Trần lê Văn

Trích Giai-Phẩm mùa Thu Tập I

Bức Thư Gửi Một NGười Bạn Cũ

của Trần lê Văn
Hà-nội, tháng 8 năm 1956
Thân gửi anh Nguyễn vinh Hoa
Tiết trời vừa mới vào Thụ Tối nay lại là tối thứ bảỵ Tôi định ngồi vẩn vơ trên ghế công-cộng, thưởng thức cảnh ái-tình của người khác và trở về làm thơ ca ngợi cuộc đờị Thế mà, chẳng biết nghĩ mgợi ra sao, tôi rảo cẳng về nhà cặm cụi ngồi trong gian phòng vừa hẹp vừa thấp, không khí oi bức như trong một cái hầm viết thư này cho anh. Bức thư này, tôi băn khoăn đã lâu lắm, hôm nay mới hạ bút viết. Những điều sắp nói với anh, tôi đã định trình-bày dưới một hình-thức khác: thơ ngụ ngôn kiểu La Phông-Ten hay chuyện cổ-tích, kiểu An-đéc-sen. Tôi không có tài làm thơ ngụ-ngôn hay viết chuyện cổ-tích, và tôi nghĩ viết như vậy có lẽ là một thái-độ úp mở. Tính rụt rè đã từng làm cho tôi có thái-độ úp mở đó. Chính anh và một số ít người giống anh đã tạo cho tôi cái tính rụt rè đáng bỉ ấỵ Tôi không giận anh nữa đâụ Lúc này tôi thấy lòng mình bình tỉnh như mặt biển sau trận bãọ Ví như vậy chắc anh thấy là quá đáng vì mấy ai ở đời dám ví lòng mình như biển cả. Và chính biển cả, ngay lúc nó bình tĩnh nhất biết đâu lòng nó chẳng quy cuồng như những luồng sóng ngầm.
Tôi biết, do thói quen lâu năm, anh sẽ nhiếu đôi mày, nghiêm sắc mặt, nhô gò má lên để làm cho tôi "biết điều hơn", nghĩa là co rúm người lại chui vào cái vỏ như một con ốc sên hoặc anh sẽ ban tặng một cái cười rất có nghiên-cứu, một cái cười khoan-dung độ lượng để tôi thấy "mọi sự đều vui vẻ" và đêm ngủ khỏi giật mình.
Thực ra, hai vẻ mặt khác nhau của anh đều đưa nhầm tới một kết-quả là làm cho người khác dấu diếm ý-kiến thực của mình. Một nhà văn bi-quan nào của thời xưa có nói: "Ngôn ngữ vốn dùng để che đậy những ý nghĩ thực". Tôi không cho câu ấy là đúng, nhất là trong thời-đại chúng tạ Người khác lúc còn sống cạnh nhau nếu không nói thật với nhau thì đợi đến cuộc phán xét cuối cùng mới nói thật sao?
Trải bao thế-kỷ, nhất là trong cái phần đã qua của thế-kỷ này, máu đã đổ nhiều, xương đã rơi nhiều cũng chỉ là để đưa tới một cuộc sống thật, với những con người thật, biết cảm nghĩ thật.
Anh định góp sức với loài người tạo nên cuộc sống thật, sao anh lại cứ làm một người giả trong cái xã-hội đang hy-sinh nhiều để vươn mạnh lên cái thật này?
Thời cũ, có những kẻ coi cuộc đời như một hí-trường, rắp tâm đội mũ đeo râu chứ không thích làm một vai chạy hiệụ Lại có những kẻ coi cuộc đời như canh bạc, muốn xông vào thi thố những ngón xảo trá để ăn tọ Thậm chí có kẻ quan-niệm cuộc sống là một thương-trường. Từ những cái giá rẻ nhất như áo cũ, đồng nát cho đến những cái cao-siêu nhất như đạo-lý của các đấng triết-nhân, bọn họ đều có thể dùng để làm ra lợi lộc được cả. Tôi nói cho văn vẻ theo kiểu Vũ trọng Phụng thế thôi, chứ chẳng có dụng tâm ám-chỉ gì anh vì anh cũng không đến nỗi mang đủ các tàn tích xấu xa đến thế. Mặt khác, tôi không ưa gì cái thói am-chỉ, nó là cái thói quen của nô-lệ.
Trong thư này, tôi gọi anh bằng cái tên cũ Nguyễn vinh Hoa, anh cũng đừng nên lấy thế làm mếch lòng. Chỗ bè bạn thân tình, tôi mới dám suồng sã thế. Anh cho phép nhắc lại một kỷ-niệm; hồi chúng ta cùng học trường Bưởi, có lần anh kể tôi nghe rằng nhà ta vốn dòng trâm-anh thế-phiệt. Ông cụ nhà ta đêm đêm nằm cạnh khay đèn kể hai câu Kiều:
Vinh-hoa phú quý ai bì?
Vườn xuân một thuở để bia muôn đời
Khi anh ra đời, ông cụ đặt cho anh cái tên đẹp đẽ ấy, làng xóm ai cũng phục. Anh lớn lên hãnh-diện vì cái tên ấy, kiêu-kỳ với mọi người vì cái gia thế ấỵ Là bạn cùng đèn, cùng sách mà hồi đó đối với anh tôi đã thấy tủi thân lép vế trước thái-độ mục hạ vô nhân của anh. ấy là vì tôi chưa được Cách-mạng dạy cho hiểu rằng: giá trị con người đâu phải ở cái tên đẹp và dòng họ sang.
Sau tháng tám 45, gặp anh thì anh không còn là Nguyễn vinh Hoa nữa mà đã trở thành Lê hùng Tiến. Giả sử một nhà cách-mạng chân chính đổi tên đổi họ để kẻ địch khỏi tìm ra tông-tích thì ai ai cũng thấy phải lẻ; nhưng đàng này, anh đổi tên, xét ra chỉ để có một cái nhãn-hiệu mới thay cho cái nhãn-hiệu cũ mà anh cho là quá thờị Với cái nhãn-hiệu mới này anh nghêng ngang, nghễu ngện bước vào cuộc đời mới, che mắt thế gian bằng một thứ trang-sức mạ vàng. Anh cắt nghĩa cho tất cả mọi người: Hùng là anh hùng, Tiến là tiến-bộ. Thiên hạ bắt đầu nể anh. Anh lại phân vua với quần-chúng rằng anh đã tự ý chia cả gia-sản cho dân nghèo ngay khi giành chính quyền ở huyện Thái-ninh, quê nhà anh, và hôm nhân dân xông vào chiếm lấy huyện đường, anh vác khẩu súng chim đi đầu... hô khẩu hiệụ Thiên hạ càng nể anh hơn nữạ Thế là, mập mờ đánh lận con đen, dùng danh-từ, khẩu-hiệu làm lá chắn và bùa hộ mệnh, anh có đủ can-đảm chơi trò trịch thượng với đờị Cái chất sống bừng bừng chứa đựng trong các danh-từ khẩu-hiệu của thời đại mới, anh đang tâm bóp méo, vắt kiệt nó đi theo trí tưởng tượng kỳ quặc bện não của anh, hòng bóp méo con người, vắt kiệt chất sống của con người mà Cách-mạng đã đổ bao nhiêu máu mới giành lại được.
Anh thường hay bảo người khác "liên hệ bản thân". Bây giờ anh thử "tự liên hệ" xem sao?
ở đây tôi không có đủ quyền hạn làm một việc kiểm thảo hay lên mặt quan tòa buộc tội anh như anh thường buộc tội người khác. Nhưng là một con người, lại là bè bạn anh, tôi tưởng có quyền góp một vài "hiện tượng" giúp anh nhìn lại con người mình. Dụng ý tốt nhưng lời nói có vụng về, xúc phạm đến lòng tự ái cũng mong anh thế tất chọ
Nhớ lại còn thấy buồn cười với cái tên "Ông Khẩu-hiệu" người ta tặng cho anh.
Ngày đầu kháng-chiến có khẩu-hiệu " quần-chúng -hóa sinh-hoạt " anh nắm luôn lấy nó để đóng một vai kịch khá lý thú. Hồi ấy anh mới về nông-thôn, anh tuyên-bố ầm ỹ là " cương quyết bỏ cái khoản xà-phòng trong sổ chi tiêu riêng". Ra đường, anh ăn mặc tồi tàn và đi chân đất, tối về không rửa chân trước khi đi nằm. Chủ nhà vốn người chất phác, tin ngay anh là người tốt và nhường ngay cho anh căn nhà rộng nhất, cái giường vững nhất, tấm chiếu lành nhất, lại để cho anh sai khéo con người ta làm những công việc vặt cho anh.
Mặc áo và đi chân đất, ly-dị với... xà-phòng, trút bỏ cái lốt " Vinh Hoa " cũ, với cổ-cồn, ca-vát, anh đã đủ tự thấy mình là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức của quần-chúng, và thấy có quyền phẫn uất với mọi cái mà anh cho là trái với nền đạo đức ấỵ Vì hay phẫn uất, anh hay lên giọng kẻ cả mắng ngườị Người bị mắng đầu tiên là chủ nhà, kẻ đã nhường nhà cho anh ở. Nhân ngày giỗ mẹ, ông bà ấy mời chúng ta ăn cỗ. Cỗ đây có nghĩa là cơm không độn như thường lệ lại có vài đĩa thịt và cả tí " nước cáy " nữạ Chủ khách đang vui vẻ anh mượn hơi men, nữa đùa nữa thật, luận thuyết về sự " không nên phạm-chính-sách tiết-kiệm ", " cần phải ăn cơm độn ", " một giọt rượu là một giọt máu ". Bà chủ thừa lúc anh đi ra ngoài, ghé tai tôi bằng một giọng sợ sệt: " nhà cháu có diều gì sai phạm, ông làm ơn nói với ông Tiến bỏ quá đi cho ". Tôi phải lấy lời giải thích, an-ủi mãi người ta mới yên lòng. Đó là một lối " quần-chúng-hóa " đặc-biệt của anh. Anh căm thù nhất " cái bệnh tiểu tư-sản ". Tôi cũng đã biết anh hiểu rộng câu " tẩy rửa đầu óc tiểu tư-sản " trong sách vở. Những tàn tích tiểu tư-sản như đồng hồ, bút máy, nhẫn vàng, anh dấu biệt một chỗ. Một buổi sáng, chị ấy lấy hộo " gíp " ra đánh răng, tự nhiên thấy nộ khí xung thiên, quẳng luôn hộp gíp xuống ao vì " dùng " gíp " đánh răng là tiểu tư-sản ". Chủ nhà nhìn anh kinh ngạc. Dần dần ba tiếng " tiểu tư-sản " trở nên những tiếng anh quen dùng để kháng cự mọi sự anh không đồng ý. Đại khái người ta mặc cái áo đẹp, hoặc giữ ảnh nhân tình trong túi hay buổi tối ngồi chơi ngắm trăng đều là " tác phong tiểu tư-sản cả ". Thậm chí cô bé con hàng xóm chạy sang khoe với bạn cái mùi xoa thêu cành hoa con bướm cũng bị anh phê-bình ngầm là " ảnh hưởng tiểu tư-sản ". Anh quên hẳn cái áo gấm lam của anh còn giữ từ ngày cưới vợ cất ở đáy hòm, thỉnh thoảng vắng người anh đem ra phơị Giá lúc ấy phát động quần-chúng rồi thì khối người vô cớ bị anh liệt phăng vào loại địa-chủ gian ác chứ không bỡn.
Anh có thấy không? lối sống giả tạo ấy cứ theo cái đà tự phụ, tự mãn của anh mà phát triển lên. Năm bắt đầu có chỉnh-huấn, anh xung phong đi ngaỵ Khi đó chúng ta cùng công-tác ở một cơ-quan. Anh là trưởng ban, tôi một nhân-viên. Tôi cũng đi dự lới chỉnh-huấn với anh. Trong lớp có khẩu-hiệu " Thành-khẩn phê-bình và tự phê-bình ". Một số đồng chí có khuyết-điểm nặng can-đảm nói rạ Có người khóc vì hối hận. Ai chẳng cảm động trước sự nói thật, khóc thật. Anh ngồi lầm lì mấy ngày trời, tỏ ra nung nấu ghê lắm. Một đêm mọi người đang ngủ yên, anh tung chăn vùng dậy, lay gọi đồng-chí tổ-trưởng và khóc thét lên, bộc lộ một tội tầy đình: một năm nào đó, sau cách-mạng tháng tám, anh có tổ chức một Đảng phát-xít lấy tên là Đảng " Quạ Đen " âm-mưu làm những việc khuynh đảọ Sau khi " tranh đấu bản thân " anh nói ra " sự thật " với một niềm đau xót vô cùng. Anh xếp đặt câu chuyện có tình tiết hẳn hòi, ly kỳ như chuyện trinh-thám. Hôm sau được " báo-cáo điển-hình " ở hội trường. Thỉnh thoảng anh khóc nấc lên, oằn người như con sâu bị nép vào lửa, tỏ vẻ ăn năn đến cao độ. Gần hết báo-cáo, tự nhiên huỵch một cái, anh ngã lăn xuống đất, ngất đị Anh em xúm lại vực anh dậy, gọi y-tá đến tiêm thuốc hồi-sinh. Người đời vốn tốt bụng nên dễ tin, xôn xao khen ngợi, " anh học-viên thành khẩn gương-mẫu ". Tôi cũng có tính cả tin, đâu dám ngờ anh bịa chuyện cho giáng yêng-hùng. Tôi lại phục anh về cã hai mặt: một là " to gan lập đảng Phát-xít " hai là " lầm lỗi đến thế mà dũng cảm nói ra ".
Tuy nhiên, tôi cứ loay hoay tự hỏi: "Quái! Hắn lập đảng Phát-xít lúc nào mà mình ở sát nách không biết? ".
Ngày qua tháng lại, anh cũng làm đến chức Trưởng-tỵ Chẳng hiểu duyên nợ chuyền kiếp thế nào mà tôi cứ phải ở gần anh mãị Chuyến này anh lập nghiêm hơn trước nhiềụ Trước anh cũng có những lúc vui tính và biết cười to như mọi ngườị Nhưng khi cảm thấy mình quan-trọng quá rồi thì anh cười càng ngày càng ít đị Khi chào thì anh chỉ vừa kịp nhếch nửa cái mép lại đóng laị ngaỵ Đây cũng là một cách anh áp-dụng bốn chữ " thái-độ nghiêm-túc ". Trình độ " nghiêm-túc " của anh càng lên cao thì hình thù anh càng thay đổị Người anh khô đét lại, thẳng đờ như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết nhìn,mặt tái đi vì luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai hàm răng xít lại, dầu có cậy cũng chẳng ra một nụ cườị
Từ khi trong phòng anh khẩu-hiệu " đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng " thì quả anh gương mẫu không ai bì kịp. ở đâu và lúc nào anh cũng chỉ nói toàn chuyện công-tác, không bao giờ đá động tới chuyện vợ con, gia-đình. Anh kiêng những chuyện đó như bậc chân tu kiêng phạm giớị Thành thử chúng tôi mỗi khi thèm khát nói về chuyện đời tư của nhau một chút, thường phải chờ khi vắng mặt anh mới dám nói vì ngại bị phê-bình là " cá-nhân chủ-nghĩa ", "gia-đình chủ-nghĩa" và nhiều chủ-nghĩa đồi tệ khác nữạ Cũng vì thế trong năm sáu năm trời công-tác ở cơ-quan, dưới quyền điều-khiển của anh tôi chỉ dám đánh bạo xin về thăm nhà một lần, khi nghe tin đứa con đầu lòng của tôi bị thương-hàn nặng. Quả thực trông bộ mặt thiểu-nảo của tôi lúc ấy, anh cũng cho phép nhưng không quên kèm theo một câu: " đồng-chí không nên nặng đầu óc gia-đình nhiều quá! ". Tôi về đến nhà, thằng bé xuýt qua đờị Nếu không nhờ hàng xóm láng giềng cứu sống nó thì tôi oán giận anh biết ngần nào? Thú thật có một lần tôi bắt gặp anh viết thư gởi về nhà cho chị ấỵ Đang đề phong bì, chợt trông thấy tôi anh dấu bức thư xuống dưới một chồng sách. Tôi xuýt buồn cười nhưng cũng hơi mến anh, chính vì cái việc nhỏ mọn "viết thư cho vợ" đó.
Chừng cảm thấy mình cô-đôc, bất giác một hôm anh dán trên tường một khẩu-hiệu " phải hòa mình với quần-chúng " và lập tức thực-hiện ngaỵ Mỗi ngày anh để ra mười lăm phút (có ghi trong thời-khóa-biểu) để săn sóc mọi ngườị Săn sóc đây có nghĩa là đến vỗ vai từng người rồi hỏi: hoặc " Có khỏe không? " hoặc chỉ gọn lỏn có hai tiếng " Thế nào? ". Người được hỏi thấy cảm-động, sắp bắt đầu kể lể tâm-sự thì anh đã vội vàng chạy sang phía người khác và hỏi những câu đúng như vậỵ Chẵng lẽ khi ấy chúng tôi lại nói thật với anh rằng thà anh tặng chúng tôi mỗi thằng một nhát dao còn hơn ngày nào cũng vỗ vai thăm hỏi kiểu ấỵ Chiều chiều cơm nước xong là có một giờ để dân-vận (cái này cũng được ghi trong thời-khóa-biểu). Đồng bào đã thuộc lòng những câu dân-vận của anh: Cụ bao nhiêu tuổi? Cụ có mấy con? Con cụ làm gì? Người ta chưa kịp đáp câu này, thì anh đã hỏi sang câu khác. Có những người bị anh hỏi như vậy hàng mấy chục lần, sau những giờ dân-vận, anh về ngủ yên giấc như đã làm tròn một nghĩa vụ lớn đối với giống nòị Hồi ấy anh cũng có một người bạn thân. Đó là một sự lạ. Bạn anh tôi không nhớ tên là gì. Anh chàng ấy giống anh như tạc. Hai anh gặp nhau mỗi tuần một lần vào chiều thứ bảy, rất đúng giờ (chắc là việc này cả hai đều có ghi trong thời-khoá-biểu). Trò chuyện tâm giao giữa hai anh cũng có " chương-trình nghị-sự ". Phần thứ nhất: phân-tích tình-hình thế-giới ; phần thứ hai: phân-tích tình-hình trong nước ; phần thứ ba: phàn nàn về những kẻ sai lậo-trường. Khi các anh có vẻ đã ngấy nhau rồi thì bắt tay nhau và hẹn chiều thứ bảy sau lại gặp nhaụ Thường lệ cứ đúng một tiếng rưỡi đồng hồ tâm-sự là các anh ngấy nhaụ
Tôi vừa nói tới hai chữ " lập-trường ". ái chà! về vấn đề này thì thiết tưởng cả thế-giới dân-chủ khó lòng tìm ra một người " đúng lập-trường " như anh. Tôi có nhiều dịp thấy rỏ điều nàỵ Anh thường nói lập-trường tỏ rõ nhất trong ngôn-ngữ. Vì vậy ở điểm này anh ráo riết lắm. Đồng-chí cấp dưỡng một hôm kho thịt, gọi món ấy là " thịt kho tầu " anh " chỉnh" đồng chí ngay tại chỗ: " sao không gọi là thịt kho Trung-quốc? ". Những tiếng ghép quen dùng như chè tầu, giầy tầu... anh đều nhất thiết đổi là chè Trung-quốc, giầy Trung-quốc v.v... Có lúc tôi đánh bạo góp ý-kiến: Ta gọi nước bạn là Trung quốc thì đúng lắm rồi, nhưng có vài trường-hợp thiết-tưởng có thể linh động được chứ? Anh trừng mắt: " Tư-tưởng này là tư-tưởng phá hoại tinh-thần hữu-nghị! ". Trong một phút đùa cợt, tôi ví cái dáng điệu lấc cấc của một anh bạn như dáng điệu " ét ô-tô " thời Pháp. Thế là tôi bị phê-bình nghiêm-khắc ngay là " xúc-phạm đến giai-cấp công-nhân ". Chẵng những chúng tôi mà cã quần-chúng đồng-bào lắm phen cũng được anh giáo-dục về lập trường rất chu đáọ Từ sau phát-động quần-chúng có những vở kịch trình bày những cảnh địa-chủ áp bức nông dân. Khán-giả nhiều khi cảm-động không cầm được nước mắt. Nghe nói thế anh cũng chuẩn bị nước mắt từ ở nhà mỗi khi đi xem kịch. Thường thường anh khóc đúng lúc. Nhưng cũng đôi khi anh khóc bừa bãị Thí dụmột bữa đi xem chèo, giữa lúc tên địa-chủ trên sân-khấu đánh nông dân mạnh quá, rơi cả râu thì anh hu hu khóc. Những người chung quanh cười bị anh mắng ngay là " thương địa-chủ " " riễu nông dân ". Mọi người lấm lét nhìn anh và cho đến khi hạ màn không ai dám cười nữạ
Về vấn-đề phê-bình và tự phê-bình, anh cũng rất triệt-để và có nhiều sáng-kiến.
Mỗi tố trước khi đi ngủ, có mười lăm phút " tự tu " nghĩa là kiểm-điểm lời ăn, tiếng nói, việc làm trong một ngày: anh này chót chê tác-phẩm của một nhà văn nước bạn là kỹ-thuật kém, anh kia chót để cho một người bạn thân ở xa biết địa-chỉ cơ-quan, anh thứ ba chót sang xin nước uống của bà hàng xóm, hại cho chính-sách dân-vận đều phải kiểm-điểm và truy động cơ tư tưởng cả. Chúng tôi ngồi xếp chân vòng tròn như những pho tượng trên chùa xung quanh ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng hắt lên những nét mặt đăm chiêu, tiếng nói rầm rầm như đọc kinh sám hốị Ngày chủ-nhật thường được nghỉ nửa buổị Còn nửa buổi kiểm-thảo hàng tuần. Việc này làm kỹ hơn tự tu hằng ngày và phải vận dụng lý luận để phê-phán lỗi lầm. Anh ngồi điều khiển, mặt đầy sát khí, cất tiếng rè rè như cái máy hát cũ đem những bài lý luận ra "đối chiếu với thực-tế" và phê phán những khuyết-điểm để xây dựng cho từng đồng-chí. Anh có một lối " phân tích tổng-hợp quy kết " các loại tư tưởng một cách rất khoa-học. Một anh có bệnh ngủ gật trong khi học-tập, bị phê-bình như thế này: ngủ gật là coi nhẹ học-tập; coi nhẹ học-tập là coi thường lý-luận của ta; coi thường lý lẽ của ta là đứng về phe phản-động. Kết-luận: ngủ gật là phản động. Tôi không tin rằng thâm tâm anh cũng nghĩ như thế. Tôi nhớ tới chuyện người ông của Gớc-ki cứ cuối tuần lễ cũng tập trung các cháu lại hỏi tội và vác roi quật những đứa nghịch ngợm. ở điểm này quả anh giống người ông của Gớc-kị
Nói đến Gớc-ki, tôi lại nhớ tới chuyện văn-nghệ. Nói cho công bằng anh cũng là người có khiếu văn-nghệ và có quan-điểm văn-nghệ riêng. Anh chủ-trương rằng: văn Liên-sô nhất thiết hay hơn văn Trung-quốc, văn Trung-quốc nhất thiết hay hơn văn Việt-Nam. ở trong nước thì văn-sĩ cấp Khu giỏi hơn văn-sĩ cấp Tỉnh, văn-sĩ cấp Tỉnh thì giỏi hơn văn-sĩ cấp Huyện. Hay hơn tất cả văn chương các cấp là ca-dao của các bích báọ Lý luận như thế cũng hơi đão lộn trật-tự nhưng thấy đúng quan-điểm quần-chúng anh lại yên tâm.
Chúng tôi sống luẩn quẩn với anh trong năm sáu năm trời đằng đẵng. Cơ quan cũng có chuyển địa điểm nhiều lần. Nhưng bất cứ ở đâu, con người anh cũng lù lù như một cái bóng đen đè nặng lên cuộc đời chúng tôị Chúng tôi đếm từng bước đi, nén từng hơi thở, ghìm từng lời nóị Chúng tôi sống thầm lặng, khép nép, như những người đàn bà tu kín, sắc mặt vàng vọt dần, mạch máu khô kiệt dần ở một nơi thiếu ánh sáng mặt trờị
Không biết trong mấy nhiêu năm, chúng tôi đã làm lợi gì cho ai? Và chính anh nữa, anh đã làm lợi gì cho ai?
Chúng tôi hồi đó chỉ có cái thú ác là rình lúc nào rảnh việc, tìm chỗ nào vắng mặt cùng nhau bàn tán về anh để giải-trí. Có lúc chúng tôi ví anh như " ông Hít-le " (vì anh cũng đã bộc lộ là đã có phen định làm ông Hít-le con cơ mà!). Có lúc ví anh như một gã thơ-lại hách dịch, hoặc một cụ đồ gàn, tưởng Cách-mạng toàn là chuyện chi, hồ, giã, giả... Chúng tôi vẽ bức biếm họa ngộnghĩnh: anh xếp các khẩu-hiệu làm bực thang leo lên ghế thứ trưởng. Chúng tôi còn làm vè dưới bức họạ
Anh định làm cho chúng tôi sợ thì quả thật anh đã đạt được kết-quả mỹ mãn. Chúng tôi hàng ngày ngồi trước mặt anh làm việc như những cái máy, nói cho đúng hơn như những viên tiểu thơ-lạị Nói chuyện với anh thì chỉ biết xã-giao bằng những câu rất " đúng lập-trường " rồi mong mõi những phút được bá cổ nhau chạy ra chỗ vắng nói tếu cho nở phổị Cộng lại những phút này cũng hiếm lắm. Trong giấc ngủ hình ảnh của anh cũng không để chúng tôi được gnhỉ ngơi thật sự. Có đêm tôi mê thấy hai cánh tay gầy guộc của anh móng nhọn nắm cổ tôi lôi xuống một cái hầm tối om, đậy nắp lạị Có hôm tôi lại thấy anh hóa ra con quạ đen quắp tôi như con Đại-bàng quắp nàng công chúa trong chuyện cổ-tích. Tôi thường kêu ú ớ, hoặc nghiến răng trong những giấc mê kinh hãi đó.
Hồi tưởng lại cho kỹ trong ngần ấy năm cũng có một đôi lần, tôi thấy có cảm-tình với anh. Cái lần đồng-chí Mẫn ở Khu về có việc ở Ty, làm cho chúng tôi và cả anh ngẫm nghĩ.
Đồng chí ấy, kể ra không oai nghiêm bằng anh. Đồng-chí ấy xuề xòa vui tính, thỉnh thoảng cũng có nói tếu như chúng tôị Tôi lấy làm lạ rằng trong những ngày tiếp đồng-chí Mẫn, hình thù dáng dấp anh có đổi khác. Anh nhũn nhặn lắm. Bộ mặt trở nên hiền lành lại có vẻ đứa trẻ ngoan ngoãn. Đồng-chí ấy nói đùa anh cũng vâng vâng dạ dạ vì lâu ngày anh quên cả nói đùạ Sau khi đồng chí Mẫn đi, anh bắt chước tác-phong đồng-chí ấy được vài hôm nhưng ngượng ngập trông thật tội nghiệp.
Trước khi anh đã lên cấp bằng con đường nghiêm khắc nay anh lại định lên cấp bằng cách vui vẻ nhưng than ôi, tre già uốn dể gẫy, lụa đen khó nhuộm hồng.
Một kỷ-niệm khó quên nữa là cái lần anh ốm nặng. Ngồi bên giường bệnh săn sóc anh, tôi được nghe anh kể chuyện nhà chuyện cửa, anh nhớ bà cụ, nhớ chị và các cháu, lại tả cảnh quê-hương với những con đê rặng nhãn. Tôi có ý nghĩ hơi tệ: giá anh ốm mãi lại hóa haỵ May sau khi anh khoẻ lại thì tôi được điều động sang cơ-quan khác.
Bây giờ nửa mừng nửa sợ được biết tin anh. Tôi hỏi chuyện anh em, có người tậc lưởi nói: " Hắn vẫn như trước ". Tôi không tin nhưng cũng thấy ngài ngạị Đêm nay tôi cố bình tĩnh để quên mọi bực dọc cũ, viết thư cho anh. Việc đã qua thuộc về dĩ-vãng. Tôi không trách anh đã làm phao phí tuổi trẻ và năng-lực của một số người trong bấy nhiêu năm. Vì trách nhau cũng chẳng lợi gì, anh không phải là một người lẩm cẩm đâụ Anh rất khôn ngoan nhưng đã tính toán lầm. Dựa vào một danh nghĩa lớn, anh làm toàn những việc tủn mủn. Cách-mạng đấu tranh cho cái thật, anh dựa vào đấy để làm cái giả. Cách-mạng yêu con người, anh không biết yêu con ngườị Cho nên có lúc xung quanh anh như lạnh lẽo toàn là tử khí. Xác chết toát ra thế nào được hơi nóng. Người khoẻ mạnh ai thích đến gần xác chết, kể cả xác chết người yêụ Anh chưa phải là một xác chết hẳn đâụ Thời đại còn có thể tiêm thuốc hồi sinh cho anh được. Anh nên sống cho trọn vẹn, cùng với mọi người xây cuộc sống. Người ta sẽ yêu mến anh, anh cũng sẽ yêu mến mọi ngườị Cuộc đời sẽ thú vị biết baọ Tôi nói có vẻ nhà mô-phạm lắm nhỉ? Đó là thói quen của nghề nghiệp. Anh hiểu cho lòng chân-thành là quý.
TRầN LÊ VĂN
Trong bài "Tôi tìm Em" mà chúng tôi trích theo đây, tác-giả ta-thán về nỗi khổ tâm tìm không ra vợ. Điều-kiện đưa ra thì rất chi là dễ dàng tác-giả chỉ cần gặp một tâm-hồn "biết ghét và biết yêu", thế mà tìm khắp ở các từng lớp trong xã-hội miền Bắc đều không thấỵ
Tác-giả không nói tại sao, nhưng người đọc có thể hiểu rằng nền giáo-dục cộng-sản đã làm khô cạn tâm-hồn con người, nhất là tâm-hồn của phụ-nữ.
Những người ở ngoài vòng, thường ít nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, nhưng thực tình, đối với người con trai chưa vợ hiện nay ở Bắc-Việt thì đó là một tình-trạng vô cùng bí đát. Một xã-hội loài người mà không còn tình yêu, chỉ còn xác thịt là một viễn ảnh rùng rợn. Viễn ảnh này đã được một nhà văn Anh GOERGOES ORWELL trình-bày trong cuốn "1984" mà một nhà văn Mỹ mà chúng tôi quên tên trình-bày trong cuốn "BODY SNATCHER". Đề tài này đã được đóng thành phim và đã chiếu ở Sài-gòn.
Trích báo Trăm-Hoa ngày 6-1-1957
TÔI TìM EM
của Tạ Hữu Thiện
Có phải em là người không bao giờ tôi gặp
Mới là người tôi ấp ũ trong tim?
Ai lớn lên không từng yêu đương
Ai biết yêu không từng hò hẹn
Việc ấy lẽ thường
Tôi đã từng yêu, từng chán nản
Không bao giờ thấy nguội con tim
Không bao giờ thỏa mãn
Khát khao Em, tôi vẫn gắng công tìm.
Có phải Em là người không bao giờ tôi gặp
Mới là người tôi ấp ũ trong tim?
Nửa đời người tôi đã đi khắp cả
Kiếm tìm Em, sao chửa thấy Em đâu?
Em yêu dấu, sao mà xa lạ
Đến bao giờ thỏa ước hẹn hò nhau?
--- Hỡi cô bạn gương tròn bỏ túi
Quần xồi áo nâu
Tháng năm dài vất vả
Cuốc bẫm cày sâu
--- Hỡi cô bạn nông trường nhộn nhịp
Góp đôi tay, đôi vai
Vào chương trình kiến thiết
Nằm mộng thấy ngày mai
--- Hỡi các cô đẩy xe: gánh vải,
Quét rác, đổ thùng,
Lao-động mang đầy nhựa sống
Nở ngực, thon lưng.
--- Hỡi cô bạn quầy hàng tủ kính
Thoắt mua về lại thoắt bán đi
Cuộc sống là trăm ngàn con tính
Kệ đời lắm chuyện thị phi
--- Hỡi cô bạn ngồi trong công-thự
Ngày ngày chép chép ghi ghi
Sôi nổi như đà máy chữ
Rộn ràng giấy má đến, đi
--- Hỡi cô bạn văn công nhảy múa
Dưới ánh đèn lộng lẫy ánh tiên
Mắt biếc môi tình chan chứa
Đời như không có ưu-phiền
--- Hỡi cô bạn sinh-viên trường đại-học
Đã cùng tôi luận-luận bàn-bàn
Kiến-thức hai ta dù góp lại
So với đời chỉ độ tấc gang.
--- Hỡi tất cả các cô bạn gái
Tôi đã biết hay là tôi chưa quen.
Tôi chả bị cái gì làm lạc hướng
Nhằm áo hồng, phụ áo vá vai
Cũng bất chấp lối luận bàn sống sượng
Khen chê tóc ngắn, tóc dàị
Tôi thấy: đã là con gái
Vaò tuổi dậy thì
Cô nào trông cũng đẹp
Mỗi người một vẻ kém chị
Tôi đắm đuối nhìn đầu môi khóe mắt,
Nét ngực đường lưng,
Hàm răng mái tóc,
Mộng đời những tưởng đắp chăn chung.
Thực thà tôi chẳng biết
Cân nhắc thành phần,
Cũng chẳng dại làm điều vô ích
Xem cỗi nguồn có vẹn mười phân.
Tôi cũng chẳng đo tài gạn đức
Ra điều kén cá chọn canh
Vì tình yêu đời đời đâu có phải
Là bốn bài trừ cộng chia nhân.
Trong các bạn có chăng người yêu dấu
Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công tìm?
Đó chính là người tôi chửa gặp
Mới là người tôi ấp-ủ trong tim.
Trên tất cả thành phần lý-lịch
Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiềụ
Em. trọn cuộc đời tôi kiếm gặp
Chỉ là người biết ghét biết yêu
Tạ HữU THIệN