P2 - Chương 7

Cần không ít hơn bốn mươi con lạc đà để chở số hàng của chiếc tàu Hà Lan từ dưới bến lên Kasbah, và đoàn diễu hành này - được sắp xếp cẩn thận bởi Sakh el Bahr, người biết rõ giá trị của những cuộc trình diễn như vậy trong việc gây ấn tượng với đám đông – là một cảnh tượng chưa từng thấy trên các đường phố chật hẹp của Algiers sau sự trở về của bất cứ tay cướp biển nào. Nó hoàn toàn xứng đáng với người chinh phục của Hồi giáo vĩ đại nhất đã từng giương buồm ra khơi, với người mà, không hài lòng hạn chế mình ở Địa Trung Hải lặng sóng cho tới lúc đó vẫn là giới hạn của bọn cướp biển, đã mạo hiểm thử vận may của mình ngoài đại dương.
Dẫn đầu là một trăm tay cướp biển thủ hạ của chàng trong những chiếc áo caftan ngắn đủ màu, đai lưng dắt đầy dao kiếm, có gã trang bị cả một kho khí giới đủ loại ; nhiều gã mặc áo giáp hộ thân bằng mạng sắt, dưới turban nhô lên chỏm mũ sắt sáng loáng. Sau chúng, ủ rũ trong xiềng xích, đến lượt một trăm tù nhân bị bắt trên chiếc tàu Hà Lan, bị thúc giục bằng làn roi của những tên cướp đi áp tải. Sau đó đến lượt một toán cướp biển nữa, và sau đám này đến lượt một hàng dài lạc đà cao ngễu ngện, vừa đi vừa thở ra phì phì, được dắt đi bởi những gã quản la hét luôn mồm. Sau đoàn lạc đà lại đến lượt một toán cướp biển nữa, và cuối cùng, cưỡi một con ngựa thuần giống Arab trắng muốt, đến lượt Sakh el Bahr xuất hiện, đầu đội một chiếc turban dát vàng. Trong các con phố hẹp, với những ngôi nhà quét vôi trắng và vàng, tường kín mít không cửa sổ trừ vài khe hẹp trổ ra chỗ này chỗ khác để lấy ánh sáng và không khí, đám khán giả hốt hoảng đứng dạt vào trong khung cửa để tránh bị dẫm bẹp bởi đám lạc đà thồ nặng, các kiện hàng lớn trên lưng chúng gần như chật khít những con hẻm nhỏ này. Nhưng những chỗ rộng rãi hơn, như dọc hai bên bờ đê, ở quảng trường phía trước chợ và đường vào pháo đài của Asad, đều đầy ních những đám đông ồn ào đủ màu sắc. Có thể bắt gặp những người Moore bệ vệ mặc áo dài rộng thùng thình đứng kề vai với những người da đen cởi trần tới từ phía Nam ; những người Arab xương xương, dẻo dai trong bộ djellabas trắng phau không tỳ vết chen chân cạnh những người Berber từ trên núi xuống trong những chiếc áo choàng bằng lông lạc đà ; cũng có thể thấy những người Thổ đến từ phía đông, người Do thái tỵ nạn từ Tây Ban Nha vẫn giữ lại cho mình trang phục kiểu châu Âu, được chấp nhận vì gắn bó với người Moore bởi nỗi thống khổ chung và chịu cùng thân phận bị trục xuất khỏi nơi đã từng là quê hương họ.
Dưới ánh nắng châu Phi gay gắt, đám đông đáng kinh ngạc này đứng chen chúc nhau để chào đón Sakh el Bahr, và quả thật đám người này đang chào đón chàng với những tràng hô vang như sấm động đến mức tiếng vọng của chúng âm vang từ dưới con đê lên đến tận Kasbah trên đúng đỉnh đồi, báo trước sự xuất hiện của chàng cướp biển.
Tuy vậy, đến khi chàng lên đến pháo đài đoàn diễu hành đã giảm đi hơn nửa. Tại chợ đám tuỳ tùng của chàng đã chia ra, và thủ hạ của chàng, do Othmani chỉ huy, đưa đám tù nhân tới nhà giam (bagnio hay banyard như Lord Henry đã gọi), trong khi đoàn lạc đà tiếp tục cuộc hành trình lên đỉnh đồi. Đi qua cổng vào lớn của Kasbah, đám lạc đà tiến vào khoảng sân rộng, được đám quản sắp xếp thành hai hàng, chúng bắt đầu quỳ gối nằm xuống. Sau đám lạc đà đến lượt chừng bốn chục tên cướp biển đóng vai đội tuỳ tùng danh dự cho chủ tướng của chúng. Đám này đứng dọc hai con đường vào sau khi đã cúi gập người chào Asad ed Din. Basha ngồi trên một chiếc divan kê trên bục dưới bóng một nhà rạp, bên cạnh đức ông là viên thượng thư Tsamanni và Marzak, cùng sáu lính janissary đứng hộ vệ, trang phục màu cát của chúng làm nổi bật chiếc áo dài màu xanh lục dát vàng ngài đang mặc. Trên chiếc turban trắng của Basha lóng lánh một vầng trăng lưỡi liềm bằng ngọc lục bảo.
Khuôn mặt Basha tối sầm đăm chiêu khi đức ông quan sát đoàn lạc đà thồ nặng. Tâm trí của ngài vẫn vật lộn với nỗi nghi ngờ về Sakh el Bahr mà những lời lẽ khéo léo và sự ám chỉ còn khéo léo hơn của Fenzileh đã gieo vào đầu óc ngài. Nhưng khi vừa nhìn thấy chàng cướp biển khuôn mặt đức ông đột nhiên đổi khác, rạng rỡ hẳn lên, đôi mắt ông sáng lên, và ông đứng dậy đón chàng như một người cha đón chào một người con trai đã trải qua hiểm hoạ chết người để phụng sự một mục đích thiêng liêng với cả hai.
Sakh el Bahr, sau khi đã xuống ngựa ngay từ ngoài cổng, đi bộ vào trong sân. Cao lớn và kiêu hãnh, đầu ngẩng cao, chàng nghiêm trang bước tới chiếc divan, theo sau là Ali và một gã nước da đồng hun, đầu đội turban, trên cằm mang một bộ râu đỏ quạch, mà chỉ cần nhìn thoáng qua cũng có thể nhận ra lão du đãng Jasper Leigh, lúc này đã hoàn toàn chỉn chu trong bộ dạng của một kẻ cải giáo.
Sakh el Bahr quỳ một gối, cúi chào trân trọng chủ nhân của chàng.
« Ân sủng của Allah và bình yên của Ngài ở cùng Người, hỡi chủ nhân, » chàng lên tiếng chào.
Và Asad, cúi xuống đỡ chàng cướp biển oai hùng dậy, chào mừng chàng bằng những lời nói khiến Fenzileh đang nghe lén sau tấm bình phong phải nghiến chặt hai hàm răng lại.
« Tạ ơn Allah và chủ nhân Mohammet của chúng ta vì con đã quay về và mạnh khỏe, con trai của ta. Trái tim già nua của ta đã sẵn vui mừng vì tin chiến thắng con dành được khi phụng sự đức tin. »
Sau đó đến lượt màn trình bày tất cả kho báu cướp đoạt được của chiếc tàu Hà Lan, và cho dù Asad đã trông đợi rất nhiều vào chiến lợi phẩm thu được qua những gì Othmani đã thuật lại, cảnh tượng bày ra trước mắt đức ông lúc này vẫn vượt quá xa những gì ông trông đợi.
Cuối cùng, tất cả được đưa tới cất ở công khố, và Tsamanni được lệnh tới đó quy tất cả ra tiền để chia cho những người có liên quan – vì trong những món chiến lợi phẩm như thế này tất cả mọi người đều được chia phần, từ bản thân Basha, người đại diện chính quyền, cho tới những tên cướp biển thấp kém nhất thuộc thuỷ thủ đoàn của những chiếc tàu vinh quang của đức tin, tất cả đều có phần của mình, nhiều hay ít tuỳ theo địa vị, một phần hai mươi giá trị chiến lợi phẩm rơi vào túi của chính Sakh el Bahr.
Trong sân lúc này chỉ còn lại Asad, Marzak, đám janissary, Sakh el Bahr và Ali cùng Jasper. Đến lúc này Sakh el Bahr giới thiệu viên sĩ quan mới của mình cho Basha như một người đã được Allah soi sáng, một chiến binh lão luyện và một thuỷ thủ giàu kinh nghiệm, người đã đem tài năng và tính mạng của mình ra phụng sự Hồi giáo, người đã được Sakh el Bahr chấp nhận, và lúc này đến trình diện để chính thức được Asad bổ nhiệm.
Marzak bực bội chen vào, nói rằng đã có quá nhiều kẻ trước kia là những con chó tà đạo trong hàng ngũ các chiến sĩ của đức tin, và nâng số lượng chúng lên một cách quá đáng là một quyết định sai lầm và Sakh el Bahr đã quá lộng hành khi tự cho mình nhiều quyền như vậy.
Sakh el Bahr nheo mắt nhìn cậu thiếu niên, ánh mắt của chàng pha trộn cả sự ngạc nhiên lẫn coi thường.
« Cậu cho rằng thuyết phục được một người đứng dưới lá cờ của đức Mohamet là lộng quyền chăng? » chàng đáp. « Hãy đi đọc cuốn sách cao quý nhất và xem xem những gì đã được quy định như là bổn phận của các tín đồ chân giáo. Và hãy nhớ, hỡi con trai của Asad, rằng trong khi với trí tuệ trẻ con của mình cậu mỉa mai những người đã được Allah soi sáng, và đã từ bỏ bóng tối ra đứng dưới ánh mặt trời của chân giáo, cậu đã mỉa mai tôi và chính mẫu thân cậu, điều này cũng chỉ là chuyện nhỏ, nhưng đồng thời cậu đã báng bổ danh hiệu thiêng liêng của Allah, một hành động sẽ mở ra con đường dẫn tới hoả ngục. »
Bực tức nhưng bị đánh bại và đành im tịt, Marzak lùi lại cắn môi nhìn chàng cướp biển gườm gườm, trong khi Asad gật đầu mỉm cười tán đồng.
« Đúng là ngươi đã học rất chu đáo về chân giáo, Sakh el Bahr, » đức ông lên tiếng. « Ngươi đúng là cha đẻ của sự sáng suốt. » Và ông lên tiếng chào mừng thuyền trưởng Leigh, mà ông chấp nhận đưa vào hàng ngũ những người chân giáo với tên Jasper- Reis.
Xong việc, cả gã cải đạo lẫn Ali đều được cho lui ra ngoài, đám janissary cũng rời vị trí sau lưng Asad đến đứng canh trước cổng vào. Sau đó Basha vỗ hai tay vào nhau, và ngài ra lệnh cho gã nô lệ tới nhận lệnh chuẩn bị thức ăn, đồng thời đức ông cũng lệnh cho Sakh el Bahr đến ngồi trên divan bên cạnh ngài.
Nước được mang tới cho họ rửa tay. Sau đó, nô lệ mang tới một khay đồ ăn thơm lừng đựng thịt và trứng nấu với quả olive, chanh và gia vị.
Asad bẻ bánh mì với lời tạ ơn thành kính « Bismillah! » và đưa tay ra bốc thức ăn, Sakh el Bahr và Marzak cũng làm theo, và trong khi dùng bữa đức ông yêu cầu chàng cướp biển thuật lại chuyến phiêu lưu của chàng.
Khi chàng đã kể xong, và Asad lại một lần nữa tạ ơn thượng đế bằng những lời cầu nguyện đầy nhiệt thành, Marzak đặt cho chàng cướp biển một câu hỏi.
« Có phải chỉ để bắt hai nô lệ người Anh mà ngươi đã thực hiện chuyến đi mạo hiểm tới nơi xa xôi đó? »
« Đó chỉ là một phần dự định của tôi, » chàng bình thản đáp lại. « Tôi đi tuần trên biển để phụng sự đấng tiên tri, và kết quả của chuyến đi đã cho thấy bằng chứng. »
« Vậy là ngươi biết rằng chiếc tàu Hà Lan đó sẽ gặp ngươi trên đường, » Marzak nói, lặp lại đúng những gì được mẹ mớm lời.
« Chẳng lẽ lại không? » Sakh el Bahr đáp, và chàng mỉm cười tự tin, quá tự tin đến mức Asad chẳng cần nghe đến câu trả lời đã được lựa chọn rất khôn ngoan. « Chẳng phải tôi luôn đặt lòng tin vào Allah đấng toàn trí, Người biết tất cả sao? »
« Trả lời hay lắm, thề có Koran! » Asad khoan khoái tán thưởng chàng, càng khoan khoái hơn vì nó đã xoá đi sự nghi ngờ mà đức ông mong đợi hơn hết được nghe bác bỏ.
Nhưng Marzak vẫn chưa chịu thua. Cậu thiếu niên đã được người mẹ Sicily cơ trí huấn luyện kỹ càng.
« Nhưng vẫn còn vài điều trong tất cả chuyện này ta vẫn không hiểu, » cậu ta lẩm bẩm, vờ làm ra vẻ ngây ngô.
« Với Allah mọi điều đều có thể! » Sakh el Bahr đáp, với giọng làm ra vẻ ngạc nhiên, như thể chàng cho rằng – không hẳn không với một chút giễu cợt - thật không thể tin được có gì trên đời có thể qua khỏi sự sắc sảo của Marzak.
Cậu thiếu niên gật đầu thừa nhận. « Hãy nói cho tôi biết, hỡi Sakh el Bahr hùng mạnh, » cậu vặn hỏi, « có thể nào sau khi đã tới được bờ biển xa xôi đó ngài lại tự hài lòng với chỉ hai kẻ nô lệ còm cõi đó, trong khi với thủ hạ của mình và sự bảo trợ của Allah đấng toàn năng ngài đã có thể bắt được dễ dàng gấp năm mươi lần số đó. » Và cậu ta làm ra bộ ngây ngô nhìn thẳng vào khuôn mặt rám nắng của chàng cướp biển, trong khi Asad cau mày nghĩ ngợi, vì cả ông cũng đã có ý nghĩ này trước đó.
Đến lúc này Sakh el Bahr cần phải nói dối để thanh minh cho mình. Bây giờ không còn câu cao đạo viện dẫn đức tin nào có thể làm cứu cánh được nữa. Một lời giải thích là không thể tránh khỏi, và chàng hoàn toàn ý thức được rằng chàng không được phép đưa ra một lý do nghe có vẻ khập khiễng.
« Sao chứ, về chuyện này, » chàng nói, « các tù nhân này bị bắt ở ngôi nhà đầu tiên mà chúng tôi tấn công, và việc bắt giữ chúng đã gây ra báo động. Hơn nữa, khi chúng tôi đổ bộ trời đã tối, và tôi không dám mạo hiểm tính mạng thuộc hạ của mình để dẫn họ đi xa hơn khỏi tàu và tấn công một ngôi làng, vì rất có thể đường rút của chúng tôi sẽ bị cắt đứt. »
Vầng trán của Asad vẫn cau lại, trong khi Marzak kín đáo quan sát.
« Thế nhưng Othmani đã hối thúc ngươi tấn công một ngôi làng đang hoàn toàn không biết đến sự có mặt của ngươi, song ngươi đã từ chối không thực hiện, » cậu ta lên tiếng.
Nghe đến đây, Asad vụt ngẩng lên nhìn chàng sắc lạnh, và Sakh el Bahr nhận ra với trái tim hơi se lại rằng đang có âm mưu ngấm ngầm chống lại chàng, khiến người ta khổ công tìm kiếm mọi thông tin có thể đẩy chàng vào chỗ chết.
« Có thật thế không? » Asad hỏi, đưa mắt nhìn hết con trai lại đến viên phó tướng với đôi mắt nheo lại gườm gườm khiến khuôn mặt ông ta trở nên tàn nhẫn ma quái.
Sakh el Bahr quyết định đánh bài liều. Chàng nhìn thẳng vào đôi mắt Basha thách thức.
« Nếu đúng thì sao, thưa chúa công? » chàng hỏi.
« Ta hỏi ngươi có đúng vậy không? »
« A, vì biết đến sự sáng suốt của người thần quả là không tin nổi vào tai mình nữa, » Sakh el Bahr nói. « Những gì Othmani đã nói thì có ý nghĩa gì? Không lẽ thần phải nhận lệnh hay chỉ dẫn của Othmani sao? Nếu thế, tốt nhất xin hãy để Othmani thay thế thần, hãy để ông ta chỉ huy và chịu trách nhiệm về tính mạng của các tín đồ chân giáo chiến đấu bên cạnh ông ta. » Chàng chấm dứt với vẻ bất bình.
« Ngươi dễ nổi nóng quá đấy, » Asad đáp lại còn bực bội hơn.
« Thề có Allah, ai có thể nói là thần không có quyền đó? Có thể nào thần sau khi đã chỉ huy cuộc viễn dương này và trở về mang theo thành quả rực rỡ như vậy, lại bị vặn hỏi bởi một cậu bé con râu chưa mọc rằng tại sao thần không làm theo chỉ dẫn của Othmani? »
Chàng đứng phắt dậy đứng sừng sững trong cơn bực bội đóng kịch. Chàng cần phải tỏ ra kiêu hãnh, và dập tắt mọi nghi ngờ bằng điệu bộ ngạo ngễ, thậm chí giận dữ.
« Liệu Othmani có thể chỉ dẫn thần đến cái gì? » chàng hỏi trách móc. « Liệu anh ta có thể dẫn thần tới chiếm được nhiều hơn những gì thần đã đặt dưới chân người hôm nay không? Những gì thần đã làm đã quá đủ để tự biện hộ cho chúng. Những gì anh ta hối thúc thần làm rất có thể đã khiến chúng thần rơi vào tai hoạ. Nếu sự tình kết thúc như vậy, liệu trách cứ có trút xuống đầu anh ta chăng? Không, có Allah chứng dám, sẽ là xuống đầu thần. Và như vậy, chiến công này cũng thuộc về thần, và thần không muốn ai vặn hỏi nó mà không có lý do nào hay hơn. »
Quả thực đó là những lời táo tợn để nói với một kẻ quyền uy vô hạn như Asad, và còn ngạo mạn hơn là giọng nói đã tuôn ra những lời lẽ này, cùng ánh mắt long lên bực tức và những cử chỉ nhanh, mạnh, đầy khinh miệt đi kèm theo câu nói. Nhưng ưu thế chàng dành được trước Asad thì không nghi ngờ gì. Bằng chứng có thể thấy được ngay lập tức.
Asad gần như ngỡ ngàng trước cơn giận dữ của chàng cướp biển. Vẻ nghi ngờ biến mất khỏi khuôn mặt đức ông thay bằng vẻ lo ngại thấy rõ.
« Không, không, Sakh el Bahr, giọng điệu này! » Ông lớn tiếng.
Sakh el Bahr, sau khi đã đóng sập cánh cửa hoà khí trước mặt Basha, lại mở nó ra lần nữa. Chàng lập tức trở lại tuân phục.
« Hãy tha thứ cho thần, » chàng nói. « Hãy trách cứ sự nhiệt thành của kẻ tôi tớ này với người và với đức tin mà hắn đã phụng sự không tiếc mạng sống của bản thân. Trong chính chuyến đi này thần đã bị thương suýt chết. Vết sẹo còn mới của nó là bằng chứng cho sự trung thành của thần. Nhưng vết sẹo của ngươi ở đâu, Marzak? »
Marzak cúi mặt tiu nghỉu trước câu hỏi bất ngờ này, và Sakh el Bahr khẽ mỉm cười coi thường.
« Ngồi xuống, » Asad nói với chàng. « Ta đã không công bằng với nhà ngươi. »
« Người chính là cội nguồn của công lý, ôi chủ nhân của thần, và sự phán xử của người đã nói lên điều đó, » chàng cướp biển đón lời. Chàng lại ngồi xuống, hai chân xếp bằng. « Thần xin thú nhận với chúa công rằng khi đi sát bờ biển nước Anh trong chuyến đi vừa rồi, thần đã quyết định đổ bộ và bắt giữ một kẻ nhiều năm trước đã ám hại thần, giữa hắn và thần có món nợ cần phải trả. Thần đã vượt quá dự định ban đầu và bắt đi hai tù nhân thay vì một người. Những tù nhân này, » chàng tiếp tục, tính toán rằng lúc này tâm trạng của Asad đang là lý tưởng nhất để đề cập đến yêu cầu của chàng, « không bị nhốt chung ở trại giam với những tù nhân khác. Họ vẫn còn bị giam trên chiếc tàu buồm thần đã chiếm được. »
« Tại sao vậy? » Asad hỏi, nhưng lần này không có vẻ gì nghi ngờ.
« Bởi vì, thưa chủ nhân, thần xin được hưởng một ân huệ như là phần thưởng cho sự phục vụ của thần. »
« Cứ nói, con trai của ta. »
« Xin người hãy cho thần giữ hai tù nhân này lại cho mình. »
Asad nhìn chàng, vầng trán lại hơi cau lại. Bất chấp bản thân mình, bất chấp tình cảm quý mến dành cho Sakh el Bahr, cũng như mong muốn của đức ông tìm lại sự thanh thản trong đầu, nọc độc Fenzileh đã châm vào tâm trí ngài lại bùng lên.
« Ta có thể chấp nhận, » ông đáp, « nhưng luật lệ thì không, và luật lệ quy định rằng không cướp biển nào được giữ riêng một phần chiến lợi phẩm cho dù chỉ đáng một xu cho đến khi việc phân chia đã được thực hiện và phần thuộc về anh ta được phân bổ. » Câu trả lời thật nghiêm nghị.
« Luật lệ, » Sakh el Bahr lặp lại. « Nhưng người chính là luật lệ, ôi chủ nhân cao quý. »
« Không phải vậy, con trai của ta. Luật lệ cao hơn Basha, bản thân ông ta cũng phải tuân thủ nó để được coi là một người công minh, xứng đáng với bổn phận cao quý của mình. Và luật lệ ta vừa dẫn ra được áp dụng ngay cả khi Basha chính là người chiếm được chiến lợi phẩm. Những nô lệ đó của ngươi sẽ phải đưa tới khu nhà giam cùng những người khác và đem ra bán ở chợ vào ngày mai. Hãy tự mình đảm bảo rằng việc này được thực hiện, Sakh el Bahr. »
Chàng cướp biển đã toan năn nỉ, nhưng đôi mắt chàng đã bắt gặp khuôn mặt trắng trẻo của Marzak cũng đôi mắt đang chăm chú xăm xoi chờ đợi, hy vọng sự thất sủng của chàng. Chàng lập tức kìm mình, cúi đầu tuân lệnh với vẻ thản nhiên.
« Vậy xin người hãy định giá, và thần sẽ trả lập tức cho công khố. »
Nhưng Basha lắc đầu. « Quyền ra giá không thuộc về ta mà của những người mua, » ông trả lời. « Ta có thể định giá quá cao, như thế là bất công với ngươi, hay quá thấp, và như thế sẽ bất công cho những người khác cũng muốn mua chúng. Hãy đưa chúng tới khu giam nô lệ. »
« Ý nguyện của người sẽ được thực hiện, » Sakh el Bahr nói, không dám mạo hiểm nằn nì thêm nữa và cố dấu sự thất vọng của mình.
Ngay sau đó chàng đi thực hiện quyết định của Basha, nhưng cũng ra lệnh thêm rằng Rosamund và Lionel được giam riêng khỏi những tù nhân còn lại cho đến khi phiên chợ mở màn vào sáng hôm sau, khi hai người này bắt buộc phải ra chợ cùng những nô lệ còn lại.
Marzak vẫn nán lại bên người cha sau khi Oliver đã cáo từ, và ngay lập tức trong sân xuất hiện Fenzileh, người phụ nữ mà như nhiều người nói, đã mang những thói xấu Âu châu của Shaitan tới Algiers.