Lã Tuyết Cừu và Phi Quỳnh ra tới giao lộ. Tuyết Cừu nói:
- Tại hạ phải về Thiên Trượng cốc mà chữa bệnh cho Cốc chủ. Ý của tiểu thư thế nào?
Phi Quỳnh nói:
- Đó là việc cần làm trước. Nhưng ta có thể đi với ngươi đến đó được không?
Tuyết Cừu nói:
- Tại hạ đã nghĩ về điểm này rồi. Quỷ Vô Môn Quan là nơi cấm người lạ đến. Chúng ta cứ đến nơi miệng hố, tiểu thư ở đó vài ngày chờ tại hạ. Nếu xin phép được thì tại hạ ra đưa tiểu thư vào. Còn không được, tại hạ sẽ chữa cho bà xong, rồi cùng tiểu thư đi.
Phi Quỳnh trầm ngâm không nói gì.
Dọc đường, họ nghe được nhiều tin cũng đáng chú ý. Có sáu thiếu nữ đẹp như tiên đã đánh chiếm mấy trạm của Nga Mi và giang hồ. Thỉnh thoảng có Tiểu Sát Tinh Lã Tuyết Cừu xuất hiện và yểm trợ cho họ. Họ lập thành những phạn điếm, tửu điếm để bán cho những người lương thiện. Ai đứng về phía Lã Tuyết Cừu thì được họ tiếp đãi tử tế còn khách giang hồ theo Nga Mi hoặc đệ tử của Nga Mi đều bị họ tiêu diệt.
Nga Mi nhiều lần phái các cao thủ đến nhưng không có một ai sống sót trở về. Đường đi đến Nga Mi bây giờ cỏ mọc hoang vu. Dần dần, các cô đó chiêu mộ được một số đông cao thủ giang hồ đứng về phía họ. Cuối cùng, Nga Mi phải mở một lối đi khác.
Các cô dọa:
- Rồi đây Nga Mi sẽ không còn một lối đi nào khác. Cho đến hôm nay quả thật, không còn người giang hồ nào dám qua lại với Nga Mi.
Nghe đâu khoảng mười thiếu nữ trẻ đẹp đã qui tụ về đó, và hơn trăm cao thủ khác chia làm ba trạm đóng trên các trục lộ hướng về phái Nga Mi cách nay chừng ngoài nửa tháng.
Lã Tuyết Cừu nghe những tin như vậy chỉ thở dài lòng tỏ ra phiền muộn chứ không nói gì.
Phi Quỳnh nói:
- Nghe những tin như vậy sao công tử lại thông vui?
Tuyết Cừu nói:
- Vui làm sao được? Đó là cái họa cho võ lâm mà thôi. Bất kỳ một đám đông nào cũng có những kẻ lợi dụng làm việc tư lợi cho mình. Đó là chưa kể họ sẽ phao những tin thất thiệt làm tốn hại huy tín những nhân vật chánh phái.
Phi Quỳnh gật đầu nói:
- Như vậy, sau khi chữa bệnh cho Bạch cốc chủ xong, ta nên trực chỉ đến Nga Mi mà giải quyết việc này.
Tuyết Cừu nói:
- Không được! Theo chỗ tại hạ biết các cô đó hầu hết là có cảm tình với tại hạ mà làm như vậy. Chả lý khi tại hạ đi, họ đi theo, tại hạ không cho thật khó xử? Cứ để họ sống như vậy một thời gian nữa, chắc chắn họ sẽ có đôi có cặp, chừng đó ta sẽ tính sau.
Phi Quỳnh nói:
- Hoặc một ít lâu sau, ta phóng tin Lã Tuyết Cừu chết là xong việc!
Họ vừa đi vừa nói chuyện.
Mãi đến trưa, họ đến một xóm nhà, hai người dừng lại đầu xóm mà ngồi nghỉ dưới một cội cây. Con trẻ lối xóm thấy Phi Quỳnh mặt rỗ chẳng rỗ chịt dễ sợ, ghê tởm, chúng vừa chạy vừa la:
- Ma tử nữ! Ma tử nữ (cô gái mặt rỗ).
Những người trong xóm nghe chúng la lại hiểu theo nghĩa con ma cái, liền cầm gậy chạy ra...
Phi Quỳnh tủi thân vô hạn. Nàng nhớ hồi trước khi đi, Lã Tuyết Cừu đòi cải trang cho nàng, nhưng nàng không chịu. Mục đích cũng là để dò xét tâm lý của chàng. Cho đến mẫu thân nàng cũng không dám nhìn thì còn ai dám nhìn?
Người trong xóm chạy ra thấy hai người. Người thanh niên tuấn tú, còn thiếu nữ mặt mày hung dữ như quỷ, đang ngồi bình tịnh dưới cội cây mà nhìn họ.
Có người đánh bạo đến gần hỏi:
- Công tử và cô nương đi về đâu?
Lã Tuyết Cừu lễ phép mà nói với họ:
- Huynh muội tại hạ đi làm ăn xa, nay trở về quê quán ở Nam Thị.
Một người nào đó nói:
- Vị ma nương (cô gái rỗ) có muốn chữa bệnh không, ta biết một vị lão sư chữa chứng ma chẩn này hay lắm.
Lã Tuyết Cừu đứng lên chắp tay nói:
- Lão bá có thể chỉ cho vãn bối vị lão sư đó không?
Một người nữa đứng ở bên cạnh nói:
- Khó lắm! Vị lão sư ấy ở trên núi Linh Nham, nằm về phía Tây xóm nhà này. Đường lên núi rất khó đi. Người có lòng thành và hiền hậu thì từ đây đến đó mất nửa ngày, còn người hung dữ đi cả đời không đến...
Lã Tuyết Cừu hỏi:
- Phải cần lễ vật gì đến gặp lão sư?
Người kia đáp:
- Lễ vật gặp lão sư là tấm lòng thành, ngoài ra còn một điều quan trọng nữa là bệnh nhân và người đưa bệnh đi không phải là người võ lâm. Đừng tưởng là người võ lâm mà mạo nhận là không thì cũng không qua mắt lão sư ấy được!
Tuyết Cừu và Phi Quỳnh thầm than khổ. Cả hai đều nghĩ rằng là dị nhân chắc chắn phải có một vài nét đặc dị.
Chàng chắp tay xá một cái nói:
- Cảm ơn chư vị lão bá. Bây giờ bọn vãn bối xin phép cáo từ để đến đó.
Các lão gìa nhìn nhau rồi nói:
- Không được đâu, đường đi trăn, rắn, hổ báo rất nhiều, lại nhiều ngõ ngách, phải nhờ người đưa đường mới được.
Phi Quỳnh nói:
- Nhờ chư vị lão bá giúp cho tiểu nữ một người hướng đạo.
Một thanh niên gần đó nói:
- Muốn đi ngay bây giờ, tại hạ xin dẫn lộ cho công tử.
Lã Tuyết Cừu cả mừng móc ngay mừng giết người, để người giết mình?
Lão nói gọn:
- Có thể hiểu như vậy cũng được.
Tuyết Cừu lại ngửa mặt nhìn trời. Chàng nói:
- Hãy đem điều ấy mà dạy đám tử tôn của lão.
Lã Tuyết Cừu nói xong thì bước đi.
Bất ngờ có nhiều ánh kiếm chớp lên phía sau. Nhưng người ta chỉ nghe nhiều tiếng cạch, cạch. Mỗi tiếng cạch như vậy là một thanh kiếm bị gãy.
Tuyết Cừu vừa bước đi, vừa cho đao vào vỏ. Chàng không quay lại, nhưng biết đám người kia đang sợ mất mật.
Vừa lúc ấy, một bóng người từ trên cây cổ thụ đáp xuống trước mặt chàng.
Người vừa đến, vận y phục màu trắng, bao mặt, lưng đeo trường kiếm, bình tịnh đứng nhìn chàng một hồi, nói:
- Võ công cao, khí sắc lạnh... Bạc phúc.
Tuyết Cừu trầm giọng:
- Muốn đón đường ta, hãy báo danh đi!
Người bịt mặt đáp:
- Bát Tý Na Tra Lý Độc.
Tuyết Cừu với giọng lạnh như băng:
- Hai mươi năm trước, tại Thiên Trượng cốc, các hạ là người đứng đầu trong việc truy sát vợ chồng Huyết Thủ. Oan oan tương báo. Rút kiếm ra!
Lý Độc chớp người lên, người ta nghe tiếng khua leng keng trên không thành chuỗi...
Lã Tuyết Cừu thi triển Long Phi đệ nhất thức. Chiêu đã đi qua, mà vẫn chưa hạ được đối phương.
Tuy không nói, nhưng chàng thầm phục Bát Tý Na Tra.
Bát Tý Na Tra Lý Độc nhìn chàng sững sờ. Lão không ngờ rằng một gã mới hai mươi tuổi đầu mà mình mang tuyệt học như vậy. Trong đệ nhất thức vừa rồi, kiếm lão suýt rơi.
Còn Tuyết Cừu thấy lão là người phá được chiêu thức đầu tiên của chàng, đâm ra có chút cảm tình với lão. Giá không có mối huyết cừu kia, chắc chàng sẽ chẳng đi tới chỗ tuyệt tình.
- Nếu các hạ đỡ được Long Phi tam thức của ta, ta sẽ để cho các hạ đi tự do, nhưng đừng chường mặt ra giang hồ nữa. Gặp ta lần nữa thì hết sống.
Tuyết Cừu chớp người lên...
Lại những tiếng đao kiếm chát chúa vang vọng. Khi đáp xuống, thanh kiếm của Bát Tý Na Tra Lý Độc chỉ còn lại hai phần, lão đưa tay chặn ngực và ụa ra mấy búng máu.
Tuyết Cừu tiếp tục phóng người lên, thân ảnh của chàng trở thành một bóng mờ...
Và Bát Tý Na Tra Lý Độc cũng mất hút ngay lúc đó.
Bao nhiêu người có mặt ở đây đều kinh tâm. Bát Tý Na Tra Lý Độc gần như một nhân vật tuyệt đỉnh, Chưởng môn của các đại bang phái đều trải chiếu mời lão ngồi. Thế mà... Sắp đến đây, người ta chưa dám đoán việc gì xảy ra cho lão.
Cạch cạch, tiếp theo một tiếng ôi, một người từ trên không rơi xuống.
Người đó là Bát Tý Na Tra Lý Độc. Trên tay Lý Độc còn chuôi kiếm, toàn thân lão đẫm máu tươi.
Lã Tuyết Cừu lặng lẽ bước đi. Lần đầu tiên chàng tha chết cho một kẻ đại thù.
Tuyết Cừu tự nhũ thầm:
- “Võ học của lão đáng gọi là Tử công phu”.


Hồi 7
Ngôi đền ma quái

Lã Tuyết Cừu thấy không cần thiết phải bảo vệ Oanh Oanh nữa, vì chàng đoán nàng sẽ tìm nơi bí mật để trau dồi võ thuật. Chàng biết Nga Mi đang tập hợp các bang phái để đưa ra kế hoạch chống Tiểu Sát Tinh. Chàng tự hỏi:
- Ta có nên đi Nga Mi không?
Rồi chàng tự trả lời:
- Nếu không đi thì họ cũng đón đầu ta. Việc đi Nga Mi thì có gì đâu để ngại.
Vài ngày sau chàng đi ngang qua một khu rừng, vào buổi xế, bỗng chàng thấy một con ngựa trắng chạy vụt qua như bay, trên lưng chở một xác người, không biết sống chết thế nào, mình mẩy đầy máu. Ngựa ấy theo ngõ hẹp chạy biến vào rừng.
Chàng nghĩ thầm:
- Ngựa quen đường củ là trường hợp này.
Theo chàng, trong rừng này chắc chắn có sào huyệt, hoặc một tổ chức nào. Chàng phóng mình đuổi theo tuấn mã.
Ngựa nghe tiếng người đuổi theo, liền phi nước đại, bốn vó như sinh mây. Xác kia vẫn nằm vững trên ngựa, là vì đã được ai buộc cẩn thận.
Lã Tuyết Cừu chạy theo gần cả giờ khoảng cách mới được thu ngắn lại chút ít.
Ngựa phóng mình lên đồi. Chàng bám sát theo. Ngựa cách chàng hơn một lằn tên. Và khoảng cách đôi bên thu hẹp dần.
Trên đồi, xa xa chàng thấy một ngôi đền rất lớn. Những tàn cây cổ thụ che kín mái đền. Phong cảnh sầm uất, pha chút kỳ bí lạnh lẽo.
Lã Tuyết Cừu vẫn không đổi cước bộ, mặc dù chàng đã thấy hơi mệt.
Chàng động tâm, nghĩ:
- “Ta không tiết kiệm sức, rủi gặp cường địch thì khó lòng lắm”.
Ngựa chạy qua phía sau đền. Chàng hơi chậm lại một chút để điều hòa hơi thở.
Khi tới đền, Tuyết Cừu đi bọc qua phía sau, không còn thấy ngựa kia đâu nữa.
Chàng nói thầm:
- Ngựa ấy nhắm hướng đền chạy. Ngôi đền to lớn thế này thì ngựa chạy về đâu nữa chứ? Chắc chắn nơi đây phải có người.
Trước khi vào đền, chàng đi quan sát chung quanh một cách cẩn thận.
Trời về chiều, cảnh vật im ắng lạ lùng. Những con dã bức to tướng bay chớp qua chớp lại, làm ngôi đền này có vẻ thần bí thêm lên.
Dường như chung quanh đền không có bàn tay con người sửa sang, nên cỏ vẫn cao hơn thước, liễu vẫn gầy vài phân, không có lối mòn ra vào.
Chàng tự hỏi:
- Người ta lập ngôi đền này để làm gì chứ? Quanh năm không ai nhang khói, thăm viếng thì chỉ tổ làm chỗ ngụ cho bọn yêu ma quỷ mị mà thôi.
Chàng khám phá kỹ lưỡng khu vực chung quanh cũng mất vài giờ, thì trời đã sẩm tối, chưa thấy vết tích gì khả nghi.
Nghĩ đến con ngựa và xác người, chàng nói thầm:
- Quả là ngựa khôn. Nó đã biết bảo vệ chủ nó, lại còn biết bảo vệ bí mật nữa. Ta có nên khám xét bên trong không nhỉ?
Chàng bắt đầu chú ý đến ngôi đền.
Ngôi đền xây dựng đã trên trăm năm Nhưng sự vắng bước chân người ở đáy ít nhất cũng vài mươi năm. Ngôi đền này nằm cách xa trục lộ chính.
Có hai lối vào bên trong ngôi đền. Cửa trước và cửa sau. Hiện giờ cửa nào cũng đóng kín cả.
Có những con dơi (dã bức) to lớn như con quạ bay ra bay vào, thỉnh thoảng đáp xuống muốn tấn công chàng.
Lã Tuyết Cừu phá cửa bước vào bên trong. Chàng đánh lửa lên. Bên trong nhện giăng bụi bám.
Lã Tuyết Cừu nói:
- Quả thật nơi đây không có người. Kỳ nhỉ?
Trên bệ thờ một pho tượng lớn bằng người thật, mắt trừng trừng như nhìn chàng có vẻ phẫn nộ, như bất mãn.
Một điều khiến chàng ngạc nhiên, pho tượng vẫn mới tinh, bóng loáng, như sống như thật, như có ai vừa mới lau chùi.
Lã Tuyết Cừu nhặt vội một ít cây khô mục, nhóm thành bếp lửa.
Lửa sáng cả đền, vẻ ma quái của ngôi đền đã bị ánh lửa xua đi ít nhiều. Không khí trong đền cũng bớt đi sự âm u lạnh lẽo.
Lã Tuyết Cừu nhìn thật kỹ pho tượng trên bệ cao, nói:
- Tại hạ là Lã Tuyết Cừu bất ngờ mà đến đây thấy từ ngoài vào trong, nơi nào cũng nhện giăng bụi bám, thế mà thân thể ngài vẫn... Tinh khôi.
Chàng xá một cái, rồi nhìn sang hai bên. Hai bên có hai pho tượng nữ, mặt đẹp như tiên, đứng theo một cổ điệu. Cũng lớn bằng hình thật, đôi mắt vẫn tinh anh. Một tượng xiêm y màu hồng, một tượng xiêm y màu xanh.
Lã Tuyết Cừu cũng xá hai bức tượng này, nói:
- Ngôi đền này có tên “Tiền Hiền điện”, vậy mà tại hạ không hiểu được lai lịch của chư hiền. Bên hữu là hồng y nữ, bên tả là thanh y nữ, giữa là bạch y thần... Thật tệ. Tam vị có lẽ thiêng hiển lắm nên lâu năm rồi, biết bao cuộc phế hưng mà ba vị vẫn sống như thật.
Chàng vòng ra phía sau... Đây là một phòng khác, phòng này cũng có bốn pho tượng lớn cỡ phòng ngoài. Tượng nào cũng sạch sẽ lộng lẫy, gồm ba năm một nữ.
Lã Tuyết Cừu xá xá mấy cái rồi nói:
- Quý ngài thật kỳ quái! Đúng là thần nhân, thánh nhân. Không câu nệ cảnh, chỉ cần giữ sạch mình. Nhìn quý ngài mà tại hạ thấy mình nhơ nhớp. Lớp bụi sông hồ bám ngập hết nửa linh hồn. Ngày sau, yên việc sông hồ, tại hạ sẽ về đây sửa sang lại ít nhiều.
Chàng ra sau nữa, thì không thấy gì. Dưới nền không có dấu hiệu gì có phòng ngầm.
Chàng chợt nghĩ một chuyện. Bất cứ đền thờ chùa miếu gì cũng có chánh và phụ. Chánh vị thì tượng lớn, thứ vị thì tượng nhỏ, nhưng ở đây sao tượng nào cũng đồng cả?
Chàng sợ mình nhận xét lầm, nên ra trước xem lại. Quả thật, chánh tượng tuy ngồi nhưng vẫn lớn bằng người thật. Lạ một điều, pho tượng áo hồng phía phải bây giờ đứng sang phía trái, và pho tượng áo xanh lại đứng vào vị trí áo hồng?
Tuyết Cừu vốn không tin có ma quỷ, nhưng rõ ràng sự thật là vậy, chàng với tay sờ vào chân tượng, rõ ràng là pho tượng đúc. Tượng đúc thì làm sao biết di chuyển?
Điện vẫn im ắng. Cho đến tiếng muỗi vo ve cũng còn nghe được, huống chi là người thay đổi vị trí các pho tượng?
Chàng sờ mấy bức tượng kia cũng vậy.
Lã Tuyết Cừu không tin sự ghi nhớ của mình không chính xác. Chàng trầm giọng nói:
- Tại hạ là Tiểu Sát Tinh Lã Tuyết Cừu, bình nhật không ưa việc hý lộng. Tại đền này chắc chắn có vị cao nhân nào trú ngụ, vậy xin hãy xuất hiện để chúng ta còn giữ niềm hòa khí với nhau.
Chỉ có tiếng tặc lưỡi của mấy con thạch sùng và tiếng dơi bay ra bay vào mà thôi.
Chàng lại nghĩ:
- “Pho tượng lớn như vậy, ắt nặng gấp đôi ba lần người thật, dù có người nào muốn đổi cũng phải gây tiếng động. Vậy nghĩa là sao?”
Chàng rút đao, trở sống gõ nhẹ vào mấy bức tượng, phát ra tiếng kêu cạch cạch.
Lã Tuyết Cừu tìm cách đóng cửa lại cẩn thận, rồi lấy những ghế bàn hư mục bỏ thêm vào đống củi.
Vừa làm việc, chàng vừa nghĩ đến việc hai pho tượng thay đổi vị trí.
Chàng quét dọn cẩn thận một chỗ để nằm.
Trong lúc chàng đang làm việc thì có những tiếng động lạ nho nhỏ chung quanh, nhất là phía sau.
Lã Tuyết Cừu vội chạy bay ra ngoài sau, thì bốn pho tượng vẫn nguyên vị, không gì thay đổi. Nhưng đằng trước lại có tiếng cười khúc khích.
Chàng lấy cán đao gõ nhẹ vào chân mấy pho tượng, chỉ nghe tiếng cụp, cụp khô khan. Đó là mấy bức tượng gỗ.
Chàng tự hỏi:
- Tại sao phía trước lại có tiếng cười?
Chàng quay ra lại, pho tượng thần chính giữa mắt vẫn trừng trừng nhìn chàng. Hai pho tượng hai bên lại đổi vị trí thêm lần nữa.
Chàng tức mình, nhìn pho tượng áo hồng chăm chăm, rồi đột ngột trở đốc đao lại nện vào đầu gối pho tượng, vẫn nghe cạch cạch.
Chàng bỗng nghĩ ra một cách, trên bệ còn có chỗ đứng rộng, chàng nhảy lên đó, đứng sau pho tượng áo hồng, dĩ nhiên Tuyết Cừu phòng bị cẩn thận. Thậm chí chàng còn đứng sát người vào ôm pho tượng nữa là khác.
Tượng thấp hơn chàng nửa cái đầu, hai tay chàng ôm choàng pho tượng, lấy tay ấn ấn... Chàng thấy thịt bụng... Co cựa.
Rõ ràng đây không phải là pho tượng bằng đất đá hoặc bằng gỗ, mà là... Bằng người thật.
Chàng muốn phá cho bõ ghét. Một tay chàng lần lên gò ngực, và nghe có tiếng tim đập, và hai gò thịt nhô ra vẫn là của nữ nhân thứ thiệt.
Trong tư thế này, pho tượng có muốn phản ứng cũng không được.
Lã Tuyết Cừu bỗng nhảy xuống đất, chắp tay nói:
- Tại hạ đã mang tội thất kính nhưng không phải là lỗi tại hạ, xin nương nương thứ lỗi cho.
Chàng bước sang pho tượng áo xanh, nói:
- Xin nương nương hiện bản lai diện mục cho tại hạ dễ thưa gởi.
Nhìn lại, tượng áo hồng vẫn đứng như cũ, ý chừng cho là họ Lã chưa biết mình thật sự.
Lần này đến lượt tượng áo xanh vẫn đứng nguyên như vậy.
Lã Tuyết Cừu vận công nhảy lên sau pho tượng áo xanh và làm một cử chỉ thô bạo...
Phòng vẫn tĩnh mịch, chàng lại nghe pho tượng áo xanh thở dồn dập... Có mùi hương xử nữ thật sự tiết ra.
Lã Tuyết Cừu điểm nhanh vào các huyệt của pho tượng rồi để đứng đó, nhảy xuống đất nói với tượng thần ngồi giữa:
- Nếu ngài không chịu cử động thì bắt buộc tại hạ phải ra tay.
Pho tượng vẫn ngồi yên.
Lã Tuyết Cừu phóng mình lên bệ thờ, xem lại không thấy pho tượng đâu nữa.
Nhìn qua pho tượng áo xanh bị chàng điểm huyệt khi nãy cũng biến đi đâu mất. Tượng áo hồng cũng vậy.
Ánh lửa vẫn còn sáng đậm, chàng chạy vội ra sau, bốn pho tượng kia cũng rút đi tự bao giờ. Cửa sau vẫn còn đóng chặt. Từ hông phòng ngó sang bên kia vẫn thấy thoáng, vậy thì họ đi đường nào?
Ánh lửa đột nhiên vụt tắt, và căn phòng bỗng nhiên nổi gió ào ào...
Lã Tuyết Cừu phóng người đến gần cửa trước, rút đao thủ thế. Chàng định thần nhìn kỹ bốn bên và không thấy một bóng người.
Cảnh tượng ma quái lại hiện ra, bốn bề im phăng phắc, chỉ có tiếng dơi bay ra bay vào
Chàng suy luận:
- Nơi đây hoặc có phòng thông, phòng ngầm, cơ quan, địa đạo... Và có nhiều người nữa. Dứt khoát không phải ma quỷ.
Chàng chuẩn bị tư thế chiến đấu. Lã Tuyết Cừu nhanh chóng cho bếp lửa sáng lên. Chàng cài đao vào vỏ rồi đứng tựa vách mà quan sát.
Một khắc thời gian trôi qua, chàng vẫn không nghe động tĩnh.
Nhìn lên trần nhà cũng không thấy có gì lạ, nhìn xuống nền nhà vẫn vậy.
Lã Tuyết Cừu chụm cây thật nhiều cho lửa cháy bùng, rồi chàng xách đao đi gõ cùng khắp nền nhà, xem thử có nơi nào bọng hay chăng.
Cuối cùng chàng phát hiện ra một nơi bọng, nghĩa là phía bên dưới có phòng ngầm.
Chưa phát hiện ra cửa hầm, chàng nhìn trước nhìn sau vẫn không có hiện tượng gì khác, chàng lại đi gõ tiếp mấy vách giáp một vòng mà vẫn không thấy gì cả.
Chàng muốn dùng đao để đào đất khám phá phòng ngầm này, nhưng sợ đêm tối dễ bị ám toán.
Lã Tuyết Cừu nhìn hai cửa đóng kín mà kết luận:
- Lối thoát duy nhất là nằm trong phòng này.
Chàng không bận tâm tìm kiếm nữa, mà trở về bên bếp lửa ngồi suy nghĩ.
Chàng nghĩ thầm:
- Những người này không có ác ý với ta. Võ công, khinh công họ thâm cao như vậy, họ muốn đánh ta cũng không phải là chuyện khó. Họ chỉ muốn hù dọa để cho ta sợ hay bực mình mà thôi. Nhưng họ là ai? Phái nào? Có đệ tử hoạt động ngoài giang hồ không?
Rất nhiều nghi vấn được đặt ra, mà không giải quyết được. Bây giờ chàng mới biết mình hố một việc, khi nãy được ôm hai nữ nhân vào lòng, phải chi chàng đừng để họ tạo cảnh mà khống chế ngay một cô và tra gạn sự tình, thì không đến đổi phải có nhiều thắc mắc như vầy.
Bây giờ chàng cảm thấy buồn ngủ. Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh. Có lẽ vì chàng thiếu ngủ, vì đi đường quá mệt chăng? Hay vì thứ gì khác?
Lã Tuyết Cừu ngáp vài cái rồi vươn vai đứng lên. Ý cũng muốn tự mình điểm vài phần huyệt để chống ngủ. Vì nằm xuống có thể vĩnh viễn không đứng lên.
Chàng đem hết cả công lực thượng thừa ra để giữ mình khỏi ngủ mà vẫn không được.
Bây giờ chàng mới nghi rằng có thuốc mê vô hình, nên người mới cảm thấy dã dượi mệt mỏi.
Chàng vận công để coi thử khí mạch trong người. Và bây giờ chàng mới biết rằng mình đã bị trúng mê dược, không nặng lắm.
Chàng tuy đứng, nhưng vẫn vận dụng khí công để trục độc ra ngoài.
Qua vài lần thổ nạp, Lã Tuyết Cừu thấy tĩnh táo lại. Lã Tuyết Cừu không dám khinh suất nữa, và cũng không dám tin vào sự thiện lương của họ.
Bây giờ đã quá nửa đêm. Trăng hạ huyền bắt đầu mập mờ nơi đầu núi.
Bỗng có tiếng động rất khẽ bên ngoài cửa.
Chàng tự hỏi, có nên mở cửa ra không? Chàng đoán chắc rằng, không dễ gì mở cửa ra mà thấy họ. Chàng không mở cửa nhưng vẫn tháo chốt để chuẩn bị có phản ứng cần thiết.
Không khí yên tĩnh trở lại.
Tuyết Cừu suy nghĩ tiếp:
- “Nơi đây chắc chắn có địa đạo. Có địa đạo nên mới ăn thông ra bên ngoài”.
Và chàng phải lo lắng đối phó cả hai mặt.
Lửa bây giờ đã tàn. Phòng sau có tiếng cười khúc khích...
Tuyết Cừu không màng đứng lên, vì có đứng lên họ cũng biến mất thôi. Chàng ngồi dưỡng thần, nhưng tư thế vẫn chuẩn bị, thần thái nghiêm trọng.
Chàng quên nghĩ rằng sự chuẩn bị như vậy là đặt hết tâm trí vào đó, dễ gây đến chỗ mệt mỏi cho cơ thể. Thà một cuộc phòng thủ vừa phải, cơ thể và tâm thần đỡ căng thẳng hơn.
Tuyết Cừu vẫn lắng tai nghe, có nhiều tiếng động khẽ, càng lúc càng gần. Và mở mắt ra, nhưng tư thế vẫn bất động, chàng thấy hai cô áo hồng và áo xanh khi nãy tiến về phía chàng. Chàng vận công chờ họ đến gần.
Hai nàng đến cách chàng ngoài một trượng rồi dừng lại, nheo mắt nhìn chàng, cười hi hí.
Lã Tuyết Cừu vận dụng Ma chiêu nhất tuyệt, vỗ vào đốc đao một cái, chớp mình lên. Thân ảnh chàng mất hút, nhưng hai cô kia cũng đã biến đi rồi...
Chàng định tâm tự hỏi:
- Họ đạt tới mức khinh công ảo diệu chăng? Trên đời có ai khinh công cao hơn ta nữa? Hay các cô ấy là loài hồ ly hóa thân thành người?
Chàng bàng hoàng nhìn nhanh, không thấy các cô đâu?
- Thật là kỳ quái! Họ thăng thiên hay độn thổ?
Lã Tuyết Cừu tức mình nói lớn:
- Tại hạ biết chư vị là cao nhân rồi! Đã là cao nhân, xin hãy trực diện. Nếu không, tại hạ sẽ phá ngôi đền này ngay.
Có tiếng cười khúc khích sau lưng chàng.
Tuyết Cừu quay lại, chỉ thấy hai vệt mờ như sao xẹt rồi biến mất. Chàng giận lắm, nhưng không tiện phát tác, chỉ vì sợ tiêu hao chân lực nguy hiểm. Chàng đứng tựa lưng vào vách mà nghiên cứu tình hình.
Lại có tiếng động ngoài cửa.
Lã Tuyết Cừu quay lại nhìn ra cửa, thì phía trong, hai cô khi nãy xuất hiện. Lã Tuyết Cừu nhìn chăm chăm vào họ.
Hai cô nhìn chàng mỉm miệng cười. Nét cười của họ tự nhiên, không có vẻ khiêu khích hay mai mỉa.
Chàng vờ dợm chân một cái, xem họ biến cách nào, nhưng hai cô chỉ dợm chân để trả lời.
Tuyết Cừu tức quá chửi:
- Hai cô quả là.. Yêu quái! Rất tiếc, tại hạ không phải là Pháp sư, nếu không đã trấn yếm hai cô để cưới làm vợ rồi.
Cô áo xanh nghiêm giọng nói:
- Tội ngươi xúc phạm đến ta, ta chưa nói một lời, không phải bỏ qua đâu nhé!
Cô áo hồng tiếp nói:
- Chúng ta không phải người nhân gian, ngươi mơ tưởng như vậy là... Bệnh hoạn đó.
Cô áo hồng nói đơn giản như vậy, Tuyết Cừu đâm sợ.
Chàng thường nghe nói: Nam, nữ mới lớn dễ hay mắc chứng “âm lộ”, người sẽ xanh xao vàng vọt.
Chàng dợm chân một cái nữa, hai cô cũng dợm chân theo. Thì ra họ cũng là những cao thủ như chàng. Những người có võ công cao hay có những phản ứng đồng bộ.
Chàng liên tục dợm chân, họ cũng dợm chân liên hồi. Biết khó chụp bắt họ, chàng suy nghĩ biện pháp đối phó.
Bỗng chàng tính được một mẹo, thay vì chàng phải mở cửa để bay ra ngoài, chàng lại ngước lên nhìn mái ngói trên nóc, và ước lượng có thể tông lớp ngói mà bay ra được.
Lã Tuyết Cừu phóng vút người lên như chiếc pháo thăng thiên, dĩ nhiên hai cô kia cũng biến mất. Thân ảnh của chàng thật phiêu hốt, đầu chàng va vào lớp ngói rồi vọt ra bên ngoài.
Chàng thấy nhiều bóng người trên mái ngói, ở vào vị trí cuối phòng sau đang ném mình xuống đất. Và chàng không cần chơi trò cút bắt với hai cô kia nữa, chàng có thể tìm bắt kẻ đồng bọn tra vấn cũng được.
Chàng lại phóng mình xuống đất nhẹ nhàng như chiếc lá rơi. Chàng tiến về phía sau không gây tiếng động, nhưng chàng đến nơi không thấy bóng dáng một ai.
Tuyết Cừu thấy cỏ mọc tư bề, lớp cây lá khô chồng chất không biết bao nhiêu, liền nổi lửa đốt cỏ.
Mục đích không phải là đốt đền, mà làm cho quang đãng hơn, đồng thời cũng để tìm ra cửa hang.
Lửa bắt đầu cháy lên ào ạt. Lửa cháy đầu này, chàng đón đầu kia, nhưng vẫn không thấy một ai.
Chàng chạy vòng ra khỏi ngôi đền, đợi sẵn dưới mấy gốc cây? Rốt rồi vẫn không thấy một ai.
Lửa cháy càng lúc càng mạnh. Lửa cháy chung quanh ngôi đền, một rừng cây cỗ lối chừng vài ba chục mẫu, bị lửa đốt rụi, chỉ trừ mấy cây cổ thụ chúng chừa ra mà thôi.
Gió từ trong lửa bốc ra làm các tàn cây cao lêu rào rào. Những cây xanh còn non vẫn làm mồi cho lửa.
Chàng băng mình qua lửa chui vào đền.
Đống lửa bên trong chỉ còn những Đốm lửa đỏ hừng hực. Trong đền bây giờ vẫn tĩnh lặng như bao giờ.
Sao Mai phương Đông đã mọc, báo hiệu cho một ngày mới.
Chàng đứng trước lửa mà suy tính công việc cho sáng nay.
Tuyết Cừu tự hỏi:
- Tạ sao đám người ma quái này họ không chịu đối diện với ta. Họ sợ lộ bí mật hay họ chỉ giỏi về môn khinh công mà thôi?
Trong võ học, khinh công cũng là một trong những công phu lớn. Người giỏi khinh công thì nội ngoại công phu đều tiến bộ. Hay có thể nói, chỉ cần qua môn khinh công, người ta có thể đoán biết võ công của họ như thế nào?
Bên ngoài, chung quanh bây giờ không còn một cọng cỏ. Trận lửa vừa qua, ngay tại đây thì không còn gì cả, ngoài một ngọn đồi hoang trống, không còn lấy một cành hoa dại, khóm cây non, nhưng biên giới lửa nới rộng xa tít mù xa kia.
Trời sáng...
Lã Tuyết Cừu tự hỏi:
- Ta nên làm gì bây giờ? Đi? Ở?
Nhớ đến con tuấn mã chiều qua chở trên lưng một người, chàng chưa biết người này quen hay lạ, và đám người nơi đây có ảnh hưởng gì với võ lâm, chưa khám phá ra, chàng khó mà dời gót.
Ban ngày, tất cả những quỷ mị đều biến đi để lại những hoạt động trong sáng.
Lã Tuyết Cừu mở toang cửa đền phía trước và nhìn vào suốt bên trong. Trên những bệ thờ trống trải không có một tượng thần nào. Chàng cắp đao thận trọng dò từng bước ra tận cửa sau, ngang qua căn phòng có bốn bệ thờ, vốn khi hôm đây bốn cao thủ đóng vai bốn vị tiên hiền đã đứng trên bục giờ biến mất theo bóng đêm và ngọn lửa.
Chàng mở cửa sau cửa đền ra. Bây giờ ánh sáng tràn ngập. Lã Tuyết Cừu lấy thanh đao nện xuống nền đất, nghe tiếng cum cum, chạy ong óng trong lòng đất.
Chàng để ý đến các vách, không có gì đặc biệt vì đây là vách đơn.
Vậy ngay trong nền đền này có cửa hầm ăn xuống phòng ngầm dưới đất. Và từ phòng ngầm sẽ có một hoặc nhiều cửa hầm ăn thông bên ngoài.
Trong đền, chỗ nào cũng trống trải, chỉ có mấy gầm bục, gầm bàn may ra mới có những miệng hầm, miệng hang nơi đó.
Chàng bắt đầu khám phá từng cái một.
Qua một hồi vẫn không tìm ra dấu vết gì cả, chàng nện đao xuống nền nhà, nói:
- Thật quái! Họ làm rắc rối vậy để làm gì chứ? Họ dành thời gian đào xới dưới đất, để luyện tập không phải là tốt đẹp hơn sao?
Trong đền không còn chỗ nào chàng không lục soát: Gầm giường, gầm bàn, chân bục... Mọi cái đều bị xê dịch để tìm kiếm, nhưng vẫn không
phát hiện được gì. Chả lẽ là bên ngoài? Bên ngoài thì mênh mông biết nơi nào mà tìm?
Chàng tiến sát về cửa sau, cũng không có một dấu hiệu gì khác. Mặt đất vẫn liền trơn.
Tuyết Cừu than thành lời:
- Tuyết Cừu ơi! Bình thường ngươi cứ tưởng ngươi thông minh lắm. Có ai ngờ, nhiều người thông minh và khôn lanh hơn ngươi. Cho ngươi có tìm ra cửa động chăng nữa, vị tất đã làm gì được họ.
Chàng ngẩn ngơ một hồi rồi bước ra ngoài...
Khi chàng vừa bước ra khỏi, bỗng nghe phía sau có tiếng cười khúc khích.
Lã Tuyết Cừu nhanh như chớp, búng ngược người lên không... Và ngay từ trên không, chàng đã quan sát toàn diện, cho đến khi rơi xuống bên trong khung cửa. Chàng chỉ thấy vài vệt mờ mờ như sương, ngoài ra không thấy hình ảnh một ai.
Lã Tuyết Cừu đứng tại cửa sau trịnh trọng tuyên bố:
- Ngay tại nội điện, bảy cửa ra vào của các vị tại hạ đã biết hết rồi. Nếu các vị không xuất đầu lộ diện, tại hạ tuyên bố phá hủy bảy cửa đó.
Chờ một hồi lâu không thấy phản ứng, chàng rút đoạn đầu đao ra, bắt đầu hủy một bệ thờ thứ nhất.
Mỗi một bệ thờ như vậy là một hình khối tháp cụt, có sáu mặt. Một hai mặt trong đó có cửa ra vào. Bao nhiêu lần khám phá không ra, vì cứ mãi nhìn nền nhà, tường vách nên không thấy.
Một cú nhảy bất thần lên cao, chàng thấy nhiều vệt mờ xẹt qua xẹt lại từ những bệ thờ đó, chàng mới nghiệm ra.
Những nhân vật ở đây quả là có nghệ thuật khinh công tuyệt vời. Nhờ vậy mà những cửa của bệ thờ đóng và mở phối hợp với thuật khinh công đã luyện tập nhịp nhàng, thành ra một chuỗi động tác liên tục.
Ánh đao đưa lên, bỗng chàng thấy qua khe hở có một thứ ánh sáng long lanh như mắt ai đang nhìn chàng. Chàng thu đao lại và cạy cửa ra...
Một nữ nhân áo tím hiện ra.
Chàng muốn xuất chưởng hoặc phóng chỉ điểm huyệt, nhưng nghĩ sao đó chàng không làm. Lại ngửa mặt nhìn trời như tự hỏi mình một điều gì đó.
Nàng vẫn đứng yên trong bệ.
Lã Tuyết Cừu nói:
- Dưới chân cô nương có ngõ xuống phòng ngầm, sao cô nương lại đứng yên? Mời cô nương bước ra!
Nữ nhân áo tím là một trong bốn vai pho tượng ở phòng trong.
Nàng chớp mắt bước ra.
Tuyết Cừu nói:
- Thường thì gặp cảnh này, ai cũng phải tấn công tại hạ. Nhưng sao cô nương lại không ra tay?
Nàng đáp:
- Qua một đêm tìm không ra đối phương, khi tìm được thì nổi giận tức ấy ai cũng phải trút lên đầu đối tượng. Còn công tử thì không, vậy thì làm sao ta có thể đánh công tử được chứ?
Lã Tuyết Cừu nói nhanh:
- Cô hơn hẳn bọn võ lâm chánh phái một bậc. Xin lỗi. Hãy chờ tại hạ!
Chàng không đả động gì đến cô ta, liền quay sang bệ thờ bên cạnh. Chàng dùng đao phá cửa ra.
Chỗ này không có người, chỉ có cửa vuông ăn thông xuống dưới.
Lã Tuyết Cừu đứng nhìn miệng hang mà tức cười:
- Bắt đám này không có gì khó, chỉ chăm chỉ một chút là bắt được họ, y như bắt những con kỳ nhông trong hang mà thôi. Nhưng tổ chức cho ra trò thì cũng mất nửa ngày.
Lã Tuyết Cừu hạ bệ thờ đậy ngang qua lỗ.
Năm bệ còn lại chàng bắt thêm được hai nữ nhân nữa, đó là cô áo hồng và áo xanh khi hôm. Bệ nào có lỗ chàng đều lấy bệ thờ đậy lên, sau đó chàng vác những khối đá lớn để lên đó.
Chàng kéo ba cô gái ngồi lại một nơi. Mặt chàng bình thản như không có chuyện gì gay cấn trong lòng.
Tuyết Cừu hỏi cô áo xanh:
- Xin cô nương cho biết quý danh?
Cô áo xanh đáp:
- Tiểu Thanh!
Chàng quay sang cô áo hồng nói:
- Cô nương là Tiểu Hồng?
Cô áo hồng lắc đầu:
- Không phải! Ta là... Hàn Nguyệt Thu.
Chàng nhăn mặt thở ra:
- Tên lạnh quá, thảo nào chỉ toàn sống về ban đêm và sống dưới hầm.
Chàng quay sang cô tím hỏi:
- Còn cô nương?
Cô áo tím nói:
- Bồ Tuyết Nê!
Chàng nói:
- Họ Bồ là con nhà văn chương, nhưng thường thường bị bất đắc chí. Còn Tuyết Nê trong thành ngữ Tuyết Nê Hoàng Hạc, cái tên cũng thật lạnh lẽo.
Chàng ngừng một chút, nói tiếp:
- Tại hạ có mấy lời muốn hỏi chư vị, rất mong được nghe những lời đáp chân thành nhất. Tổ chức của các cô ở đây, ai là thủ lãnh, lấy tên là gì?
Tuyết Nê nhìn sang hai bạn, nói:
- Chúng ta trong tổ chức Mê Hồn cốc. Đây không phải là sào huyệt. Thủ lãnh của chúng ta là Mê Hồn cốc chủ. Trong bọn ta chưa ai nhìn thấy mặt, hoặc nghe tiếng nói của người ấy bao giờ, nên không biết Cốc chủ là nam, hay nữ nhân.
Chàng hỏi:
- Cốc chủ có những hoạt động đối với giang hồ như thế nào? Đệ tử được bao nhiêu?
Tiểu Thanh nói:
- Không biết Cốc chủ là ai, thì cũng không thể nào biết được hành tung của Cốc chủ. Nhưng Mê Hồn cốc đứng ngoài mọi tranh chấp của giang hồ. Ngay tại đây là chi nhánh của Mê Hồn cốc, thành viên nơi đây được vài mươi. Đứng đầu Phân đàn là Đàn chủ Mã Đông.
Tuyết Cừu hỏi:
- Sự sinh hoạt hằng ngày của Mã đàn chủ như thế nào? Quyền hạn ra sao?
Tiểu Thanh nói:
- Thì cũng như mọi tổ chức khác, trước nhất phải lo liệu sinh kế, sau đó phải ôn luyện võ nghệ. Hằng năm qua hai kỳ khảo hạch. Ai đạt, gởi về đại trung tâm bồi bổ một thời gian, Cốc chủ thấy được thì sẽ cho xuất sơn. Nguyên tắc hoạt động phải theo môn qui. Nếu ở Phân đàn, đệ tử bị trọng phạm, thì gởi người ấy về cho Cốc chủ quyết định. Ở đây Đàn chủ chỉ có quyền phạt cảnh cáo.
Chàng hỏi tiếp:
- Phải hội đủ tiêu chuẩn nào mới được gia nhập hội?
Tiểu Thanh nói:
- Những người kết nạp vào đây đều phải độc thân từ mười hai tuổi trở lên, phải có một căn bản võ công, không bị tật nguyền. Phải tuyên thệ suốt đời trung thành với bản phái. Trường hợp ba chúng ta đây, sẽ bị kết tội bất trung, vì đã tiết lộ bí mật của bản môn, và sẽ bị giao về đại trung tâm lãnh cực hình.
Lã Tuyết Cừu nói:
- Tại sao quý cô nương không chịu nói trước điều ấy cho tại hạ? Và biết đó là việc nghiêm trọng, sao quý vị làm điều hý lộng làm gì?
Hàn Nguyệt Thu nói:
- Không phải bọn ta hý lộng! Những người võ công tầm thường gặp cảnh đó phải bỏ chạy thôi. Đàng này công tử đã không chạy mà còn chống lại được cả mê hồn dược. Công tử đã xưng danh Tiểu Sát Tinh Lã Tuyết Cừu thì không ai ứng chiến cả.
Lã Tuyết Cừu trầm ngâm một hồi, nói:
- Tại hạ sẽ chịu tội thay cho ba vị, nhưng phải cho tại hạ gặp Mã đàn chủ.
Nguyệt Thu nói:
- Công tử hãy tự mình thực hiện! Công tử đã khám phá được mấy miệng hầm rồi, cứ từ đó mà lần ra. Bọn ta nói tới đây là đủ!
Tuyết Cừu nói:
- Dĩ nhiên là tại hạ tự mình phải đi! Sống chết thì tại hạ nguyện lãnh thôi. Thời gian đó quý vị ở đâu?
Tiểu Thanh nói:
- Ở ngay tại đây!
Chàng hỏi tiếp:
- Mã đàn chủ không cho người dẫn độ các cô sao?
Nàng đáp:
- Chắc chắn là việc đó không tránh khỏi. Nếu công tử có thắng có bại gì bọn ta cũng phải bị dẫn về đại trung tâm. Nhưng mà theo ta, công tử đến gặp Mã đàn chủ là việc hết sức nguy hiểm. Võ công cao siêu tới đâu cũng không qua được đường hầm, đó là chưa kể những phòng bị, cơ quan hay mọi điều khác.
Lã Tuyết Cừu thở ra nói:
- Tại hạ vốn không thù oán gì với Mê Hồn cốc. Nhân thấy chú ngựa trắng chở một kẻ bị thương về đây, bèn đi theo, không ngờ ngựa về đến đây thì biệt tích. Suy ra mới biết rằng, nơi đây có một tổ chức hay một sào huyệt nên mới cố gắng khám phá. Các cô cho biết đây là phân đàn của Mê Hồn cốc, tại hạ lấy làm giật mình.
Vợ chồng Huyết Thủ Lã Đạo Nghi bị giang hồ truy sát vì có liên quan đến Mê Hồn cốc. Lời đồn ấy do phái Nga Mi phát ra. Không ngờ vài lời truy hỏi khiến các cô phải mang vạ.
Tiểu Thanh nói:
- Bọn ta mang vạ, Cốc chủ cũng phải xét đó là sự bất đắc dĩ. Còn công tử vào gặp Đàn chủ hoặc Cốc chủ mới là chí nguy. Xin xét lại!
Tuyết Cừu quả quyết:
- Việc phải, không làm không được! Tại hạ đề nghị như thế này, các cô cứ để tại hạ trói và dẫn đi... Thì không ai kết tội gì cả.
Hàn Nguyệt Thu cười nhạt:
- Thật là trẻ con! Trong đường hầm chứ đâu phải ngoài chỗ khác? Người Mê Hồn cốc thấy bọn ta bị trói, dễ gì để yên cho công tử. Thà họ chịu chết. Ba đứa ta cứ ở đây, nếu êm xuôi thì thôi. Nếu bị giải đi, bọn ta không thể cưỡng lại.
Lã Tuyết Cừu thấy những người này tính nết ôn hòa. Nhất là hai cô Tiểu Thanh và Nguyệt thu, họ hí lộng cho đã, cuối cùng để chàng gần chiếm thành đoạt lũy. Vậy mà họ không biết hận thù. Đó là tấm lòng độ lượng hay họ bấy lâu có sự thèm khát về nhục cảm, hoặc họ không hề để ý đến những sự va chạm bình thường ấy?
Chàng đâm ra có cảm tình với họ. Tuyết Cừu hỏi:
- Nhân vật bị thương hôm qua hiện chữa trị ở đâu?
Tiểu Thanh nói:
- Một người vừa mới được người bản môn cứu chưa rõ họ tên. Hắn đã được đưa về đại trung tâm rồi.
Tuyết Cừu ngẫm nghĩ gì đó thật lâu, nói:
- Tại hạ nghĩ trước sau gì quý cô nương cũng bị Mê Hồn cốc chủ làm tội. Bây giờ tại hạ bảo vệ ba vị trở lại giang hồ, rồi tại hạ sẽ tìm tới Đàn chủ, nhờ Đàn chủ đưa tại hạ tới Cốc chủ.
Bồ Tuyết Nê nói:
- Các hạ tính gìa quá thành non! Dẫu các hạ có hộ vệ bọn ta đến mãn đời cũng chưa chắc được bình an, chứ đừng nói một thời gian ngắn rồi bỏ bọn ta. Đệ tử Mê Hồn cốc đông vô số. Người nào võ cung cũng cực cao, không phải như các đám của bang phái kia đâu. Đường đường ba vị Chưởng môn của đại phái bị Tiểu Sát Tinh giết không đầy ba chiêu. Các hạ thử xem thuật khinh công của bọn ta cũng đoán được phần nào căn bản võ công rồi. Một cách thiết thực nhất là các hạ tự lo cho mình đi!
Lã Tuyết Cừu nghĩ thầm:
- “Riêng nền đền này đã có mấy miệng ăn thông ngầm, huống gì nếu là đường ngầm thì còn rất nhiều ngả ngách nữa. Dù sao ta không thể không tới đó, chỉ ngại các cô nương này dùng mỹ nhân kế gạt ta xuống đó, trên này họ có quỷ kế gì nữa không thôi”.
Nghĩ là nghĩ cho cạn cùng vậy, Lã Tuyết Cừu cũng phải đi. Chàng nói một câu thăm dò:
- Tại hạ biết, trên mặt đất cũng còn nhiều cách thông tin với phân đàn và tổng đàn... Và các cô nương là người được Đàn chủ phân công ở lại để tiếp xúc và tìm hiểu tại hạ, đồng thời truyền đạt cho tại hạ những tin không chính xác. Nhưng bậc quân tử nói thì phải giữ lời. Tại hạ đi đây!
Chàng đến ngay bệ thờ chính giữa, giở tảng đá ra khoa đao chun xuống. Trong khi đó các nàng nhìn nhau, mỗi cô chia mỗi ngã mà đi.
Điều quan trọng là chàng vận dụng khứu giác, xem có mùi gì khác lạ chăng? Nhưng vẫn chưa phát hiện gì lạ cả.
Bây giờ chàng đặt bước chân đầu tiên xuống đường hầm. Con đường này cấu trúc của nó có phần hơi lạ. Hai bên là vách đá. Nền đường không được phẳng, chỗ cao chỗ thấp. Kể cả bụng hầm cũng vậy, chỗ rộng chỗ hẹp không đều.
Từ đó, Lã Tuyết Cừu có thể đoán được, đây là hang của một con suối ngầm. Và nếu vậy thì con đường này dài không biết bao nhiêu dặm.
Không chừng đầu bên kia của suối ngầm là tổng đàn cũng nên!
Ánh sáng trong đường hầm lờ mờ. Ngay vị trí chàng mới bước xuống, bụng hầm rộng như một căn phòng, và cũng có nhiều cửa hang ăn thông lên trên, không có đồ đạc, vết tích của ai ở đây.
Chàng suy đoán:
- Hoặc có thể họ có một căn phòng bí mật nào khác, vì tất cả là bảy cửa hầm, nhưng tại đây chỉ có bốn cửa, vậy ba cửa kia phải ăn xuống phòng khác, một hai phòng gì đó không chừng.
Chàng đoán tiếp:
- Ngoài ra trong hai vách hầm họ sẽ có những phòng phụ và cửa vào đó sẽ được ngụy trang để phòng ngừa có ai vào trong khám phá.
Càng đi sâu vào phía trong đường càng tối. Cũng may chàng luyện cách nhìn trong đêm đã quen, nên chàng có thể thấy xa hơn người khác.
Lã Tuyết Cừu quyết định trở lên lại và đi qua các phòng khác, họa may có gặp Mã Đông đàn chủ hay không. Chàng trở lại ngõ hang lúc nãy, thì ai đã lấp cửa hang bằng một khối đá to tướng.
Lã Tuyết Cừu vận công đẩy khối đá khổng lồ kia, nhưng đẩy không nhúc nhích.
Giả sử rằng chân chàng có thể đứng như đứng trên mặt đất thì chàng cũng có thể xê dịch được khối đá này.
Ba cửa hang còn lại cũng vậy. Và không chừng ngã thông hơi họ cũng bịt nốt, thì chàng chưa biết phải làm sao đây.
Đáng gọi nơi đây là cuối hầm, vì nơi này không còn là bụng của một suối ngầm nữa. Không chừng người của Mê Hồn cốc đã tạo ra một vách bịt.
Lã Tuyết Cừu biết mình mắc mưu, và cũng không chừng, cả tên họ của ba cô cũng chỉ là giả mạo.
Chàng nói một mình:
- Rõ ràng, ta thấy gương mặt họ trong sáng, tính nết họ ôn hòa, mà đâm ra bất phòng. Giả sử đầu kia họ tháo nước, có phải mạng ta giao cho Thủy thần chăng?
Chàng cả sợ và phi thân tới...
Càng đi, chàng càng nghĩ và tức cho mình. Một tay từng giết bao nhiêu mạng, bỗng dưng lại mềm lòng trước nữ nhân.
Chàng chạy như bay chừng nửa giờ, thì đã nghe tiếng ồ ồ trong hầm. Mặc dù tiếng ồ ồ ào ào ấy còn ở xa, nhưng rõ ràng đó là tiếng nước suối chảy. Tiếng suối mạnh lắm.
Thời gian chừng nửa khắc, chân chàng bắt đầu đặt lên luồng nước. Với tốc độ nước thế này, muốn đầy hầm ít ra phải mất một ngày hay một đêm.
Lã Tuyết Cừu ân hận vô cùng.
Nửa giờ sau, mực nước lên gần tới gối.
Bây giờ chàng mới hiểu thêm một điều nữa là những tiếng cười khúc khích kia không phải tiếng nhát ma hay góp vui một cách hiền hòa, mà tiếng thúc giục để chàng mau khám phá ra con đường để rồi chàng tự chui vào đó, và con đường ấy trở thành là tử lộ.
Lã Tuyết Cừu nói:
- Vậy là Nga Mi vu oan cho song thân. Nếu quả Huyết Thủ là truyền nhân của Mê Hồn cốc, có lý nào Mê Hồn cốc không biết ta là con của Huyết Thủ? Có lý nào Mê Hồn cốc tháo nước giết ta?
Bề cao của đường hầm chỉ cao hơn kích thước của con người chút ít thôi. Dù gì chàng cũng vẫn nỗ lực cho đến phút cuối cùng.
Không biết còn bao xa nữa, nhưng hiện thời mực nước đã lên gần đến bụng. Độ nhanh của chàng chỉ còn một phần ba.
Trong lúc ngặt nghèo này, chàng nhớ đến một việc thật buồn cười, việc đó cũng gần giống như người lặn xuống đáy biển để tìm một hạt... Muối. Đó là trong số châu ngọc chàng lấy từ bụng sấu, hy vọng rằng có viên Tị Thủy châu.
Tương truyền, xưa kia có năm viên ngọc quý, đó là Định Phong châu (ngọc dừng gió), Tị Hỏa châu (ngọc tránh lửa), Tị Trần châu (ngọc làm lắng bụi), Tị Thủy châu (ngọc làm đẩy nước), Vô Bệnh châu (ngọc làm người không bệnh).
Nhân việc chưa gấp lắm, chàng đem túi ngọc ấy ra thử.
Kỳ diệu thay, túi ngọc vừa đặt tới đâu, nước vẹt qua bốn bên một khoảng bề kính chừng vài gang tay, mường tượng một cục nam châm khổng lồ đẩy một nhóm sắt vụn chung quanh bắn vẹt qua.
Một nỗi an ủi là chàng có được một khoảng trống cho mũi thở.
Bỗng chàng nhớ đến Hoa Như Tuyết, nàng có nhiều tính lạ. Mừng gần rơi nước mắt, Tuyết Cừu than:
- Như Tuyết! Tuyết Cừu còn sống được trong trận này là nhờ cô nương. Ơn nghĩa ấy tại hạ không bao giờ quên.
Chàng lại nhớ đến Mộc Thúy Hương, một cô nương có nhiều kiến thức, hiện giờ đang giữ thanh Long Tuyền kiếm.
Tuyết Cừu nói:
- Bình sinh ta mang ơn hai người, đó là Thúy Hương và Như Tuyết. Còn Dương Tiểu Kha, Sử Tiểu Linh, Thuần Vu Oanh Oanh. Nhất là Oanh Oanh cũng chỉ có lòng với ta thôi, chưa có một thể hiện nào cả.
Lã Tuyết Cừu cầm túi ngọc đưa lên đưa xuống liên hồi cho nước vẹt ra, để chàng đi cho nhanh.
Thật ra, sức nước từ đầu trên theo đà trút xuống, càng lúc càng mạnh, túi ngọc vẫn cứ bạt về phía chàng mãi. Và nếu có muốn đi nhanh cũng nhanh chút ít mà thôi.
Nước lên gần tới rốn, mà trong hang bây giờ tối đen, chàng phải chọn vài viên dạ minh châu, bây giờ ánh sáng chung quanh chàng khả dĩ còn tỏ hơn vài chục con đom đóm.
Lã Tuyết Cừu bình thản đi tới.
Vài giờ sau, nước lên đến cổ. Hơi thở bắt đầu nặng, chàng than thầm:
- “Đích còn xa mà nước ngập thế này, dẫu cho người có thuật quy nguyên chăng nữa, liệu sống được bao lâu trong nước lạnh tê?”
Chàng chợt giật mình vì có nhiều tiếng khua trong dòng nước, âm thanh có vẻ khác lạ. Chàng định thần nhìn kỹ, đó là mấy con rái cá, không biết chúng có nhiệm vụ gì hay là chúng tình cờ theo con nước mà đến đây? Có thể nào là cá sấu chăng?
Sấu nếu ở trên cạn thì sự xoay trở của chúng không đáng ngại, chứ ở dưới nước thì sự nguy hiểm của nó gấp bội. Chàng rút đoạn đầu đao hượm sẵn.
Quả thật, có vài con sấu thật lớn đang phóng theo bầy rái. Thấy trước mặt chúng có ánh sáng lạ, chúng dừng lại và bơi vòng quanh lấy chàng.
Tuyết Cừu thầm lo, nếu chúng chỉ biết mồi chứ không cần biết dè dặt và cứ phóng vụt tới, liệu thanh đao kia có ngăn chận được chúng chăng?
Dù sao, Lã Tuyết Cừu vẫn đi tới.
Một con sấu nhắm ngay chàng phóng tới, chàng đưa tay lên khỏi đầu vớ thanh bảo đao, chàng chém một nhát cực nhanh, sấu bị trúng đao vội bật đuôi quay quanh lại.
Con thứ hai tiếp tục tấn công. Trước ánh sáng nhạt của màu ngọc, chàng thấy con sấu này mới lớn làm sao. Ngang cỡ với con sấu ở Thiên Trượng cốc.
Chàng lại đưa đao lên để hượm sẵn. Sấu vừa phóng tới, chàng vừa chặt xuống, đao trúng ngay mõm sấu, có lẽ đau lắm nên đuôi sấu quất ngược quất xuôi liên hồi.
Và bây giờ thì nước đã ngập đầu!