Chương 1


Chương 7
ĐẤU TRƯỜNG ĐẪM MÁU
(tt)

Glaucus và Olythus vùng bị giam chung trong xà lim chật hẹp và tối tăm  dành cho tội nhân trước giờ hành hình.
- Chàng có nghe thấy tiếng hoan hô của bọn chúng không? Chúng gào, chúng thét khi thấy máu con người chảy ra. – Olythus nói.
- Tôi có nghe thấy, tôi cũng thấy khổ tâm, nhưng thần linh sẽ phù hộ tôi!
- Thần linh! Ô chàng trai trẻ. Vào giờ phút này, chỉ nên thừa nhận một mình  Chúa thôi. Tôi đã không giảng giải cho chàng trong nhà tù rồi ư? Không phải tôi  đã khóc, đã cầu nguyện cho chàng đó ư? Trong lòng nhiệt thành và cơn hấp hối  của tôi, tôi nào có bận tâm cầu phúc cho tôi hơn là cho chàng đâu.
- Ông bạn thân thiết của tôi! – Glaucus trả lời. – Tôi rất kính phục khi nghe  lời ông, tôi có cảm tình với tôn giáo của ông. Nếu chúng ta được cứu thoát, có  thể tôi sẽ từ bỏ tôn giáo cũ của tôi để theo tôn giáo của ông. Nhưng vào giờ phút cuối cùng này, đối với tôi thật là nhục nhã nếu tôi làm việc đó. Không! Olythus,  chúng ta nên có lòng bác ái, tôi quý trọng sự thẳng thắn của ông. Ông hãy  thương sự mù quáng của tôi. Nhưng thôi, chúng ta đừng nói đến chuyện đó nữa.  Ông có nghe thấy chúng đang kéo xác những người chết ở ngoài đó đi không? Thân thể của chúng ta cũng vậy, chốc lát nữa chúng ta chỉ còn là những cái xác  không hồn.
- Ôi! Jêsu ma! Lạy chúa! Con đã thấy Chúa rồi! – Olythus kêu lên và đưa tay lên. – Tôi không run sợ. Tôi sung sướng chờ đợi chiếc cửa nhà tù mở ra.
Glaucus cúi đầu im lặng. Chẳng hiểu sự khác nhau giữa lòng can đảm của  chàng và sự sung sướng của người bạn tù. Người dân thường không sợ chết, còn  người theo đạo Gia tô lại vui mừng. Chiếc cửa rít lên, bật mở. Giáo mác sáng  loè dọc lối đi của xà lim.
- Glaucus, đến lượt ngươi rồi đó. – Một tiếng nói vang lên. – Con sư tử đang  chờ ngươi.
- Tôi đã sẵng sàng. – Chàng Thessalie nói. – Người anh em, người bạn của  tôi… xin cầu nguyện cho tôi. Vĩnh biệt.
Người công giáo mở rộng đôi cánh tay, ôm chặt Glaucus vào trái tim mình, hôn lên trán, lên má chàng… ông khóc nức nở. Những dòng nước mắt nóng  bỏng chảy trên khuôn mặt người bạn mới.
- Ôi, nếu ta có được hạnh phúc khuyên được chàng cải đạo, ta đã không phải  khóc lóc. Ôi! Trước khi vĩnh biệt thế giới loài người đầy đau khổ ta chỉ có thể nói với chàng. Đêm nay chúng ta sẽ gặp nhau ở Thiên Đường thôi sao?
- Có thể như vậy. - Glaucus nói. – Những kẻ mà cái chết không làm chia lìa  được sẽ gặp lại nhau, nhưng trên mảnh đất này, mảnh đất đẹp đẽ và thân yêu  này. Vĩnh biệt!
Khi Glaucus bước ra ngoài trời, không khí khô nóng, làm cho chàng thấy  khó chịu. Chàng vừa mới hồi phục sau khi nước bùa đã hết tác dụng.
- Can đảm lên anh bạn. – Một đứa nói. – Ngươi còn trẻ và nhanh nhẹn.  Người ta sẽ cho ngươi một vũ khí. Đừng thất vọng, may ra người có thể thắng  được con sư tử.
Glaucus không trả lời. Chàng tự xấu hổ về sự ýêu đuối vừa rồi của mình,  chàng cố giữ sự bình tĩnh. Người ta bôi dầu vào người chàng. Họ đưa cho chàng  một cái dùi rồi áp giải chàng ra đấu trường.
Bây giờ, khi Glaucus thấy hàng vạn con mắt đang chăm chú nhìn vào mình,  chàng linh cảm thấy mình không thể chết được. Mọi lo sợ biến mất. Mặt chàng  đỏ lên, cương quyết, chàng đứng thẳng người lên. Tay chân chắc nịch, thân hình  nở nang, bộ mặt sàng ngời, tâm hồn bất khuất lộ ra trong cử chỉ, trong hành  động, trong ánh mắt, chứng tỏ lòng can đảm của mình hơn bao giờ hết.
Tiếng thì thào căm hờn và ghê tởm về tội ác của chàng nổi lên khi Glaucus  vừa mới ló mặt ra bỗng biến mất và trở thành im lặng. Lúc này thay vào đó họ âm thầm thán phục và thương xót chàng.
Khán giả rời mắt quay nhìn về phía chuồng sư tử mà người ta vừa đẩy ra giữa đấu trường. Con sư tử, bị bắt nhịn đói từ hơn một ngày rồi, bây giờ tỏ ra  hung dữ một cách lạ lùng, có lẽ do nó bị đói. Nhưng dáng vẻ của nó còn tỏ ra  ghê rợn hơn ta tưởng. Tiếng gầm của nó rất khủng khiếp. Nó cúi đầu, thò mỗm  qua song sắt để thở, rồi nằm xuống, đứng lên gầm gừ mà từ xa cũng nghe thấy.
Lúc ấy, nó nằm tận cuối chuồng, bất động, im lặng, mõm đưa ra ngoài song  sắt để thở làm tung cả lớp cát lên.
Một viên chủ toạ run lên, mặt tái đi. Ông lo lắng nhìn xung quanh. Ông ngập  ngừng chờ đợi. cuối cùng dân chúng lộ vẻ sốt ruột. Ông quyết định ra hiệu lệnh.  Người gác đứng trên nóc chuồng cẩn thận mở cửa. con sư tử chồm ra gầm lên một tiếng sung sướng khi được tự do. Người gác vội vã nhảy qua cái hàng rào, để lại con vật với miếng mồi của nó.
Glaucus đã uốn cho tay chàng thêm phần mềm mại để chống lại miếng vồ đầu tiên của con vật, tay chàng cầm thứ vũ khí nhỏ bé giơ lên, chỉ có một tia hy  vọng nhỏ là quyết tâm đâm trúng. – Vì chàng biết rằng chàng chỉ có thời gian  đâm được một nhát mà thôi, nhát đó phải trúng mắt và xuyên thủng sâu tận óc  con vật nguy hiểm. Nhưng mọi người đều sửng sốt. Con thú hình như chẳng chú  ý đến sự có mặt của đối phương.
Vừa được thả ra, nó dừng lại giữa đấu trường, dựng đứng người lên hai chân  sau, thở mạnh như sốt ruột rồi lao về phía trước. Nó lồng lộn chạy quanh đấu trường vài vòng, lắc lư cái đầu to lớn, ánh mắt như lo ngại, sợ sệt, hình như nó  muốn tìm một lối nào đó để thoát thân. Một hai lần, nó định chồm qua hàng rào  ngăn cách khán giả, và gầm lên khi bị rơi xuống, một tiếng gầm không phải cáu kỉnh mà là oai nghiêm. Nó không tỏ ra một chút gì là bị đói hay tức giận. Đuôi  nó quật xuống cát, và cặp mắt đôi khi có vẻ như nhìn vể Glaucus nhưng rồi nó  ngoảnh đi ngay. Cuối cùng, hình như đã chán, không tìm được lối thoát thân, nó  rên rỉ, gầm lên rồi bò vào chuồng, lại nằm xuống. Thấy con sư tử như vậy, tâm trạng của khán giả từ sửng sốt trở thành cáu giận vì sự nhút nhát của nó. Lòng  thương hại của họ đối vớ Glaucus lúc trước bây giờ chuyển thành căm ghét và  chán nản. Tên chủ tọa gọi người canh gác lại.
- Thế có nghĩa là sao? Lấy cái giáo, chọc cho nó phải ra khỏi chuồng và đóng cửa lại.
Người gác sắp thi hành mệnh lệnh, bỗng một tiếng kêu nổi lên từ một trong  các cửa đấu trường. Mọi con mắt đổ dồn về phía tiếng kêu đó. Đám người ở đó  giãn ra, rồi chính Salluste xuất hiện bất ngờ trên chỗ dành cho các vị Nguyên  Lão, tóc rối bù, hơi thở hỗn hển và mệt nhọc:
- Ông Salluste, ông điên à? - Vị quan tòa vừa nói vừa đứng dậy. Do đâu mà  ông lại hành động một cách ngu xuẩn như vậy.
- Đưa chàng Athène ra, đưa ra ngay, nếu không, các người phải trả nợ máu bây giờ. Quan tòa! Hoãn ngay cuộc hành hình lại, nếu không đầu ông sẽ rời  khỏi cổ trước mắt Hoàng đế. Tôi dẫn đến đây một người làm chứng về vụ mưu  sát tu sĩ Apoecides. Hỡi nhân dân thành Pompéi, hãy nhìn tên Arbacès xem,  giãn ra cho thầy tu Calénus vào.
Tái nhợt, lờ đờ như một người vừa thoát được cơn chết đói và tử thần, khuôn  mặt ảm đạm, đôi mắt đục ngầu, thân thể chỉ còn bộ xương. Calénus được đưa  vào chỗ cái bậc mà Arbacès vừa ngồi.
- Thầy tu Calénus! Calénus! – Đám người hét lên. – Có phải đúng ông ta  không? Không có lẽ là oan hồn của ông ta.
- Đúng là thầy tu Calénus! Viên quan tòa nghiêm nghị nói. – Ông định khai  điều gì?
- Arbacès, tên Ai Cập là thủ phạm giết Apoecides, người tu sĩ ở đền Isis.  Chính mắt tôi nhìn thấy nó đâm anh ta. Trong căn nhà giam mà nó nhốt tôi vào,  từ trong bóng đêm và kinh khủng, tôi thoát được chết đói, Thần linh đã cứu tôi  ra để tôi tố cáo tội ác của nó. Đưa chàng Athène ra khỏi đấu trường ngay…  Chàng là người vô tội.
- Vì lẽ đó mà con sư tử đã không cấu xé chàng. Thật nhiệm màu. Pansa kêu  lên.
- Tha cho chàng Athène! – Dân chúng thét lên. – Cho Arbacès vào với sư tử! - Rồi tiếng hò reo đó như một làn sóng đuổi lên từ đỉnh đồi đến thung lũng,  từ bờ biển ra đến ngoài khơi, nộp Arbacès cho sư tử!
- Lính, đưa bị cáo Glaucus lên; đưa chàng ta đến đây cho tôi, nhưng phải  trông coi chàng. – Viên quan tòa nói.
Khi viên quan tòa vừa ra lệnh phóng thích đó. Phía bên dưới nổi lên một  tiếng kêu sung sướng của một phụ nữ, làm cho ai nấy đều mủi lòng. Cả đám  người cùng ồ lên đồng tình.
- Im lặng. – Viên quan tòa nói. – Ai đó?
- Cô gái mù, Nydia. – Salluste giải thích. – Chính tay cô đã cứu Calénus ra khỏi nấm mồ, và Glaucus thoát khỏi nanh vuốt sư tử.
- Chúng ta sẽ xét hỏi cô đó sau. – Viên quan toà nói. – Ông Calénus, thầy tu  thờ thần Isis, ông buộc tội Arbacès mưu hại Apoecides?
- Vâng, tôi buộc tội hắn, tôi muốn làm nhân chứng.
- Ông có nhìn thấy sự việc không?
- Thưa quan tòa, chính mắt tôi đã thấy.
- Thế thì coi như tạm đủ cho lúc này. Các chi tiết cần được tra hỏi ở một nơi  khác và một giờ khác. Ông Arbacès, ông có nghe thấy lời người ta buộc tội ông  không? Ông trả lời thế nào?
Đám người từ lâu đã dán chặt mắt vào Arbacès. Khi thây Salluste và Calénus  hiện ra, hắn đã tỏ ra hơi bối rối. Đến khi nghe thấy tiếng thét “Nộp Arbacès cho  sư tử”, hắn run lên đôi má hắn từ nâu sạm trở nên tái ngắt. Nhưng rồi hắn lại  trấn tĩnh được ngay. Hắn giương đôi mắt, thách thức, nhìn đám đông. Với một  giọng bình tĩnh chắc nịch như thường lệ, hắn trả lời câu hỏi của viên quan toà.
- Thưa quan toà, lời buộc tội đó thật là vô lý, chẳng đáng phải trả lời. Người  buộc tội tôi đầu tiên là ông Salluste, bạn thân Glaucus. Người buộc tội thứ hai là  một thầy tu. Tôi kính trọng bộ áo và nghề nghiệp của ông ta, nhưng hỡi nhân  dân Pompéi, chắc các ngươi cũng biết chút ít tính tình của Calénus, tính hám  tiền của ông ta đã trở thành chuyện đầu lưỡi của mọi người. Những người như vậy có thể mua chuộc được. Tôi không có tội gì cả.
- Ông Salluste. – Viên quan tòa hỏi. – Ông tìm thấy Calénus ở đâu?
- Trong căn hầm của Arbacès.
- Ông Ai Cập. – Viên quan tòa cau mày nói. Ông dám giam cầm một người  thờ phụng thần linh! Tại sao vậy?
- Ông nghe tôi nói. – Arbacés vừa trả lời vừa bình tĩnh đứng dậy. – Ông ta đến dọa buộc tội tôi cái tội mà ông ta vừa thốt ra, nếu tôi không nộp nửa gia tài của tôi cho ông ta. Thưa quan toà và dân chúng… Tôi là người ngoại quốc, một  kẻ xa lạ. Tôi không biết tôi phạm tội gì cả. Nhưng một thầy tu mà buộc tội tôi, tôi có thể bị kết tội. Trong lúc hoang mang, tôi bèn giam ông Calénus vào căn  phòng mà các ông đã biết; vịn cớ đó là nơi tôi giấu kho tàng của tôi. Tôi cũng  định sẽ thả ông ra ngay sau khi tên tội phạm chính bị xử tử khi những lời dọa dẫm của ông ta không còn tác dụng nữa. Có lẽ tôi đã lầm lỡ. Nhưng trong các  ông, ai chẳng biết người ta có quyền tự vệ? Nếu tôi là thủ phạm, tại sao khi tôi  buộc tội Glaucus, Calénus không buộc tội tôi ngay đi?
- Ông ta nói có lý. - Viên quan tòa nói. - Lính đâu! mở lối cho ông Arbacès  đi ra, đưa Calénus vào một nơi chắc chắn. Ông Salluste, sẽ chịu trách nhiệm về lời buộc tội của ông.
Các cuộc đấu tiếp tục.
- Sao? – Calénus hét lên, quay về phía dân chúng. - Nữ thần Isis đã bị lăng  nhục rồi chăng? Máu của Apoecides không được báo thù ư? Còn hoãn xét xử lại  để người ta đổi trắng thay đen à? Con sư tử sẽ mất miếng mồi ư? Nộp Arbacès  cho sư tử?
Thân thể người thầy tu mà đói khát đã làm cho kiệt sức, không còn chịu  đựng nổi cơn giận đó nữa, Calénus ngã xuống, tứ chi co dúm, mồm sùi bọt mép.  Hắn giống như người bị thần linh trừng phạt. Dân chúng thấy hắn ngã xuống  đều rùng mình.
- Thần linh nhập vào ông ta để ra lời phán truyền, đưa tên Ai Cập làm mồi  cho sư tử!
Hàng ngàn, hàng vạn người vùng vẫy hét lên câu đó, họ lao từ các bậc của  khán đài xuống, đổ xô về phía tên Ai Cập. Viên chủ toạ ra lệnh nhưng vô hiệu. Viên quan tòa lên tiếng và giở luật pháp ra nhưng cũng vô hiệu. Dân chúng đã  thấy máu chảy và trở nên man rợ rồi. Họ còn muốn thấy máu chảy nhiều hơn  nữa. Thói mê tín lại càng làm tăng sự khát máu đó. Bị kích thích, bị sôi sục bởi  cảnh chém giết, dân chúng Pompéi không còn để ý đến quyền hành của các  quan tòa nữa. Quyền lực của quan tòa lúc này như một cây sậy trước cơn giông  tố. Tuy vậy, theo lệnh của ông Pansa, bọn lính xếp hàng cố ngăn cản dân chúng. Nhưng cái hàng rào đó quá yếu. Cơn sóng người chỉ dừng lại một lát cho Arbacès đủ thời gian tính toán giờ chết của hắn. Tuyệt vọng, kinh hoàng, mất  hết vẻ kiêu ngạo thường lệ, hắn chằm chằm nhìn vào đám người tiến đến, mỗi  lúc một đông. Bỗng trên đám biển người đó, qua các mái lều, hắn nhận thấy một  cảnh tượng kỳ lạ, ghê rợn. Bất chợt tính khôn ngoan đến giúp hắn. Hắn giơ một  tay lên trời, gương mặt uy nghi và hết sức nghiêm nghị.
- Hãy nhìn kìa! – Hắn hét lên như sấm, át cả tiếng hò reo của đám người –  nhìn xem thần linh che chở cho kẻ vô tội. Ngọn lửa báo oán của Orcus đang  phản đối những lời làm chứng sai lầm của những người buộc tội ta.
Cả đám người nhìn theo hướng tay chỉ của tên Ai Cập, và ai nấy đều rùng  mình run sợ: Trên đỉnh núi Vésuve một luồng khói to lớn, bốc lên trông như hình một cây thông, lúc thì sáng rực lên đến tột bực, lúc thì đỏ sẫm lại.
Tất cả đều im. Một sự im lặng ghê rợn, chết chóc đôi lúc chỉ còn lại tiếng  gầm của con sư tử. Tiếp theo là tiếng rống lanh lảnh và man rợ của con hổ.  Tiếng kêu của con hổ và con sư tử như là điểm báo cơn nổi giận của thần linh.
Rồi từ trên các bậc cao, nhưng ta nghe thấy tiếng kêu thét của phụ nữ. Đàn  ông nhìn nhau, im lìm. Cùng lúc đó, họ thấy đất rung lên dưới chân họ. Tường  của đấu trường rung rinh. Cách đó một quãng, những mái nhà vẫn chạm nhau  sụo đổ ầm ầm. Luồng khói đen từ trên đỉnh núi âm u nhanh như một dòng thác  cuồn cuộn lao về họ, tung lên từ giữa núi, một cơn mưa tro bụi và than đá phủ xuống các vườn nho tàn rụi, các phố phường đổ nát, cả đấu trường và bay ra cả biển khơi dậy sóng.
Không còn nghĩ đến luật pháp, đến Arbacès nữa. Ai cũng chỉ còn nghĩ đến  cách thoát thân. Họ muốn chạy trốn, chèn ép nhau, xô đẩy nhau, đè bẹp nhau,  giẫm đạp không thương tiếc lên những ai bị xô đẩy ngã xuống. Giữa tiếng la  thét, cầu khẩn, kêu la, đám đông người đó đổ xô ra cửa các đấu trường. Một số người, nghĩ đến một trận động đất nữa, vội vàng tìm đường trở về nhà để thu  dọn các đồ vật quý và tìm cách chạy trốn. kẻ khác sợ đám bụi tro đang rơi như mưa trên các đường phố, tìm nơi ẩn náu dưới các mái nhà gần đó, họ lánh vào  trong các ngôi đền, hay bất cứ nơi nào có thể che chở cho họ. Nhưng trên bầu  trời đám đen nọ tiếp đám đen kia, vây phủ không gian, trời càng lúc càng tối  sầm lại. Bóng tối lại xảy ra giữa ban ngày thật kinh hoàng.
• •
Hãy còn ngạc nhiên về sự gia hạn của tòa án, còn nghi ngờ rằng mình mê ngủ. Glaucus bị đưa vào một căn phòng phía trong đấu trường. Họ đưa cho  chàng một cái áo rộng. Họ mừng cho chàng được thoát nạn. Bây giờ, phía bên  ngoài chợt vang lên một tiếng kêu phụ nữ. Đám người giãn ra, nhường lối đi  cho một cô gái, nhờ một người hảo tâm dìu dắt, đến ôm lấy chân Glaucus.
- Tôi đã cứu được chàng rồi! – Cô kêu lên, giọng thổn thức. – Bây giờ, dù có  chết tôi cũng thỏa lòng.
- Nydia ân nhân của tôi.
- Ôi, chàng để tôi cầm tay chàng. Chàng sống rồi, chúng tôi đã đến đúng lúc.  Ôi, cái cửa tai hại đó, tôi tưởng nó không tung ra được… Calénus… lời nói của  ông ta chỉ còn như hơi thở thoát từ ngôi mộ ra. Phải chờ đợi nữa, tôi tưởng thức  ăn và rượu không còn kịp làm cho ông ta lại sức, nhưng chàng sống rồi, tôi đã  thực hiện được điều mình mong muốn.
Tình cảnh cảm động đó đã bị ngắt quãng bởi một biến cố lớn lao mới.
- Núi lửa! Động đất! Tiếng kêu của mọi người vang lên khắp nơi. Bọn lính  bỏ mặc Glaucus và Nydia hốt hoảng chạy trốn.
Khi Glaucus hiểu ra sự nguy hiểm đang đe dọa tính mệnh họ, trái tim hào hiệp, chàng nghĩ đến Olythus. Ông cũng vậy, ông cũng thoát khỏi nanh búôt của con hổ do bàn tay của thần linh can thiệp. Sao lại để ông chịu một cái chết kinh  khủng như cái chết kia, trong gian xà lim bên cạnh chàng. Cầm lấy tay Nydia,  Glaucus vượt qua lối đi tìm tới căn phòng giam người con của Thiên Chúa.  Olythus đang quỳ gối, cầu kinh.
- Dậy ngay, ông bạn của tôi! – Chàng kêu lên. - Trốn ngay đi, chính thiên nhiên đã giải thoát ông.
Chàng đưa Olynthus vẫn còn ngạc nhiên, ra ngoài và chỉ cho ông xem đám mây đang tiến lại, càng ngày càng dày đặc, tung tóe những tro và đá.
- Đó là bàn tay của Chúa.
- Ông chạy trốn đi. Ông đi tìm các giáo hữu của ông, cùng bàn bạc với họ và  mau chóng tìm cách mà thoát thân. Vĩnh biệt ông.
Olynthus không trả lời. Hình như ông không nhận thấy Glaucus đã đi rồi.  Một ý nghĩ cao cả, uy nghiêm đang xâm chiếm tâm hồn ông, vui mừng trước  phúc lành của Chúa hơn là run sợ trước mãnh lực tự nhiên.
Cuối cùng, ông chợt tỉnh, ông chạy mà chẳng biết mình chạy đi đâu. Cánh cửa của một căn phòng tối om hiện ra trước mặt ông. Bên trong chỉ có một ngọn  đèn le lói. Dưới ánh sáng lờ mờ, ông nhận thấy những người trần trụi nằm la liệt  dưới đất. Ông dừng lại, vì giữa nơi âm u kinh khủng đó, ông vẳng nghe tiếng  người khẽ kêu tên của Chúa Jêsu. Ông bước vào, chân giẫm phải các cũng máu  của những xác chết chảy ra đọng lại trên cát.
- Ai đã nhắc đến Chúa ở đây? – Olythus hỏi.
Không một tiếng trả lời. Quay lại nhìn, Olythus nhận ra một cụ già tóc bạc  trắng ngồi dưới đất đang ôm vào lòng cái đầu của một trong những xác chết. Cái  thây đã cứng đờ nhưng trên môi còn thoáng một nụ cười hãnh diện, không phải  nụ cười thanh thản của một kẻ ngoại đạo, mà là một nụ cười chua xót, căm hờn  và thách thức. Tuy vậy khuôn mặt chàng trai hãy còn phảng phất nét tươi đẹp  của tuổi thanh xuân. Mái tóc dài bóng che kín vầng trán rộng. Đôi mắt biểu lộ một nỗi buồn rầu vô tả, một tình yêu sâu xa, một nỗi tuyệt vọng tột cùng. Nước  mắt của cụ già trào ra nóng bỏng. Đứa con trai cụ đã chết. Nó chết vì cụ. Cái chết như đã mang theo trái tim già nui tan nát.
- Cụ Médon! – Olythus thương cảm nói. - Dậy đi cụ và chạy ngay đi. Chúa  đã hiện đến. Một Gomorrhe mới lại phải chịu trả nghiệp. Chạy đi, trước khi bão  lửa thiêu rụi chúng ta.
- Nó đã đầy sức sống như vậy… nó không thể chết được… ông lại gần  đây… ông đặt tay lên tim nó mà xem… có phải tim nó hãy còn đập không.
- Cụ ơi, linh hồn anh ấy đã ra đi rồi… nhưng chúng ta sẽ nhớ đến chàng  trong các buổi cầu nguyện. Cụ không thể hồi sinh cái hình hài lặng câm ấy nữa.  Cụ hãy lắng nghe tiếng những bức tường đang sụp đổ. Cụ hãy lắng nghe tiếng  của thành phố Pompéi trong cơn hấp hối! Đi thôi cụ.
- Tôi không nghe gì cả. - Cụ Médon nói, vừa lắc đầu tóc bạc phơ. - Khốn  khổ con tôi! Chính vì tình cha con mà nó phải chết. Ai nỡ cứ để mặc chúng tôi ở đây.
- Than ôi! – Olythus nói, giọng thương cảm. – Cái chết đã ngăn cách con cụ với cụ rồi.
Cụ già buồn bã mỉm cười.
- Không, không! - Giọng cụ nói ngày càng nhỏ đi. – Tôi nghĩ chết lại tốt  hơn sống.
Đầu cụ gục xuống ngực cái xác… cánh tay bỗng rã rời ra rồi buông thỏng.  Olythus cầm lấy tay cụ. mạch đã ngừng. Lời cuối cùng của cụ quả là đúng: Chết  lại tốt hơn sống.
Trong lúc đó, Glaucus và Nydia vượt qua các đường phố đầy gian nan nguy  hiểm. Ngay sau khi thoát thân, Glaucus được Nydia báo cho biết Ione hiện còn  ở trong nhà Arbacès, thế là chàng chạy ngay đến đó để cứu nàng.
Bóng tối dày đặc làm cho chàng không tìm thấy lối đi. Các cột nhà có quấn  vòng hoa như rung lên. Tro bụi trút đầy. Chàng leo lên tầng trên, hổn hển lớn  tiếng gọi Ione. Cuối cùng, từ tận gian phòng cuối khu nhà, chàng nghe thầy  giọng nàng lên tiếng đáp lại. Chàng lao đi, đạp tung cửa, ôm lấy Ione trốn khỏi  căn nhà đó. Tất cả những biến cố xảy ra trong nháy mắt. Khi chàng vừa đến chỗ mà Nydia đứng chờ chàng nghe thấy có tiếng bước chân tiến về phía ngôi nhà  đó và chàng nhận ra tiếng nói của Arbacès, hắn quay về nhà để thu dọn của cải  và mang theo nàng Ione, rời khỏi thành phố Pompéi. Nhưng bóng đêm quá dày  đặc, nên hai kẻ thù không nhìn thấy nhau, tuy họ ở rất gần nhau. Glaucus chỉ thoáng thấy lờ mờ chiuếc áo trắng của tên Ai Cập.
Cả ba người vội vã chạy trốn. Nhưng họ không thấy gì cả, ngay chỉ cách một  bước chân. Họ phân vân, kinh hoàng. Và cái chết mà Glaucus vừa thoát được  hình như chỉ là sự thay đổi trạng thái mà thôi.
• •
Biến cố bất ngờ đã trả lại tự do cho tội phạm, đã giải thoát Callias Calénus  khỏi tay bọn lính của tòa án, Calénus run rẩy đi về phía đền thờ Isis. Khi hắn  còn đang mò mẫm và trời cũng chưa tối hẳn, có ai khẽ kéo áo hắn và một tiếng  nói rỉ vào tai hắn:
- Calénus, bây giờ mới kinh khủng chứ.
- Ai đấy? Tôi không nhận rõ dáng người ông. Còn giọng nói của ông thì nghe lạ quá.
- Ông không nhận ra Burbo của ông à?
- Thần linh ơi! Sao mà tối thế! thần Pluton đã nổi cơn lôi đình.
- Im đi. Chính ông có tin các điều đó đâu mà ông bảo vậy. Calénus, đây là  lúc chúng ta làm giàu. Ngôi đền của ông có nhiều vàng và đồ quý giá. Chúng ta mang nó chạy ra bờ biển tìm chiếc thuyền náo đó mà trốn. Chẳng có ai biết đến  nữa.
- Burbo, ông nói phải. Ông đi theo tôi đến ngôi đền. Chúng ta sẽ chia đều với  nhau.
Trong thâm cung của ngôi đền, rất nhiều thầy tu đang xúm lại quanh bàn thờ,  cầu nguyện, kêu khóc, van lạy, phủ phục xuống sát đất. Một lũ bịp bợm, lừa dối  khi chúng không có gì để sợ. bọn chúng bỗng trở nên mê tín dị đoan khi gặp  cơn nguy hiểm. Calénus thắp một chiếc đèn lên. Thấy trên bàn thờ có rượu, thịt,  đồ cúng còn thừa, hắn cồ lấy nhai nuốt ngấu nghiến.
Ngọn núi vừa tung lên những cột nước nóng sôi bỏng, lẫn lộn cả trong bụi, đổ ập xuống các đường phố những suối lửa hừng hực. Ngay chính nơi mà bọn  thầy tu thờ thần Isis đang tụ họp, đốt hương, thắp đèn, một trong những đám bùn to lớn đó tràn vào, trút lên người bọn thầy tu đang quỳ. Phủ lấy cả bàn thờ,  phủ lấy cả thâm cung, phủ gần kính các thân xác của tín đồ Ai Cập giáo.
- Chúng chết cả rồi! – Burbo nói.
Hai tên khốn nạn đưa mắt nhìn nhau… Calénus là đứa nhát gan, nhưng lại  tham lam hơn, trấn tĩnh lại đầu tiên.
- Hành động nhanh lên rồi còn trốn. – Hắn khẽ nói.
Hắn leo lên bậc cửa, dừng lại, giẫm lên thềm đền nóng bỏng và ngổn ngang  xác chết các giáo hữu. Nhưng tên đấu sĩ rùng mình, lùi lại.
- Càng hay. – Calénus nghĩ. - Phần của ta sẽ gấp đôi.
Hết sức nhanh nhẹn, hắn thu nhặt tất cả của cải của ngôi đền mà hắn có thể vác được rồi không chút do dự, không hề nghĩ đến tên đồng lõa, Calénus lao ra khỏi ngôi đền. Một tia sáng rực rỡ từ ngọn núi bất ngờ phóng ra làm cho Burbo, lúc đó đang ngây người ở thềm, nhìn thấy tên thầy tu đang ôm đồ chạy trốn.  Hắn lao ra theo. Bỗng một trận mưa tro bụi ghê gớm đổ xuống cạnh chân hắn.  Tên đấu sĩ cảm thấy mình quỵ ngã đến nơi.
Bóng tối bao trùm lấy hắn. Bụi tro vẫn tiếp tục trút xuống dữ dội, rồi tạo  thành từng đống toả ra những hơi khí ngột ngạt và chết người. Thất vọng, hắn  định chạy trốn. Đám tro đã bịt lối ra. Tốt nhất là cứ ở lại trong nhà, ít ra cũng  tránh được đá bụi rơi vào người. hắn ngồi xuống, nghiến răng chịu đựng. Không  khí bên ngoài ngày trở nên đông đặc, ngột ngạt khó thở, nó tràn dần vào trong  nhà.
Hắn không chịu được nữa, trong một góc tường, hắn nhìn thấy một lưỡi rìu,  đồ cúng thần. Hắn vồ lấy, và dồn hết sức lực vào đôi tay lực lưỡng, hắn cố mở một lối thoát qua các bức tường.
Giữa những cơn mưa tro, người ta nghe thấy tiếng đất rung, tiếng sóng biển  động. Nhỏ hơn nữa là tiếng rít của các luồng khí lọt qua các khe núi. Đôi lúc, đám mây như bị rứt ra và bên dưới các tia chớp, hiện ra những hình thù như người, như quỷ đuổii theo nhau, xô đẩy nhau, rồi lại tan biến đi trong bóng tối.
Đống tro có chỗ ngập tới đầu gối, và đám mưa tro bụi nóng bỏng thoát từ ngọn núi lửa tràn vào trong nhà, mang theo những hơi độc chết người, có chỗ,  từng tảng đá dội xuống các nóc nhà, phủ đầy đường, bịt kín dần lối đi lại. Càng ngày, đất càng chuyển động mạnh. Người đi bộ lảo đảo, xe, cáng không sao  đứng vững, ngay cả trên mặt đường còn trơn tru đung đưa như nhịp võng.
Dưới ánh những bó đuốc lập loè, từng đoàn người gặp nhau, kẻ này chạy ra  biển, kẻ khác lại từ biển chạy về cùng đồng quê. Nước biển rút xuống nhanh,  mặt biển bốc hơi mù mịt. Hỗn loạn, lạc lõng, kinh hoàng và đầy lo sợ, đám  người tìm sự nương tựa bên nhau không ai nói một lời. Không ai nói vì cơn mưa  bụi không ngừng rơi xuống làm tắt các bó đuốc, khiến họ vội tản ra tìm nơi ẩn  náu. Họ chỉ kịp nhìn thấy mặt người như bóng ma. Mọi công trình của nền văn  minh đều bị thiêu huỷ, tên ăn trộm thản nhiên đi cạnh bên ông quan tòa nghiêm  nghị, nếu vợ bị lạc chồng, cha lạc mất con, trong bóng đêm đó, đừng hy vọng  mà tìm lại được. Người ta xô đẩy nhau, người ta trốn tránh một cách vô vọng. không còn gì là luật pháo nữa, ai cũng chỉ biết giữ lấy thân mình.
Dắt Ione và cô gái mù, Glaucus đi giữa cảnh hỗn loạn đó. Bất thình lình,  hàng trăm người, cùng đi về phía bờ bể, song đột ngột ập vào họ. Nydia bị đứt  ra, Glaucus và Ione bị xô lên phía trước, và khi đám người mà họ không nhận rõ  mặt vì trời quá tối, đã bị cuốn đi, Nydia không còn ở bên cạnh Glaucus nữa. Glaucus lên tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Họ quay lại nhưng vô hiệu. Người  bạn, người cứu tinh của họ mất rồi, cô lại là người dẫn đường nữa chú! Sự tàn  tật đã làm cho cô quen thuộc đường xá thành phố mà không cần đến ánh sáng.  Cô dẫn họ đi, không sợ nhầm lẫn, về phía bờ biển mà họ có hy vọng thoát thân  được. Nhưng, bây giờ, họ đi về phía nào? Đối với họ, phía nào cũng tối như bưng và không có lối đi. Mệt nhọc, thất vọng, lạc lõng, họ cứ tiến lên, mặc cho tro bụi rơi trên đầu và những mảnh đá rơi xuống đất làm nẩy lửa lên.
- Than ôi! – Ione nói. – Tôi không thể đi được, chân tôi ngập bùn nóng bỏng.  chàng đi đi, để tôi lại cam chịu số phận khốn khổ này.
- Nàng đừng nói như vậy, nếu chết tôi cùng chết với nàng còn hơn sống  không có nàng. Nhưng, than ôi, trong tối tăm như thế này, biết đi theo hướng  nào?
Glaucus ôm lấy Ione, và sau bao giờ khó nhọc họ đến được chỗ ngôi đền thờ thần Vận May. Chàng đưa nàng vào phía trong rồi lấy thân che cho nàng khỏi bị phủ bởi bụi tro và đá.
- Ai đó? - Một tiếng nói run run và khe khẽ của một người đã đến trốn ở đó  trước. – Nhưng chả sao, trời sập thì còn gì là bạn với thù nữa.
Ione quay về phía tiếng nói đó, khẽ kêu lên. Bíu chặt lấy Glaucus. Chàng  nhìn theo, nhận ra ngay nguyên nhân nỗi sợ hãi đó. Chàng bắt gặp hai con mắt  sáng quắc kỳ lạ trong bóng tối. Một tia chớp sáng lòe, chiếu khắp ngôi đền và  Glaucus rùng mình nhận ra con sư tử mà suýt nữa chàng làm mồi cho nó, đang  nằm cạnh một cái cột trụ và bên cạnh nó, nó không chút nghi ngờ, một người to  lớn, người vừa thốt ra câu nói trên, nằm thẳng đờ, người đó là gã đấu sĩ bị thương Niger. Nhờ có ánh chớp, con vật nhìn thấy gã đấu sĩ và y cũng nhìn thấy  con sư tử, nhưng bản năng hung dữ của nó đã tiêu tan. Hơn nữa, con sư tử còn  lết lại gần gã đấu sĩ như một người bạn. Gã đấu sĩ cũng không run sợ, không lùi  lại. Thiên nhiên giận dữ đã làm mất hết những nỗi khiếp sợ và tình cảm bình  thường.
Khi họ ẩn nấp trong cảnh ghê rợn như vậy, một đám đàn ông đàn bà đi qua  ngôi đền, tay cầm đuốc. Họ là người theo đạo Gia tô. Tin tưởng vào chúa trời,  họ không một chút lo sợ. Đó là sự ngây thơ cuồng tín của những người Gia tô  đầu tiên. Họ cho rằng ngày tận thế sắp đến rồi.
- Tai ương! Tai ương! – Tiếng lanh lảnh của một cụ già dẫn đầu đoàn người  đó vang lên. – Các người đã thấy chưa, Chúa đang phán xử, Chúa đã phóng lửa  từ trời cao xuống. Tai ương sẽ đổ lên đầu những kẻ có uy quyền, những kẻ thờ thần tượng và súc vật, những kẻ đã làm đổ máu các bậc Thánh và thích thú về sự hấp hối của Đấng cứu thế.
Bằng một giọng ghê rợn, cả đám người nhắc lại: Tai ương! Tai ương! Tai  ương!
Đám người Gia tô giáo đi qua. Bó đuốc của họ bập bùng trong cơn bão táp,  tiếng họ vang lên những lời dọa nạt và cảnh cáo. Cuối cùng họ khuất sau góc  phố. Ngôi đền lại chìm trong im lặng và tối tăm.
Ione và Glaucus lại tiếp tục đi, phân vân, do dự. Như những tù nhân trốn  khỏi xà lim. Nơi nào mà tro đã khô rồi và không lẫn lộn với cái hỗn hợp phun từ ngọn núi ra, chỗ đó trông trắng toát kinh khủng. Chỗ khác, than, đá, chồng chất  lên xác của một số kẻ khốn khổ. Tiếng kêu ghê rợn khi người ta nghĩ đến việc  họ không tài nào cứu giúp được các nạn nhân. Trùm lấy hết thảy các thứ tiếng  đó là những tiếng động vang lên từ ngọn núi vọng lại, ghê rợn, kinh khủng như lời phán xét của một đấng siêu nhiên. Mọi người chợt thấy mình quá bé.
Tiếng nổ vang trời, các dòng lửa vẫn tiếp tục chảy. Gió đem theo từng lớp  bụi nóng bỏng và những khí độc thổi đi khắp mọi nơi.
- Glaucus, chàng đỡ tôi với, chàng giữ tôi với. tôi kiệt sức rồi.
- Vì hạnh phúc của chúng ta, nàng hãy can đảm lên, Ione hiền dịu, kìa nàng  xem phía này có những bó đuốc… chắc là họ đi ra biển… chúng ta đi theo họ.
Ngọn núi như tạm nghỉ, thu mình lại để rồi lại nổi cơn thịnh nộ dữ dội hơn. Đám người mang đuốc tiến lại chỗ đền thờ Vận May.
- Chúng ta tới gần bờ biển rồi. Tự do và giàu có cho nô lệ nào còn sống. Ta  nhắc lại cho các ngươi rõ, thần linh đã phán truyền rằng chúng ta sẽ thoát.
Một số nô lệ khiêng những thùng nặng nề. Arbacès với một thanh kiếm tuốt  trần ở tay, đang kiên quyết thúc giục chúng.
- Tổ tiên ta ơi! – Tên Ai Cập thét lên, hắn vừa nhận ra Glaucus. – Ta gặp  may rồi. Trong cảnh đau thương chết chóc này, số phận đã đưa cho ta hạnh  phúc và tình yêu. Tên Hy Lạp kia, đứng lại, trả Ione cho ta.
- Đồ phản trắc, đồ giết người. Némésis đã run rủi ngươi đến đây cho ta báo  thù. Một lễ vật xứng đáng cho thần Hadès mà ta đang chờ đợi. Lại gần đây,  ngươi chỉ cần chạm tay vào nàng Ione, vũ khí của ngươi sẽ như cây sậy.
Trên bề mặt thành Pompéi, lửa và bóng tối như hai con quỷ đang tranh giành  một thế giới. Ánh lửa sáng rực cả bầu trời.
Bọn nô lệ thét lên một tiếng, ôm chặt lấy mặt. Bản thân tên Ai Cập cũng  sững người khi bầu không khí nóng bỏng chiếu lên bộ mặt bệ vệ và các viên ngọc đính ở áo của hắn. Phía sau lưng hắn là một tượng đài đặt pho tượng  Hoàng Đế Auguste bằng đồng đen và người ta tưởng pho tượng đó đã thành lửa.
Glaucus, tay trái ôm lấy Ione, tay phải cầm lấy cái dùi mà chàng vẫn giữ từ lúc ở đấu trường, giơ lên như thách thức. Chàng đợi tên Ai Cập phản ứng.
Arbacès quay mặt nhìn chằm chằm vào chàng trai Thessalie. Hắn lưỡng lự một lúc.
- Tại sao lại còn do dự? – Hắn nghĩ thầm. - Quẻ bói đã chẳng bảo cái tai nạn  mà ta phải đề phòng đã qua rồi là gì! Linh hồn! – Hắn hét lên. – Có thể liều với  bão táp các nơi, và cơn lôi đình của các thần linh chỉ là tưởng tượng. Theo lình  hồn đó, ta sẽ chiến thắng đến cùng. Hỡi các nô lệ, tiến lên! Glaucus, nếu ngươi  chống lại ta, máu người sẽ đổ. Ta lấy Ione lại…
Hắn tiến lên một bước. Đó là bước cuối cùng của đời hắn. Đất bỗng rung  chuyển, lay động lật đổ hết. Tiếng đổ vỡ ầm ầm nổi lên khắp thành phố. Nóc  nhà, cột trụ ngỗn ngang rơi xuống khắp nơi. Một tia sét như bị kim loại hút,  đánh vào pho tượng Hoàng đế Auguste làm cho pho tượng tan tành cả đồng đen  lẫn đá hoa. Tiếng pho tượng đổ vang xa mãi. Lời tiên tri đã thành hiện thực.
Tiếng động đó đã làm cho Glaucus ngất đi một lúc. Khi chàng hồi tỉnh. Mặt  đất vẫn còn rung chuyển. Ione đang nằm bất tỉnh trên mặt đất ngay bên cạnh,  nhưng chàng không để ý đến nàng. Đôi mắt chàng nhìn chằm chằm vào bộ mặt  kinh khủng, một nửa thân người nhô ra khỏi đống đá của cái bệ tượng đổ, một  bộ mặt hấp hối và tuyệt vọng. Đôi mắt của con quỷ đó nhắm lại, rồi mở ra ngay  như còn hối tiếc cuộc đời. Môi nó run lên, co rúm lại. Rồi nó sa sầm rồi trở nên  bất động, tuy nhiên nó vẫn giữ nguyên vẻ mặt kinh hoàng.
Tên phù thủy khôn ngoan, tên Arbacès cao cường, tên Hermès Ceinture, ông  vua cuối cùng của nước Ai Cập đã chết.
Glaucus lại ôm lấy Ione chạy dọc theo phố, chàng định hướng theo ánh chớp. Theo bản năng, chàng nhìn về ngọn nùi thì thấy một trong hai cái mỏm  rung rinh nổ lên một tiếng mà không ai có thể tưởng tượng được, cái mỏm đó  đổ sụp xuống tận chân, tạo thành những thác lửa và ngay lúc đó một đám khói to lớn lan ra khắp bầu trời, trên mặt đất, trên mặt biển. Những cơn mưa lửa nối  tiếp nhau, cơn sau mãnh liệt hơn cơn trước, đem chết chóc đến các đường phố,  trời lại tối tăm mù mịt.
Glaucus đã bắt đầu thất vọng, trốn vào dưới một chiếc cổng, ôm Ione trong  lòng đành thất vọng chịu chết. Giữa lúc đó, Nydia cố đuổi theo cho kịp họ,  nhưng vô hiệu. Cô kêu khóc thảm thiết, nhưng tiếng kêu của cô bị hàng ngàn  tiếng kêu khác át đi. Cô quay lại nhiều lần nơi mà cô đã lạc họ. Vô ích, cô níu  lấy từng người để hỏi thăm họ về Glaucus. Nhưng họ xô đẩy cô, vì bản thân họ cũng lo cho số phận của chính mình. giờ này, không ai còn nghĩ đến những kẻ khác nữa? Cuối cùng, Nydia thoáng nghĩ rằng Glaucus định lên thuyền chạy  trốn, vậy nếu muốn tìm họ, thì nên đi ra bờ biển mới mong gặp được. Nhưng  bước chân của cô luôn luôn phải dừng lại, lúc thì dân chúng vẫn chạm phải, lúc  thì họ xô đẩy. Cuối cùng, một đám người cầm đuốc hốt hoảng xô cô ngã xuống  một cách phũ phàng.
- Gì vậy? – Một tiếng người nói cất lên. – Chính là cô gái mù can đảm. Thần  Bacchus ơi, không được bỏ cô chết ở đây. Dậy đi cô gái nhỏ! Đi, đi cô có bị thương không? – Nydia kêu lên. - Cảm tạ thần linh. Còn Glaucus, ông có thấy  chàng đâu không?
- Không. Chắc chàng đã ra khỏi thành phố rồi. Thần linh đã cứu chàng thoát  khỏi nhanh vuốt sư tử sẽ cứu chàng thoát khỏi hiểm họa núi lửa.
Vừa khuyến khích Nydia như vậy, Salluste kéo cô đi về phía bờ biển, không  để ý đến các lời van nài của cô nhờ ông tìm Glaucus. Luôn mồm cô nhắc lại cái  tên của người mình yêu quý. Giữa những tiếng động kinh khủng của vạn vật, tên chàng như một nốt nhạc dịu dàng trong lòng cô.
Salluste cùng gia nhân vừa đến đầu con đường dẫn từ thành phố ra biển, bỗng họ dừng lại bởi một đám người đông nghẹt. Hàng ngàn người chạy tán  loạn qua các cánh đồng mà không biết trốn về phía nào. Nước biển rút ra khá xa  bờ, và những kẻ chạy đến bờ biển đầu tiên đã kinh hoảng trước những làn sóng  khủng khiếp, họ quay lại đất, đất liền trông còn ghê gớm hơn biển khơi. Vì vậy,  hai lớp người, lớp đi ra biển, và lớp trở lại đất liền, hai lớp người đó gặp nhau  rồi dừng lại ở khoảng giữa, hoang mang, thất vọng. Rồi một bọn người nô lệ khác chạy đến mang theo của cải không còn thuộc về chủ của chúng nữa. Đó là  những tên nô lệ của Arbacès, chúng nhập vào đám đông. Chỉ còn có mỗi bó  đuốc đang cháy do Sosie cầm, ánh sáng chiếu lên mặt cô gái Thessalie. Hắn  nhận ra Nydia.
- Cô gái mù ôi, được tự do lúc này cũng như không. – Tên nô lệ nói.
- Nguơi có thấy Glaucus không?
- Có, tôi vừa thấy chàng cách đấy ít phút.
- Trời phù hộ cho ngươi! Ngươi thấy chàng ở đâu?
- Anh ta nằm dưới cổng toà án, không rõ còn sốnng hay chết.
Nydia không nói một lời, không cho Salluste biết, cô len giữa đám người,  quay lại thành phố. Tới cổng tóa án, cô gái cúi xuống. Cô lấy tay tìm xung  quanh, cô gọi Glaucus. Một tiếng nói yếu ớt trả lời: - Ai gọi tôi thế? Phải chăng  là tiếng của tử thần? Ta đã sẵng sàng rồi.
- Chàng dậy nhanh, đi theo tôi, cầm lấy tay tôi, Glaucus ơi! Chàng sẽ sống.
Ngạc nhiên, nhưng đầy hy vọng, Glaucus đứng dậy.
- Nydia vẫn cô đấy ư! Không có tai nạn gì xảy ra với cô chứ?
Giọng nói dịu dàng lộ vẻ sung sướng của Glaucus làm cô gái mù rất xúc  động.
Hai tay dìu Ione, Glaucus đi theo cô gái dẫn đường. Với một sự khôn ngoan  rất mực, cô tránh các lối đi dẫn tới đám người mà cô vừa rời xa, cô đi theo một  con đường khác dẫn đến bờ biển.
Sau bao chặng nghỉ ngơi và với một linh cảm sáng suốt khó tả, họ tới bờ biển và nhập vào một nhóm người. Can đảm hơn các kẻ khác, quyết định đương  đầu với sự nguy hiểm nào đó, còn là hơn ở lại chứng hiến cảnh hoang tàn, họ xuống thuyền giữa đêm tối âm u. Kiệt lực, Ione thiếp trên tay Glaucus, còn Nydia ngồi dưới chân chàng. Đám mưa tro vẫn tiếp tục rơi trên mặt nước, lên  thuyền. Đám bụi đó, gío cuốn đi, đã bay tới các xứ rất xa, làm cho dân cả châu  Phi phải khiếp sợ, nó bay tới những vùng đất đai cổ xứ Syriee và Ai Cập.
Im lặng, mọi người ngủ say sưa mê mệt, Nydia se sẽ trở dậy. Cô cúi xuống  gần đầu Glaucus, rụt rè, buồn bã, cô hôn lên trán chàng và tìm bàn tay của  Glaucus. Bàn tay đó đang nắm chặt tay Ione. Cô thở dài, mặt cô trở nên tái đi,  cô hôn một lần nữa lên trán Glaucus và lấy tóc mình lau những hạt sương đêm  động trên đó.
- Cầu thần linh phù hộ cho chàng. – Cô thì thầm - Cầu cho chàng được sung  sướng với người mà chàng yêu. Mong rằng đôi lúc nhớ tới Nydia này!...
Rồi cô đi dọc chiếc thuyền, về phía mũi thuyền, đến đó cô dừng lại, cô cúi  mặt xuống nước, sóng bể tung bọt nước lên vầng trán nóng bỏng của cô. Không  khí mát mẻ luồn qua mớ tóc xổ tung của cô. Cô đưa đôi mắt không ánh sáng,  nhưng rất dịu dàng nhìn lên bầu trời mà cô chưa bao giờ có diễm phúc được  nhìn như mọi người.
- Không, không! – Cô khẽ nói với vẻ mơ màng. – Ta không thể chịu đựng  được sụ dày vò đó nữa. Ta cảm thấy tình yêu tuyệt vọng đó sẽ làm cho ta hoá điên. Ta đã cứu được chàng hai lần. Bây giờ còn sống làm gì nữa để thêm khổ đau? Tại sao ta không chết đi? Ta chỉ có niềm an ủi cuối cùng đó thôi! Ta nghe  thấy nguơi đang mời gọi ta. Đó là nhưng tiếng gọi trong trẻo và vui vẻ. Yên nghỉ, yên nghỉ, yên nghỉ. Chỉ có điều đó mới là Thiên Đường của ta.
Một thuỷ thủ ngủ gật trên cầu thuyền, nghe thấy tiếng động nhẹ trên mặt  nước. Hắn hé mắt về phía mũi thuyền đang bập bềnh, nhịp nhàng, hắn nhìn thấy  hình như có một vật gì trăng trắng lập lờ trên sóng. Nhưng cái hình đó biến  ngay. Hắn quay mình, ngủ thiếp đi, mơ thấy nhà cửa và các con của hắn!
Khi Glaucus và Ione thức dậy, ý nghĩ đầu tiên của họ là tìm nhau rồi tiếp đó  họ mới nghĩ đến Nydia. Không ai thấy cô đâu cả. Đêm trước, người ta đã không  thấy cô rồi.
Mọi người yên lặng suy nghĩ về số phận của cô. Glaucus và Ione nhãng quên  cuộc trò chuyện của họ, để cùng khóc lóc Nydia như khóc cho một người em gái bạc mệnh.