Phần 1: Anh hàng cát
Phần 1 - 4

Đoàn xe cord Bronco của Sứ quán đi đón quan khách bữa tiệc tối đã trở về, đậu nối đuôi trước cổng, đèn pha chiếu sáng rực sân. Những người lính Nùng lạnh lùng kiểm điểm từng người khách theo một bản danh sách.
Bốn ngọn đèn pha ở các tháp canh cũng bật sáng, mỗi ngọn đường kính cả thước và sáng bằng nửa tỉ ngọn nến. Một ngọn chiếu thẳng nơi cổng vào huyên náo, ba ngọn kia quét khắp các ngả quanh Sứ quán sục tìm những kẻ phá hoại.
Cũng trên các tháp canh, những người lính Nùng túc trực bên các ổ đại liên đều tỏ ra rất khẩn trương. Vụ tấn công lần trước mới xảy ra cách đây sáu tháng, vào một  dịp tương tự lần này, trong một buổi liên hoan.
Thiếu tá Ansell bị giết cùng với bốn đội viên thám báo và hai lính Nùng. Những người thoát chết cho đến bây giờ vẫn cười lăn mỗi khi nhắc lại cảnh đại úy Gulliver, hồi đó mới nhậm chức cố vấn đội thám báo tỉnh, trần như nhộng, tả xung hữu đột với khẩu RM ly trí trên nóc nhà. Phải, bây giờ nhớ lại mới buồn cười làm sao!
Kiểm soát tại cổng xong, đoàn xe Bronco lần lượt từng chiếc tiến vào bên thềm biệt thự cho khách xuống, cứ như những chiếc xe limousine tới một buổi chiếu phim đầu tiên ở Hollywood. Tài xế -- những người lính Nùng tức tối miễn cưỡng phải làm việc này -- mở cửa xe cho khách với những cái chào bộ tịch cứng cỏi. Lính thám báo dàn chào, cũng trịnh trọng chẳng kém, ngón tay sẵn sàng trên cò súng M-16.
Toán CIA tỉnh, kể cả Gulliver và Swain, đều đủ mặt trên hàng hiên đón chào. Đóng vai chủ nhà là viên cố vấn trưởng Cameron. Mặt Cameron hồng lên, bóng nhẫy mồ hôi, và có vẻ ngơ ngẩn như hễ khi nào anh đã phải uống rượu quá nhiều. Anh đã ngà say từ bữa ăn trưa.
Gulliver không chút xăng xái đón chào khách. Anh đứng lùi lại phía sau, bên cửa mở vào phòng cộng đồng, một nụ cười xã giao miễn cưỡng trên môi, cũng giả tạo như nụ cười trên mặt một xác chết. Tiếng nhạc phát ra từ các loa trong phòng hòa cùng thuốc phiện anh hút lúc chiều khiến đầu óc anh lãng đãng. Anh như một kẻ ngoại cuộc ngẩn ngơ ngó Cameron cùng những người khác bước tới đón khách với những cái bắt tay xiết chặt, những câu chào đùa nhạt nhẽo, phía sau là những hầu bàn áo trắng, tay bưng khay rượu, miệng cười bứt rứt. Anh cũng có thể ngó lại chính mình như ngó những người khác, cũng chẳng chút hài lòng với cái anh chàng Jake Gulliver lạc lõng này. Anh chưa kịp có thì giờ đi tắm trước khi tới đây, và mùi Kương của Như vẫn còn tỏa khắp thân mình anh.
Một người khách bước tới, và Gulliver miệng cười tay bắt như cái máy, chẳng buồn biết người đó là ai. Anh phải lắc mạnh đầu mới định thần được. Anh đưa mắt tìm một kẻ đồng tình, thế nhưng không thấy Đặng đâu hết. Anh không gặp lại Đặng suốt chiều nay, sau cuộc viếng thăm trại lính thám báo tỉnh cùng với Swain lúc trưa.
Đoàn xe đã được sắp xếp đi đón khách theo thứ tự nhỏ trước lớn sau -- người khách cuối cùng sẽ là tỉnh trưởng, đại tá Minh. Hai người tới đầu tiên là thiếu tá Đỗ, chỉ huy trưởng Cảnh sát Đặc biệt, và thiếu tá Ngọc, chỉ huy Cảnh sát Dã chiến.
Thiếu tá Đỗ, một viên chức cảnh sát lão luyện, từng thụ huấn với Cảnh sát quốc tế Interpol và rất Âu hóa, nóng nảy bước tới trước. Đỗ mặc thường phục trong buổi chiều oi nồng này: quần hàng không nhàu và áo tơ chuối. Một khẩu talther mmK-38 đeo bên thắt lưng, lồ lộ qua lớp áo mỏng. Súng này là do tổng thống Thiệu tặng, và người ta đồn rằng lúc nào Đỗ cũng mang nó bên mình, kể cả khi đi ngủ.
Thiếu tá Đỗ là một người gầy gò với khuôn mặt hắc ám. Cái gì nơi ông ta cũng thưa mỏng. Mũi mỏng, môi mỏng, bộ ria mép thưa kiểu Gilbert Roland(Tài tử điện ảnh), mái tóc thưa chải ngược ra sau, bóng nhẫy kem. Trông thấy Đỗ là Gulliver liên tưởng ngay đến một con vật trơn láng và nguy hiểm, kết quả của một cuộc thử nghiệm sai lạc, lai giống chồn với chó săn.
Thiếu tá Ngọc theo sau, trái ngược hẳn với thiếu tá Đỗ. Dầu trời đêm oi ả, Ngọc vẫn thắng bộ lễ phục hàng len với những nút áo vàng chóe và hàng dẫy huy chương, phần lớn huy chương này là do thiếu tá Ngọc tưởng thưởng cho thiếu tá Ngọc. Quần hồ thẳng nếp nhét trong giày ống của lính nhảy dù Mỹ, đầu đội mũ nồi xanh nhạt, cổ quấn khăn quàng đồng màu. Ngọc đã ra lệnh cấp phát cho tất cả cảnh sát dưới quyền mũ và khăn như vậy, mua bằng tiền lấy trong quỹ trợ cấp thực phẩm của đơn vị. Đỗ giản dị bao nhiêu thì Ngọc vây vo bấy nhiêu, cũng như Đỗ thông minh bao nhiêu thì Ngọc đần độn bấy nhiêu.
Cameron giới thiệu hai viên sĩ quan với Swain, vẫn đứng kèm sát bên ông từ chiều, và Gulliver nghe thấy Swain cười vang sau một câu nói của thiếu tá Ngọc, ngạc nhiên vì biết Ngọc có mấy khi biết khôi hài. Thật ra Swain cười lớn chỉ vì Swain đang sung sướng mà thôi, lăng xăng như chú chó con theo chủ trong một bữa ăn ngoài trời.
Ngọc tự lấy một ly whisky và nấn ná chuyện vãn với Cameron và Swain, trong khi Đỗ, trước nay vẫn chê trách rượu mạnh, lấy một chai coca và đến bên viên cố vấn của mình, Bill Coughlin, hồi trước là thẩm sát viên chuyên về những vụ giết người tại Philadelphia, nay là nhân viên khế ước của CIA. Hai người lảng ra xa và thì thầm với nhau bằng tiếng Pháp -- chắc là bàn thêm về những việc trong ngày.
Người khách kế tiếp là viên cố vấn trưởng toàn tỉnh, đại tá Edward Sloane. "Đại tá" đã giải ngũ từ hơn năm nay nhưng vẫn thích được chào kính theo quân cách. Thiếu tá Ngọc chào ông một cách rất đầy đủ, nghĩa là đập hai gót giày một cái cốp. Nhưng Gulliver không chào ông. Gulliver không mấy ưa những viên cố vấn tỉnh, và lại càng không ưa những viên cố vấn trưởng. Sloane là kẻ bất tài nhất, trong giới dân sự cũng như quân sự Gulliver biết được trong gần bảy năm hoạt động tại xứ này -- hiện thân một thành viên Phù luân hội(Rotary International, một tổ chức cuả các nhà kinh doanh và các nhà chuyên nghiệp, thành lập năm 1907 tại Chicago, với mục đích phục vụ cộng đồng và khuyến khích hữu nghị quốc tế) gửi lầm ra ngoại quốc. Gulliver không sao hiểu nổi một kẻ đã hai lần phục vụ tại Việt Nam mà lại không hiểu biết chút gì về xứ này, về dân tộc này. Dù rằng Sloane suốt hai năm đó chỉ quanh quẩn trong nhà mồ gắn máy lạnh Ngũ giác đài Đông phương, bản doanh MACV tại Tân sơn nhất, điều đó cũng không thể chấp nhận được.
Mình mặc áo Hạ Uy Di sặc sỡ, miệng cười toe toét, Sloane trông giống một du khách tại một buổi hòa nhạc của Don Ho(Ca sĩ Hawai nổI danh trên thế giới) tại quần đảo ấy hơn là viên chức Mỹ cao cấp nhất tại tỉnh này. Ông bước lên mấy bậc thềm, chào mọi người một cách hết sức nồng nhiệt, miệng lại càng cười rộng hơn khi Cameron giới thiệu Swain với ông. Ông giơ tay bắt tay Swain thật chí tình, tay trái lại vỗ vỗ tay Swain nữa. Rồi ông đón một ly gin từ cái khay do một người hầu bưng tới -- cười cả với y -- và thân mật choàng tay qua vai Ngọc. Sloane rất thích Ngọc, như ông rất thích bất cứ người Việt Nam nào nói được tiếng Anh. Như rất nhiều người Mỹ, ông cho rằng hễ nói được tiếng Anh tức là đầy khả năng. Thế cho nên ông nể trọng Ngọc và viên tỉnh trưởng, đại tá Minh, bao nhiêu thì lại coi thường Đỗ bấy nhiêu -- chẳng những Đỗ không nói tiếng Anh mà lại còn làm nhục thêm nước Mỹ bằng cách nói tiếng Pháp.
Gulliver mỉm cười nhìn Sloane chuyện trò thân mật với mọi người. Anh cũng như Bill Coughlin đều biết thiếu tá Đỗ nói tiếng Anh rất thông thạo. Có điều Đỗ không để mấy ai biết, và như thế Đỗ chỉ phải tiếp xúc với những người như đại tá Sloane ở mức tối thiểu mà thôi.
Vừa lúc Cameron bứt rứt liếc nhìn đồng hồ thì chiếc xe Bronco chở viên tỉnh trưởng vượt qua cổng tới đậu bên thềm, theo sát sau là một chiếc jeep chở toán cận vệ, xe không mui có gắn đại liên M-6M đằng trước cũng như đằng sau. Thế là toàn thể các cấp điều khiển chương trình Phụng Hoàng đã đủ mặt tại Sứ quán, ngoại trừ hai người, Chuck Ries, cố vấn Trung tâm Thẩm vấn, tối nay bận hỏi cung một tù nhân, và Đặng, lẽ ra phải có mặt nhưng không biết sao chưa tới. Gulliver nghĩ một quả tạc đạn có thể giết hết cả đám...và cõi đời này sẽ tốt đẹp hơn, an lành hơn.
Ngoại trừ Gulliver và Đỗ, ai nấy đều rộn rịp ra đón viên tỉnh trưởng, kể cả Coughlin cũng bỏ dở câu chuyện với Đỗ để len lách qua đám đông ra tới đầu thềm. Đỗ lại bên Gulliver nơi cửa, hai người liếc nhìn nhau, gượng mỉm cười.
Đại tá Minh luôn luôn tìm cách cho mọi người, nhất là các đồng minh người Mỹ, biết các nhiệm vụ của một viên chức đầu tỉnh nặng nề đến mức nào, cũng như ông tận tụy ra sao thi hành các nhiệm vụ ấy. Vừa là bạn, vừa là đồng chí của tổng thống Thiệu, Minh không cần được người Mỹ đồng ý mới nắm được chức vụ này, nhưng tất nhiên Dinh Độc Lập càng hài lòng hơn khi thấy Minh được người Mỹ tán thưởng. Viên cố vấn của ông, đại tá Sloane, chẳng mấy khi, trong các báo cáo gửi về Sài Gòn, không thêm vào tên ông những từ "không biết mệt là gì".
Để mọi người càng lưu ý rằng một bữa ăn với các bạn Mỹ, dẫu luôn luôn là một nguồn vui, gây khó khăn cho thời khắc biểu nặng nề của ông, đại tá đã thẳng từ văn phòng tới Sứ quán, không ghé về tư dinh thay y phục. Bộ đồ trận ông mặc làm việc thường ngày bó chặt thân hình phì nộn của ông như bó xúc-xích, và quấn quanh vòng bụng thênh thang của ông là một dây đai bằng vải nặng trĩu một khẩu 4R ly tự động. Cũng như khẩu súng của Đỗ, súng của Minh là quà tặng của tổng thống, nhưng để phù hợp với sự khác biệt cấp bậc, bá súng của Minh bằng ngà voi chứ không phải bằng ngọc trai nhân tạo.
Minh nặng nề bước vào giữa những tiếng chào rộn rã, cứ như một vị dân cử chứ chẳng phải một viên chức bổ nhiệm, bắt tay người này người kia, phân phát nụ cười đắc thắng, mấy chiếc răng vàng lấp loáng dưới ánh đèn. Cảnh tượng khiến Gulliver nghĩ tới một viên thủ lãnh mafia dự một đám tang. Anh nhìn Minh cười ha hả, cả thân hình hơn trăm ký rung chuyển, ngoại trừ đôi mắt thầm kín chìm lấp giữa những lớp mỡ trên khuôn mặt tròn vành vạnh. Bộ điệu niềm nở của Minh cũng chẳng khác gì bộ điệu Sloane, nhưng Minh dùng để che dấu trí mình. Trí khôn ranh thì đúng hơn là thông minh, nhưng đối với các chính khách ka-ki Việt Nam, khôn ranh với thông minh thì cũng vậy. Điều chê trách đầu tiên của Gulliver đối với Sloane, đó là viên cố vấn trưởng không thấm vào đâu so với Minh. Có nghĩa là, với Minh, đám người Mỹ còn lâu mới được ngồi xuống, không phải như với Sloane.
Họ đứng ngoài hàng hiên suốt một giờ. Gulliver cầm cả chai bia mà tu, chỉ đáp khi có người gợi chuyện, và chẳng mấy ai gợi chuyện với Gulliver. Đầu óc anh đã tỉnh táo hẳn, nhưng anh vẫn không cảm thấy dễ chịu Kơn chút nào. Anh ao ước được trở lại bên Như, vùi đầu vào lòng nàng để nàng xoa bóp thái dương cho anh, như nàng vẫn thường làm mỗi khi anh hút xong cữ thuốc phiện của anh.
Anh nhớ lại cuộc ân ái bữa nay. Đáp ứng của nàng sôi nổi khác thường. Chắc phần nào vì anh báo tin sắp ra đi. Tai anh vẫn còn văng vẳng tiếng khóc của nàng, như cắt tim anh. Đây là lần đầu tiên anh thấy nàng khóc. Anh ân hận đã không chuẩn bị tinh thần nàng, đã không báo tin một cách gượng nhẹ hơn. Nàng là nghệ sĩ kia mà, mà nghệ sĩ đương nhiên là đa cảm. Nhưng anh không ngờ nàng dễ khích động đến thế. Trước nay, trong hai người, người luôn luôn tự chủ, an ủy người kia, bao giờ cũng là Như. Vả lại, họ cũng chưa từng nói chuyện tình ái bao giờ. Cần nhau để tìm nguồn giải thoát thì có, tò mò và khám phá thì có, nhưng tình ái thì chưa bao giờ. Anh không phải là người lẫn lộn của lạ với ái tình, và nàng cũng vậy. Tới một lúc nào đó không thể có ái tình với của lạ được. Ngay tự buổi đầu, hai người đều nhìn nhân một tương lai chung là điều bất khả cho họ. Anh đến từ một xứ chỉ muốn biết tới tương lai, còn nàng, từ một xứ không dám chắc mình có một tương lai kia nữa. Nàng không muốn đi Mỹ. Còn anh chẳng thể sống mãn đời ở Việt Nam.
Từ bên trong vọng ra tiếng cái chuông chị Ba lễ phép gõ báo tin bữa tiệc đã sẵn sàng, và đám đông nơi cửa từ từ di chuyển đến phòng ăn. Họ bước qua phòng cộng đồng, vẫn nói cười rộn rã, uống cạn ly trên tay, chắc lưỡi nghĩ tới những chai ruợu chát tuyệt hảo trong bữa ăn, những chai rượu chát đã khiến Sứ quán nổi tiếng.
Gulliver đi sau cùng, như một tia lửa rớt lại sau cái đuôi ngọn sao chổi của đại tá Minh. Anh do dự. Buổi tối này chờ đợi rình mò như một con sói đói. Phải chi anh được nằm phục kích ngoài ruộng chứ không phải vào bàn tiệc, nơi một cuộc phục kích khác chờ anh. Đại tá Minh đã lỏ mắt ngó anh, và dù ông chưa nói gì Gulliver thừa biết viên tỉnh trưởng để dành đạn cho đến khi con mồi vô đúng tầm qua món gà nấu chanh. Lúc đó ông ta sẽ cho nổ những câu vặn hỏi chê trách về những chuyến hành quân thất bại, như người cha hiền xỉ vả đứa con hoang đàng, lúc nào cũng với một nụ cười, một nụ cười những lớp mỡ chẳng bao giờ cho lên tới hai con mắt.
Vụ bắt được tù binh mới rồi, cùng những tin tức đáng giá về tiểu đoàn 18-B, hẳn sẽ xoa dịu nhưng chẳng thể ngăn chặn những lời chỉ trích. Minh đang phải thủ thân với Sài Gòn bằng cách đổ trách nhiệm cho đội thám báo -- và người Mỹ cũng vậy, bằng cách về hùa với Minh. Sloane cùng cả đám kia đã tránh né Gulliver suốt buổi tối. Chỉ có thiếu tá Đỗ còn dám mỉm cười với anh, và cũng chỉ là vì Cảnh sát Đặc biệt, cơ quan đề nghị phần lớn các mục tiêu cho đội thám báo, cũng gián tiếp trở thành đối tượng cho miệng lưỡi Minh.
Gulliver vừa đặt chai bia mới cạn một nửa xuống quầy rượu bằng tre và dợm bước qua phòng ăn, thì Đặng vượt qua cửa trước vào phòng cộng đồng. Trông thấy Đặng, Gulliver khoan khoái đến nỗi anh không kịp cười bộ y phục của Đặng -- một cái sơ mi thể thao vải hoa, quần sọc, cùng đôi dép -- mặc dầu Đặng mặc thường phục trông thật ngộ nghĩnh.
"Anh đi đâu bây giờ mới tới hả trời?" Gulliver gắt giọng. "Anh biết tôi cần có bạn thế nào không?"
"Tôi cũng vậy, Anh Hàng Cát à," Đặng đáp, môi cong lên như ăn phải sắt.
"Mà anh đi đâu chứ?"
Một lúc rồi Đặng mới nói: "Thi...hành nhiệm vụ."
"Nhiệm vụ? Nhiệm vụ gì? Thời biểu hôm nay có công tác nào đâu?"
Đặng lại im lặng một lúc trước khi trả lời: "Nhiệm vụ đặc biệt."
"Chúa ơi! Thật hả?"
Đặng nhún vai gật đầu.
Gulliver sôi nổi hỏi: "Ai là con mồi lần này?"
"Thực anh muốn biết sao? Có cần thiết không?"
"Chứ sao...À, không, anh nói phải. Không cần thiết gì. Tôi không muốn biết làm gì. Tôi chỉ muốn bẻ gẫy cái cổ mập thằng cha Minh."
 Đại tá Minh làm gì có cổ," Đặng nói.
Gulliver đã được biết những "nhiệm vụ đặc biệt" của Minh ít lâu sau khi tới tỉnh này. Hết người này tới người khác, những con mồi khó có thể nào là hạ tầng cơ sở của Việt cộng -- một tay tài phiệt Ấn Độ, một thương gia tăm tiếng ở địa phương, một viên tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Nam Cộng hòa -- nhưng tất cả đều phải bị thanh toán.
Những lệnh "đặc biệt" ấy của Minh luôn luôn đưa xuống cùng một lối: đại úy Bích, phụ tá của thiếu tá Đỗ bên Cảnh sát Đặc biệt, tận tay đưa tới trại đội thám báo trong Sứ quán một bao thư trắng gồm một tính danh, một địa chỉ, cùng một tấm hình để nhận diện. Lệnh không bao giờ mang chữ ký.
Chính điểm này hồi đầu đã khiến Gulliver nghi ngờ, nhưng khi anh đem chuyện hỏi Cameron, cặp mắt đỏ ngầu vì rượu của viên thủ trưởng lộ vẻ bối rối: "Ồ, à...đó là...ờ...mẹ nó! Này Jake, đừng thắc mắc có chữ ký hay không nữa. Cứ làm đi, O.K.? Tin tôi đi, hợp pháp đấy."
Gulliver đã vặn lại: "Làm sao lại hợp pháp được? Có cái gì hợp pháp mà lại không có chữ ký? Ai bảo là hợp pháp?"
"Cảnh sát Đặc biệt," George Cameron vẫn tránh không nhìn Gulliver.
"Ai bên Cảnh sát Đặc biệt?"
"Chính viên chỉ huy đó, thiếu tá Đỗ."
Cameron không chịu nói thêm gì nữa, và Gulliver tự đi tìm hiểu lấy, nghĩa là đích thân tới bộ chỉ huy Cảnh sát Đặc biệt trong tòa tỉnh trưởng để gặp thiếu tá Đỗ.
Viên chỉ huy cảnh sát cũng tỏ ra thiếu tự nhiên, nhưng ông xác nhận: "Đây là một lệnh đặc biệt của Trung tâm điều hợp công tác tình báo tỉnh," ông  nói, giơ cả hai tay lên như để tỏ với Gulliver là ông cũng không làm gì hơn được.
"Xin cho tôi xem thẻ chỉ điểm của người này," Gulliver yêu cầu. Theo quy luật chương trình Phụng Hoàng, chỉ cần có ba người khác nhau tố cáo, kẻ bị chỉ điểm sẽ bị coi là hạ tầng cơ sở Việt cộng. Khi có một người tố cáo, Cảnh sát Đặc biệt sẽ lập hồ sơ, một "thẻ chỉ điểm". Thế thôi, không cần điều tra lời tố cáo có giá trị không, không cần điều tra có những động cơ nào đằng sau lời tố cáo đó. Nhưng khi một kẻ bị ba người bất cứ ba người nào -- tố cáo, kẻ ấy sẽ trở thành con mồi cho đội thám báo tỉnh bắt hay thanh toán.
Nghe câu hỏi ấy, cặp mắt thiếu tá Đỗ không yên. Giống như Cameron, ông ta tránh không nhìn Gulliver. Sau cùng ông nói: "Không có thẻ nào cả."
"Phải có thẻ chứ," Gulliver không chịu thôi.
"Không, khi đó là lệnh từ văn phòng tỉnh trưởng trực tiếp chuyển qua Trung tâm điều hợp."
"Tỉnh trưởng?" Gulliver nhắc lại, rồi lặng im một lúc như để chắc chắn mình không nghe lầm. Anh hỏi tiếp: "Lệnh của ông có ai ký không? Vì lệnh tôi nhận được không có chữ ký nào hết."
"Không, tôi chỉ nghe lệnh miệng của Trung tâm điều hợp. Và bên ấy chính họ cũng chỉ nghe lệnh miệng của đại tá Minh."
Gulliver lại lặmg im một lúc, rồi hỏi: "Ông bằng lòng ký lệnh cho tôi không?"
Thiếu tá Đỗ hơi nhíu mày và gượng mỉm cười: "Ông  điên rồi đấy. Dĩ nhiên là tôi không ký."
Gulliver đã ngờ như thế. Anh dứt khoát: "Tôi không thể và sẽ không cho phép bất cứ thuộc viên nào của tôi thanh toán một ai, Việt cộng hay không Viêt cộng, mà chỉ căn cứ vào một lệnh miệng."
"Tôi rất tiếc," Đỗ nói, giọng thực sự ân hận. "Tôi cũng chẳng ưa thích gì chuyện ấy hơn ông, nhưng tôi không thể bất tuân một lệnh trực tiếp của thượng cấp. Và ông cũng vậy."
 Để rồi coi." Gulliver dừng lại khi đã gần bước ra tới cửa, quay lại và hỏi: "Thiếu tá có thể cho tôi hay...con mồi là ai?"
lần đầu tiên viên cảnh sát nhìn thẳng vào mắt Gulliver. Nở một nụ cười nhợt nhạt, ông đáp: "Đại úy à, tôi bảo đảm với ông đó là một người hết sức nguy hiểm. Y là một thương gia cạnh tranh với tỉnh trưởng. Rõ ràng là một đe dọa cho chế độ cộng hòa, một đe dọa phải kết liễu thật nhanh chóng, nDest-ce pas?( Tiếng Pháp trong nguyên tác, có nghĩa: phải không?)"
Gulliver trở về thuật chuyện lại với Cameron, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Cameron nói với anh cũng chẳng khác gì thiếu tá Đỗ: "Tôi cũng như anh vậy, nhưng tôi cũng đành chịu bất lực mà thôi. Lệnh này là từ bên Cảnh sát Đặc biệt, ở đây cho biết đó là lệnh từ Trung tâm điều hợp, ở đây lại cho hay đó là lệnh của tỉnh trưởng. Theo quy tắc, như thế là đủ giá trị cho ta rồi. Người Việt điều động chương trình Phụng Hoàng mà Jake. Việc của chúng ta chỉ là cố vấn...và chấp thuận."
"Con mẹ nó!" Gulliver thét lên. "Chúng nó điều động Phụng Hoàng hả? Không có CIA thì làm chó gì có Phụng Hoàng. Mà quy tắc nào? Như thế là quy tắc hả?"
Cameron khuyên giải: "Thôi mà Jake. Có ai bảo anh phải làm chuyện đó đâu. Tôi biết đã có thỏa thuận khi anh về đây là anh sẽ không bao giờ phải nhúng tay vào những việc như thế nữa. Anh nói với Đặng chỉ việc chọn một hay hai người và giao việc cho họ. Nhưng việc ấy phải thi hành. Dứt khoát đấy. Anh không lo thì tôi cũng phải lo."
Gulliver đã quay gót toan xô cửa đi ra thì Cameron gọi anh lại: "Với lại, anh bực bội chuyện không có thẻ chỉ điểm phải không? Cho anh hay, thiếu tá Đỗ đã điện thoại ngay sau khi anh rời văn phòng y. Y nhờ tôi nói với anh là đã tìm ra thẻ, có đủ ba chữ ký đó."
"Trời đất, sao mà nhanh thế! Dễ dàng quá nhỉ! Họ bắt ai ký vậy?"
Cameron cười gượng và nhún vai. "Thì ba anh cớm gác đường nào đó chứ gì. Nhưng thế là được rồi, Jake
à."
Gulliver đã giao cho Đặng chọn hai đội viên thám báo đi giết người. Sau đó anh thảo một tờ trình để gửi về "Trung ương cao bồi" ở Sài Gòn, cùng một bản sao gửi viên giám đốc của cơ quan ở Cần Thơ, thuật rõ ràng mọi sự kiện và khuyến cáo điều tra các tệ lạm của chương trình Phụng Hoàng trong tỉnh. George Cameron từ chối chuyển tờ trình của anh.
Hai tháng sau, khi đại úy Bích lại xuất hiện với một bao thư khác, một "nhiệm vụ đặc biệt" khác, lần này kèm thẻ chỉ điểm có đủ ba chữ ký, Gulliver nhất định không chịu nhận nữa. Anh lại phản đối với Cameron và lại viết một tờ trình thứ hai. Tờ trình này lại cũng thành mồi cho cái máy hủy tài liệu, rồi biến thành tro khói từ lò thiêu trên mái tỏa lên trời. Lần ấy, Cameron phải đích thân xếp đặt mọi chuyện với Đặng.
Gulliver đã nhất quyết tìm cho rõ ngọn ngành. Anh lục vấn các đội viên thám báo cũng như các cố vấn khác, và khám phá ra rằng đội thám báo tỉnh vẫn luôn luôn là bầy Ưng Khuyển đi cướp bóc, tống tiền cho tỉnh trưởng. Trước Minh cũng đã thế, và sau Minh rồi cũng sẽ vẫn thế mà thôi. Trên khắp nước Việt Nam đều như vậy. Gulliver biết được quá đủ về đội thám báo tỉnh cũng như về chương trình Phụng Hoàng.
Anh biết được các đội thám báo tỉnh là hậu thân của các đơn vị "phản khủng bố" thành lập hồi giữa thập niên RM dưới chế độ Diệm, do các cố vấn CIA điều động. Sáng kiến hay ho đó -- chơi trò của Việt cộng để đập Việt cộng -- dùng những chiến thuật rất giản dị: đột kích các ấp Việt cộng, tra khảo dân quê, ám sát các thủ lãnh Việt cộng bị nhận diện.  Và chương trình đem lại nhiều kết quả. Nhờ sự lưu động cũng như không bị ràng buộc bởi các hạn chế đạo đức, các "đơn vị phản khủng bố" có lợi thế hơn hẳn các cuộc càn quét quân sự quy ước.
Và các đơn vị đó lại càng hăng hái ra tay khi CIA treo giải hạ các "mục tiêu", và mặt khác, phó mặc cho họ cướp bóc. Thái độ phủi tay của bọn ma quỷ khiến họ cho rằng chẳng có luật lệ nào nữa hết, và thế là nhũng lạm ngày càng nhiều. Thay vì giải về các kẻ tình nghi Việt cộng, họ bắt đầu tống tiền những người này. Ai nộp tiền thì sống, ai không thì phải chết ngay tại chỗ. Trò này hết sức thành công cho nên cả những người không hề bị tình nghi cũng bị dính líu; vì cuối cùng, một thương nhân giàu có nhất định phải là hạ tầng cơ sở Việt cộng nếu đó là báo cáo của đơn vị "phản khủng bố". Thế rồi đơn vị chỉ chịu trách nhiệm trước tỉnh trưởng mà thôi, các tỉnh trưởng ngày càng trở nên giàu có, bỏ túi những số tiền cướp được, chỉ chia một phần cho các đơn vị đủ giữ họ trung thành.
"Quả đó là một thời tàn bạo, Jake ạ, một thời bưng tai bịt mắt," George Cameron đã nói với anh. "Ta biết, và địch cũng biết, nhưng ngoài ra không ai biết hay muốn biết cả, và thế là mọi chuyện đều trôi chảy."
Vào năm 1967, sau bao nhiêu năm bưng tai bịt mắt, mọi chuyện không còn trôi chảy nữa. Thay vì khiến Việt cộng khiếp sợ mà xa lánh dân chúng, các đơn vị "phản khủng bố" đã khiến dân chúng khiếp sợ mà xa lánh chính phủ. Báo chí Sài Gòn bắt đầu lên tiếng, và khi các đơn vị "phản khủng bố" bị tố cáo tại Quốc hội là một "băng sát nhân", CIA vội vã "giải thể" các đơn vị này, đổi tên thành các đội thám báo tỉnh, và âm thầm sát nhập vào chương trình Phụng Hoàng mới lập.
Chương trình Phụng Hoàng là con đẻ của một kế hoạch mới của CIA nhằm cứu vãn Việt Nam, nhằm bứng gốc Việt cộng bằng chiến thuật phản khủng bố, và mặt khác cấy rễ chính phủ bằng những dự án xây cất công ích. Mang tên Công tác dân sự và Yểm trợ phát triển nông thôn, kế hoạch có mục đích bắt sống các cán bộ Việt cộng để khai thác tình báo. Nhưng lại một lần nữa, mục đích đó quá nặng nề cho người Việt. Vấn đề tiên khởi đặt ra là: một kẻ như thế nào phải coi là cán bộ Việt cộng? Một viên xã truởng có lúc phải hoạt động cho địch, thường là vì áp lực? Hay chỉ những đảng viên cộng sản nòng cốt? Các đội thám báo tỉnh có nhiệm vụ thực hiện chương trình Phụng Hoàng, giải quyết bằng cách không phân biệt gì hết, bắt bất cứ ai có thể tình nghi. Đến khi các nhà tù đầy ngập rồi thì họ lại càng tự tung tự tác.
Chẳng bao lâu chương trình Phụng Hoàng cùng các đội thám báo tỉnh cũng mang tiếng xấu y hệt các đơn vị phản khủng bố, ngay cả trong nội bộ CIA. Thế là CIA khởi sự chối bỏ con quái vật chính mình đã đặt ra. Khi Nế hoạch Việt Nam hoá bắt đầu, Langley cử sang một viên trưởng cơ quan mới, Tom Scott, với huấn lệnh rút công ty ra khỏi chương trình Phụng Hoàng. Người Việt sẽ nắm hết, và quân đội Mỹ sẽ cố vấn họ. Cho nên các Sứ quán đóng cửa dần, và Swain được bổ tới thay thế Gulliver.
Hồi còn ở Lực lượng Đặc biệt, Gulliver đã từng nghe đồn vài chuyện rùng rợn về các đội thám báo tỉnh, nhưng anh không thể ngờ được sự thực cho đến ngày chính anh chứng kiến trong lần đầu lên đường với tư cách cố vấn của một đội thám báo. Đó cũng là lần lên đường đầu tiên của viên đội trưởng mới -- đại úy Đặng, vừa thuyên chuyển tới từ vùng biên giới Miên, nơi anh cầm đầu một toán tiền đạo gồm toàn hồi chánh viên của một sư đoàn bộ binh Mỹ. Trong chuyến công tác đầu tiên đó, cả hai người đã phải sửng sốt vì tình trạng thiếu khả năng và thiếu kỷ luật của đội thám báo, và họ thiếu chút nữa thì ói mửa vì những gì họ chứng kiến.
Nhiệm vụ của họ bữa đó là tóm và diệt hai cán bộ thâu thuế của Việt cộng lẩn lút tại một ấp thuộc quận Huệ Đức. Cứ theo tài liệu thẩm tra các ấp, đây là một ấp loại B, nghĩa là ấp thực sự do chính phủ Sài Gòn kiểm soát. Nhưng, một lần nữa, tài liệu ấy sai bét. Đội thám báo mười người đã phải chiến đấu cật lực hai lần, để vô ấp khi họ tới sau nửa đêm, và để rút ra khi họ triệt thoái trước bình minh. Tuy nhiên, giữa hai thời điểm đó, trước khi Việt cộng kịp tập trung lại và tăng viện, đội thám báo đã làm chủ ấp.
Họ đã mau chóng tìm ra và hạ sát hai con mồi. Rồi, trước khi Gulliver và Đặng kịp hiểu, đội thám báo hoá nên như điên như dại. Họ dày xéo cái ấp nhỏ bé cứ như một đám kỵ binh Mông Cổ, tràn từ túp nhà này qua túp nhà khác, cướp giật bất cứ cái gì đáng giá. Ai phản đối là họ giết ngay. Họ cưỡng bức đàn bà, bắn giết trâu bò.
Gulliver cùng Đặng cũng chạy hết từ túp nhà này đến túp nhà khác, nắm tóc, đá đít tàn bạo các đội viên thám báo để tống họ ra ngoài. Cả đám bị nắm đầu lùa về giữa ấp và được lệnh xếp hàng trước viên trưởng ấp run rẩy, nức nở vì kinh hoàng và căm hận. Dân trong ấp đứng sau ông không ngớt lồi nguyền rủa, có người nhặt đá ném.
Gulliver cảm kích Đặng đã giúp mình tái lập trật tự, nhưng chỉ sau khi đám thám báo đã tập họp lại rồi ngơ ngác và vấy đầy máu nạn nhân của họ -- anh mới có dịp đánh giá trọn vẹn người đội trưởng mới.
Khi Gulliver thôi la hét -- bằng đủ mọi tiếng Việt tục tĩu anh biết được -- Đặng lôi ra hai người, bắt họ quỳ xuống trước mặt viên trưởng ấp. Một người đã đè xuống cưỡng bức một bé gái mười tuổi. Người kia, trong khi chờ lượt mình, đã dùng thanh K cắt họng ông bố la hét cầu cứu.
Hai gã ngơ ngác gượng cười, không hiểu tại sao họ bị chọn làm gương, liếc nhìn nhau cố đoán mình sẽ bị trừ lương bao nhiêu -- lối phạt của người đội trưởng trước, đại úy Thành. Người đội trưởng mới, đại úy Đặng, không nói lời nào, kề ngay súng bắn vỡ sọ gã thứ nhất.
Gã thứ hai, bàng hoàng, há họng trân trối ngó óc vọt ra từ cái lỗ lớn trên đầu bạn đồng đội. Rồi y vụt sụp xuống, chắp cả hai tay vừa khóc vừa lạy Gulliver: "Đại úy, tha cho tôi! Chúng tôi làm gì nên tội?" Gulliver chưa kịp trả lời Đặng đã nổ súng lần nữa, làm văng cả óc gã này khắp trên người viên trưởng ấp. Dân làng, thỏa mãn, hoan hô vang dội.
Gulliver không tán thành lối xử án tức thời đó của Đặng, nhưng anh hiểu và không bao giờ nghi ngờ nó không kiến hiệu. Mấy tuần sau đó, anh và Đặng tận lực huấn luyện đội viên của họ. Tuy một vài kẻ tỏ lộ ít nhiều bất mãn, hai người không còn phải gặp những chuyện rắc rối như lần đầu xuất quân đó nữa. Ai buông lời ta thán lương không đủ sống, hô hào trở lại với những lề thói cũ, kẻ ấy sẽ lập tức được gửi trả về Sài Gòn, về khám Chí Hoà, nơi y ngồi tù vì tội sát nhân trước khi được phóng thích sung vào đội thám báo tỉnh. Thế là không còn ai công khai chống đối nữa.
Gulliver không có cách nào biết được đại tá Minh dính líu hay không tới những vụ tống tiền của đội thám báo tỉnh, và anh đã chờ xem có áp lực nào của thượng cấp hay không. Nếu Minh có dính líu, những tiêu chuẩn hoạt động mới hẳn tác hại không nhỏ tới nhịp thâu tiền của ông ta.
Có lẽ vì ông trong sạch, nhưng chắc đúng hơn vì ông vô cùng khôn khéo, viên tỉnh trưởng không tỏ thái độ gì hết. Ngoại trừ một cái nhìn cay độc mỗi khi gặp mặt, Gulliver không bị rắc rối nào với đại tá Minh. Cho đến ngày đại úy Bích bắt đầu mang tới Sứ quán những bao thư không chữ ký.
Gulliver đã toan qua mặt Cameron về vụ những "nhiệm vụ đặc biệt" này của Minh nhưng cuối cùng lại thôi. Suốt đời binh nghiệp của anh, anh chưa từng cạn tàu ráo máng với thượng cấp. Mặt khác, anh ngờ rằng cả viên giám đốc CIA tại Cần Thơ cũng như phân bộ công tác ở Sài Gòn đều dư biết mọi chuyện này. Bennett Steelman hành động tệ hại thế nào đi nữa, hắn cũng không phải là thằng ngu. Cameron hẳn đã thu xếp với Hắn.
Và thế là Gulliver đành gậm nhấm những ngờ vực của mình. Anh không viết thêm tờ trình nào nữa vì Cameron nhất định không chuyển. Nhưng anh cũng không chịu nhận bất cứ bao thư nào của đại úy Bích nữa. Khi Bích lại xuất hiện, anh từ chối không nhận, và Cameron lại phải thu xếp mọi chuyện với Đặng.
Sau đó thì Gulliver hoàn toàn không phải biết tới những bao thư "đặc biệt" ấy nữa. Theo chỉ thị của Cameron, đại úy Bích tới trực tiếp gặp Đặng. Đặng chẳng bao giờ hé môi, và mặt khác chẳng hề có văn kiện lưu trữ, cho nên đến giờ này Gulliver cũng chẳng biết đã có cả thảy bao nhiêu "nhiệm vụ đặc biệt". Tất cả những gì anh biết, đó là thỉnh thoảng Đặng lại âm thầm biệt tăm, có khi vài ngày, có khi vài giờ.
Như buổi chiều hôm nay.
Anh quả quyết bảo: "Tôi cóc cần biết. Thấy mặt anh là đủ tôi vui rồi."
Anh không chê trách Đặng. Chút ít anh biết về quá khứ bạn anh cũng đủ cho anh thấy nỗi day dứt của riêng anh chẳng nghiã lý gì. Cho tới nay Đặng đã sống còn được trong một thế giới cay nghiệt, một thế giới binh lửa từ khi anh chưa lọt lòng mẹ và hẳn sẽ vẫn binh lửa ngày anh từ giã cõi đời. Đặng chưa hề biết một cuộc sống nào khác. Nhưng anh không khủng hoảng tâm thần vì thế, anh cắn răng chịu đựng; anh không thắc mắc với mọi nhiệm vụ, anh hoàn thành các nhiệm vụ ấy. Đặng là một quân nhân, một người chuyên nghiệp, và những người chuyên nghiệp không viết tờ trình về các mệnh lệnh nhận được. Họ thi hành lệnh. Đúng y.
Gulliver đoán mọi chuyện đối với Đặng không có gì là phức tạp cả. Trong một cuộc chiến kéo dài đã ba mươi năm và rất có thể còn tiếp tục ba mươi năm nữa, mọi chuyện đều chỉ quy vào chuyện sống còn, và Vống còn thì dễ dàng hơn hết cho những ai nhìn đời tách bạch hai màu đen trắng. Gulliver biết rằng với Đặng không có gì mang màu xám cả. Màu xám là màu của tự dung, của yếu lòng, một màu nguy hiểm một màu dân sự.
Nhiều khi Gulliver ao ước nhìn đời một cách đơn giản như Đặng, như chính anh một thuở nào. Mà tại sao lại không kia chứ? Nói cho cùng, họ đâu phải là dân sự. Họ đều là quân nhân chuyên nghiệp, và niềm kiêu hãnh của một người chuyên nghiệp là cây cột chống đỡ tình bạn của họ. Ngoài ra họ lại rất giống nhau, trong thao cách hoạt động chẳng hạn, họ đồng điệu đến nỗi trong rừng họ cũng chẳng cần dùng tay ra dấu cho nhau. Họ hiểu nhau như do thần thông cách cảm, và điều này lại càng khác thường vì mỗi người đều quen hoạt động đơn thân độc mã.
Nhưng chiều nay thì quả Đặng trông không có vẻ gì là một quân nhân chuyên nghiệp cả. Gulliver không nín được lâu hơn nữa. Anh cười vang: "Trời đất! Đặng ơi là Đặng! Mặc bộ quần áo này trông anh in như một chú hề!"
Đặng nhìn xuống cái áo sặc sỡ của mình. "Người ta bảo tôi mặc thường phục," anh đáp, thờ ơ. "Tôi chỉ có bộ này mà thôi."
Gulliver lại cười. "Và tôi cũng chỉ có anh cứu tôi trong lúc này. Có lẽ lão Minh mập mải cười bộ quần áo của anh mà sẽ quên hành tôi. Nhưng thôi, đến lúc mình phải vô với họ rồi. Anh đi với tôi."
Anh kéo Đặng tiến vô phòng ăn.
Nếu đó chỉ thuần là một buổi tiếp tân hẳn sẽ có mặt phái nữ. Ở Sứ quán này, điều khác thường là chỉ có một phụ nữ lưu trú thường xuyên, một thiếu phụ trung niên xinh đẹp Coughlin đã đưa từ Huế vào. Nàng tên Tuyết, và người ta đồn thuở thiếu thời nàng từng là ái thiếp của hoàng đế Bảo Đại. Thế nhưng công việc là ưu tiên cho nên bữa nay Tuyết dùng cơm một mình trên phòng Coughlin.
Với tư cách chủ nhà, Cameron ngồi ở một đầu bàn, và vị thượng khách, đại tá Minh, ngồi đầu bàn bên kia. Gulliver được dành chỗ giữa Coughlin và thiếu tá Ngọc. Anh đã hy vọng len vào chỗ mình không ai để ý tới, nhưng anh vào sau nên viên tỉnh trưởng phải ngưng màn độc thoại của ông, và ai nấy đều nín lặng cho đến khi anh ngồi yên chỗ. Rồi Minh mỉm nụ cười ngọt xớt và nói bằng tiếng Anh the thé đặc biệt của ông ta:
 Đại úy tới chưa muộn đâu!"
Trước khi vào chỗ ngồi đối diện với Gulliver, Đặng dừng lại bên ghế viên tỉnh trưởng thì thầm một câu. Minh cười nụ, gật đầu thoả mãn, rồi tiếp tục câu chuyện dở dang của mình, kể những lời tiên đoán của mấy thày bói trong tỉnh về Tết này có tổng công kích nữa hay không.
"Thày chiêm tinh của tôi nói Tết năm nay sẽ không có chuyện gì hết," lời Minh. "Vi-xi lần rồi thiệt hại nặng nề. Không còn đủ mạnh làm một cú nữa đâu. Vi-xi hết thời ở miền tây rồi."
Sloane ngồi bên cạnh vui vẻ nói: "Đại tá đừng để mất ông thày bói này. Y giỏi đấy. Bên tình báo Mỹ nói cũng không khác gì. Y mà muốn đi làm thì tôi có thể kiếm cho y một chân trong J-2(Phòng Nhì, bộ phận tình báo trong quân đội ) ở Sài Gòn."
Minh cười độ lượng. "Tôi cho y bố cu tiền. Tội gì y lại bỏ đi lãnh lương bên quân đội chớ!"
Mọi người đều cười tán thưởng, trừ Gulliver và Đặng. Viên tỉnh trưởng hỏi: "Đại úy Gulliver không tin bói toán phải không?"
"Thưa không," Gulliver rắn rỏi trả lới.
"A! Có lẽ vấn đề của ông là ở đó đó."
Gulliver nén tiếng thở dài, rồi quyết định tốt nhất nên giả bộ ngây ngốc. "Vấn đề nào kia, đại tá?"
"Vấn đề ông gặp phải trong khi thi hành nhiệm vụ ở đây," Minh đáp, vẫn tươi cười. "Có lẽ tôi sẽ bảo ông thày của tôi đến gặp ông mỗi khi ông đi bắt Việt cộng. Y có thể cho ông hay khi nào nên ở nhà, nếu đi chỉ mất thì giờ."
Gulliver không nói gì.
"Ông mất bố cu thì giờ, phải vậy không, đại úy?" Minh lại gặng, vẫn cười, và nhìn khắp quanh bàn dò chừng phản ứng của những người khác. "Sáu lần trong ba tháng, nếu tin tức của tôi đúng. Mà tôi chắc là đúng."
Gulliver phân vân không biết nên cam chịu hay là lên tiếng tự bào chữa. Không một ai tỏ ra muốn, hay có thể, giúp anh. Coughlin chăm chỉ múc từng muỗng súp đưa lên miệng, rõ rệt hy vọng không ai lại vụng về đi nhắc Minh rằng chính Cảnh sát Đặc biệt đã chỉ định những con mồi ấy, những con mồi đã mất tăm khi đội thám báo tới lùng bắt. Thiếu tá Đỗ, người ai nấy đều tưởng không biết một tiếng Anh nào, ra bộ ngẩn ngơ. Thiếu tá Ngọc, biết tiếng Anh, thì ngẩn ngơ thực sự. Phần đại tá Sloane, ông đang nghĩ kỳ tới báo cáo về Sài gòn chắc ông nên bày tỏ mối quan tâm sâu xa về các thất bại của đội thám báo tỉnh, như thế là yên thân. Còn Swain cố giấu không xong một nụ cười sau tấm khăn, rõ rệt vui thích Gulliver bị khó dễ.
Duy có Cameron biểu lộ thiện cảm chân thực. Nói của đáng tội, viên cố vấn trưởng nát rượu nhưng hiền, đa cảm, một thứ người ướt át. Hễ say là anh hết còn làm bộ khinh bạc, nhưng lộ rõ mềm yếu tội nghiệp. Rượu vào là anh trở thành người giảng hòa, càng uống anh càng sợ mọi xung đột. Trái với phần đông mọi người là như thế.
Thế thì Cameron nở nụ cười dàn hòa và tìm cách cứu vãn thuộc viên của anh cũng như buổi tiệc của anh. "Coi, lần rồi quả họ đâu quá tệ, phải không, đại tá? Hay lắm đấy, Jake ạ...với Đặng nữa."
Gulliver nhìn Cameron một cách biết ơn. Còn Đặng thản nhiên như không. Anh ngốn món chả giò hết chiếc này tới chiếc khác. Viên tỉnh trưởng chẳng bao giờ đả động tới anh những khi chê trách đội thám báo. Mặc Gầu chính anh là đội trưởng. Những "nhiệm vụ đặc biệt" của Minh chưa bao giờ bị hỏng -- Đặng chưa bao giờ để xổng con mồi, hệt như các sê-ríf trong phim cao-bồi Mỹ mà Minh rất mê thích. Mặt khác, Minh nhất định cho rằng bí mật bị tiết lộ là từ trong Sứ quán, kết luận độc đoán ấy khiến thuộc hạ của ông không ai bị nghi ngờ cả. Lại không muốn chỉ trích Cameron -- một viên chức CIA nhà nghề, có tiếng nói trong việc tài trợ chương trình Phụng Hoàng -- Minh quyết định chĩa mũi dùi vào Gulliver, chỉ là một quân nhân ký khế ước với CIA. Và Minh cũng biết Gulliver đã từng tìm cách phá các "nhiệm vụ đặc biệt" của ông.
Rượu whisky đắt tiền cùng rượu chát hảo hạng khiến viên tỉnh trưởng hào hứng. Ông quyết định chấp nhận lời cầu hòa của Cameron. " Ông Cameron nói phải đó. Nếu ta tìm và diệt được tiểu đoàn 18-B thì đại úy Gulliver không phải đã chỉ mất thì giờ. Mốt thì ta sẽ biết há?"
Chị Ba và chị Hai bưng lên các món kế tiếp: thịt heo, rồi tiết canh, rồi, hợp với khẩu vị người Mỹ hơn, bò bảy món. Thực khách chuyện trò vui vẻ, không ai nhắc tới những thất bại của đội thám báo nữa. Hồi đầu tuần đại tá Minh có về Sài Gòn tham khảo với tổng thống, và ông kể lại vài chuyện đồn đại vô tội vạ trong dinh Độc Lập, cũng như thẩm định của tổng thống về tình hình chiến sự tại Vùng IV chiến thuật, làm như những người hữu trách tại vùng này chẳng ai biết thẩm định cả. Dĩ nhiên là, so với tình hình sôi động trên cao nguyên và tại Vùng I gần khu phi quân sự, cuộc chiến lắng dịu tại vùng đồng bằng.
Họ vừa dùng xong đồ tráng miệng -- vải và đu đủ thay vì, như đám thực khách người Việt mong đợi, càrem Mỹ Sứ quán đem từ Sài Gòn xuống -- thì Chuck Ries bước vào. Trông anh mệt mỏi rũ rượi. Từ bữa Đặng và Gulliver bắt được tên cán bộ Việt cộng đem về, Ries hầu như túc trực ngày đêm tại Trung tâm Thẩm vấn tỉnh, giám sát các cuộc thẩm vấn và ngủ ngay trên một chiếc chiếu trong phòng bên. Trong số các viên chức CIA bổ nhiệm đến Sứ quán này, Ries là người lý tưởng nhất, nhưng anh, sau Gulliver, lại có phần việc khó thương nhất.
"Sao, tối nay kết quả ra sao?" Cameron hỏi.
"Chẳng ăn thua gì hết," Ries đáp, kéo ghế ngồi và với tay lấy một tách cà-phê. "Thật may mà ta bắt được mớ tài liệu đó trên người y, chứ tôi không tin ta khiến được y khai thêm gì nữa. Tôi chưa từng thấy một ai chịu đựng được tra khảo như thằng cha này. Y thật chì."
"Thiếu gì cách làm cho chì mấy cũng thành gà chết," viên tỉnh trưởng xen vào, cười với Ries, chiếc răng vàng loáng lên dưới ánh đèn.
Ries lắc đầu: "Tôi biết hết mọi cách, thưa đại tá. Không ăn thua gì với thằng cha này đâu."
"Tra khảo đến mức nào?" Cameron hỏi, hai mắt ướt chớp chớp, rõ rệt mong không có câu trả lời. Gulliver ngẩn người mà thấy rằng một anh chàng Cameron tỉnh rượu có thể không chút ngần ngại chấp nhận các "nhiệm vụ đặc biệt" của tỉnh trưởng, trong khi một anh chàng Cameron ngà ngà say chỉ mới nghĩ đến bạo lực đã phát run rồi.
"Chúng tôi không đánh đập gì y đâu." Ries đáp. "Biết cách thì đâu cần dùng trò đánh đập."
"Thế ông đã dùng những cách gì, ông Ries?" Minh hỏi.
 Đủ mọi cách, thưa đại tá. Chúng tôi bắt đầu bằng phương pháp Ả-rập rồi cứ thế tiếp tục."
Swain cất giọng lanh lảnh: "Phương pháp Ả-rập là làm sao?"
Ries bấy giờ mới nhìn đến Swain, và hai mắt anh láo liên sau cặp kính. "Chúa ơi!" Anh quay lại ngó Cameron. "Cha nội này là ai vậy? Y có quyền nghe những chuyện này không?"
"Yên trí, Chuck. Harry Swain đó. Sẽ thay thế Jake cho MACV khi ta chuyển giao. Giờ thì cũng là công ty cả."
"Vậy hả, chào mừng anh nhé." Hai người nhoài qua bàn bắt tay nhau, rồi Ries nói: "Theo quy luật MACV thì anh sẽ không được dùng phương pháp này, Harry ạ, nhưng anh đã hỏi thì tôi cũng cho anh hay. Thế này nhé: lột hết quần áo tù nhân, bịt mắt y lại, và trói y vào một cái ghế không nệm đặt giữa một căn phòng không tiếng động nào lọt vô được. Rồi bỏ y ngồi đó nửa ngày trời."
Swain lộ vẻ thất vọng. "Như thế thì có gì là ghê gớm?"
Ries mỉm cười thương hại. "Sau bốn hoặc năm tiếng đồng hồ thì tù nhân bị hoàn toàn mất định hướng. Các giác quan của y không tiếp nhận đưộc gì hết. Cái khó chịu lúc đầu thành nhức nhối, thành khổ sở, rồi không còn là gì hết, chỉ còn là vô cảm giác. Rồi tù nhân sẽ tưởng như mình trở về nằm trong bụng mẹ. Đúng lúc ấy ta sẽ rón rén bước vào và dùng giọng thật dịu dàng, vỗ về mà hỏi y. Y sẽ chẳng thể hiểu được tiếng nói của ta từ đâu tới. Tiếng nói như thể tới từ khắp nơi và đồng thời chẳng từ nơi nào cả. Như thể từ trong đầu y, từ trong hồn y mà ra. Y sẽ tưởng y một mình đối diện với Thượng đế."
Swain lộ vẻ hoài nghi, và Ries, mỉm cười hồn nhiên, nói tiếp: "Một kỹ thuật như thế kiến hiệu hơn ngàn lần những trò như là rút móng tay đấy, Swain ạ."
Swain gượng cười. Quả thật anh đang nghĩ tới những "trò" ấy. Nhưng anh vẫn không tin. "O.K, nhưng anh vừa nhìn nhận thất bại đó thôi," anh cãi.
Ries ủ dột gật đầu. "Thực tôi không sao hiểu được. Phương pháp Ả-rập trước nay bao giờ cũng kiến hiệu. Vậy mà, lúc tôi trở lại bắt đầu hỏi han y, y vẫn mắt sáng như sao, miệng câm như thóc, hệt như sáu giờ trước đó. Thực lạ lùng!"
"Các anh thử những cách nào nữa?" Cameron hỏi.
Đủ hết. Kiểu Cuba, kiểu Tàu, kiểu Nga, cả những mẹo tụi Pháp xài ở Algérie nữa. Này George, tụi tôi đưa thằng cha đó đi vòng quanh thế giới bằng tám mươi lối rồi đó."
Mọi người đều cười, nhưng thực ra Ries không hề muốn khôi hài. Anh thối chí thực sự. Điều đó cũng tất nhiên thôi. Anh là một thanh niên đầy nhiệt tình, mới hai mươi sáu tuổi, gầy gò mà bồng bột, vẫn còn hay nói những lời như là "lý thuyết domino", "vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ", "lòng dân", vân vân. Cho nên anh gần như không thể nào chịu đựng được mỗi khi nước Mỹ hay là lề lối huấn luyện của công ty khiến anh thất vọng.
"Vậy anh tính xử trí sao với y bây giờ?" Gulliver hỏi.
Ries nhún vai. "Mấy vị bên Trung tâm tối nay sẽ thử một số phương pháp...ờ, trực tiếp hơn. Cũng sẽ chẳng ăn thua gì, nhưng họ vẫn muốn thử. Rồi chúng tôi sẽ gửi y về Sài Gòn mặc trên đó quyết định."
"Sao anh không dụ y hồi chánh đã?" Gulliver nói. "Cha nội này xem ra xung vào đội thám báo được đấy. Mà thực, y có vẻ không khác gì đại úy Đặng đây."
Ai nấy đều cười, kể cả viên tỉnh trưởng. Tất nhiên ngoại trừ Đặng, nhưng cả Đặng cũng mỉm cười theo lối của anh, cặp mắt đen loáng lên phía trên đôi môi bất động.
Khi họ qua phòng cộng đồng họp thiết kế thì đã quá nửa đêm. Nhưng trước khi họp Cameron đem quà tặng ra phân phát. Minh và Ngọc mỗi người một cây thuốc lá Marlboro, và Đỗ một cây thuốc Gauloise. Họ châm thuốc hút và kéo ghế ngồi chung quanh bàn xì-phé.
Gulliver, chịu trách nhiệm thiết kế, đề nghị tránh rườm rà: chỉ hai toán mà thôi, mỗi toán mười người, một do Đặng chỉ huy, một do chính anh chỉ huy với Swain đi theo quan sát.
Anh trình bày các điểm chính của kế hoạch.
-Họ sẽ không vận tới Tịnh biên, rồi từ đó đi bộ thám thính Thất Sơn từng núi một. Toán của Đặng, mang tên mật mã "Bắt Chó Một", sẽ di chuyển theo chiều kim đồng hồ. Toán "Bắt Chó Hai" của Gulliver sẽ di chuyển ngược chiều kim đồng hồ. Họ sẽ gặp nhau giữa đường.
- Họ sẽ mang máy truyền tin đặc biệt của CIA, máy RS-1, cùng lương khô đủ cho năm ngày.
- Họ sẽ tránh đụng độ các đơn vị địch đông hơn sáu người, và nếu bị phát hiện sẽ gọi trực thăng bốc về ngay.
- Họ sẽ săn đuổi những Việt cộng đi lẻ tẻ, sĩ quan hay giao liên, những người nắm được tin tức. Họ sẽ bắt Vống những người này, thẩm vấn tại chỗ, rồi thanh toán.
- Họ sẽ tiếp tục "tóm và diệt" cho tới khi đạt mục đích: nắm được toàn bộ đội hình của tiểu đoàn 18-B cùng tọa độ của tất cả các đơn vị của tiểu đoàn này.
- Tin tức sẽ được báo về "Chuồng Chó", tức là bộ chỉ huy tiền phương đặt tại quận lỵ Tịnh Biên do Coughlin trách nhiệm. Sau khi phối kiểm tin tức, các phi đội không quân Mỹ và Việt từ các phi trường Cần Thơ và Bình Thủy sẽ tới oanh kích tiểu đoàn 18-B. Sau đó, thiếu tá Ngọc cùng đơn vị Cảnh sát Dã chiến sẽ được trực thăng vận tới thu dọn chiến trường.
Tất cả phải thực hiện trong vòng tuần tới, trước khi lệnh ngưng bắn Tết Nguyên đán có hiệu lực.
Nghe Gulliver trình bày xong, đại tá Minh nhắm mắt yên lặng một lúc, cố tìm xem kế hoạch có khe hở nào không. Ông không yên tâm Cameron đã giao trách nhiệm thiết kế cho đại úy Gulliver, người thời gian gần đây không ra quân thành công cho lắm. Nhưng Gulliver là một chuyên gia quân sự không ai chối cãi được, và viên tỉnh trưởng cũng chẳng tìm ra được một khuyết điểm nào rõ rệt trong kế hoạch. Ông mở mắt nhìn từng người khác dò ý, và họ từng người một gật đầu tán thành kế hoạch.
"Vậy là ta đồng ý cả," Minh thở dài nói, đẩy lui ghế và càu nhàu đứng lên. "Thiếu tá Ngọc sẽ lấy máy bay đi Cần Thơ ngày mai để phối trí yểm trợ với bộ tư lệnh Quân đoàn IV."
Cameron đưa cặp mắt đỏ ngầu ngó Swain. "Chúng tôi chưa để cho anh có thì giờ làm quen với đất này, phải không trung úy? Tôi e chuyến công tác đầu của anh có phần hắc búa đó."
Swain cười rộng miệng. "Thưa, có sao đâu. Nhất đấy. Tôi thích những công tác như vậy. Đã mang tên Harry thì tất tôi thích những trò hắc búa chứ!"
Phía sau Swain, Gulliver cùng Đặng liếc nhìn nhau, và Gulliver chửi thề trong bụng. Nhưng đại tá Minh lại rất hoan hỷ với người mới tới này và mời anh bữa sau tới dùng cơm trưa tại tòa tỉnh trưởng. Một lời mời ít có. Swain nhận ngay.
Cameron đứng lên, loạng choạng suýt làm đổ ghế. Anh gượng kịp, và, giọng vẫn bình thường, nói với Minh: "Thưa đại tá, tuy muộn rồi đấy, nhưng nếu đại tá vui lòng rốn lại thì chúng tôi sẽ cho chiếu một phim mới. Một phim cao-bồi."
Hai mắt Minh sáng lên. "John tayne hả? Hay là Randolph Scott?"
"Không đâu, đại tá. Phim mới mà. Tôi tin đại tá sẽ rất thích, phim lu bù những màn đấu súng."
Cameron bước ra gọi người chuẩn bị máy chiếu phim. Đỗ và Ngọc xin kiếu và ra về cũng như lúc tới, ai đi đường nấy. Ries qua bếp lục lạo đồ ăn nguội trước khi trở lại Trung tâm thẩm vấn giám thị buổi hỏi cung cuối cùng người tù nhân. Coughlin cũng kiếu từ để trở lên lầu với nàng Tuyết vẫn kiên nhẫn chờ, như khi xưa nàng từng chờ bậc quân vương. Minh, Sloane và Swain mỗi người lại rót cho mình một ly cognac đầy và ngồi vào chỗ chờ chiếu phim. Đặng thì bỏ về, không nói với ai một lời.
Cameron bất chợt như bây giờ mới thấm rượu uống suốt từ trưa đến nửa đêm. Mới tươi tỉnh đấy trông anh Kốt nhiên chết lặng, mặt tái mét và đẫm mồ hôi. Anh lao đao một lúc, rồi lào thào một câu chào và loạng choạng leo lên cầu thang, bám tay vịn lên từng bậc một.
E ngại vì sắc diện viên cố vấn trưởng, Gulliver kín đáo theo sau. Lên tới đầu cầu thang, anh rón rén bước tới gõ cửa phòng Cameron. Không có tiếng trả lời. Anh xoay quả nắm và cánh cửa bật mở tung. Cameron không có trong phòng khách cũng như trong phòng ngủ, nhưng Gulliver nghe thấy có tiếng ọc ọc từ trong phòng tắm vọng ra, tiếng người không sao ngăn được cơn ói mửa.
Anh rảo bước tới đẩy cửa phòng tắm. Cameron quỳ dưới sàn nhà, hai tay ôm lấy bồn vệ sinh.
"Ông có sao không?" Gulliver hỏi.
Cameron quá mệt, chỉ còn biết yếu ớt lắc đầu.
Gulliver lấy một cái khăn tắm, thấm nước lạnh và lau trán, lau gáy cho Cameron. "Làm sao ông đến nỗi này, George?" anh hỏi nho nhỏ.
"Việt Nam, Jake à, tại Việt Nam cả đấy." Cameron lấy ngón tay chùi rãi dính trên cằm, rồi gượng đứng lên.
"Nhờ rượu mà tôi còn bám víu được đấy. Tôi già rồi. Người ta năm mươi tư tuổi đã mấy ai già, nhưng tôi già rồi. Trừ một kỳ ở Lào và một kỳ ở Thái Lan, tôi ở xứ này đã hai mươi năm chứ ít sao. Khi tôi về đây thì tôi quá già rồi cho những chuyện như thế này."
Gulliver không nói gì. Cameron quả trông già hơn tuổi thực đến mười lăm tuổi là ít. Anh còn mắc cả những tật của người già kia nữa.
"Chúa ơi! Jake à, có khi tôi tưởng như tôi đã sống cả đời tôi ở xứ này kia đấy. Hồi đầu thì được lắm chứ, khi tôi làm việc với những người đàng hoàng, những người như DescitEgerald khi ông là giám đốc phân bộ Á đông. Ông đã cảnh cáo họ về Việt Nam nhưng họ đâu chịu nghe. Rồi Ed Lansdale nữa. Tôi đã bao giờ nói với anh Lansdale chính là người mẫu cho cuốn Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American, tiểu thuyết của văn hào người Anh Graham Greene )chưa nhỉ? Tôi có kể cho anh chưa, là tôi tới xứ này trong toán đầu tiên, cùng với Lansdale và Lou Conein, đội lốt Phái bộ quân sự Sài Gòn?"
"Không, George, ông chưa kể bao giờ cả" -- thực ra đó là những chuyện đã kể cả trăm lần.
"Nói bậy! Nhất định tôi phải kể rồi chứ! Tôi đã chứng kiến đủ hết -- bọn Pháp thua trận này, chia đôi nước Việt năm R4 này, đảo chánh lật Diệm này. Ô, công tác của Conein đấy. Của Lou-Ba-Ngón đấy. Tôi đã kể với anh chưa nhỉ, chuyện Conein họp với các tướng lãnh trên lầu tiệm Ramuntcho, lập kế đảo chánh?"
"Chưa, George, ông chưa kể chuyện ấy," Gulliver vẫn nói dối.
"Thực đấy, có gì mà tôi không biết! Rồi nào là các chính phủ lên xuống như chong chóng, nào là cuộc nổi Gậy của Phật giáo, các sư tự thiêu, nào là Tết năm 68, rồi cái đám thần đồng mới ra lò ở Langley, với những sáng kiến thần đồng của chúng, như là...như là cái trò Phụng Hoàng khốn kiếp này!"
Cameron ứa nước mắt. "Mọi chuyện đổi khác cả rồi, Jake à. Mà tôi cũng đã đổi khác nữa. Tôi phải như thế vì công ty đổi khác rồi. Tôi không biết đám người mới này. Tôi không ưa được họ. Sao họ không về đi để cho tôi yên!"
"Sao ông không từ chức đi?"
"Anh biết mà. Sang năm tôi về hưu rồi. Tôi sẽ về hưu non sau hai mươi lăm năm công vụ. Gần hưởng đủ lương hưu trí đấy."
"Nếu ông cứ thế này ông sẽ chẳng còn đấy mà lãnh tiền."
 Ồ có chứ! Bọn chó đẻ mắc nợ tôi mà. Vì Việt Nam mà gia đình tôi tan nát. Tuần này nữa là vợ tôi ly hôn với tôi đã đúng mười năm. Bả nói bả không thể nào sống được như vậy -- nào những lần xa cách, nào công ty. Bây giờ tới lượt xấp nhỏ. Tôi được hai con gái, anh biết không nhỉ?"
Điều này thì Gulliver quả không biết. "Không, tôi không hay đấy."
 Ừ phải. Chúng nó ghét tôi. Con gái tôi chúng ghét tôi. Chúng nói chúng hổ nhục vì tôi. Vì bố chúng nó. Chúng đi biểu tình đòi hòa bình, mang biểu ngữ gọi CIA là những tên tội phạm, trong khi tôi móc túi trả học phí đại học cho chúng. Ôi, Jake, tôi sẽ lãnh đủ hưu trí chứ. Vì công ty nợ tôi mà. Nợ cả  đời tôi mà." Cameron bật lên khóc.
Gulliver dìu anh lên giường, giắt mùng cho anh, cứ như Cameron là một đứa trẻ. Từ một góc trên trần nhà, một con thạch sùng le lưỡi rình mò. Một con bọ ngẩn ngơ từ từ bò qua bức tường quét vôi trắng, thẳng tới phía con thạch sùng, thẳng tới cõi lãng quên.
Gulliver với tay tắt đèn rồi dợm bước đi ra khi cái thân hình trên giường cựa quậy và nói: "Jake à, tôi biết anh nghĩ gì về công ty, nhưng anh có bao giờ thấy chúng tôi ngày trước đâu, hồi công ty chỉ là Lansdale, Conein với tôi, với một vài người tốt khác nữa. Hồi đó tụi tôi toàn những người đàng hoàng cả."
"Nhất định là thế rồi," Gulliver ngọt ngào đáp. "Ông ráng ngủ đi, ông George."
"Cả tôi nữa, Jake, tôi cũng là người đàng hoàng mà. Phải chi anh biết tôi hồi đó, Jake. Tôi cũng chì như ai vậy."
"Tôi hiểu. Tôi tin lời ông, George. Bây giờ ông ngủ đi." Gulliver đóng cửa lại và bước xuống cầu thang.
Cuốn phim vừa mới bắt đầu. Anh ngồi cuối phòng, âm thầm không để ai thấy. Anh đã coi phim này rồi, khi trên Sài Gòn mới gửi xuống, nhưng anh vẫn muốn coi lại màn đầu, cảnh đám trẻ con nghịch ngợm lấm láp xúm xít quanh một con bọ cạp bị cột vào một tổ kiến. Con bọ cạp giãy giụa giữa không biết cơ man nào là kiến, cái càng chém ra rốI rít nhưng hoàn toàn vô dụng, chém ngay cả vào lưng mình trong cơn đau đớn điên cuồng. Lũ trẻ con thì cườI và còn lấy que chọc con vật. Gulliver lặng lẽ đứng lên đi về phòng ngủ của mình.
Anh bỏ hết quần áo, nằm sóng soài dướI cái quạt quay lừ đừ. Anh ngủ không yên, lăn lộn trên giường, mơ thấy hai ông già buồn thảm. Một ngườI uống rượu quá nhiều và đang ngáy khò khò ở phòng bên, cũng đang mơ những giấc mơ của riêng mình, mơ  đến những ngày xưa ngườI cũ. NgườI kia, mất đầu, lang thang nơi âm phủ, lần mò tìm kiếm cửa thiên đàng. Gulliver không biết tên tuổI họ, chỉ thấy diện mạo họ mà thôi, hai khuôn mặt mệt mỏI, âu lo, đau đớn, bóng nhẫy mồ hôi. Chỉ là hai ông già buồn thảm, lạc loài, chẳng hề đòi hỏI bao nhiêu. Đòi hỏi duy một điều, được yên thân.