễ gì nghe lời chúng.
- Chú nói!
Phương-Lan xen vào, nàng giảng giải:
- Chính vì nước có luật, họ mới căn cứ vào luật, mà thi hành.
- Chị nói gì em không hiểu.
Phương-Lan vốn rất thân với ông em chồng này. Nàng ngồi nghiêm chỉnh lại:
- Để chị nói cho chú nghe. Xưa nay phàm vua chúa ban chỉ, các quan ban lệnh, khi cùng một sự, mà có hai lệnh khác nhau, lệnh nào trên giấy trắng mực đen thì có giá trị. Còn lệnh bằng miệng thì gọi là khẩu thiệt vô bằng (lệnh bằng miệng lưỡi không thể coi như bằng chứng) vô giá trị. Có phải vậy không?
- Đúng.
- Xin chú trả lời cho chị câu thứ nhì: Trong việc cai trị, khi có nhiều luật cùng nói một vấn đề, thì luật nào ban sau cùng được coi là có giá trị. Có phải vậy không?
- Đúng.
- Thế thì các đại thần Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di đã thi hành đúng luật lệ. Họ không có tội gì. Trăm quan đều theo họ, thì là điều bình thường.
- Nghĩa là?
- Năm ngoái, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên, ngày Canh-Dần, tháng 9, nhà vua ban chỉ kể tội Long-Xưởng, truất phế khỏi ngôi Đông-cung, giải tán Đông-cung triều. Bốn ngày sau, ngày Giáp-Ngọ, lại ban chỉ phong Long-Trát làm Thái-tử, giáng Long-Xưởng xuống làm con út, tước Bảo-Quốc vương. Trong chỉ này còn định Tô Hiến-Thành phụ chính, Lý Kính-Tu làm Thái-phó. Có đúng không?
Thủ-Huy hừ một tiếng:
- Chỉ đó do Vương Cương-Trung uy hiếp phụ hoàng, nên người phải ký, chứ đâu phải long ý? Sau khi dẹp bọn Vương Cương-Trung, Linh-Chiếu thái hậu hỏi về vụ này, thì kim khẩu phụ hoàng đã tuyên rằng, anh Long-Xưởng vẫn là thái-tử, Đông-cung triều vẫn còn nguyên. Từ hồi ấy đến giờ, Đông-cung triều vẫn hoạt động đều đặn mà!
Thủ-Lý cất tiếng lạnh như băng:
- Thế sau đó nhà vua có ban chỉ hủy bỏ hai đạo chỉ truất Long-Xưởng, lập Long-Trát không?
Thủ-Huy tỉnh ngộ, mặt công tái đi:
- Thôi rồi! Phụ hoàng tuyên chỉ phục hồi Đông-cung vị cho anh Long-Xưởng, mà sau đó quên không ban chỉ. Thành ra là khẩu thiệt vô bằng. Hỏng rồi.
- Cái khúc mắc là chỗ đó.
Thủ-Lý giảng giải:
- Lẽ ra, sau ngày hôm đó, gã Đỗ An-Di là Tể-tướng, thì gã phải làm chỉ, đệ lên cho nhà vua ký. Nhưng gã lờ đi. Rõ ràng gã phục sẵn một âm mưu, đến nay mới thi hành.
Phương-Lan thuật:
- Sáng qua, khi nhà vua băng, cạnh long sàng chỉ có Hoàng-hậu, Thục-phi Đỗ Thụy-Châu, Thái-sư Tô Hiến-Thành. Hoàng-hậu tuyên chỉ đóng các cửa thành lại, chờ Thái-tử Long-Xưởng về lên ngôi. Nhưng Thái-sư Tô Hiến-Thành mở cửa cho các đại thần vào, mang hai chỉ dụ kia ra đọc lên, rồi nói rằng: Hoàng-tử Long-Xưởng bị giáng xuống làm Bảo-Quốc vương, hoàng tử Long-Trát được phong làm thái-tử. Sự đã trên một năm rồi. Vậy bây giờ nước một ngày không thể không vua. Xin tôn Thái-tử Long-Trát lên ngôi để an thiên hạ. Hoàng-hậu phản đối. Nhưng Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di lập tức hỏi ý kiến các đại thần. Hầu hết các quan đều không đồng ý với Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di. Nhưng trước hai đạo chỉ dụ kia, thì không ai cãi được. Trong khi đó, bên ngoài, Mạc Hiển-Tích dàn thị vệ, cấm quân ra như đe dọa. Các quan đành ký vào tờ biểu tôn Long-Trát lên kế vị Anh-tông.
Thủ-Huy chết điếng trong lòng. Công hỏi Thủ-Lý:
- Anh nghĩ em phải làm gì?
Đạo đức, khí phách, nhân từ thì Thủ-Lý nức danh từ nhỏ. Còn mưu trí, thì chàng thua vợ xa. Chàng đưa mắt nhìn vợ như hỏi ý kiến.
Phương-Lan thở dài:
- Chị chọn cho chú ba con đường đi. Chú lựa lấy một.
-???
- Khi Long-Xưởng, Đoan-Nghi, cùng chư vương về Thăng-long, thì vua mới đã lập, sự đã rồi. Các quan đã được bổ nhiệm chức vụ mới, lại được thăng trật, thăng ngạch thì họ có bổn phận phải trung thành với thằng bé con. Chị độ chừng bọn Đỗ An-Di sẽ đóng cổng thành không cho Long-Xưởng vào. Hoặc Long-Xưởng có được vào cũng không làm gì hơn là cúi lạy thằng bé con kia, rồi thui thủi rời Đông-cung làm anh nhà giầu mà thôi. Còn chú, con đường thứ nhất chú có thể đi là chuẩn bị chờ Tô Hiến-Thành mượn danh thằng nhỏ, triệu chú về bàn giao, sau đó chú dẫn Đoan-Nghi về Thiên-trường, cùng anh em vui với cỏ cây, thú biết bao?
- Như vậy thì em là một phò mã có tội với các tiên đế, không xứng đáng làm chồng Đoan-Nghi. Sau này lịch sử kết tội em là tên hèn.
- Được! Chú coi vậy mà được.
Phương-Lan tiếp:
- Con đường thứ nhì, thì người xưa đã nói: Khi nhà có sự mới biết con hiếu. Xã-tắc nguy nan mới biết tôi trung. Phàm nam nhi đại trượng phu, ai cũng muốn làm anh hùng, danh ghi thanh sử. Nhưng không phải ai cũng có dịp làm anh hùng. Bây giờ, chú có dịp làm anh hùng đây. Chú truyền một hịch đi khắp các trấn, các phủ, rồi đem quân về Thăng-long, phế thằng bé con kia xuống, lập Long-Xưởng lên làm vua. Bọn quan lại nào chống đối thì đem ra chặt đầu hết. Nghìn năm sau lịch sử còn ghi tên.
- Còn con đường thứ ba?
- Con đường thứ ba là chú treo ấn, rồi cùng Đoan-Nghi bỏ đi ngao du thắng cảnh, học theo cụ tổ ta xưa, làm Ưng-sơn song hiệp hay học theo Minh-Đạo vương làm một Côi-sơn song ưng.
Thủ-Huy đập tay xuống bàn:
- Em xin chọn con đường thứ nhì.
Lập tức công cầm bút viết lệnh, trao cho thư lại sao làm nhiều bản, rồi ngay chiều hôm đó cho triệu hồi các tướng về họp. Sau khi giảng giải tình hình, công ban lệnh:
- Cuộc tiến quân này khác với cuộc tiến quân dẹp bọn gian tế Tống trước đây. Cuộc tiến quân này chắc chắn phải chấp nhận một cuộc giao tranh.
Công trao binh phù cho đô đốc chỉ huy hạm đội Aâu-Cơ:
- Đô đốc được đặt dưới quyền Vũ-kị thượng tướng quân Tăng Khoa. Hạm-đội Aâu-Cơ đang trấn Thăng-long. Đô đốc cho hạm đội dàn các chiến thuyền dọc sông Hồng, phong tỏa tất cả các sông, các hồ quanh Thăng-long, không cho bất cứ thuyền bè nào đi lại. Đem các thuyền lớn chờ ở bến Bắc-ngạn để chở quân qua sông.
Viên đô đốc đứng dậy lên đường ngay.
- Hiện hiệu binh Phù-Đổng đang cùng hiệu Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ thao luyện tại rừng tre. Vũ-kị thượng tướng quân Tăng Khoa, nhanh chóng đem hiệu binh Phù-Đổng về Thăng-long, đánh chiếm các cửa thành, các cung điện, bao vây Hoàng-thành. Đợi khi ba hiệu binh Ngư-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ qua sông, thì bao vây, khống chế tất cả dinh thự các quan lại. Đợi ta về sẽ chiếm Hoàng-thành.
Tăng Khoa hỏi:
- Nếu thị vệ, cấm quân chống lại thì sao?
- Tuyên đọc lệnh của ta cho họ nghe. Họ buông vũ khí thì thôi. Bằng không thì giết hết.
Thủ-Huy dẫn các tướng lên ngựa hướng Thăng-long khẩn cấp.
Thủ-Lý nói với em.
- Anh lên đây vì chú, chứ anh không muốn về Thăng-long nhìn cái bọn quan liêu ngu dốt, hèn hạ của triều đình. Anh lại không muốn nhìn cái gã Long-Xưởng kia nữa.
Thấy nét mặt Thủ-Huy dường như không bằng lòng vì mình cương quyết với Long-Xưởng, Thủ-Lý nhấn mạnh:
- Tuy em ban lệnh đem quân về, nhưng anh biết rút cuộc lại đầu voi đuôi chuột như vụ Vương Cương-Trung, Thụy-Hương gây loạn. Giá như hôm ấy, khi chú xua quân đánh vào Hoàng-thành, chú mật lệnh cho đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn giết sạch bọn nịnh thần ăn hại, bọn Tống, bọn cung nga dơ bẩn, thì mọi chuyện đã êm thắm. Bây giờ trước mặt anh thì chú hăm hở, nhưng liệu chú có dám nhân lúc hỗn quân, hỗn quan, ra lệnh cho võ sĩ tru diệt hết bọn nịnh quan ăn hại không?
- Nhất định em sẽ thẳng tay!
- Giả như, bấy giờ giữa lúc võ sĩ đang ra tay, Long-Xưởng ra lệnh cho chú phải ngừng lại, rồi lui quân, thì chú tính sao?
Thủ-Huy ngây người ra suy nghĩ:
- Em đành phải nghe lệnh. Vì cái việc em ra làm quan, hoàn toàn vì nghĩa huynh Long-Xưởng. Ngoài tình huynh đệ, còn tình anh vợ em rể, tình nghĩa chúa tôi. Em không thể trái lệnh anh ấy.
Thủ-Lý nắm lấy tay em, mắt đỏ lên vì thương hại:
- Mưu sự tại em! Thành sự tại Long-Xưởng ngu ít hay ngu nhiều. Tiếc thay cho em đã làm cái việc của con dã tràng xây cát biển Đông! Thôi, gia đình chờ em ở Thiên-trường để cùng vui thú cỏ nội, hoa đồng.
Vương Thúy-Thúy nói với Tô Phương-Lan:
- Phu nhân, nô tỳ đã nguyện theo hầu phò mã cả đời. Bây giờ nô tỳ xin bái biệt phu nhân, để theo phò mã.
- Tỷ tỷ cứ theo lễ nghi mà làm.
Khi lên ngựa rời bản doanh Bắc-biên, Phương-Lan còn dặn Thủ-Huy:
- Chú hãy bảo trọng lấy thân.
Thông thường thì thân binh lo áo quần, ăn uống cho Thủ-Huy. Bây giờ, Thúy-Thúy dành làm hết. Thúy-Thúy mặc võ phục, lưng đeo bảo kiếm đi sát sau lưng Thủ-Huy. Nhìn khuôn mặt thanh tú, mái tóc mây chảy dài xuống hai vai của Thúy-Thúy, Thủ-Huy sợ hãi, vội quay mặt nhìn đi chỗ khác.
Trên đường đi, Thủ-Huy nhận được tin do Tăng Khoa gửi về liên tiếp:
« Chim ưng của Thái-tử Long-Xưởng báo: Khi thái-tử cùng tam vương Kiến-Ninh, Kiến-An Kiến-Tĩnh, công chúa Đoan-Nghi về tới Thăng-long, thì các cửa thành đóng kín. Cấm quân nói rằng họ tuân lệnh của quan Tổng-lĩnh Mạc Hiển-Tích không cho ai vào. Long-Xưởng bảo chúng gọi Hiển-Tích ra, thì không thấy Hiển-Tích mà chỉ thấy Tể-tướng Đỗ An-Di. Di hành lễ rồi báo cho Long-Xưởng biết Hoàng-thượng băng hà vào giờ Dần. Ngay lập tức, triều thần chiếu chỉ dụ của Hoàng-thượng tôn Thái-tử Long-Trát lên làm vua. Mọi sự đã an định. Vậy nếu Long-Xưởng cùng các vương muốn vào thành chịu tang, cùng bái kiến Trinh-phù hoàng đế, thì phải để tất cả tùy tùng ở lại. Long-Xưởng chưa kịp trả lời thì An-Di đã xuống khỏi địch lâu. Tuy nhiên chưa bắt liên lạc trực tiếp với Long-Xưởng ».
Mấy giờ sau lại có tin:
« Hiệu Phù-Đổng đã sang sông. Hạm đội Aâu-Cơ phong tỏa khắp các sông hồ quanh Thăng-long. Đã bắt được liên lạc với thái-tử Long-Xưởng. Long-Xưởng ban chỉ chờ ba hiệu Thiên-tử binh qua sông, sẽ đánh vào trong thành ».
Thủ-Huy càng thúc mọi người đi thực gấp. Khi đến Kinh-Bắc thì nghỉ lại qua đêm. Thúy-Thúy mắc võng, mắc màn cho Thủ-Huy nằm. Còn nàng, thì nàng cũng mắc võng ngay cạnh Thủ-Huy. Thủ-Huy leo lên võng, thì Thúy-Thúy nói:
- Chủ nhân! Chủ nhân suy nghĩ nhiều quá e mệt tâm thần. Để tiểu tỳ tẩm quất cho chủ nhân.
Thủ-Huy chưa kịp từ chối, thì Thúy-Thúy đã dùng hai tay nhẹ nhàng chà sát trên trán, thái dương, cằm, rồi cổ cho công. Công điếng người đi, nằm như khúc gỗ không dẫy được nữa. Hơi thở của nàng, vừa ấm áp, vừa thơm tho lướt trên má công.
Thúy-Thúy lại chuyển tay xuống nắn hai bắp tay, rồi chà vào hai bên sườn. Thủ-Huy định lên tiếng năn nỉ: Thôi! Thôi! Tôi chịu hết nổi rồi. Nhưng công mở miệng ra không được.
Thúy-Thúy lại chà xuống bụng, rồi... Đến đây thì Thủ-Huy gần như mê man. Thúy-Thúy ngừng tay, nàng gục đầu vào ngực Thủ-Huy. Thủ-Huy rùng mình, khẽ nâng đầu nàng dậy:
- Thúy-Thúy! Nàng là tiên nữ! Còn tôi...
Giọng Thúy-Thúy nhẹ như tơ. Nàng nói như gió thoảng:
- Chủ nhân! Tiểu tỳ đã nguyện hầu hạ chủ nhân cả đời! Lúc nào tiểu tỳ cũng sẵn sàng dâng hiến cho chủ nhân.
Ghi chú của thuật giả:
Thuật đến đây, tôi xin ngừng lại, vì không biết những gì sẽ xẩy ra giữa anh hùng Trần Thủ-Huy và giai nhân Vương Thúy-Thúy. Tôi đã tra trong chính sử, huyền sử Tống-Việt ; kể cả bia đá, gia phả cũng không thấy chép rằng sau đó Thủ-Huy sẽ tỉnh táo, giữ tấm lòng chung thủy vơí Đoan-Nghi, hay tiếp nhận tất cả những gì Thúy-Thúy dâng hiến? Độc giả Anh-hùng Đông-a vốn thông minh, xin đoán dùm.
Sáng hôm sau, giờ Dần, Thủ-Huy thức giấc thì nhận được chỉ dụ của Long-Xưởng:
«Khi ta về Thăng-long thì chỉ đem có vài tùy tùng theo. Sợ bọn Đỗ An-Di tập kích, ta phải nhờ bà Như-Yên đem đội thị vệ Đông-cung theo hộ vệ. Vậy đệ phải cho hai đội võ sĩ Long-biên, Côi-sơn phi ngựa về bảo vệ Đông-cung. Ta chờ nhị đệ, rồi đánh vào Thăng-long giết hết bọn nghịch thần, tặc tử, bọn mãi quốc ».
Giờ Thìn, Thủ-Huy về tới Bắc-ngạn, thủy quân đưa công cùng bộ tham mưu qua sông. Đò vừa cập bến, thì gặp Long-Xưởng, cùng chư vương, văn võ bách quan từ các trấn, phủ, huyện về chịu tang bị ùn lại, không được vào thành. Thủ-Huy tạm đóng tổng hành doanh ở ngoài thành, rồi thỉnh Long-Xưởng, cùng các quan vào nghỉ.
Thủ-Huy mời chư vương, Đoan-Nghi, Tăng Khoa họp riêng. Công trình bầy tất cả những tin tức do Thủ-Liễu thu thập được, cùng những uẩn khúc về việc Long-Xưởng bị truất, lập Long-Trát, mà hai chỉ dụ cho đến nay cũng vẫn còn giá trị. Nghe Thủ-Huy nói, Long-Xưởng than:
- Sau khi diệt bọn gian tế Tống, an định được Thăng-long, ta quên khuấy đi mất cái chuyện xin phụ hoàng ban chỉ phục hồi ngôi vị cho ta, lại cũng không xin chỉ phong tước cho Long-Trát. Bây giờ các em nghĩ sao?
Kiến-Ninh vương đề nghị:
- Bọn Đỗ An-Di tưởng rằng đặt thằng nhỏ lên làm vua, là cố tình tạo thành sự đã rồi. Em nghĩ anh nên lên ngôi cho chính vị, ban hịch đi khắp nước, cử sứ giả vào bắt bọn Đỗ An-Di đầu hàng, bằng không chúng ta đánh thành, rồi làm cỏ bọn chúng.
- Thưa vương gia làm như vậy không đúng lễ.
Vũ Tán-Đường giảng giải:
- Từ xưa đến giờ, khi Hoàng-đế băng hà thì bao giờ tự quân cũng phải lên ngôi trước tử-cung. Vả lại bọn Vương Cương-Trung, Thụy-Hương ép Hoàng-thượng ban chiếu, dùng những lời lẽ hạ nhục Thái-tử quá đáng. Mà chiếu ấy gửi khắp các trấn, các phủ, huyện. Từ ngày đó đến giờ, dư đảng bọn Tống, bọn chân tay của tụi hủ nho, bọn vong mạng, bọn đầu trộm đuôi cướp không ngớt nhắc lại những lời vô quân, phạm tượng đó. Trong dân gian thì thầm đã nhiều. Nếu nay Thái-tử lên ngôi ở ngoài thành thế này, thì bọn Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di lại có cớ để nói với mọi người.
Tăng Khoa đứng dậy cung tay:
- Khải Thái-tử, thần nghĩ không cần phải gửi sứ. Thị vệ, cấm quân quá ít không đủ giữ Thăng-long. Vậy Thái-úy chỉ cần truyền một lệnh rằng người bảo giá Thái-tử cùng chư vương, đại thần về chịu tang. Cấm quân, thị vệ phải mở cổng thành. Bằng không thì cho đánh thành. Thần nghĩ, năm trước thị vệ, cấm quân đã theo Thái-tử đánh hiệu binh Sơn-Nam. Họ thấy bọn này chống lại Thái-tử, rồi bị bọn Tống giết, bị xử tội sau biến cố. Nay vô tình họ bị đẩy vào cái thế đó, họ đã lo sợ lắm rồi. Họ chỉ chờ dịp là buông vũ khí. Cái bọn An-Di, Hiến-Thành gan có bằng trời cũng không dám chống lại ta. Vả thị vệ, cấm quân đều do Thái-úy với thần huấn luyện. Họ biết tính cương quyết của Thái-úy, nên không ai đủ can đảm cầm vũ khí chống lệnh Thái-úy mà mang họa.
Long-Xưởng hài lòng nói với Đoan-Nghi:
- Lời nghị của Tăng đệ thực đúng luật pháp. Ở đây em là người cử bút thành văn, vậy em hãy soạn một lệnh gửi cho chư quân tướng, mà không nhắc gì tới bọn Tô, Đỗ cả.
Công-chúa Đoan-Nghi cầm bút viết:« Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại Đô-đốc, Kiến-Ninh vương.
Dao-thụ Thái-bảo, quản Khu-mật viện, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, trấn Nam tiết độ sứ, Kiến-An vương.
Đặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng quân, tổng-lĩnh Thiên-tử binh Kiến-Tĩnh vương.
Hiếu-khang, Thạc-hòa, Ôn-huệ, Nhu-mẫn, Anh-văn, Đoan-Nghi công chúa, tổng-lĩnh nữ binh.
Phò-mã Phụ-quốc Thái-úy, Tả-kim-ngô đại tướng quân, Thượng-trụ quốc, Càn-nguyên điện đại học sĩ, Côi-sơn quốc công.
Lệnh cho các tướng sĩ cùng thị vệ, cấm quân trong thành Thăng-long:
Được hung tin hoàng-thượng băng hà. Thái-tử cùng chư vương Kiến-Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh, công chúa Đoan-Nghi, phò mã Thái-úy cùng các quan văn võ tại các trấn, phủ huyện về chịu tang. Mà các người lại đóng cửa thành là ý gì? Vì vậy, chúng ta phải mang binh về bảo giá. Chúng ta hẹn cho các người đến giờ Mùi hôm nay phải mở cửa thành. Bằng không, chúng ta sẽ xua binh đánh vào, thì bản thân các người bị giết đã đành, mà gia đình cũng bị phanh thây.
Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo, tháng bẩy, ngày vọng
»
Long-Xưởng đọc xong khen ngợi:
- Hay, lệnh này coi như không biết gì tới cái vụ Long-Trát đã lên ngôi, không kể tội bọn Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, để mở cho chúng một con đường. Lại giải thích rõ về vụ mang quân về. Bọn phản thần không còn gì để có thể bắt quân đóng cổng thành.
Thủ-Huy sai quân mang thư đi.
Tăng Khoa ra lệnh cho tướng sĩ:
- Hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ chia ra bao vây các cửa thành. Hiệu Phù-Đổng, Ngự-long cũng chia ra chờ đợi ở các cửa. Đến giờ Mùi, nếu cửa thành mở, thì nhất loạt tiến vào, nhanh chóng chiếm đóng tất cả các phủ, dinh, kể cả Phủ-thừa Thọ-xương. Còn Hoàng-thành thì chỉ bao vây thôi. Nhược bằng sang giờ Mùi, mà cửa thành không mở, thì đồng loạt tấn công. Cần đánh chớp nhoáng. Khi lọt vào thành thì cho mở cửa. Rồi hiệu Ngự-long, Phù-Đổng tiến vào thi hành như trên.
Long-Xưởng thấy vợ chồng Đào Duy cũng có mặt, thì cảm động:
- Đào đại phu! Đào phu nhân! Từ ngày gặp gỡ nhau trên bến Bắc-ngạn đến giờ, nhị vị đã cùng Xưởng này chịu không biết bao nhiêu cay đắng, thăng trầm. Nhị vị lại là sư phụ khai tâm về võ cho Xưởng. Thế mà bây giờ người vẫn giữ một chức vụ khiêm tốn là Đại-phu nhạc quan. Phu nhân vẫn chỉ là chức quản lý Đông-cung. Hôm nay, Xưởng lên ngôi vua, sẽ phong cho phu nhân tước công chúa, quản lĩnh cung nga. Còn Đào đại phu phải được phong hầu, thăng lên Thị-lang bộ Lễ.
Hai người nói lời cảm tạ.
Vương nói với các em:
- Chúng ta chia nhau ra, mỗi người tiến vào một cửa. Kiến-Ninh vương tiến vào cửa Tường-phù. Kiến-An vương tiến vào cửa Diệu-đức. Kiến-Tĩnh vương tiến vào cửa Đại-hưng. Còn cửa Quảng-phúc thì ta với Thủ-Huy, Đoan-Nghi tiến vào. Nhớ, dù phải công thành, hay không, cũng cần dàn nghi trượng sẵn, khi vào thành giữ cho uy nghi. Ta không có thị vệ hộ tống, tạm dùng đội thị vệ Đông-cung của Đào phu nhân vậy.
Chư tướng đứng dậy, rời hành doanh, đi điều quân.
Kiến-Ninh vương bàn với Long-Xưởng:
- Từ hơn mười năm nay, bọn lão thần lười biếng, nếu không chống lại chúng ta, thì cũng ù lỳ. Chúng biết ta cầm binh quyền, tương lai anh cả lên ngôi, mà chúng dám chống lại. Tại sao? Vì chúng hiểu rằng phụ hoàng không có chủ trương gì, chúng có thể dựa vào người mà khuynh đảo Xã-tắc. Hồi ấy, bọn gian tế Tống gây ra việc biến loạn, em đề nghị trong lúc hỗn quân, hỗn quan, ta giết sạch bọn chúng đi, để triều đình không có nạn chia hai, chia ba. Anh cả cho rằng sau vụ ấy, thì chúng sẽ kinh hồn động phách mà quay đầu lại. Nếu ta tha cho chúng, chúng sẽ cảm phục, mà giúp ta. Như vậy ta tránh được sự phân hóa nhân tâm. Đại ca thấy không? Chúng thoát được lần đó, bây giờ chúng gây ra vụ tầy trời này. Hôm nay, khi quân tràn vào, ta sai võ sĩ Côi-sơn, Long-biên giết sạch bọn chúng. Như vậy, từ nay không còn bọn hai lòng nữa.
Long-Xưởng nghĩ thầm:
«... Lên ngôi vua, ta không sợ bọn chúng, ngược lại cần bọn chúng. Trong khi đó ta không cần bọn bay, mà phải đề phong bọn bay ».
Tuy vậy vương giả bộ thở dài:
- Nếu em ở vào hoàn cảnh của anh, thì em mới hiểu được cho anh. Em nên biết, bọn đại thần theo Tô, Đỗ, chỉ vì hai di chiếu của phụ hoàng. Hơn nữa chúng là cố mệnh đại thần của phụ hoàng. Anh là tự quân, mà lại giết cố mệnh đại thần, chỉ vì họ thi hành di chiếu của tiên đế, thì sau này ai sẽ tuân chỉ của anh?
Kiến-Ninh vương đành lắc đầu chịu thua. Chờ lúc Long-Xưởng đang luận bàn với chư đại thần ở các trấn, vương gọi Thủ-Huy ra ngoài nói nhỏ:
- Nhị ca! Cạnh nhị ca có đoàn võ sĩ Long-biên, Côi-sơn. Xin nhị ca ra mật lệnh cho chúng, khi ta đánh vào thành, lợi dụng lúc hỗn chiến, giết sạch bọn nịnh quan phản phúc, để trừ hậu hoạn. Nhị ca nghĩ sao?
- Gần đây, đại ca không còn suy nghĩ, hành xử như chúng ta nữa. Những lời đề nghị của chúng ta, đại ca không còn coi trọng. Bây giờ đại ca đã không chịu cho chúng ta giết bọn ăn hại, mà chúng ta ra lệnh giết, thì sau này tình anh em sẽ sứt mẻ. Đệ chịu, không thể nghe lời huynh được.
- Hay thế này! Nhị ca có thể nhờ anh Thủ-Lý, Trung-Từ, Tá-Chu đem theo một ít cao thủ, lợi dụng lúc hỗn loạn giết sạch bọn gian thần không?
- Khó quá!
Thủ-Huy nhăn mặt:
- Từ sau vụ hội nhau trên hồ Tây, anh Thủ-Lý bẻ cung thề không lý gì đến việc triều đình nữa. Cái hôm chị Phương-Lan, Kim-Ngân đi Đồn-sơn cứu đệ là vì có lệnh của ông nội. Hôm rồi anh ấy cùng Trung-Từ, Tá-Chu lên Bắc-cương gặp đệ chỉ với mục đích cứu đệ mà thôi.
- Vậy đệ đành dùng bọn võ sĩ thân tín của đệ làm việc này.
- Không được đâu.
Công-chúa Đoan-Nghi phản đối:
- Anh là người thứ nhì sau anh cả để quy tụ nhân tâm, mà võ sĩ của anh làm chuyện đó, thì dân chúng sẽ bất phục. Em thấy trong các sư huynh, sư đệ của anh Thủ-Huy, thì Phùng Tá-Chu là người khoáng đạt, lại tinh, minh, mẫn cán. Hơn nữa Tá-Chu tuy không chính thức làm quan, nhưng trước đây phụ hoàng đã ban chỉ phong chú ấy là phó Đại đô đốc, để chú ấy dự vào việc đóng chiến thuyền, luyện tập thủy đội. Tất cả binh tướng thủy quân đều tưởng chú ấy là phó đại đô đốc. Chú ấy có thể dẫn một đội võ sĩ, trang phục thủy quân, làm chuyện đó.
Thủ-Huy hỏi lại vợ:
- Em nghĩ rằng Tá-Chu sẽ nghe lời em ư?
- Khổ quá!
Đoan-Nghi than:
- Anh là anh, mà anh không hiểu anh Thủ-Lý, cô Kim-Ngân tí nào cả. Anh Thủ-Lý là người tình cảm, nhưng tính tình đứt khoát ; nói một là một, nói hai là hai. Đối với anh ấy, làm sao cho dân chúng sống an ninh, ấm no là anh ấy vui lòng. Chú Tá-Chu nói năng ồn ào, nhưng lời lời đều hợp đạo lý. Bề ngoài, chú ấy hay vui, hay bông đùa nhưng chú ấy lại là người sủng ái vợ cùng cực. Không một ý nghĩ nào của cô Kim-Ngân, mà chú ấy không chiều theo. Còn cô Kim-Ngân thì tuy cứng rắn, nhưng lại yêu thương anh em vô bờ bến. Anh chỉ cần ngỏ lời với Kim-Ngân, thì cô ấy giúp anh ngay. Cô ấy giúp anh, thì dĩ nhiên chú Tá-Chu phải nhảy vào.
- Được rồi. Hiện Kim-Ngân, Tá-Chu đang có mặt tại Thăng-long. Anh sẽ nhờ cô ấy. Nhưng chỉ lát nữa mình sẽ tấn công rồi, e cô Kim-Ngân ra tay không kịp. Vậy chỉ có thể nhờ cô ấy nhân danh Côi-sơn song ưng giết bọn chúng mà thôi.
Thủ-Huy viết mấy chữ, rồi gọi một tá lĩnh, nguyên là đệ tử của sư thúc Trần Tử-Mẫn:
- Sư đệ mang thư này ra bến Bắc-ngạn, nơi con thuyền của bản phái, trao cho thuyền phu, bảo chuyển cho sư tỷ Kim-Ngân khẩn cấp.
Viên tá lãnh tần ngần, như không muốn đi. Thủ-Huy hỏi:
- Có chuyện gì không?
- Hiện hạm đội Âu-Cơ phong tỏa tất cả thuyền bè, thì sao con thuyền nhà ta di chuyển được?
Thủ-Huy tỉnh ngộ đưa mắt cho Kiến-Ninh vương. Vương phát lệnh bài, rồi cầm bút viết lệnh:
« Phó Đại đô-đốc Phùng Tá-Chu, được lệnh thi hành chỉ dụ cực mật. Võ quan bộ binh từ cấp đô thống, thủy quân từ cấp đô đốc phải tuân theo sự điều động của người ».
Thủ-Huy hi học sĩ Như-Như vào cung, pha thuốc loại hai vào nước trà, ban cho uống. Ba người uống vào, thì bị mê man. Bấy giờ đạo sư chỉ việc sai giam lại, rồi hành sự.
- Cái vụ đánh thuốc mê bọn Long-Xưởng là một thành công của ta. Tại sao cô nương lại bảo rằng đáng hối tiếc?
- Đúng ra, nếu Thái-tử Long-Xưởng, vương phi Trang-Hòa, và Như-Như chỉ luyện nội công Đông-A, thì không bi hại. Nhưng ba người lại luyện nội công Mê-linh, nên mới mê man, song chỉ mê man trong nửa ngày rồi tỉnh lại. Ba người bị trói nằm trong cung Thục-phi, nên biết rất rõ âm mưu của Thục-phi Đỗ Thụy-Châu, với Vân-Đài Trịnh Nam-Phương.
-!!!
Kim-Ngân chỉ vào Minh-Đạo vương, rồi mỉm cười.
- Một sự đáng tiếc nữa là...
Minh-Đạo vương vẫn ôm Mai-Hương trong tay:
- Vừa rồi, khi mới giao đấu với ta, mi âm thầm phóng thuốc loại một cấp phát vào người ta. Ta biết hết. Ta lờ đi, vì ta đã luyện nội công Đông-A. Sau đó, trong khi đấu nội lực, mi dồn thuốc loại hai vào người ta. Ta cũng lờ đi, giả làm như trúng độc, công lực giảm, không đủ sức thắng mi. Ta đợi khi mi hý hửng, không đề phòng, ta dùng Qui-pháp âm dương hút hết công lực mi, rồi dồn Hàn-băng độc vào người mi. Cuối cùng mi bị mất hết công lực, bị trúng độc. Đó là chính mi hại mi. Ta chỉ dùng phương pháp giáo Tầu đâm Chêệt, hay nói khác đi là gậy ông lại đập lưng ông,
-!?!?!?!
- Có gì là lạ đâu? Hôm mi bị sư huynh Tự-Hấp của ta xuất lĩnh Đại-Việt ngũ tuyệt, Vỵ-xuyên ngũ tiên cùng các đệ tử Đông-A bắt mi với hơn trăm đệ tử Hoa-sơn tại tổng đường trên con thuyền đinh lớn. Khám trong thuyền, sư đệ Phạm Tử-Tuệ tìm thấy có rất nhiều bình thuốc. Ngoài những thuốc trị bong gân, gẫy xương, đau nhức, thương phong cảm mạo ra, còn có ba bình thuốc Đoạn-cân Tiêu-phách tán của mi. Phạm sư đệ chỉ ngửi qua là biết ngay. Người nghĩ cách trừng phạt mi bằng cách chế một số thuốc loại một, trao cho ta.
Vương chỉ thiếu nữ áo xanh tên Linh-Linh:
- Linh nhi, con thuật cho y nghe việc con làm đi.
Linh-Linh méo miệng trêu Cương-Trung:
- Trong mấy ngày mi dẫn thủ hạ vào Hoàng-thành áp chế hoàng-thượng, cùng nội cung. Ta đã trộn thuốc loại một của bọn mi vào thức ăn. Cho nên ban nãy chúng ta chỉ cần tung độc phấn loại hai, là bao nhiêu tay chân của mi ngã lổng chổng ngay. Còn mi, thì lúc bố ta đấu với mi, người đã bóp bẹp một viên thuốc loại hai, rồi dồn vào người mi. Vừa rồi bố ta lại dùng thần công truyền loại hai vào cơ thể mi. Bây giờ mi chỉ có thể tự oán mình mà thôi.
Kim-Ngân liếc nhìn Minh-Đạo vương, thấy vị sư thúc nức danh thiên hạ vẫn ôm Mai-Hương trong tay, coi thường mọi sự, nàng mỉm cười trêu ông, rồi nói với Vương Cương-Trung:
- Đạo sư! Thế đạo sư làm thế nào? Vào lúc nào mà bỏ loại thứ nhì của Đoạn-cân Tiêu-phách tán cho sư bá Đặng Phi-Sơn uống?
- Sau khi Đặng trở về Đại-Việt, tôi được gửi sang thay cho sư phụ Thiên-Hư. Tới nơi, việc đầu tiên là tôi theo dõi hành trạng của Đặng. Dịp may tới, Đặng rời Tản-lĩnh về Gia-lâm thăm gia đình. Y vào một nhà hàng ăn uống rồi qua đêm. Tôi bỏ loại thuốc thứ nhì vào thức ăn. Y ăn vào, thấy buồn ngủ. Y đi ngủ. Tôi đột nhập phòng ngủ của y, bắt y mang đi. Lục trong người y có bộ võ phổ chép tất cả tuyệt kỹ của phái Tản-viên. Tôi giết y, rồi quẳng xác xuống sông Hồng.
- Đạo-sư lại nói dối rồi! Tán-cốt Lạc-phách tiêu hồn chưởng chỉ chép chiêu số mà không chép mật quyết. Không có mật quyết, thì sao có thể luyện thành. Đạo sư khai thực đi!
Cương-Trung im lặng không trả lời. Kim-Ngân điểm vào huyệt Bách-hội của y một cái. Y rùng mình hét lên:
- Lạnh chết đi! Giết ta đi!
- Đạo sư muốn con nha đầu này giải khai cái lạnh cũng dễ thôi. Đạo-sư phải trả lời câu hỏi của nó: Làm cách nào đạo sư có mật quyết luyện Tán-lạc-hồn chưởng?
- Tôi giam Đặng, rồi dùng cực hình tra khảo. Y chịu không nổi, phải khai ra. Sau khi tôi luyện xong Tán-lạc-hồn chưởng, thì có người đột nhập nhà giam cứu y. Ái! Lạnh quá! Cho tôi xin viên thuốc chống lạnh nữa!
- Không vội!
Kim-Ngân lại cười:
- Như đạo sư biết, khi luyện thành Tán-lạc hồn chưởng, thì lúc xử dụng, chiêu nọ nối chiêu kia, biến hóa huyền ảo thành một vạn chiêu ; với một vạn chiêu, như thành đồng vách sắt bảo vệ cơ thể. Thế sao đạo sư lại chỉ biết đánh từng chiêu rời rạc, rồi bị sư thúc của tôi đã bại?
- Tôi không biết.
- Đại-hiêp Đặng Phi-Sơn biết rằng không khai hết mật quyết thị sẽ bị đạo sư tra tấn khốn khổ. Vì vậy người khai mật quyết, mà không khai phần biến hóa!
Cương-Trung la lên
- Ta ngu quá! Ta ngu quá! Ta bị tên Phi-Sơn lừa mà không biết. Ta tưởng y bị tàn phế, rồi phóng thích y. Hỡi ơi!
Kim-Ngân hỏi:
- Đạo sư hại sư thái Nghi-Hòa bằng cách nào?
- Ối!Ối lạnh! Cũng tương tự như đối với Đặng Phi-Sơn.
- Tại sao Mao Khiêm cũng biết những mật quyết của Tản-viên với Mê-linh?
- Thì chính tôi trao... Ái lạnh quá..Tôi trao cho y, với ý định cho bọn Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên chiếm chức chưởng môn phái Tản-viên, Mê-linh.
Y hét lên lanh lảnh:
- Ối! Giết tôi đi, lạnh quá.
Sau hai mươi năm xa cách, nhớ thương chồng chất, bây giờ Mai-Hương gặp lại Minh-Đạo vương, nàng không muốn rời người yêu, dù chỉ trong chốc lát, gang tấc. Cho nên nào con gái tự tử, nào tranh luận, nào giao đấu... Nàng đều nhắm mắt, gác mọi chuyện ngoài tai. Bây giờ thình lình nghe tiếng hét như lợn bị chọc tiết của Vương Cương-Trung, nàng mới mở mắt ra. Thấy Cương-Trung ngồi xo ro run lập cập, râu tóc, lông mày không còn. Nàng lên tiếng:
- Sư huynh, cái gì đã xẩy ra cho sư huynh?
- Lạnh quá! Ối. Con khốn nạn kia! Mày nỡ nào âu yếm vthượng thư Trần Trung-Tá:
- Lới cầu khẩn của Tuyên-phi, khanh xem có thể chiều theo được không?
Trước kia Trần Trung-Tá hùa theo phe Tô Hiến-Thành, cúi đầu xu nịnh Tuyên-phi, để có thế mạnh mà giữ vững địa vị. Từ hôm có cuộc nổi loạn, y ẩn trốn trong tư dinh. Bây giờ thấy Long-Xưởng thắng thế, y quay một vòng đổi hẳn thái độ. Được nhà vua hỏi ý kiến. Y tâu:
- Theo Bát-nghị thì Tuyên-phi, Vương Cương-Trung với vợ là Triệu Mai-Hương nằm trong khoản Nghị-thân. Nhưng Bát-nghị lại không tha tội phản nghịch. Thần xin bệ hạ chiếu luật ban cho phi được lĩnh tội xử giảo (thắt cổ). Còn Vương Cương-Trung với Triệu Mai-Hương thì phải tội lăng trì (xẻo thịt).
Thụy-Hương nghe Trần Trung-Tá tâu, nàng nhìn y bằng nửa con mắt, rồi cười:
- À! Thì luật là như vậy đó. Tình đời như thế đó.
Nàng trao Long-Trát cho Thục-phi Đỗ Thụy-Châu:
- Đây! Con của chị đây! Giọt máu của Thiên-cảm Chí-bảo hoàng đế đây. Chị hãy bế lấy đi.
Nàng chỉ các đại thần chủ hòa:
- Các ngươi chỉ là một lũ ăn hại. Khi ta đắc thế thì các người hùa theo. Còn bây giờ, ta thất thế thì các người quay đi. Các người hùa theo ta làm hại Thái-tử Long-Xưởng, chỉ với mục đích lập lên một ấu quân, để các người ngồi yên hưởng thụ, để các người chuyên quyền! Kể từ khi đức Thánh-tông băng, cho đến nay, toàn là ấu quân nối ngôi. Bây giờ, mới có một trừ quân lớn tuổi, các người tìm đủ cách chống đối. Hèn hạ! Ăn hại!
Nàng đưa mắt nhìn Long-Xưởng:
- Nhưng việc đã lỡ rồi, chiếu chỉ ban ra, các trấn, phủ, huyện, xã, thôn đều nhận được. Giờ này, loa của các xã, mõ của các làng đều rêu rao rằng Long-Xưởng là đứa nghịch tử, tham dâm, giết thái giám, cung nga vô tội ; nhất là toan làm nhục sủng phi của phụ hoàng... Thì liệu sau này y có lên nối ngôi vua được không?
Nàng hỏi nhà vua:
- Thiếp xin bệ hạ ban cho môt lời: Bây giờ Long-Xưởng là Thái-tử hay Long-Trát?
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 30 tháng 3 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--