Dịch giả : Seahawk1
P2- Chương 23

Sakh el Bahr bị giam lại trong một khoang tối om nằm ở phía mũi chiếc Én Bạc để đợi đến khi trời sáng và sử dụng khoảng thời gian này để chuẩn bị cho linh hồn của mình. Không một lời nói nào được trao đổi giữa chàng và Sir John kể từ lúc chàng tự nguyện nộp mình. Với hai khuỷu tay bị trói giật ra sau lưng, chàng bị kéo lên chiếc tàu Anh, và trên mặt boong chiếc tàu này chàng đã đứng đối diện trong chốc lát với một người quen cũ - người thuật chuyện của chúng ta, Lord Henry Goad. Tôi có thể mường tượng ra vẻ nghiêm trang lạnh lùng trên khuôn mặt ngài trung uý của nữ hoàng, với đôi mắt tối sầm khi dừng lại trên người kẻ bội giáo. Tôi được biết - từ chính ngòi bút của Lord Henry - rằng họ đã không nói với nhau lời nào trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, trước khi Sakh el Bahr bị những người áp giải chàng hối hả lôi đi và tống giam vào xó tối đầy mùi ẩm mốc hiện tại.
Suốt một giờ liền chàng nằm yên ở chỗ chàng bị đẩy ngã xuống, tin rằng chàng chỉ có một mình ; và thời gian cũng như địa điểm hẳn đã dẫn chàng tới những suy tưởng ít nhiều triết lý về hoàn cảnh hiện tại của bản thân mình. Tôi cho rằng chàng đã nhận ra sau khi suy xét đến tận cùng, rằng chàng cũng chẳng có gì nhiều để tự trách cứ mình. Nếu chàng đã gây ra tội lỗi thì chàng cũng đã chuộc tội đầy đủ. Khó có thể thực sự cho rằng chàng đã phản bội những thủ hạ Hồi giáo trung thành của mình, hoặc giả có đúng vậy đi chăng nữa, thì ít nhất chàng đã tự mình trả giá cho chính sự phản bội đó. Rosamund đã được an toàn, Lionel hẳn sẽ phải đối diện với công lý dành cho anh ta, còn về bản thân chàng, lúc này chẳng khác gì một người đã chết, con người chàng cũng chẳng đáng gì nhiều để bận tâm đến nữa. Chàng hẳn cũng cảm thấy một chút hài lòng từ ý nghĩ rằng chàng đã sử dụng mạng sống của mình một cách có ích nhất. Cuộc đời chàng đã trở nên vô nghĩa từ lâu. Đúng là nếu không có cuộc tập kích báo thù tai hại đó, chàng hẳn đã có thể tiếp tục tung hoành trong một thời gian dài nữa như một tên cướp biển, thậm chí có thể trèo cao tới địa vị tôn quý với chức Basha của Algier và trở thành một ông hoàng chư hầu của Sultan Thổ. Nhưng với một người vốn sinh ra là một quý tộc Thiên chúa giáo, đó chẳng phải là con đường xứng đáng để chấm dứt cuộc đời. Những gì xảy ra hiện tại là con đường hay hơn cả.
Một tiếng sột soạt khẽ vang lên trong bóng tối đặc quánh của căn nhà tù thu hút sự chú ý của chàng cướp biển. Một con chuột, chàng thầm nghĩ, và xoay xở ngồi dậy, đạp chân xuống sàn để dịch ra xa con vật ghê tởm. Thay vào đó, một giọng nói cất lên trong bóng tối dò hỏi.
« Ai đó? »
Chàng cướp biển sững sờ trong khoảnh khắc, vì chàng vốn tin chắc chỉ có một mình.
« Ai vậy? » vẫn giọng nói nọ lặp lại, rồi bực bội nói thêm: « Đây là chỗ âm ty địa ngục nào vậy? Tôi đang ở đâu đây? »
Và lúc này chàng đã nhận ra giọng nói của Jasper Leigh, và tự hỏi không biết làm thế nào mà kẻ cuối cùng chàng chiêu mộ cho hàng ngũ tín đồ của Mohammed lại có mặt tại đây chia sẻ cùng một nhà ngục với chàng.
« Ngươi đang nằm trong khoang mũi chiếc Én Bạc ; mặc dù làm thế nào mà ngươi có mặt tại đây thì ta không thể trả lời được. »
« Ngươi là ai? » giọng nói cất lên hỏi.
« Ta vốn được biết tới tại Barbary dưới tên Sakh el Bahr. »
« Sir Oliver! »
« Ta cũng cho rằng giờ đây đó sẽ là cái tên người ta dùng để gọi ta. Có lẽ sẽ hay hơn nếu ta bị chôn vùi dưới biển sâu, nếu không hẳn các quý ông Thiên chúa giáo sẽ thấy thật lôi thôi khi phải chọn ghi gì lên bia mộ của ta. Nhưng lão - tại sao lão lại có mặt ở đây? Ta đã thoả thuận với Sir John là không ai bị xâm hại, và ta không nghĩ Sir John lại nuốt lời hứa. »
« Về việc này thì tôi không biết gì cả, vì thậm chí tôi còn không biết mình đang ở xó xỉnh nào cho tới khi ngài cho tôi biết. Tôi bị nện bất tỉnh trong cuộc loạn đả ; sau khi tôi đã đâm suốt thanh kiếm của mình qua người chú em bảnh trai của ngài. Đó là tất cả những gì tôi còn nhớ. »
Sir Oliver nín thở. « Lão nói gì? Lão đã giết Lionel? »
« Tôi tin là thế, » câu trả lời vang lên bình thản. « Ít nhất tôi đã cắm ngập hai tấc sắt vào người cậu ta – trong lúc giao tranh khi những người Anh đầu tiên lao sang chiếc galeasse ; cậu Lionel có mặt ở hàng đầu – nơi cuối cùng tôi hy vọng có thể tìm thấy cậu ta. »
Một khoảng im lặng nặng nề tiếp theo sau. Cuối cùng Sir Oliver khẽ lên tiếng.
« Hẳn là lão đã cho cậu ta đúng thứ cậu ta tìm kiếm. Lão có lý, Leigh ; hàng đầu cuả một trận đánh là nơi cuối cùng có thể tìm thấy cậu ta, trừ khi cậu ta cố ý có mặt tại đó tìm kiếm cái chết trên đầu lưỡi kiếm để trốn tránh sợi thừng. Tốt nhất là vậy, không nghi ngờ gì nữa. Thế là hơn cả! Chúa giúp cậu ta an nghỉ! »
« Ngài tin vào Chúa ư? » lão thuyền trưởng tội lỗi hỏi với giọng lo lắng.
«Hiển nhiên đó là lý do khiến người ta bắt lão, » Sir Oliver nói tiếp, như thể tự nói với chính mình. « Không hề biết gì về tội lỗi của cậu ta, coi anh chàng như một vị thánh, một người tử vì đạo, họ đã quyết định trút sự trả thù lên lão vì cậu ta, và bắt lão nhốt vào đây vì mục đích này. » Chàng thở dài. « Được, được, quý ngài Leigh, ta chẳng nghi ngờ gì rằng một kẻ du đãng như lão đã chuẩn bị sẵn sàng cái cổ của mình cho sợi thừng trong suốt cuộc đời ; vì thế chuyện này sẽ chẳng làm lão ngạc nhiên. »
Lão thuyền trưởng cựa quậy bất an, và than thở. « Chúa ơi, cái đầu tôi đau quá! » lão phàn nàn.
« Họ sẽ có một phương thuốc hiệu nghiệm để chữa trị cho lão, » Sirsad đứng phía trước đám tuỳ tùng, ra những mệnh lệnh ngắn gọn bằng giọng nghiêm nghị, và Sakh el Bahr, đứng sau lưng đức ông, tựa người vào vách gỗ của khoang đuôi với Rosamund ở sát bên, quan sát thấy rằng Basha đã cẩn trọng tránh không trao một trọng trách nào cho chàng trong cuộc chuẩn bị.
Những gã thuỷ thủ cầm lái đã chèo vào vị trí, và những mái chèo dùng lái tàu kêu lên cọt kẹt. Một mệnh lệnh ngắn của Asad vang lên, và cả đám nô lệ đồng loạt cử động, cúi người về phía trước để nâng mái chèo lên. Một lát sau, rồi một mệnh lệnh nữa vang lên, tiếng roi quất vang lên khô khốc trong màn đêm dọc thân tàu, và chiếc trông giữ nhịp bắt đầu vang lên đều đều. Đám nô lệ ngả người lại sau, và trong tiếng mái chèo đập nước, chiếc galeasse to lớn tiến lên phía trước hướng về phía lối ra thắt cổ chai.
Đám quản đi đi lại lại dọc lối đi giữa thân tàu, vung roi quất không thương tiếc để thúc giục đám nô lệ dồn hết sức lực. Chiếc tàu lao nhanh dần. Lối ra có vẻ mỗi lúc một rộng hơn khi họ tiến lại gần. Phía ngoài trải rộng mặt biển tối sẫm bình yên lặng sóng.
Rosamund căng thẳng đến mức hầu như nín thở. Cô thiếu nữ đặt một tay lên vai Sakh el Bahr.
« Liệu chúng ta có bỏ xa họ không? » nàng thì thẩm hỏi với giọng run rẩy.
« Tôi cầu mong là không, » chàng trả lời. « Nhưng đó chính là điều tôi e ngại. Hãy nhìn xem! » chàng kêu lên, đưa tay ra chỉ.
Họ đã vượt qua mũi doi đất. Họ đã ra khỏi vũng biển, và bất thình lình hai người nhìn thấy hình dáng tối sẫm của chiếc galleon, nổi lên với chừng vài chục đốm sáng rải rác, về phía mạn trái của họ.
« Nhanh nữa! » Asad quát lớn. « Hãy chèo vì mạng sống của chúng mày, đồ lợn tà đạo! Hãy quất không thương tiếc xuống chúng! Bắt đám chó đó gập người xuống mà chèo, và bọn Anh sẽ không bao giờ bắt kịp chúng ta! »
Những ngọn roi rít lên quật xuống ở dưới thân tàu, được đáp lại bằng những tràng rên rỉ của đám nô lệ bị hành hạ, những người này vốn đã dốc đến chút sức lực cuối cùng trong cố gắng tàn khốc khiến họ xa dần khỏi cơ hội được giải thoát và lấy lại tự do. Chiếc trống giữ nhịp vang lên mỗi lúc một gấp hơn, và cũng gấp gáp hơn là tiếng mái chèo đập nước và nhịp thở hổn hển đau đớn của những kẻ chèo thuyền.
« Giữ nhịp! Giữ nhịp! » Asad quát lên tàn nhẫn. “Hãy cứ để chúng cháy phổi – dù sao thì cũng chỉ là những lá phổi tà đạo - chỉ cần chúng giữ vững nhịp chèo hiện tại trong một giờ nữa.”
“Chúng ta đang bứt ra xa!” Marzak reo lên mừng rỡ. “Tạ ơn Allah!”
Quả đúng như vậy. Ánh sáng hắt lại từ chiếc galleon mờ dần. Cho dù đã giương hết buồm, nó vẫn có vẻ như đứng im lìm vì gió lúc đó quá yếu. Và trong lúc chiếc galleon chững lại, chiếc galeasse vùn vụt lao đi với tốc độ chưa từng có kể từ khi Sakh el Bahr chỉ huy nó, vì Sakh el Bahr chưa bao giờ quay lưng lại phía kẻ thù cho dù có mạnh đến đâu.
Bất thần một tiếng quát lớn ra lệnh dừng lại vọng tới từ phía chiếc galleon. Asad phá lên cười, và trong bóng tối ông ta giơ nắm đấm về phía đối phương mà nguyền rủa nhân danh Allah và đấng tiên tri. Thế rồi, để trả lời cho tràng nguyền rủa của đức ông, mạn chiếc galleon loé lửa; màn đêm yên tĩnh bị xé toang bởi tiếng đại bác gầm vang, và một vật gì đó đập nước ngay trước mũi chiếc tàu Hồi giáo làm vọt lên một cột nước.
Lo sợ, Rosamund nép sát hơn vào Sakh el Bahr. Nhưng Asad lại phá lên cười.
“Không cần phải e ngại tài thiện xạ của chúng,” ông ta lớn tiếng. “Chúng không thể thấy chúng ta. Ánh sáng của chính chúng sẽ làm chúng loá mắt. Tiếp tục chèo! chèo!”
“Ông ta có lý,” Sakh el Bahr nói. “Nhưng sự thật là vì họ không dám bắn chìm chúng ta vì họ biết em đang ở trên tàu.”
Cô thiếu nữ nhìn ra phía biển, và nhận thấy ánh sáng của chiếc tàu bạn bè mỗi lúc một xa dần về phía đuôi tàu.
“Chúng ta đang bỏ xa họ,” cô kêu lên khổ sở. “Giờ thì họ không thể đuổi kịp chúng ta nữa.”
Chính Sakh el Bahr cũng e sợ điều này. Hơn thế nữa. Chàng biết rõ trừ khi có phép lạ nào đó khiến gió đột ngột thổi mạnh, kết quả sẽ như cô thiếu nữ vừa nói. Và từ tình thế tuyệt vọng chợt nảy ra một quyết định - một quyết định cũng tuyệt vọng như chính hoàn cảnh đã làm nảy sinh ra nó.
“Có một cơ hội,” chàng nói với cô gái. “Nhưng đó sẽ là đặt cược cái sống và cái chết vào một lần gieo xúc xắc.”
“Vậy hãy nắm lấy nó,” nàng trả lời lập tức. “Cho dù vận may có chống lại chúng ta, chúng ta cũng sẽ không phải là kẻ thua thiệt.”
“Em đã sẵn sàng đón nhận mọi chuyện rồi chứ?” chàng hỏi lại nàng.
“Chẳng phải em đã nói là đêm nay em sẵn sàng theo anh xuống vực thẳm sao? Đừng phí thời gian vào lời nói nữa!”
“Sẽ như vậy,” chàng nghiêm nghị nói, bước đi một bước rồi dừng lại. “Tốt nhất em nên đi theo tôi,” chàng nói.
Cô thiếu nữ ngoan ngoãn đi theo, và một số kẻ có mặt trố mắt ra nhìn hai người đi dọc xuống thân tàu, thế nhưng không kẻ nào cản trở cô gái. Lúc này chúng đã có quá đủ chuyện để bận tâm.
Chàng cướp biển mở ra một con đường cho cô thiếu nữ theo sau, vượt qua đám cai đứng trên đám nô lệ đang tàn nhẫn vung roi thúc giục, và cứ như thế dẫn cô đến giữa thân tàu. Tới đây chàng cầm lấy chiếc đèn đã bị che lại vẫn còn thắp sáng, và vừa nhìn thấy ánh đèn loé sáng lên, Asad gầm lên ra lệnh dập tắt nó đi lập tức. Nhưng Sakh el Bahr chẳng hề đoái hoài gì đến mệnh lệnh này. Chàng bước tới bên cột buồm chính, nơi các thùng thuốc súng đã được xếp. Một thùng đã được mở sẵn phòng khi đám pháo thủ cần đến. Nắp thùng chưa lật ra đậy hờ phía trên. Sakh el Bahr hất chiếc nắp ra; sau đó chàng nhấc lồng đèn lên, và hạ ngọn lửa trần xuống ngay sát thùng thuốc súng.
Một tiếng la hoảng bật lên từ những kẻ đã theo dõi hành động của chàng. Nhưng át đi tất cả là một giọng nghiêm trang lạnh lùng ra lệnh:
“Dừng chèo ngay!”
Chiếc trống giữ nhịp im bặt, nhưng đám nô lệ theo đà vẫn chèo thêm một nhịp nữa.
“Dừng chèo!” chàng cướp biển lại ra lệnh lần nữa. “Asad!” chàng gọi. “Lệnh cho chúng dừng lại, nếu không tôi sẽ gửi ngài lập tức đi gặp Shaitan.” Và chàng hạ ngọn đèn xuống cho tới khi nó nằm ngang miệng thùng thuốc súng đã mở toang.
Lập tức các mái chèo dừng lại. Nô lệ, cướp biển, các sĩ quan, và cả chính Asad cùng sững người bất động, tất cả chăm chăm nhìn vào khuôn mặt lạnh lùng được chiếu sáng bởi ngọn đèn, lúc này đang đe doạ huỷ diệt tất cả bọn họ. Một vài kẻ hẳn cũng thoáng nghĩ tới việc lao vào chàng; nhưng nỗi sợ hãi đã giữ chân chúng lại, e ngại rằng chỉ cần một cử động về phía chàng cướp biển có thể đẩy nhanh hơn vụ nổ sẽ gửi tất cả chúng sang thế giới bên kia.
Cuối cùng Asad nói với chàng cướp biển, giọng ông ta run lên vì căm tức.
“Cầu Allah quật chết mi đi! Mi bị quỷ ám rồi chăng?”
Marzak, đứng bên cạnh cha, đặt một mũi tên lên chiếc nỏ cậu ta vừa vớ lấy. “Tại sao tất cả các người cứ đứng đực ra mà nhìn như thế?” cậu ta hét lớn. “Chém chết hắn đi!” Vừa nói cậu này vừa giương nỏ lên. Nhưng người cha cản ông con trai lại, biết quá rõ kết quả tất yếu sẽ theo sau.
“Nếu có ai bước một bước lại gần tôi, chiếc đèn này sẽ rơi thẳng vào thùng thuốc súng,” Sakh el Bahr nghiêm giọng. “Còn nếu ngươi bắn ta như ngươi định làm, Marzak, kết quả cũng sẽ tương tự. Hãy biết điều, trừ khi các người nóng lòng muốn thấy thiên đường của đấng tiên tri đến vậy.”
“Sakh el Bahr!” Asad hét lớn, và từ căm giận giọng đức ông chuyển sang đấu dịu. Đức ông đưa tay làm ra vẻ cầu khẩn về phía viên thuyền trưởng mà số phận ông ta đã thầm kết án. “Sakh el Bahr, ta van ngươi hãy vì bánh mì và muối chúng ta đã cùng chia sẻ mà trở lại tỉnh táo, hỡi con trai của ta.”
“Tôi hoàn toàn tỉnh táo,” câu trả lời vang lên, “và chính vì thế tôi không có tâm trí nào chấp nhận số phận dành cho tôi tại Algiers – cũng để tưởng nhớ chính thứ bánh mì và muối đó. Tôi không có hứng thú quay về cùng ngài để bị treo cổ hay bị xích vào mái chèo lần nữa.”
“Nếu ta thề với ngươi rằng sẽ không có gì tương tự xảy ra thì sao?”
“Thì ông sẽ nuốt lời sau đó. Tôi không tin ông nữa, Asad. Vì ông đã tự chứng minh mình là một gã ngốc, và trong cả đời mình tôi chưa bao giờ tìm thấy gì hay ho ở một gã ngốc và không bao giờ tin chúng - trừ có một lần, và hắn ta đã phản bội tôi. Hôm qua tôi đã cầu khẩn ông, chỉ cho ông thấy con đường khôn ngoan nhất nên theo, và cho ông cơ hội. Chỉ với một hy sinh nho nhỏ ông đã có thể có tôi trong tay và treo cổ tôi theo hứng thú. Tôi đã đề nghị trao chính mạng sống của mình cho ông, và bất chấp ông hiểu điều đó, ông đã không hiểu được rằng chính tôi cũng ý thức được nó.” Chàng bật cười. “Hãy xem xem ông là một gã ngốc đáng thương hại ra sao? Sự tham lam của ông đã huỷ diệt chính ông. Hai bàn tay của ông muốn vơ lấy nhiều hơn chúng có thể giữ được.Giờ hãy mở mắt ra nhìn hậu quả. Nó đang tới cùng chiếc galleon đang áp sát lại từ từ nhưng mỗi lúc một gần kia.”
Từng lời nói như ngấm vào óc Asad khiến ông ta vỡ lẽ một cách muộn mằn. Ông ta vung tay lên trong cơn căm tức và tuyệt vọng. Thuỷ thủ đoàn đứng im lặng ngỡ ngàng, không dám động đậy chân tay, e ngại sẽ đẩy nhanh hơn giờ phút tận số của mình.
“Hãy nói giá của ngươi,” cuối cùng Basha lên tiếng, “và ta xin thề có chòm râu của đấng tiên tri nó sẽ được trả cho ngươi.”
“Ta đã ra giá hôm qua, nhưng nó đã bị từ chối. Ta đã đề nghị giao nộp sự tự do và mạng sống của mình nếu cần thiết để đổi lấy tự do cho một người khác.”
Nếu chàng cướp bỉên quay lại nhìn sau lưng mình, hẳn chàng sẽ thấy đôi mắt Rosamund vụt sáng lên, khuôn ngực cô thở gấp, những dấu hiệu sẽ cho chàng thấy rõ những gì chàng vừa nói không có gì bí ẩn mà ngược lại cô thiếu nữ đã hiểu.
“Ta sẽ làm cho ngươi giàu có và được trọng vọng, Sakh el Bahr,” Asad gấp gáp nói tiếp. “Ngươi sẽ như con trai của ta. Chức Basha cũng sẽ thuộc về ngươi khi ta nhắm mắt xuôi tay, và cho tới khi đó tất cả sẽ kính trọng ngươi như chính ta vậy.”
“Ta không phải để bán, hỡi Asad hùng mạnh. Ta chưa bao giờ là vậy. Ông đã quyết khép ta vào chỗ chết. Ông có thể làm vậy lúc này, với điều kiện uống chung cùng một cốc với tôi. Những gì được tiền định đã được tiền định. Chúng ta đã cùng nhau đánh chìm nhiều tàu địch trước đây, Asad. Đến lượt mình chúng ta sẽ cùng nhau chìm xuống biển như ông muốn. »
« Cầu cho ngươi muôn đời bị thiêu đốt trong hoả ngục, đồ tim đen bội phản! » Asad nguyền rủa chàng, cơn giận đã phá bung mọi sự kiềm chế của ông ta.
Thế rồi, trước sự thừa nhận thất bại của Basha, một tràng cầu khẩn kêu gọi chợt bật ra từ thuỷ thủ đoàn. Những con ó biển của Sakh el Bahr kêu gọi chàng hãy nhớ lại tình cảm và sự trung thành chúng dành cho chàng, và hỏi chàng liệu chàng có thể đáp lại bằng cách đẩy chúng đến chỗ bị huỷ diệt hay không.
« Hãy tin vào ta! » chàng trả lời chúng. « Ta chưa bao giờ dẫn các người tới gì khác ngoài chiến thắng. Hãy tin chắc rằng lúc này ta sẽ không dẫn các người tới thất bại – trong lần cuối cùng chúng ta sát cánh bên nhau. »
« Nhưng chiếc galleon đã bắt kịp chúng ta rồi! » Vigitello kêu lên. Và quả đúng vậy, chậm chạp tiến lại gần theo làn gió nhẹ, thành mạn cao của chiếc galleon hiện lên sừng sững phía trên chúng, mũi chiếc tàu hướng tới chặn đầu mũi chiếc galeasse. Chỉ một khoảnh khắc sau nó đã áp mạn bọn cướp, với tiếng va chạm rầm rầm và tiếng hô đắc thắng của các thuỷ thủ Anh đứng dọc mạn tàu, những chiếc móc sắt được tung xuống bám lấy mũi, sườn và đuôi chiếc tàu hải tặc. Những chiếc móc vừa được giữ chặt lại là một làn sóng người mặc áo giáp ào ạt tràn sang chiếc galeasse, và đến lúc nàđó thực sự tốt đẹp. Thế nhưng xem ra số phận luôn có hứng thú làm thất bại mọi toan tính của lão. Vì khi người ta đến điệu Sir Oliver đi vào lúc rạng sáng, không ai để ý gì tới đề nghị của Jasper Leigh xin được đưa tới gặp Sir John.
“Chúng ta không nhận được lệnh nào liên quan tới mi cả,” một thuỷ thủ đáp ngắn gọn.
“Có thể là không,” Leigh đính chính, “vì Sir John khó mà biết được những gì tôi có thể cho đức ông biết. Tôi nói rồi đấy, hãy đưa tôi đến gặp đức ông, để ngài được nghe từ tôi một số sự thật trước khi quá muộn.”
“Ở yên đó,” tay thuỷ thủ quát lão, và quật lão một đòn nặng vào giữa mặt, khiến lão khuỵu xuống ngã gục vào một góc khoang. “Rồi cũng sớm đến lượt mi thôi. Lúc này chúng ta cần xử trí gã tà giáo này.”
“Không gì lão nói có thể thay đổi được tình hình đâu,” Sir Oliver bình thản an ủi lão. “Nhưng ta cảm ơn lão về ý nghĩ đã cho thấy lão là bạn của ta. Hai tay ta đang bị trói, Jasper. Nếu không ta đã xin phép được bắt tay lão. Vĩnh biệt!”
Sir Oliver bị điệu ra ánh sáng ban ngày chói chang, gần như khiến chàng loá mắt sau thời gian dài bị giam trong bóng tối. Chàng đoán rằng người ta hẳn đang điệu chàng tới khoang tàu nơi màn hài kịch ngắn ngủi của một phiên toà sẽ diễn ra. Nhưng vừa đến giữa thân tàu họ bị chặn lại bởi một sĩ quan, anh này ra lệnh cho họ đứng đợi ở đó.
Sir Oliver ngồi xuống một cuộn dây thừng, người lính áp giải bên cạnh, tâm điểm thu hút sự tò mò tìm hiểu của những người thuỷ thủ cục mịch. Họ chen nhau đứng chật boong mũi và cửa khoang nhìn chăm chú vào gã cướp biển lừng danh đã có thời là một nhà quý tộc người Cornwall trước khi trở thành một tên cải đạo Hồi giáo và nỗi kinh hoàng cho Thiên chúa giáo.
Nói một cách thành thực, khó mà nhận ra nổi nhà quý tộc Cornwall ngày nào trong chàng lúc này, khi chàng ngồi đó, vẫn mặc trên mình chiếc áo caftan dát bạc bên ngoài chiếc áo dài vạt màu trắng, một chiếc turban cùng chất liệu đội bên ngoài chiếc mũ trụ chỏm nhọn như mũi kích. Chàng uể oải duỗi dài đôi chânh các ngài. Làm theo lời tôi và ngài sẽ có tất cả những gì ngài tới tìm trên chiếc tàu này. Tiểu thư Rosamund sẽ được trao trả lại cho ngài.”
Sir John nhìn chằm chằm vào chàng cướp bỉên hồi lâu, cân nhắc. Rồi...
“Cho dù không chuẩn bị thương lượng với mi,” ông tuyên bố, “nhưng ta sẽ chấp nhận những điều kiện mi đưa ra, nhưng chỉ khi ta thực sự nhận được tất cả những gì ta tới đây tìm kiếm. Trên boong chiếc tàu này có một con chó bội giáo đê tiện mà ta bị ràng buộc bởi lời thề của một hiệp sĩ rằng ta sẽ bắt sống và treo cổ y. Cả y cũng phải được giao nộp cho ta. Tên y là Oliver Tressilian.”
Câu trả lời vang lên lập tức không chút chần chừ -- “Cả hắn tôi cũng sẽ trao lại cho ngài với điều kiện ngài thề rằng sau đó ngài sẽ rút lui và không gây hại gì thêm cho chúng tôi nữa.”
Rosamund nín thở níu chặt lấy cánh tay Sakh el Bahr, cánh tay đang giữ ngọn đèn.
“Cẩn thận đấy, quý tiểu thư,” chàng nghiêm giọng nói với nàng,” nếu không em sẽ huỷ diệt tất cả chúng ta đấy.”
“Thà thế còn hơn!” cô thiếu nữ đáp.
Thế rồi Sir John hứa với chàng rằng một khi Rosamund được trao trả và chính chàng chịu nộp mình, ông sẽ rút lui không gây thêm tổn hại gì cho bọn cướp biển nữa.
Sakh el Bahr quay lại phía bọn cướp biển đang chờ đợi, và thuật lại vắn tắt cho chúng điều kiện chàng đã điều đình.
Chàng yêu cầu Asad thề rằng những điều kiện đó sẽ được tôn trọng, và sẽ không có thêm đổ máu xảy ra từ phía ông ta, và Asad trả lời chàng, thể hiện hết sự căm tức của ông ta trước sự phản bội của chàng cướp biển.
“Vì hắn ta đã muốn có mi để treo cổ mi lên, hắn ta cứ việc bắt mi và giúp chúng ta đỡ phải ra tay, vì sự phản bội của ngươi cũng xứng đáng bị trừng phạt tương tự từ phía chúng ta.”
“Vậy thì tôi đầu hàng,” chàng thông báo với Sir John, và vứt chiếc đèn qua mạn tàu.
Chỉ có một giọng nói cất lên bảo vệ chàng, và đó là giọng nói của Rosamund. Nhưng giọng nói yếu ớt đó cũng nhanh chóng im lặng, bị khuất phục bởi sự kiệt sức. Cú sốc cuối cùng thêm vào tất cả những thứ cô gái phải chịu đựng trong vài ngày trước đó đã lấy đi toàn bộ sức lực của nàng. Gần như ngất đi, nàng khuỵu xuống đổ người về phía Sakh el Bahr trong khi Sir John và vài người tiến lại đỡ lấy nàng và trói người tù binh lại.
Đám cướp biển im lặng đứng nhìn; lòng trung thành với người thuyền trưởng oai hùng mà chúng đáng ra sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ đã bị sụp đổ bởi hành động phản bội của chàng khiến chiếc tàu Anh đuổi kịp chúng. Thế nhưng khi chúng nhìn thấy chàng bị trói lại và kéo lên boong chiếc Én Bạc, bất thần một phản ứng bùng lên trong hàng ngũ của chúng. Những thanh scimitar vung lên cùng những tiếng hò hét đe doạ. Nếu chàng đã phản bội chúng, ít nhất chàng đã cố gắng để chúng không bị thiệt hại bởi sự phản bội đó. Và đó là hành động xứng đáng với Sakh el Bahr mà chúng đã biết và yêu mến; xứng đáng đến mức tình cảm và lòng trung thành của chúng vụt trở lại trọn vẹn như trước.
Nhưng giọng nói của Asad đã vang lên nhắc cho chúng nhớ những gì chàng cướp biển đã hứa vì chúng, và vì chỉ giọng nói của Asad có thể sẽ không đủ để dập đi ngọn lửa phản kháng vừa bùng lên, vọng xuống tai bọn cướp biển là giọng nói của Sakh el Bahr lần cuối cùng ra lệnh cho chúng.
“Hãy nhớ và tôn trọng các điều kiện ta đã điều đình vì các người! Mektub! Mong Allah che chở và phù trợ cho các người!”
Trả lời chàng là một tràng than vãn, và cùng với những tiếng than vãn vọng tới tai chàng để cam đoan với chàng rằng chàng sẽ không ra đi mà không được nuối tiếc, Sakh el Bahr bị lôi đi để chuẩn bị cho đoạn kết của chàng.
Dây của các móc bám được cắt đứt, và chiếc galleon từ từ lùi dần vào bóng tối, để chiếc galley ở lại, thay thế các nô ref="#phandau">P2 - Chương 3
  • P2 - Chương 4
  • P2 - Chương 5
  • P2 - Chương 6
  • P2 - Chương 7
  • P2 - Chương 8
  • P2 - Chương 9
  • P2 - Chương 10
  • P2 - Chương 11
  • P2 - Chương 12
  • P2 - Chương 13
  • P2- Chương 14
  • P2- Chương 15
  • P2- Chương 16
  • P2- Chương 17
  • P2- Chương 18
  • P2 -Chương 19
  • P2 -Chương 20
  • P2 - Chương 21
  • P2-Chương 22
  • P2- Chương 23
  • P2- Chương 24
  • P2 -Chương 25
  • P2 - Chương 26
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!5880_29.htm!!!u trở về Algiers- Chúng than vãn không phải vì tiếc chiếc tàu chở vàng Tây Ban Nha thế là được bình yên vô sự, mà than tiếc người thuyền trưởng cừ khôi nhất đã từng vung thanh scimitar lên phụng sự Hồi giáo. Câu chuyện về hoàn cảnh đã khiến chàng bị bắt không bao giờ được kể rõ; không ai dám kể lại nó tường tận, vì không có ai tham gia vào sự kiện này sau đó lại không cảm thấy hổ thẹn về nó, cho dù hoàn toàn rõ ràng là chính Sakh el Bahr đã tự chuốc lấy số phận đó cho chàng. Nhưng ít nhất, người ta cũng hiểu rằng chàng không ngã xuống trong trận chiến, và từ đó có thể đoán ra là chàng vẫn còn sống. Từ sự suy đoán đó đã hình thành một thứ huyền thoại nói rằng chàng sẽ một ngày kia quay trở lại; và nửa thế kỷ sau, những tù binh được chuộc trở về đã kể lại rằng ở Algiers cho tới tận lúc đó, ngày trở về của Sakh el Bahr vẫn được tin tưởng trông chờ bởi tất cả các tín đồ Hồi giáo ngoan đạo.
     

    Truyện Chim Ó Biển (The Seahawk) ---~~~cungtacgia~~~---

    5 Tác phẩm

    --!!tach_noi_dung!!--

    Đánh máy : Seahwhk1
    Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 1 tháng 12 năm 2005

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--