Chương 1


Chương 3
LỜI TIÊN TRI CỦA
MỘT TÍN ĐỒ THIÊN CHÚA GIÁO

Vào giờ đó, khu quãng trường Pompéi rất nhộn nhịp. Suốt vỉa hè rộng lớn  lát đá phiến, từng nhóm người bàn tán sôi nổi về môi hiểm họa vừa mới xảy ra.  Chỗ này là một đám đông phụ nữ và nô lệ đang la hét. Chỗ kia, người ta thấy  bọn đổi tiền ngồi trong cửa hàng, của cải bày ra trước mặt, trong khi bọn lái  buôn, thuỷ thủ xúm xít lại với nhau, trong những bộ quần áo đủ kiểu. Phía khác, một số người áo thụng dài đang bước nhanh lên bậc thềm của một toà nhà lộng  lẫy. Ở đó có những luật sư, lém lỉnh và dài dòng cùng các quan toà sắt đá và dữ tợn. Giữa các khoảng trống là những bệ đá cao bên trên đặt những bức tượng, đặc biệt nhất là tượng Cicéron. Xung quanh sân, một dãy cột trụ đều đặn và đối  xứng theo lối kiến trúc Hy Lạp. Thỉnh thoảng đám người ở dưới lại giãn ra, kính  cẩn nhường lối cho vị trưởng lão đến đền thờ Jupiter tại một góc quảng trường,  cũng là nơi hội họp của Viện Nguyên lão.
Đứng ở bậc cửa đền jupiter, một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, tay khoanh lại, cau mày, vẻ khinh miệt. Quần áo của ông ta rất giản dị. Trán cao và  hói, chút tóc còn lại phía sau đầu bị che kín bở một cái mũ choàng liền với áo.
- Cái tên trơ tráo kia là ai thế? – Một lái buôn hỏi người bán vàng bạc.
- Đấy là Olythus! – Người bán vàng bạc trả lời. – Nó theo đạo Gia tô, dân  Nazaréen.
- Cái bộ lạc kinh khủng ấy anh? Nghe nói, ban đêm khi chúng họp lại để làm  lễ, bao giờ chúng cũng giết một đứa trẻ mới sinh để làm vật hiến tế, tài sản, tiền  bạc, chúng dùng làm của chúng hết. nếu luật lệ như vậy mà đặt ra, thì lái buôn  và chủ hiệu sẽ ra sao nhỉ?
- Vì thế chúng mới không đeo đồ trang sức. – Người chủ nói. - Tất cả các vật  trang trí ở Pompéi đều có hình con rắn, vậy mà khi chúng nhìn thấy rắn, chúng  lại nguyền rủa.
- Các ông biết không – một người thứ ba nói chen vào. – Gã đó là một thợ khắc đồ đồng, hôm nọ y đi ngang qua trước cử hàng của tôi, thấy tôi đang chạm  một bức tượng nữ thần Minerve, hắn dám cau mày nói với tôi rằng nếu bức  tượng bằng đá, hắn sẽ đập vỡ ngay. Đập vỡ tượng nữ thần? – Tôi hét lên với nó.  - Nữ thần à? – Tên Gia tô giáo trả lời, đó là con quỷ cái. Rồi nó bỏ đi, nguyền  rủa các thần linh,như vậy nó có đáng tội chết không chứ?
- Chúng nó là bọn ăn mày đã đốt phá thành Rome dưới thời Néron. – Người  chủ hiện lẩm bẩm.
Olythus đã bắt dầu nhận thấy hiệu quả mà ông tạo ra. Ông đứa mắt nhìn  xung quanh, ngắm những bộ mặt chăm chú của đám động, họ vừa nhìn ông, vừa thì thầm với nhau. Về phía mình Olynthus nhìn đám người, mới đầu có vẻ thách  thức rồi sau đó mặt ông lộ vẻ thương xót. Kéo kín áo choàng, ông bỏ đi, vừa  lẩm bẩm đủ cho mọi người nghe thấy.
- Tất cả đều mù quáng, sự rung chuyển đêm qua chưa phải là điềm báo trước  cho các người biết ngày cuối cùng hay sao? Than ôi, ngày tận thế cận kề, các  người sẽ lâm vào tình trạng như thế nào?
Olythus vượt qua đám đông đi về một trong những ngõ ngách vắng người  nhất của quảng trường. Ông dễ dàng nhận ra một bộ mặt tái nhợt và nghiêm  nghị đang đưa mắt chăm chú nhìn ông.
Phủ một chiếc áo choàng rộng che kín bộ áo thầy tu, chàng Apoecides trẻ ngắm nhìn vị môn đồ của giáo phái mới mẻ và bí mật mà chàng đã gần như ngả theo.
- Phải chăng ông ta là một kẻ lừa bịp? - Rồi chàng, tự nghĩ. – Một người giản  dị trong cuộc sống, không thể là người giả dối.
Nhìn vẻ mặt của Apoecides, có lẽ Olythus đã đóan ra đến những gì diễn ra  trong tâm hồn chàng, ông lại gần ánh mắt cương nghị, vẻ mặt điềm tĩnh. Ông  nói với anh thẳng thắn, chân thành.
- Cầu cho chàng được bằng an! – Ông vừa nói vừa chào Apoecides.
- Than ôi! – Apoecides trả lời.
Rồi chàng ngừng lại khi nhận thấy những kẻ vô công rỗi nghề đang tò mò chăm chú để ý và tự hỏi tại sao một người theo đạo Gia tô lại có thể trò chuyện  đến với một tu sĩ thờ nữ thần Isis. Do vậy chàng khẽ nói tiếp:
- Chúng ta không thể nói chuyện ở đây được. Tôi muốn đi theo ông ra bờ sông. Chắc ông biết có một con đường vào giờ này rất vắng vẻ.
Olythus tỏ vẻ đồng tình. Ông vuợt nhanh qua các con phố. Đôi chỗ, ông đưa  mắt, hoặc ra hiệu một cách kín đáo với vài người bộ hành, mà qua trang phục có  thể khẳng định họ thuộc vào tầng lớp cuối cùng của xã hội.
Apoecides theo Olythus ra đến bờ sông Sarnus. Họ đứng lại.
- Từ hôm anh đột ngột từ biệt tôi! – Olythus nói. – Anh có được hạnh phúc không? Dưới lớp áo thầy tu của mình, anh có hài lòng không? Anh đã được  nghe tiếng nói của thần linh chưa? Anh đã gặp một vài nhà đoán số trong đền  Isis chưa?
- Than ôi! Trước mặt ông; à một con người khốn khổ. Từ thuở còn trẻ, tôi đã  tin tưởng vào phẩm hạnh của một người hướng đạo. Tôi mong ước một số phận  như những người sống trong hang đá và các ngôi đền đơn độc, đã thấu suốt các  lẽ huyền vi của tạo hoá. Bị mê hoặc bởi những lời tiên tri thần bí của một tên  bịp bợm, tôi đã khoác chiếc áo này, đến khi tìm hiểu sự thật, tôi phát hiện ra đó  chỉ là một tên đại bịp. Bây giờ, tấm mặt nạ đã rớt xuống rồi. Tôi chỉ thấy hắn chỉ là một đứa khốn nạn mà trước kia tôi cứ tin nó là hiện thân của thánh thần. đối với tôi, trái đất trở nên âm u, tôi đã rơi xuống tận đáy vực thẳm. Tôi không  biết, trên đời này có thần linh hay không. Chúng ta có phải là những đứa trẻ lạc  loài không? Bên kia thực tại buồn rầu và hữu hạn này, chỉ là hư vô hay còn tồn  tại một thế giới khác?
Olythus đáp:
- Tôi không lấy làm lạ khi thấy anh hoang mang như vậy! – Olythus nói tiếp.  – Chúa đã xuất hiện tám mươi năm nay nhưng loài người vẫn chưa tin vào ngài.  Chưa tin vào một tương lai vĩnh hằng sau cõi chết, đã có một luật pháp mới đầu  độ lượng và yêu thương cho những ai thấy và tin. Đã có một thiên đường, một  Olympe chắc chắn dành cho những ai được phục sinh, anh hãy nghe lời tôi, Apoecides!
Với tất cả lòng nhiệt thành của người đưa tin. Olythus chăc chắn thuyết phục  được người anh em của mình đi theo con đường chính đáng. Ông truyền cho  Apoecides những lời hứa hẹn của phúc âm. Đầu tiên ông nói đến những đau khổ và những phép lạ của Chúa Kitô. Ông vừa nói vừa khó. Rồi ông nói đến sự xuất  hiện vinh quang của đấng cứu thế.
- Chúng ta cùng đi! – Ông nói, khi thấy rõ tác dụng của những lời mình. -  mời anh đến nơi giáo đường đơn sơ của chúng tôi. Anh hãy nghe lời cầu kinh  của chúng tôi. Anh hãy chú ý đến những giọt nước mắt thành tâm sám hối. Anh  hãy tham gia những buổi lễ đơn giản. Chúng tôi không dùng tràng hoa và lễ vật  để hiến tế. Chúng tôi dâng lễ bằng tất cả linh hồn của chúng tôi. Hôm nay là  ngày của Chúa, ngày mà chúng tôi dành cho sự sám hối và ăn năn. Thật là niềm  vui cho chúng tôi đưa được một con chiên lạc lối trở về nguồn cội của Chúa.
- Ông hãy dẫn đường, tôi xin đi theo ông.
Olythus vui vẻ nắm chặt bàn tay Apoecides cùng đi xuống phía sông.  Olythus đi trước dẫn đường. người tu sĩ thờ thần Isis cùng ông đi qua những  ngõ ngách khúc khuỷu, đến trước cửa một ngôi nhà nhỏ. họ gõ ba tiếng. cánh  cửa mở ra và đóng ngay lại sau khi Apoecides và người dẫn đường của anh ta  lọt qua ngưỡng cửa. họ đi qua một lối vắng vẻ, đến trước một căn phòng, Olythus gõ cửa và kêu lên: “Bằng an cho ai?”
- Bằng an cho kẻ trung thành! – Olythus trả lời, và cánh cửa mở ra. Khoảng  hơn mười người ngồi thành hình bán nguyệt. Tất cả đều trầm tư, trước một cây  thánh giá bằng gỗ đẻo gọt một cách thô sơ.
Tất cả mọi người ngước mắt lên khi Olythus bước vào, không ai nói một câu.  Olythus quỳ xuống. nhìn thấy môi ông mấp máy, mắt chăm chú vào cây thánh  giá. Apoecides biết ông đang cầu kinh. Làm xong nghi lễ đó, Olythus quay về phía đồng đạo của mình:
- Thưa quý vị - Ông nói. – Xin các vị chớ ngạc nhiên thấy một vị tu sĩ thờ thần Isis vào đây. Anh ta đã sống với những kẻ mù quáng. Nhưng linh hồn bất diệt vẫn ngự trị trong anh. Anh mong muốn được nhìn thấy, được nghe thấy,  được hiểu lời dạy của chúa.
- Cầu chúa ban phước lành cho anh! – Một người trong bọn họ nói.
Apoecides nhận ra người nói đó còn trẻ hơn mình, vẻ mặt cũng xương xẩu  và tái nhợt, đôi mắt của anh ta thể hiện một tâm hồn sôi nổi.
- Cầu chúa ban phước lành cho anh! – Tiếng người thứ hai nhắc lại.
Người vừa nói, trông tráng kiện, da rám đen, nét mặt phảng phất một nguồn  gốc châu Á. Rõ ràng đó là đứa con của vương quốc Syrie. Trước kia, anh ta là  một tướng cướp.
- Cầu Chúa ban phước lành cho anh! – Người thứ ba lên tiếng.
Người tu sĩ quay về phía người vừa nói, và trông thấy một cụ già râu lốm  đốm bạc, - Apoecides nhận ra đó là người hầu của lão Diomède giàu có.
- Cầu chúa ban phước lành cho anh! - Mọi người khẽ cầu nguyện cho  Apoecides. Trừ hai người, một sĩ quan vệ binh và một người lái buôn ở Alexandrie, những người còn lại đều thuộc giai cấp nô lệ.
- Chúng tôi không bắt buộc anh phải giữ bí mật. – Olythus lại nói. – Chúng  tôi không bắt anh phải thề không được phản bội chúng tôi. Nhưng dân chúng  vốn hung dữ hơn những kẻ đang trị vì khát máu của chúng tôi. Các bạn, thừa  biết là trong khi Pilat còn do dự, đám dân chúng đã làm ầm lên bắt phải đưa  Chúa Kitô lên giá thập tự và đóng đinh Người. Nhưng chúng tôi không bắt anh  phải đảm bảo an toàn cho chúng tôi. Không! anh cứ đem nộp chúng tôi cho họ.  Anh cứ buộc tội, vu khống, cứ đả đảo chúng tôi, tuỳ anh. Nếu anh thấy chúng  tôi đáng bị như vậy. Chúng tôi vượt lên trên cái chết. Chúng tôi vui vẻ trước  nanh vuốt của những con sư tử hay những dụng cụ khổ hình. Chúng tôi vươn  lên trên nấm mộ âm u và cái mà đối với kẻ phạm tội là sự chết thì đối với người  theo đạo lại là sữ trường tồn.
- Anh đến đây với chúng tôi để quan sát. Anh có thể đi với chúng tôi. Tôn  giáo chúng tôi, anh thấy đấy: Chỉ là một chiếc thánh giá với hình ảnh Chúa Kitô  bị đóng đinh là biểu tượng cao nhất. Lễ nghi của chúng tôi, nó ở ngay trong  cuộc đời này. Tất cả chúng ta đều có tội. Bây giờ ai có thể buộc tội chúng ta? Lễ rửa tội đã cuốn hết những vết ngày hơ của quá khứ… Ông Médon lại đây! –  Olythus vừa nói vừa hướng về người nô lệ già đã cầu phúc lần thứ ba khi  Apoecides vào. – Ông mở bản thảo ra và đọc đi!
Médon làm theo lời của Olythus, ông mở cuốn kinh thánh ra đọc cho  Apoecides nghe: Ông cụ chọn đoạn nói về tình yêu của chúa đối với muôn loài.  Đặc biệt là trẻ con, ông đọc đoạn kể về tình thương vô hạn của Chúa, thậm chí ngay cả khi nhìn thấy một sinh vật nhỏ bị nạn cũng làm cho Ngài thấy đau lòng.
Ngay lúc ấy, một cánh cửa phía trong mở ra, một người nhỏ bé bước vào căn  phòng. Nhìn thấy người đó, cả hội nghị đứng dậy. Ai nấy đều có vẻ kính cẩn,  Apoecides cảm thấy như mình bị hút về phía con người ấy một cách mãnh liệt!
- Các con! Cầu Chúa ban phúc lành cho các con! - Cụ già nói vừa giơ cánh  tay ra. Lũ trẻ chạy ngay lại với ông.
Cụ ngồi xuống đất, lũ trẻ nép vào bên chân cụ.
- Thưa cha! – Olythus nói. – Trong chúng ta có một người mới đến. Anh ta  là con chiên mới nhập vào đàn.
- Để ta ban phép lành cho anh ta. - Cụ nói.
Các hội viên giãn ra. Apoecides bước lại và quỳ xuống.  Thật hạnh phúc cho Ione! Nàng sung sướng được ở bên cạnh Glaucus,  được nghe tiếng của chàng nói, được nhìn thấy mặt chàng! Nàng…”
Đó là lời tự nhủ của cô gái mù khốn khổ vào buổi chiều, khi cô quay trở về nhà cô chủ mới và đã thấy Glaucus có mặt ở đó.
Bỗng một tiếng phụ nữ cắt ngang dòng suy nghĩ của cô.
- Cô hàng hoa đi đâu thế? Cô không mang lẵng hoa theo à? Cô bán hết hoa  rồi sao?
Người vừa nói với Nydia là Julia, con gái Diomède. Cô ta mang cái mạng  che mặt kéo lên nữa chừng đi trước, lão Diomède theo sau. Phía trước, một tên  nô lệ cầm đèn. Hai bố con lão lái buôn này vừa đi ăn tiệc ở một nhà hàng xóm về.
- Cô không nhận ra tiếng nói của tôi nữa à? Tôi là con gái phú ông Diomède  đây mà.
- À, nàng thứ lỗi cho tôi. Tôi nhớ lại giọng nói của nàng rồi. Bây giờ, tôi  không đi bán hoa nữa.
- Tôi nghe nói chàng trai thành Athène cao quý là Glaucus đã mua lại cô rồi, phải không cô nô lệ xinh đẹp?
- Tôi đang hầu hạ nàng Ione xứ Néapolis. – Nydia lạnh nhạt đáp
- A! Vậy thì đúng là…
- Đi thôi! Đi thôi! – Diomède ngắt lời, ông ta mặc trên người cái áo choàng che kín cả mồm. – Đêm đã trở lạnh rồi. Ta không thích đứng ở đây để nghe mày  chuyện gẫu với con bé mù đó. Đi thôi, hay bảo con bé theo chúng ta về nhà nếu  mày muốn chuyện trò với nó.
- Phải đấy! Đi theo chúng ta, cô bé! – Julia nói với giọng của người không  quen nghe bị từ chối. – Ta có nhiều điều muốn hỏi cô.
• •
- Tôi không thể đi được vì đã quá khuya rồi, tôi phải về, thưa công nương  Julia cao quý! – Nydia trả lời.
- Sao? Cô sợ nàng Ione hiền lành lại mắng cô hay sao? Vậy mai đến nhe!  Nên nhớ rằng ta vẫn là người quen cũ của cô.
Ngày hôm sau, đúng giờ hẹn, Nydia đến nhà Diomède.
Julia kiêu kỳ đang ngồi giữa đám nô lệ. Nàng đang ngồi trước một chiếc bàn,  trên đó có một tấm gương tròn nhỏ bằng thép đánh bóng loáng. Xung quanh, những đồ trang sức và mỹ phẩm được xếp đặt rất ngăn nắp. Trong bóng tối mờ ảo của căn phòng, lấp lánnh những màu sắc rực rỡ lòe loẹt của những bức họa  treo trên tường. Dưới sàn trải một tấm thảm phương Đông. Ngoài ra, bên cạnh  đó còn có thêm một chiếc bàn khác trên có một bình nước, một cái chậu, một  cây đèn, một công trình tinh xảo tạc hình thần ái tình Coupidon nằm dưới cành  nguyệt quế. Một cuốn nhỏ những bài thơ của thi sĩ tibulle. Một tấm màn rực rỡ thêu hoa vàng treo ở cửa phòng ngủ.
Nàng Julia xinh đẹp lười biếng tựa mình trên ghế trong khi người nữ nô lệ phụ trách công việc trang điểm nâng những cuộn tóc lên, nhẹ nhàng và khéo léo  lồng những cuộn tóc thật vào những lọn tóc giả. Chiếc áo dài màu vàng sẫm, rất  hợp với mái tóc đen và dân đã nâu, rủ xuống tận bàn chân với chiếc hài đỏ buộc  bằng những sợi dây trắng quấn quanh cổ chân thon nhỏ. Một nữ nô lệ già đứng  đằng sau người sửa tóc, tay cầm chiếc thắt kưng rộng bản đắt tiền của chủ, thỉnh  thoảng lại góp ý kiến với người sửa tóc vừa để làm hài lòng Julia.
- Để cái trâm lệch về phía bên trái một chút. Những bông hoa lộng lẫy nhất  chỉ có thể hợp với đôi má của công nương Julia trẻ trung. – Người nô lệ già nói.
- Nhẹ tay chứ! – Julia vừa nói vừa giận dữ giậm bàn chân nhỏ của mình xuống đất. – Mày kéo tóc tao cứ như nhổ cỏ vậy.
- Đồ súc vật! - Mụ già nói. – Mày không biết công nương Julia tế nhị à? Đây  có phải là cái đầu tóc rẽ tre của mụ goá Fulvia đâu! Bây giờ đến dải băng. Như thế được đấy. Cô Julia, cô thử ngắm vào gương xem!
Sau những lời bình phẩm, mái tóc được sửa qua sửa lại, rồi mắt được trang  điểm cho có vẻ mơ màng, một nốt ruồi nhỏ được khéo léo chấm bên cạnh đôi môi đỏ htắm làm cho người ta chú ý đến hàm răng và đôi má lúm đồng tiền, có  phớt nhẹ chút phấn làm cho da trắng thêm lên.
Julia hãnh diện ngắm mình một lần cuối.
Lúc đó, một người nô lệ khác dẫn Nydia vào.
- Chào công nương Julia! – Cô gái bán hoa nói. – Tôi đã đến theo lệnh của  công nương.
- Cô làm như vậy là phải. lại gần đây. Cô ngồi xuống… Vậy ra cô đang theo  hầu nàng Ione?
- Hiện tôi đang ở nhà công nương Ione.
- Nàng có đẹp như người ta đồn không?
- Tôi không rõ. Làm sao tôi có thể đánh giá sắc đẹp của công nương Ione  được?
- Thế Glaucus có đến thăm nàng không?
- Ngày nào cũng đến.
- Ngày nào cũng đến? Cô bảo sao? Thế chàng có nhận thấy Ione đẹp không?
- Tôi nghĩ chắc là có. Vì họ sắp cưới nhau.
- Cưới! – Julia kêu lên, mặt tái đi.
- Người ta bảo cô là người Thessalie phải không?
- Người ta nói đúng.
- Xứ Thessalie là vùng đất của phù thuỷ, của bùa mê, bùa yêu.
- Quả thật người ta vẫn coi xứ đó như vậy. – Nydia rụt rè trả lời.
- Cô có biết thứ bùa nào làm cho người ta yêu không?
- Tôi! – Cô gái bán hoa đỏ mặt nói. – Làm sao mà tôi biết được?
- Mặc cô vậy! Nếu cô khôn hơn, tôi sẽ cho cô đủ tiền để chuộc lại tự do.
- Nhưng – Nydia hỏi. – Ai có thể buộc được công nương Julia cao quý phải  đặt câu hỏi đó với người nữ tỳ như tôi? Chẳng phải công nương đã đủ giàu sang  và sắc đẹp? Những cái đó không phải là những lá bùa rồi u? Cần gì phải nhờ đến phù thuỷ nữa?
- Cái đó có tác dụng với mọi người, nhưng trừ một người ra. – Julia kiêu kỳ nói.
- Người đó là…?
- Không phải Glaucus đâu! –Julia trả lời với vẻ giả dối.
Nydia thở phào. Sau một lúc im lặng, Julia nói tiếp:
- Phải, tôi yêu, nhưng không được yêu lại. Điều đó làm cho tôi nhục nhã hay  đúng hơn, làm cho tôi tức giận. Khi người ta bảo tôi cô là người xứ Thessalie, tôi tưởng cô cũng biết được những phép thuật của xứ sở cô.
- Ồ, không! – Nydia lẩm bẩm. - Cầu thần linh cho cô được toại nguyện.
- Cảm ơn cô về lời chúc đó. Nhưng cô có bao giờ nghe nói tới một người  phù thuỷ phương Đông hiện đang sinh sống ở đây có phép mầu đó không? Tôi  không nói đến những kẻ làm trò múa rối, trò ảo thuật ở chỗ công cộng. Tôi muốn nói đến những phù thuỷ có tài, người Ấn Độ hay người Ai Cập cũng  được.
- Người Ai Cập thì có! – Nydia vừa nói vừa rùng mình. - Khắp thành Pompéi này ai mà không biết ông Arbacès?
- Arbacès? Phải rồi! – Julia nói, vừa sực nhớ ra. – Ai cũng nói ông ta vượt  lên trên những bùa chú thông thường. Biết cả khoa chiêm tinh, lẽ nào ông ta lại  không biết những điều huyền bí về tình yêu?
- Nếu có một phù thuỷ tài ba vượt lên trên mọi kẻ khác. – Nydia trả lời. – Thì  chỉ có con người ghê gớm đó thôi.
- Ông ta giàu có quá rồi, không hiểu ông ta muốn gi. – Julia nói tiếp. –  Nhưng tôi cứ đến thăm ông ta.
• •
Arbacès đang ngồi trong một căn phòng trông xuống khu vườn. đôi gò má tái nhợt chứng tỏ những đau đớn mà hắn đã phải chịu đựng. Những sức lực sắt  thép của hắn đã thắng được hậu quả kinh khủng của cái tai nạn đã phá hết hy  vọng của hắn vào đúng lúc hắn nắm phần thắng trong tay.
- Cơn bão táp mà số phận đã báo cho hắn ta. – Hắn nói. – Đã nổi lên và biến  đi rồi. Tai nạn đe dọa cuộc đời hắn nay đã xa rồi. Ta đã thoát. Ta đã khuất phục  được điều nguy hiểm cuối cùng dành cho số phận ta. Giờ đây, tương lai của ta  sẽ là những ngày vui thú. Thú vui đầu tiên của ta sẽ là trả thù. Cái thằng Hy Lạp  trẻ ranh đó đã làm sụp đổ hết dự định vào lúc mà con dao của ta sắp tắm vào dòng máu hiếu thắng của nó, thằng đó không thoát khỏi tay ta lần thứ hai.  Nhưng ta sẽ trả thù bằng cách nào?
Trong khi Arbacès mải mê suy nghĩ như vậy thì một nô lệ rụt rè:
- Thưa ngài! Có một phụ nữ, chắc thuộc dòng dõi tôn quý theo như cách ăn  mặc của bà ta và tên nô lệ theo hầu, muốn được gặp ngài.
- Cho mời vào! – Lão Ai Cập nói. – Hắn hy vọng người đó là nàng Ione.
Nhưng chỉ nhìn qua người đang bước vào nhà, hắn hiểu ngay mình đã nhầm. Quả thật người phụ nữ đó cũng cao gầy như Ione và chắc cũng trạc tuổi nàng. Nhưng không có được dáng điệu thuớt tha như Ione.
- Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi đứng dậy một cách khó khăn. – Arbacès vừa nói vừa nhìn người phụ nữ lạ. Tôi vừa trải qua một điều không may.
- Xin ngài đừng bận lòng, ngài Ai Cập cao quý! – Julia trả lời. – Xin ngài thứ lỗi cho một người phụ nữ khốn khổ đến nhờ tài năng của ngài giúp đỡ.
- Mời nàng lại gần đây, người đẹp! Nàng cứ tự nhiên, đừng sợ gì cả.
Julia ngồi xuống cạnh tên Ai Cập rồi đưa mắt sửng sốt nhìn xung quanh căn  phòng mà sự xa hoa vượt hẳn căn phòng sang trọng nhất trong nhà của chàng  nàng.
- Lý do nào? – Arbacès chậm rãi và nghiêm nghị nói. – Đã khiến nàng tìm đến nhà một người phương Đông như tôi?
- Uy danh của người đó. – Julia nói.
- Về việc gì? – Hắn nói với một nụ cười lạ lùng pha chất ngạc nhiên.
- Ông lại cần phải hỏi điều đó ư, ông Arbacès? Pháp thuật của ông không  phải là sức mạnh để khám phá ra một bí mật hay sao?
- Quả tôi có đôi chút hiểu biết. – Arbacès trả lời. – Nhưng những điều huyền  bí đó đâu phải để nói với người đẹp.
- Than ôi! - Julia nói, nàng đã lấy lại được chút bình tĩnh trước cái giọng nói quen thuộc. - Nỗi đau đớn không trông cậy vào tài năng được khẳng định ư?
- Á! – Arbacès kêu lên. – Tình yêu vô vọng không thuộc về loại người có nhan sắc xinh đẹp như nàng. Khuôn mặt nàng dù được che mạng, vẻ đẹp của nó  vẫn cứ toát ra bên ngoài một cách hết sức tự nhiên. Nàng cứ ngoảnh mặt về phía  người nàng yêu. Không còn bùa phép nào hơn điều đó nữa.
- Oi, xin ngài hãy từ bỏ những lời khen tặng đó. – Julia nói. – Tôi muốn có  một loại bùa thật, một thứ bùa làm cho người ta yêu mình.
- Các bùa chú như vậy! –Arbacès giải thích. – Không thuộc về những điều  huyền bí mà tôi đã thâu nhận được.
- Nếu như vậy, ông Arbacès, ông thứ lỗi cho tôi. xin chào ông.
- Hãy khoan! – Arbacès kêu lên. – Tuy tôi không học được cách làm thứ bùa  mê vì đó là những phép thuật huyền bí hạ đẳng nhưng tôi có thể đóng góp  những ý kiến hữu ích.
- Thật lạ kỳ, vậy ra nàng yêu người không yêu nàng? - Arbacès hỏi.
- Tôi không biết tôi có yêu chàng không. – Julia trả lời kiêu kỳ. – Nhưng tôi muốn vượt lên trên một tình địch. Tôi muốn kẻ đã từ chối tôi, phải quỳ dưới  chân tôi. tôi muốn thấy một người phụ nữ mà chàng đã thương yêu hơn tôi bị rơi bỏ.
- Tham vọng dĩ nhiên là xứng đáng với một phụ nữ như nàng. – Tên Ai Cập  nói tiếp, giọng nghiêm nghị quá mức thành ra diễu cợt. – Nàng cho tôi đặt một  câu hỏi nữa: Nàng có thể cho tôi biết tên người mà nàng yêu không? Phải chăng  đó là một thanh niên người Pompéi?
- Chàng là người Athène! – Julia nói, mắt nhìn xuống đất.
- À! – Tên Ai Cập sôi nổi kêu lên. - Ở Pompéi chỉ có một người Athène trẻ và cao quý thôi, có phải nàng định nói đến Glaucus?
- Xin ông đừng tiết lộ cho người khác biết. Đúng! Chính chàng.
- Lời khẩn khoản của nàng đã khiến tôi thương cảm! – Arbacès nói. -  Nguyện vọng của nàng sẽ được thỏa mãn. Tôi biết một người có khả năng đáp ứng yêu cầu của nàng. Cách thành phố này khoảng một dặm, dưới chân núi  Vésuve, có một phù thuỷ rất giỏi. Vào các đầu tuần trăng, mụ đi hái các thứ cây cỏ, rồi biến nó thành mãnh lực buột chặt tình yêu. Pháp thuật của mụ có thể bắt  người mà nàng yêu đến quỳ dưới chân nàng. Nàng hãy đến tìm mụ và bảo với  mụ rằng Arbacès giới thiệu nàng đến.
- Ôi! – Julia nói. – Tôi không biết con đường đến nhà mụ phù thuỷ mà ông  nói. Tuy nhiên, nếu người ta biết tôi yêu Glaucus, đối với tôi chẳng quan hệ lắm, nhưng tôi không muốn người ta biết tôi phải nhờ đến bùa phép mới chiếm  được tình yêu của chàng.
- Ba hôm nữa. – Tên Ai Cập nói, vừa đứng dậy để thử lượng sức mình. –  sau ba hôm tĩnh dưỡng, tôi có thể đưa nàng đi, nàng chờ tôi.
- Nhưng Glaucus sắp cưới cô gái thành Néapolis mà tôi ghét cay ghét đắng.
- Cưới à?
- Vâng, vào đầu tháng sau.
- Không thể như vậy được! – Tên Ai Cập gắng gượng nói. – Nàng đừng sợ,  Glaucus sẽ thuộc về nàng. Nhưng khi nàng đã nhận được lá bùa rồi, nàng sẽ sử dụng nó bằng cách nào?
- Chàng tôi đã mời Glaucus, và tôi chắc cả Ione nữa, đến dự tiệc vào ngày  gần đây. Tôi sẽ tìm cách đổ nước bùa vào ly rượu của chàng.
- Được! – Tên Ai Cập nói, mắt loé lên một nỗi sung sứơng man rợ khiến  Julia có phần kinh hoàng. - Chiều mai, nàng cứ chuẩn bị sẵng kiệu. Nàng có  người hầu không?
- Có chứ. – Julia trả lời hãnh diện.
- Cứ chuẩn bị kiệu. Cách thành phố hai dặm, có một nơi vui chơi mà những  người giàu sang ở Pompéi vẫn thường đến, bởi ở đó có bãi tắm và vườn cây đẹp  nàng sẽ gặp tôi ở đó. Tự tôi sẽ đưa nàng đến gặp mụ phù thuỷ. Arbacès xin thề với nàng rằng Ione sẽ không bao giờ là vợ của Glaucus!
- Và Glaucus sẽ thuộc về tôi.
- Phải.
•••
Một hôm, vào buổi chiều Glaucus và Ione cùng đi dạo và đến thăm một  ngôi đền Hy Lạp đổ nát cách thành Pompéi khoảng mười dặm. Bởi vì đối với  Glaucus và Ione, những gì liên quan đến đất nước Hy Lạp đều đáng tôn kính.  Con đường chạy dài dẫn họ đến một đỉnh cao nhất của núi Vésuve có những  đoạn rất khó nhọc. Ở một chỗ thoáng trong khu rừng, họ lại nhận ra những hang  hốc tối tăm ăn sâu vào dãy núi đá đã bị cháy. Mặt trời đã ngã về tây. Bóng râm phủ trùm lên các ngọn đồi. Đôi lúc, họ nghe thấy tiếng kèn mục đồng. Trên trời,  những đám mây nhẹ nhàng trôi. Phía bên phải, mặt biển yên lặng như tờ, vài chiếc thuyền nhẹ đung đưa, những tia nắng cuối ngày tô điển sắc biển dịu êm.  Họ đến trước một cảnh tượng hoang tàn, thành kính chiêm ngưỡng dấu vết còn lại của tổ tiên xa xưa. Họ đi bên nhau trên đường về. Bóng tối loang dài mặt đất.  Cả hai im lặng nhìn nhau.
Đúng lúc đó, cơn giông ập đến, mới đầu là tiếng sấm rền rĩ xa xa báo cho họ biết một cơn mưa. Rồi mây đen kéo đến, sấm sét nổ vang. Mưa càng lúc càng  nặng hạt. trời tối sầm lại.
- Nàng không sợ chứ, Ione? – Glaucus nói.
- Không, vì đã có chàng bên cạnh. – Ione dịu dàng trả lời.
Vào lúc đó, chiếc xe sa bánh xuống một chỗ trũng: Một bánh xe long ra làm chiếc xe đổ nghiêng. May thay, Ione không bị gì. Họ khó khăn dựng được chiếc  xe lên, mui phía trước của chiếc xe đã bị gãy, nước mưa dội trở vào trong xe.  thấy vậy người nô lệ theo hầu nói:
- Cách đây một dặm, có một nhà thợ rèn họ có thể chữa lại bánh xe. Nhưng  mưa to quá, trước khi tôi quay về, nữ chủ của tôi ướt hết.
- Anh cứ đi đi! – Glaucus nói. – Chúng ta sẽ cố tìm chỗ trú mưa. Chúng ta  đến gần sường núi Vésuve rồi, chắc chắn thế nào cũng tìm được một cái hang  đá.
Đưa mắt nhìn chăm chú khắp dãy núi, Glaucus trông thấy, cách chỗ họ không xa một đốm sáng đỏ lập loè cháy lên.
- Chắc có một mục đồng hay người coi vườn nào đó đốt lửa. – Chàng nói. -  Họ sẽ chỉ cho chúng ta chỗ trú mưa.
Một dãy đá do phún thạch tạo ra dựng đứng trước mặt họ, chợt hiện ra trong  ánh chớp những hình thù kỳ quái đến kinh hồn. Ione và Glaucus cứ đứng đó  phân vân. Lúc này, bóng đêm đã bao giờ trùm lấy họ. Họ quan sát xung quanh.  Không phải lều trại, chỗ ánh sáng phát ra hình như có người. Họ quyết định đi  về hướng đó. Cuối cùng, họ đến trước cửa một hang đá, được tạo thành từ những bàn tay con người.
Phía trong, trên bếp lửa đang cháy đặt một cái nồi con. Trong ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn thô sơ, những cây hoang cỏ dại treo lủng liểng. Một con cáo đang nằm đưa đôi mắt đỏ ngầu và sáng rực nhìn các khác lạ. Chính giữa hang,  một pho tượng thần Đất ba đầu hình dáng kỳ quái: ba cái xương sọ của chó,  nhựa và lợn lòi, một cái bàn thờ hơi cao đặt pho tuợng vị thần kinh khủng của  dân tộc Hécate. Những thứ đó chưa khiến Ione và Glaucus ghê rợn thật sự.  chính người chủ hang mới làm cho hai người hãi hùng.
Trước đống lửa, một mụ già đang ngồi. Thật khó có thể hiểu được tại sao lại  có một con người ghê tởm như thế. Tuy vậy, nhìn kỹ người ta vẫn nhận thấy ở mụ còn phảng phất những đường nét hài hoà tôn quý. Ánh mắt không còn  quyến rũ, có thể tưởng tượng, trông nó lạnh lùng, mờ đục. Và thỉnh thoảng nó  phát ra những tia sáng xanh lè. Đôi môi móm mém, lõm sâu khô cằn và xỉn lại  cứng đơ. Làn da sần sùi tái mét không chút nhựa sống.
- Một người chết. – Glaucus nói.
- Không… Mụ còn cử động… Đó là một con ma hay một con quái vật? – Ione vừa lẩm bẩm vừa nép sát vào ngực chàng trai Athène.
- Trốn đi, trốn đi! – Người nô lệ thét lên. – Đó là mụ phù thuỷ núi Vésuve.
- Ai đó? – Một tiếng nói khàn đục lạnh lẽo như từ dưới mồ vang lên – Các  người đến đây làm gi?
Cái tiếng nói đó có lẽ làm cho Ione muốn bỏ chạy. Nhưng Glaucus, tuy bản  thân chàng không phải không ghê rợn, đã kéo nàng bước vào trong hang.
- Chúng tôi là những bộ hành ở vùng lân cận, bị lạc trên núi. – Glaucus nói.  – Chúng tôi thấy ở đây có lửa nên đến trú nhờ.
Trong khi chàng nói, con cáo đứng dậy tiến lại gần họ: nó nhe răng vẻ đe  dọa.
- Yên! - Mụ phù thuỷ nói. – Nghe tiếng nói của mụ, con cáo dừng lại và nằm  xuống. – Ta không thích tiếp ở đây bất cứ sinh vật nào, ngoại trừ cú, cáo, cóc và rắn… Vì vậy ta cũng không muốn tiếp các người… Tuy vậy, các người có thể ngồi xuống cạnh đống lửa…
Mụ không rời mắt khỏi chỗ của mình, nhưng mụ đưa mắt chăm chú theo dõi hai người.
- Có lẽ chúng tôi đã làm phiền bà? – Ione nói giọng dịu dàng, nàng cố làm quen với mụ.
Mụ phù thuỷ không trả lời. Mụ giống như một cái xác người vừa tỉnh dậy để rồi lại tiếp tục giấc ngủ.
- Này - Mụ bỗng kêu lên. – Hai người có phải là anh em không?
- Không! – Ione đỏ mặt trả lời.
- Đã cưới nhau chưa?
- Chưa! – Glaucus nói.
- Ha! Những kẻ sắp cưới nhau!... ha! Ha! Ha! Ha! – Tiếng cười của mụ vang rền trong hang đá.
Tim Ione lạnh buốt.
- Tại sao bà lại cười như vậy? – Glaucus bực dọc nói, sau khi chàng đã ngăm  mụ lại.
- Ta đã cuời à?
- Mụ ấy đần độn. – Glaucus nói. – Vừa nói chàng vừa bắt gặp ánh mắt long  lanh của mụ nhìn chàng đầyu vẻ tinh quái.
- Nói láo! - Mụ đột ngột nói.
- Ôi, Glaucus! – Ione nói. – Chàng đừng làm mụ cáu giận.
- Vậy ta sẽ cho các ngươi biết tại sao ta cười. Bởi vì có một cái thú của người  già đã héo tàn, được thấy những kẻ trẻ trung sắp cưới nhau như các người, và  cũng biết rằng chỉ ít lâu sau họ lại ghét bỏ nhau… Ha! Ha! Ha!
- Mụ không nói lên được lời nào tốt lành cả. – Glaucus nói. - Lần sau chúng  ta thà đương đầu với cơn bão táp còn hơn phải gặp lại mụ.
- Các người làm như thế là phải. không ai nên vào nhà ta trừ những kẻ khốn  khổ.
- Tại sao lại chỉ những kẻ khốn khổ?
- Ta là phù thuỷ của núi này. - Mụ giải thích với một nụ cười ghê rợn. - Nghề của ta là ban phát hy vọng cho những kẻ đã tuyệt vọng. Ta có những nước bùa  cô gái những kẻ bị trắc trở về tình yêu. Những cách tìm của cải cho những kẻ keo kiệt, những liều thuốc trả hờn cho những kẻ độc ác, còn đối với kẻ tốt lành  và sung sướng, ta chỉ có cái mà chính cuộc đời cũng có, là những lời nguyền  rủa. Thế thôi, đừng quấy rầy ta nữa.
Con cáo nhìn họ bằng đôi mắt man rợ. Và Glaucus khi quay về phía mụ phù  thuỷ, chàng phát hiện trên ghế mụ ngồi một con rắn có cái nhìn long lanh và đầy  giận dữ, có thể các màu sắ rực rỡ từ chiếc áo của Ione đã khiến cho con vật loài  bò sát này nổi giận. Đầu nó dựng thẳng lên như chuẩn bị lao về phía Ione. Ngay  lập tức, Glaucus với lấy một thanh củi đang cháy trong bếp, và có lẽ hành động  đó càng làm tăng cơn tức giận của con rắn, nó bò ra khỏi ổ, ngóc đầu lên.
- Mụ phù thuỷ. – Glaucus hét lên. - Mụ gọi ngay con rắn lại, nếu không, mụ sẽ thấy nó bị đập chết.
- Nó đã bị tước nọc độc rồi. - Mụ phù thuỷ nói, nhưng con rắn đã lao vào  Glaucus. Chàng Hy Lạp nhanh nhẹn tránh sang một bên, đập vào đầu con rắn  một nhát làm nó rơi xuống giữa đám tro nóng bỏng, nằm bất động. Mụ phù thuỷ chồm dậy giận dữ.
- Các người đã đến trú ẩn dưới mái nhà của ta. - Mụ hét lên. – Các người đã  sưởi ấm bên bếp lửa của ta, thế mà các người đã đánh đập, và có lẽ giết chết con rắn của ta, nó quý mến ta, và hơn thế nữa, đó là loài vật được các thần linhyêu  mến nhất và loài người ai cũng phải kính trọng nó. Hãy đợi đấy! Ngươi sẽ nhận  lấy sự trừng phạt xứng đáng. Thề có mặt trăng, vị thần phù hộ cho các phù thuỷ,  thề có Orcus, thần tức giận, chứng giám, ta nguyền rủa nguơi, cầu các thần linh  trừng phạt sao cho tình yêu của ngươi sẽ bị phai tàn, tên tuổi ngươi bị ô nhục,  quỷ dưới địa ngục sẽ đuổi theo ngươi, trái tim người sẽ bị đốt cháy dần dần… Kết quả sẽ nhắc người nhớ lại lời tiên đón của mụ phù thuỷ núi Vésuve! Còn  ngươi… - Mụ nói tiếp và quay về phía Ione, vung mạnh bàn tay phải…
- Dừng lại! Mụ phù thuỷ! – Glaucus hét lên. - Mụ đã nguyền rủa ta. Ta để thần linh định đoạt số phận của ta. Ta coi thường và khinh bỉ mụ, nhưng mụ đừng có thốt lên lời nào chống lại nàng, nếu không, lời nguyền rủa ở miệng mụ thốt ra sẽ là hơi thở cuối cùng của mụ.
- Ta nói xong rồi. - Mụ phù thuỷ vừa nói vừa cười lên một cách man rợ. – Vì  số phận của người phụ nữ mà người yêu gắn chặt với số phận của ngươi. Do  vậy ta khấn cầu các thần linh nơi địa ngục chứng giám lời ta. Glaucus ngươi  đáng bị nguyền rủa!
Nói xong, mụ phù thuỷ quay lại quỳ bên cạnh con rắn bị thương, không để ý  đến Glaucus và Ione nữa.
- Ôi, Glaucus! – Ione kêu lên, thảng thốt. – Chàng đã làm gi vậy? Chúng ta  hãy rời nhanh khỏi nơi này. Cơn giông bão đã qua rồi. nàng quay sang phía mụ phù thuỷ. - Mụ thứ lỗi cho chàng, mụ hãy thu lại những lời nguyền của mụ,  chàng chỉ có ý định tự vệ thôi, mụ hãy nhận chút quà này rồi xoá bỏ những gì  mụ đã nói.
Và Ione cúi xuống đặt lên đùi mụ phù thuỷ một túi tiền.
- Đi ra ngay! - Mụ già hét lên. - Lời nguyền buông ra rồi, chỉ có những nàng  tiên Parques mới hóa giải nỗi mà thôi.
- Ta đi thôi, Ione yêu quý của tôi. – Glaucus xót xa nói. – Nàng nghĩ rằng  các thần linh trên trời hay dưới địa ngục lại có thể nghe theo lời lẩm cẩm của  mụ già điên rồ đó sao? Đi thôi!
Họ rời khỏi hang đá của mụ phù thuỷ. Khi đã hít thở không khí quang đãng  ngoài trời họ vẫn chưa hết bàng hoàng. Cơn bão đã tan. Họ tìm thấy chiếc xe và  người nô lệ hầu cận. Họ lên xe và chẳng mấy chốc chiếc xe đã đưa họ đến được  cửa ngõ của thành phố. Họ bắt gặp một chiếc cáng do nhiều nô lệ khiêng đang  chắn đường.
- Khuya rồi, không được ra nữa! – Người gác cổng thành hét lên.
- Không đâu! – Một giọng quen thuộc cất lên. – Glaucus và Ione nghe thấy  giọng của người đó mà kinh hoảng. – Marcus đang chờ ta tại nhà một người  nông dân. Một lát nữa ta sẽ quay lại. Ta là Arbacès, người xứ Ai Cập.
Người gác cổng nhường lối cho chiếc cáng vượt qua.
• •
Arbacès chờ cho cơn bão tạnh hẳng mới đi tìm mụ phù thuỷ núi Vésuve.
Hắn dừng lại trước cửa hang, để lấy lại sức. Rồi nghiêm chỉnh, oai phong  như thói thường, Arbacès bước vào hang. Mụ phù thuỷ đã giữ lại dáng điệu âm  u cố hữu.
- Dậy đi, hỡi nữ tỳ của đêm tối. – Arbacès nói như ra lệnh. – Một đấng tối  cao trong giáo phái của mụ đến thăm mụ. Mụ hãy dậy đi và đón tiếp người.
- Ông là ai mà dám khoe khoang trước người con gái còn lại của dòng giống  Etrusques?
- Ta là người mà những ai học phép phù thuỷ, từ sông Gange, sông Nil đến  núi Thessalie và sông Tibre, đều muốn thụ giáo. – Arbacès trả lời.
- Ở xứ này chỉ có một người vào loại đó. - Mụ phù thủy nói. – Người mà  khắp thế giới chưa rõ đặc điểm tuyệt vời và tiếng tăm bí mật của ông ta. Họ đều  gọi ông ta là Arbacès người Ai Cập. Còn đối với chúng tôi, tên thật của ông ta  là Hermès Ceinture.
- Vậy mụ nhìn xem.
Vừa nói xong, hắn vạch chiếc áo ra, một chiếc thắt lưng đỏ màu lửa, như đang bốc cháy quanh người hắn.
Mụ già phục xuống dưới chân Arbacès.
- Mụ hãy đứng dậy. – Tên Ai Cập nói. Ta có việc cần đến mụ.
Mụ phù thuỷ cúi đầu xuống tỏ vẻ phục tùng.
- Dù pháp thuật của ta có cao nhường đâu. – Arbacès nói. - Thỉnh thoảng ta  cũng phải dùng đến các phương tiện thiên nhiên để đạt được mục đích. Ta biết  mụ rất thạo về các loại cây, cỏ độc. Mụ biết loại nào làm ngừng cuộc sống lại, loại nào nung nấu và đốt cháy tâm can con người. Loại nào thấm vào dòng máu  khiến nó đông đặc lại, không có phép mầu nào chữa khỏi.
- Thưa ngài Hermès hùng mạnh. Pháp thuật đó đúng là nghề của tôi. Ngài  chỉ cần nhìn cái thân này, nó giống như ma quái, như xác chết. Nếu như ngài  thấy nó đã mất hết màu sắc của sự sống, chính vì tôi đã cúi người trên đống cỏ cây và ngày đêm đun nấu nó.
Tên Ai Cập lùi lại khi nghĩ đến liều thuốc chết người đó.
- Ngày mai, vào lúc mà các ngôi sao vừa xuất hiện trên bầu trời, một cô gái  đầy kiêu kỳ sẽ đến gặp mụ để hỏi xin một liều bùa mê. Mụ hãy trao cho cô gái  một liều thuốc độc mạnh nhất của mụ và làm sao cho linh hồn của kẻ mà cô gái  đang yêu đó sa xuống hỏa ngục.
Mụ phù thuỷ run bắn lên từ đầu đến chân.
- Ôi! Ngài thứ lỗi cho tôi! - Mụ nói, giọng lí nhí. – Tôi không thể làm như vậy. Luật pháp ở đây rất nghiêm khắc. Họ sẽ kết án và giết tôi.
- Vậy thì các cây cỏ, nước thuốc của mụ dùng để làm gi? Ta ra lệnh cho mụ phải phục tùng ta. Chính vì để trả thù nên ta mới đến đây. Cái gã trẻ tuổi mà ta  muốn gạt khỏi đường đi của ta, đã làm hỏng dự định của ta dù ta sử dụng đến cả các thuật pháp của ta. Tên Glaucus đó, thề có thần Orcus và Nemsis chứng  giám, nó phải chết!
- Ngài vừa nói hắn là Glaucus phải không?
- Phải. Trong vòng ba ngày nữa, ta muốn Glaucus phải chết.
- Thưa ngài, - Mụ phù thủy nói. – Tôi xin tuân theo ngài, tôi là nô lệ của  ngài, Nhưng ngài tha cho tôi. Nếu tôi đưa cô gái mà ngài nói, liều thuốc để hại  Glaucus, tôi sẽ bị phát hiện ngay. Kẻ chết bao giờ cũng tìm được người để báo  thù. Hơn nữa, nếu người ta biết ngài tìm đến tôi, ngài cũng phải dùng thuật pháp  mãnh liệt nhất để mà chống đỡ với chính ngài. Nhưng đáng lẽ dùng liều thuốc  để làm cho tim ngừng đập, tôi sẽ chế một liều thuốc làm rối loạn đầu óc, làm  cho người đó trở thành một kẻ mất trí. Liệu như thế thì sự trả thù của ngài có  được toại nguyện không?
- Thật là tuyệt diệu! Phụ nữ bao giờ cũng tinh khôn hơn đàn ông. Ta đồng ý  với giải pháp của mụ.
Rồi hắn vứt xuống trước mặt mụ túi tiền.
- Chào mụ. – Hắn nói thêm. - Mụ nhớ đừng quên yêu cầu của ta và hãy thức  lâu hơn với các vì sao để mà pha chế liều thúôc đó.
Không một lời từ biệt, hắn biến khỏi hang đá.
Mụ phù thủy đứng ở cửa hang, nhìn theo người khách đi xa dần. Mụ lẩm  bẩm đọc vài câu thần chú rồi quay ra phía ngoài. Ở đó, một đống thảo dược  được mụ hái về từ trước. Mụ ngồi lựa chọn một ít để nấu loại thuốc, theo mệnh  lệnh của gã Ai Cập.
“Lửa hãy cháy lên! Cỏ, cây, chín đi! Cóc, nhái sôi lên! Ta đã nguyền rủa nó,  rồi nó sẽ bị trừng phạt – tên Glaucus ấy”.
Chính trong đêm đó, đúng vào giờ mà Arbacès đến nhà mụ phù thuỷ,  Apoecides đã được một vị sứ đồ của Thiên Chúa rửa tộ, làm phép bí tích.  Julia hẳn nàng có đủ can đảm để chiều nay đến thăm mụ phù thuỷ núi Vésuve và cùng với con người ghê gớm đó chứ?
- Phải, - Julia rụt rè nói. – Nydia, vậy cô nghĩ có điều gì đáng sợ thật à?  Những mụ phù thuỷ già đó theo ta nghĩ, chỉ là đồ lừa dối mất nết. Tại sao ta lại  sợ họ?
- Nàng cho tôi đi theo với, Julia cao quý. - Sự có mặt của tôi không phải để che chở cho nàng nhưng tôi muốn được gần nàng cho đến phút chót. Nydia nài  nỉ người thiếu nữ kiêu kỳ của thành Pompéi. Họ ngồi vào cáng do bốn người nô  lệ khiêng và cùng với Arbacès lên đường đến hang đá của mụ phù thuỷ. Lão Ai Cập muốn giữ bí mật nên để Nydia đứng đợi một mình phía bên ngoài. Còn lão  cùng Julia đi vào trong hang để gặp mụ phù thuỷ.
Nydia đành ngồi chờ đợi. Cô gái bồn chồn sốt ruột. Lòng đầy những ý nghĩ chua xót. Cô nghĩ đến cảnh đời đen tối, xung quanh toàn những kẻ xa lạ dẫn  đường chỉ lối cho cô, cô nghĩ đến tình yêu tuyệt vọng ẩn sâu trong trái tim cô,  một chút hy vọng mong manh nếu như cô biết được mãnh lực của các thứ nước  bùa và pháp thuật.
Thời gian trôi đi. Nydia đang tủi hờn, thương thân trách phận, bỗng nghe có  tiếng bước chân nhè nhạ.
- Ôi! Cám ơn các vị thần bất tử - Julia lên tiếng. – Tôi đã quay về. Tôi vừa  rời khỏi cái hang ghê tởm đó. Đi thôi Nydia, đi khỏi nơi này nhanh lên.
Khi họ vừa ngồi lên cáng, Julia xúc động thốt lên:
- Cảnh tượng mới kinh khủng làm sao? Cái mặt của mụ phù thuỷ như một  xác chết, chắc sẽ còn ám ảnh tôi mãi. Nhưng thôi, đừng nói đến điều đó nữa, tôi đã xin được liều nước bùa mê, tác dụng của nó chắc hắn sẽ làm cho tình địch  của ta sẽ bị lãnh đạm dưới con mắt của người mà ta yêu và mình ta, chỉ mình ta  thôi, ta sẽ là nữ thần của Glaucus!
Nydia kêu lên:
- Của Glaucus?
- Phải, bây giờ ta có thể cho cô biết như vậy. Chính chàng! Phải, chính ta đã  yêu chàng trai Hy Lạp cao quý đó.
• •
Nydia kịp lấy lại bình tĩnh. Một ý nghĩ thoáng qua đầu óc cô. Đêm nay cô  còn ngủ lại trong phòng của Julia, cô có thể chiếm được thứ bùa mê đó.
Về đến nhà Diomède, họ vào căn phòng của Julia, ở đó bữa ăn tối đang chờ sẵn.
- Nydia, chắc cô bị rét, đêm nay trời lạnh quá. Rồi Julia uống luôn mấy hớp  rượu.
- Nàng có cái nước bùa ấy không? – Nydia nói. – Ô, cái lọ xinh xắn làm sao!  Nước đó màu gì vậy?
- Trong như pha lê, không màu, không mùi, như nước mưa vậy. Nhưng với  ta, nó lại là nước thánh.
- Hiệu quả của nó nhanh chứ?
- Thường thì như vậy, nhưng đôi khi cũng phải chờ đợi vài giờ.
- Ôi, sao mà thơm vậy. – Nydia bỗng nhớ khi đưa tay cầm ở trên bàn một  chiếc lọ nhỏ và đưa lên để ngửi.
- Cô có thích nó không? – Julia nói. – Cái lọ ấy có nạm vài viên ngọc quý. Hôm qua cô đã từ chối không nhận chiếc vòng của tôi, vậy cô nhận cái lọ đó  nhé? Đấy là lọ nước hoa tôi thường dùng hằng ngày.
Nydia, cúi đầu tỏ vẻ ưng thuận, rồi bỏ cái lọ vào trong túi áo.
- Vậy thì cái nước bùa hẳn là rất công hiệu. – Cô lại nói. - Bất cứ người nào  cho chàng uống cũng được anh?
- Nếu có mụ già xấu xí nhất trên đời cho chàng uống, phép thuật của nó sẽ làm cho Glaucus coi mụ như người đẹp nhất trần gian.
Rộn ràng, sung sướng, Julia phá lên cười, nàng nói chuyện huyên thuyên mãi  tới khuya nàng mới cho gọi bọn nữ nô lệ vào cởi bỏ xiêm áo cho nàng.
Sau một ngày mệt nhọc, Julia ngủ thiếp đi ngay. Nhưng cô gái Thessalie  không ngủ được, đầu óc đầy những ý nghĩ lo lắng, cô lắng nghe hơi thở đều đặn  của Julia. Tai cô vốn quen phân biệt những tiếng động rất khẽ, cô hiểu Julia  đang ngủ rất say.
- Bây giờ, cầu thần Vệ Nữ phù hộ cho tôi? – Nydia nói thầm. – Cô nhẹ nhàng trở dậy đặt lọ nước hoa mà Julia đã cho lên thềm nhà, rồi tìm đến giường  của Julia, cô luồn bàn tay run rẩy xuống ben dưới chiếc gối, sờ soạn rồi cầm lấy  chiếc lọ. Hơi thở Julia phả nhẹ vào đôi má nóng bỏng của cô gái mù. Nydia đổ nước bùa mê vào cái lọ của mình, rồi cô lấy nước lạnh đổ đầy vào chiếc lọ của  Julia và đặt lại chỗ cũ. Mặt trời đã mọc, Julia vẫn ngủ say. Nydia lặng lẽ mặc  áo, cầm gậy, vội vàng rời khỏi ngôi nhà.
Không khí trong lành buổi ban mai mơn trớn đôi má cô, nhưng không sao  làm dịu được dòng máu nóng bỏng chảy trong huyết quản của cô. - Glaucus! – Nydia thì thầm. - Tất cả các nước bùa linh thiêng nhất cũng chỉ có thể làm chàng yêu ta như ta yêu chàng mà thôi!