Chương 4

1
Trận tuyết đầu tiên của những năm hòa bình đã che lấp những xác chết. Những con bồ câu đói đi lại vụng về trên tuyết, tiếng kêu buồn bã của chúng chẳng khác tiếng núc nở của người đàn bà góa. Buổi sáng có tuyết, bầu trời trong suốt như nhìn qua lớp băng, trông vừa cao nhã vừa mới mẻ. Phương đông đỏ rục, mặt trời lên, bầu trời như ngọc lưu ly cao vạn trượng. Tuyết phủ kín mặt đất. Người ra khỏi nhà, hơi thở ra màu phấn hồng, đi trên tuyết lạo xạo, tay dắt bò dê, lưng địu hàng hóa, men theo cánh đồng phía đông của thôn đi về hướng nam, vượt con sông Mục đầy cua ốc và ếch nhái, đến khoảnh đất cao không có tên rộng chừng năm mươi mẫu để họp chợ, phiên chợ kỳ lạ của vùng Cao Mật: Chợ Tuyết, chợ họp trên tuyết, giao dịch mua bán trên tuyết và cử hành những lễ nghi trên tuyết. Đây là một nghi thức im lặng tuyệt đối, bất kể tình huống nào cũng không được nói, mở miệng nói là chuốc lấy tai họa. ở chợ tuyết, mọi người chỉ được nhìn thấy, được ngủi, được sờ mó, cảm thụ bằng trái tim, mà không được phép nói thành lời. Còn như nếu lỡ miệng nói một câu thì hậu quả như thế nào? Không ai hỏi, cũng không ai giải thích, làm như ai cũng biết, ai cũng hiểu, có điều không nói ra miệng đấy thôi.
Những người Cao Mật còn sống sót, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, đều mặc quần áo ngày tết, lội tuyết đến chợ. Mùi tuyết lạnh xộc vào mũi như kim châm, phụ nữ đều lấy tay áo rộng che mũi và miệng, tuồng như để che hơi lạnh của tuyết, nhưng tôi thì cho rằng để không cho lời buột ra khỏi miệng. Trên đồng tuyết mênh mông chỉ có tiếng lạo xạo, người không nói nhưng súc vật thì không ai cấm đoán. Dê be be, bò ẩm bò, những con lừa ngựa sống sót sau chiến tranh hí hí, Những con chó điên cào bới xác chết, ngửa nhìn mặt trời tru lên như chó sói.
Trong thôn chỉ còn mỗi con chó mù của lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ là không điên, chệnh choạng đi theo chủ. Trên khu đất cao có một ngọn tháp xây bằng gạch xanh, phía trước có ngôi nhà tranh ba gian, người chủ ngôi nhà là Môn Thánh Vũ, năm nay một trăm hai mươi tuổi. Ông cụ luyện phép tịch cốc, không ăn lương thực đã hai mươi năm nay. Người gầy như con ve sầu, ông cụ chỉ sống bằng những hạt sương. Sau này đi học, được biết con ve sống bằng nhựa cây, tôi suy ra rằng ông cụ không thể sống bằng những hạt suông. Một mình sống trên đồi cao, trước mặt là hàng vạn mẫu hoa màu, sau lưng là dòng sông đầy tôm cá và cái đầm mùa xuân và mùa hạ có bao nhiêu trứng chim, ông cụ thích ăn cái gì thì ăn. Nghiên cứu sự thần kỳ đã biến thành trần tục như thế nào thì có ý nghĩa gì? Thêm một ông thánh không ăn lương thực thì có gì xấu? Chiến tranh đã làm tổn thương ghê gớm trí tưởng tượng của người dân Cao Mật. Giờ đây đã hòa bình, là lúc nên khôi phục lại trí tưởng tượng đó. Nhóm lại Chợ Tuyết là một việc được mọi người hoan nghênh.
Trong con mắt người dân, lão đạo sĩ là một cao sĩ nửa người nửa tiên. Hành tung bí ẩn, bước đi nhẹ nhàng, đầu trọc như bóng đèn, chòm râu bạc rậm như bụi tơ hồng, đôi môi dày như môi la con mới đẻ, răng có màu như mặt trong của vỏ sò, mặt đỏ mũi đỏ, lông mày trắng và dài như cánh chim, mỗi năm đạo sĩ xuống thôn một lần, vào ngày đông chí. Cụ có một nhiệm vụ đặc biệt: Chọn Công tử Tuyết cho phiên chợ Tuyết, mỗi năm họp một lần. Nói được chọn là Công tử Tuyết có một chức trách thiêng liêng và được thù lao vật chất, vì vậy thôn dân ai cũng mong con trai mình được chọn. Công tử Tuyết năm nay là tôi, Thượng Quan Kim Đồng. Lão đạo sĩ đi khắp mười tám thôn vùng Cao Mật, cuối cùng chọn tôi. Điều này chứng tỏ tôi không giống mọi người. Mẹ tôi khóc vì sung sướng! Đôi khi ra phố, đám phụ nữ nhìn tôi bằng con mắt kính nể. Họ ngọt ngào hỏi:
- Công tử Tuyết ơi, khi nào thì có tuyết?
- Tôi cũng không rõ, không biết khi nào thì tuyết rơi!
- Công tử Tuyết mà không biết khi nào thì có tuyết?
- Hừm, không thể tiết lộ thiên cơ!
Mọi người mong có tuyết, riêng tôi lại càng mong. Chiều tối hôm trước mây hồng dầy đặc, chiều hôm qua tuyết bắt đầu rơi, lúc đầu nhỏ, về sau thì to, như những chiếc lông ngỗng, như những quả cầu nhưng. Tuyết bay đầy trời, che lấp tất cả. Vì có tuyết nên trời tối rất sớm. Cáo kêu ngoài đầm, những oan hồn đi vật vờ trên đường to ngõ hẻm, kêu khóc ầm ĩ. Tuyết rơi trên cửa sổ hồ giấy. Những đã thú trắng toát ngồi chục dưới bậu cửa, cái đuôi to tướng quật vào khung cửa bồm bộp. Đêm hôm ấy bụng tôi cứ phấp phỏng không yên, tôi trông thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ không hiểu thực hư ra sao. Nói ra thì thấy nó thường quá, chẳng thà không nói là hơn.
Trời chưa sáng hẳn mẹ đã đun nước cho tôi rửa mặt, rửa tay. Mẹ rửa rất kỹ hai bàn tay tôi, nói rằng rửa sạch tay cho con cún của mẹ. Mẹ còn lấy kéo sửa móng tay cho tôi. Cuối cùng, in vân tay màu đỏ lên trán tôi như cái nhãn hàng hóa. Mẹ mở cổng, thấy lão đạo sĩ đang đứng đợi. Cụ đem đến một chiếc áo dài màu trắng, một chiếc mũ màu trắng, đều may bằng lụa trơn bóng, sờ mát tay. Cụ còn đem cho tôi một chiếc phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Cụ đích thân mặc quần áo cho tôi, bảo tôi đi vài bước trong sân
- Thiện tai - Cụ nói - Thế mới là Công tử Tuyết đích thực!
Tôi rất vênh váo, mẹ và chị Cả cũng rất vui. Sa Tảo Hoa nhìn tôi bằng con mắt ngưỡng mộ. Chị Tám nở một nụ cười mê hồn. Tư Mã Lương cười nhạt.
Hai người đàn ông khiêng chiếc kiệu bên trái vẽ rồng, bên phải vẽ phượng đến kiệu tôi đi. Người đi trước là phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái Bình, người đi sau là anh trai Vương Công Bình. Hai anh em đều có tật nói lắp. Mấy năm trước, để trốn quân dịch, Vương Thái Bình chặt đứt ngón tay trỏ, Vương Công Bình lấy bã đậu bôi vào dái, giả vờ bị bệnh sa dì. Trò bịp bị bóc trần, chủ nhiệm thôn Đỗ Bảo Thuyền chĩa súng trường vào mặt, cho hai anh em chọn lấy một trong hai con đường: một là bị xử bắn, hai là làm dân công thường trực, ra mặt trận cáng thương, vận tải đạn được. Hai người lắp bắp, không bao giờ nói được một câu hoàn chỉnh. Ông bố là Vương Đại Hải bị thọt chân vì ngã thang khi xây dựng nhà thờ, chọn giúp hai con trai con đường thứ hai. Phu kiệu chuyên nghiệp mà cáng thương thì còn phải nói, êm và nhanh, ai cũng ca ngợi. Hai anh em đều lập công. Khi phục viên, đoàn trưởng đoàn cứu thương Lục Thiên Lý tự tay viết giấy chúng nhận công lao của hai anh em. Cùng đi dân công với anh em Vương Thái Bình, có em trai của Đỗ Bảo Thuyền là Đỗ Kim Thuyền bị bạo bệnh mà chết. Hai anh em không quản đường xa ngàn dặm, khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê, dọc đường trải qua bao gian khổ mới về tới nhà Đỗ Bảo Thuyền. Hai anh em vì nói lắp nên không nói rõ được đầu đuôi câu chuyện, mỗi người ăn hai cái tát của Đỗ Bảo Thuyền. Đỗ Bảo Thuyền cho rằng hai anh em mưu sát Đỗ Kim Thuyền. Hai anh em chìa giấy xác nhận của đoàn trưởng ra, Đỗ Bảo Thuyền giật lấy xé tan ra từng mảnh, khoát tay:
- Đào ngũ thì lúc nào cũng là đào ngũ!
Hai anh em oan ức quá mà không thể nói cho người khác hiểu nỗi khổ tâm của mình. Đôi vai được rèn luyện rắn như thép, chân bước rất có bài bản, ngồi trên cáng của họ êm như ngồi trên con thuyền trôi xuôi dòng nước. Cánh đồng tuyết trắng vang lên tiếng chó sủa xen kẽ tiếng thanh la.
Trên sông Mục cũng có một cây cầu đá, dầm cầu bằng gỗ thông. Chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Trường Anh đang đứng trên cầu. Chị ta để tóc ngắn, cặp tóc dính con bướm nhựa, môi cong hở lợi màu tím. Chị ta có khuôn mặt thô như đẽo bằng rìu, cằm có râu. Chị ta nhìn tôi bằng ánh mắt nóng bỏng. Tôi biết chị đang ở góa, chồng chị bị xe tăng nghiền nát. Cây cầu rung rinh, những phiến đá lát cầu chạm vào nhau lạch cạch. Tôi qua cầu, ngoảnh lại nhìn, thấy từng hàng dọc dấu chân trên cánh đồng tuyết. Rất nhiều người vẫn cố đi về phía bên này. Tôi trông thấy mẹ và chị Cả cùng lũ trẻ nhà tôi, và cả con dê nữa. Mẹ không quên che bầu vú cho nó. Quên thì nó sẽ khổ. Tuyết dầy lút gối, chắc chắn bầu vú nó lết trên tuyết. Từ nhà tôi đến chợ Tuyết gần mười dặm, nó chịu sao nổi?
Anh em phu kiệu khênh kiệu lên đồi. Những người đến sớm mắt sáng lên chào đón tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mím chặt miệng để không nói, người lớn tỏ vẻ trang nghiêm, trẻ con nhăn nhó như khỉ.
Dưới sự hướng dẫn của lão đạo sĩ, họ khiêng tôi đến chỗ bệ đất hình vuông ở chính giữa cao điểm, trên bệ kê hai chiếc ghế băng, phía trước hai ghế băng là một cái lư trong có ba thẻ hương. Họ gác đòn kiệu lên ghế, tôi vẫn ngồi trong tư thế lơ lửng dưới đòn kiệu. Cái rét lặng lẽ cắn các ngón chân tôi như mèo đen, cắn tai tôi như mèo trắng. Hương cháy phát ra những tiếng động mơ hồ nghe như tiếng giun, từng đám tàn rơi xuống như nhà bi cháy sập. Khói hương chui vào lỗ mũi trái, chui ra lô mũi phải. Phía dưới bệ có chiếc lò đốt vàng mã, lão đạo sĩ đang đốt một thếp tiền giấy, ngọn lửa như những con bướm vàng, tàn giấy như những con bướm đen nhẹ nhàng bay lên, bay mệt thì rơi xuống tuyết và chết. Lão đạo sĩ cúi lạy trước đàn rồi đưa mắt ra hiệu cho hai người phu kiệu. Họ khiêng tôi lên, lão đạo sĩ trao cho tôi một cái gậy bọc giấy trang kim, đầu gậy treo chiếc bát bằng thiếc. Đây là quyền trượng của công tử Tuyết. Tôi vung cây gậy này là có tuyết rơi hay sao? Chỉ định tôi là Công tử Tuyết xong, lão đạo sĩ giới thiệu với tôi về người đã sáng lập ra chợ Tuyết. Đó là lão đạo sĩ Trần, sư phụ của lão đạo sĩ. Theo chỉ thị của Thái Thượng Lão Quân, lão đạo sĩ Trần sáng lập ra Chợ Tuyết, công đức viên mãn rồi, cụ hóa thành tiên, cư ngụ trên ngọn núi chọc trời, ăn quả thông, uống nước suối, từ cây tùng bay sang cây bách, từ cây bách bay vào trong động. Lão đạo sĩ giảng giải cặn kẽ cho tôi về nhiệm vụ của Công tử Tuyết. Bước thứ nhất là lập đàn thụ phong, việc này vừa làm xong; bước thứ hai là tuần du trong chợ, bước này đang tiến hành.
Đây là giờ phút oai vệ nhất của Công tử Tuyết, mười mấy tiểu hiệu mặc quần áo xanh đỏ, trong tay không cầm vật gì, nhưng giữ tay ở tư thế cầm loa, kèn, trống, thanh la, phùng mang trợn mắt như đang tấu nhạc, tay trái giơ cao ngang tầm vai, tay phải giơ chiếc dùi tưởng tượng, cứ ba bước lại gõ một tiếng y như thật. Anh em họ Vương chân như lò xo, mỗi bước lại nhún nhảy. Những người đi chợ tạm ngùng công việc giao dịch thầm lặng, trố mắt mà ngắm Công tử Tuyết. Những khuôn mặt quen và những khuôn mặt không quen trên nền tuyết trắng, đỏ như táo chín, đen như than củi, vàng như sáp ong, xanh như lá rau. Tôi khua quyền trượng trước mặt mọi người. Họ có vẻ hốt hoảng, giơ tay lên như để che chắn, miệng há to như chực kêu lên, nhưng không một ai dám kêu lên một tiếng. Một trong những nhiệm vụ thiêng liêng mà lão đạo sĩ yêu cầu ở tôi là, nêu có kẻ nào dám kêu lên một tiếng thì dùng cái bát bằng thiếc treo ở đầu quyền trượng úp vào miệng hoặc vào cằm của kẻ vi phạm bẩy ra một cái là người đó đứt lưỡi.
Tôi nhìn thấy mẹ, chị Cả, chị Tám, Sa Tảo Hoa, Tư Mã Lương trong đám đông câm lặng. Con dê của tôi không chỉ đeo nịt vú mà còn đeo khẩu trang hình chóp nón chụp kín cả miệng của nó, có hai dây bằng vải buộc lên sau tai. Những người nhà của Công tử Tuyết tuân thủ lệnh cấm nói đã đành, ngay cả con dê cũng im hơi lặng tiếng như người. Tôi huơ gậy về phía những người thân của tôi, họ cũng giơ tay lên chào lại. Thằng quỉ Tư Mã Lương khum bàn tay làm thành ống nhòm, nhìn về phía tôi. Sa Tảo Hoa mặt mũi tươi tắn như con cá biển vừa lên khỏi mặt nước.
Hàng hóa trong Chợ Tuyp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:
- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.
Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôlạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.
Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc, Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn tán nửa câu.
Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ tôi khá lâu.
Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:
- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.
Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không hiểu ý tứ ra sao.
Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn, tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.
Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:
- Quì xuống!
Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.
Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:
- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...
- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!
Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn, bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra xung quanh.
- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.
- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này nói cũng được!
- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể đi!
Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám người đang chú mục nhìn anh ta. Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại. Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh ta trông rất thảm hại, van xin:
- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy tha cho tôi?
Phán Đệ nói:
- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?
Trương Đúc Thành nói:
- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng sợ cái gì hết?
Phán Đệ nói:
- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?
Trương Đức Thành nói:
- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.
Phán Đệ nói:
- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?
Trương Đức Thành nói:
- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không có cái mạng tôi được chưa?
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?
- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.
Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu dê, lẩm bẩm:
- Lâu quá rồi, không nhớ
- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật, bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?
Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa. Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.
- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành tố cáo có đúng không?
- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.
Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy đầy đất.
- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.
Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp. Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một hòn đá tảng. Thằng Gật nói:
- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
- Không, không, hoàn toàn không!
- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!
Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.
Thằng Gật nói tiếp:
- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ cũng không. Như vậy có công bằng không?
Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?
- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...
Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa. Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:
- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.
Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ. Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ thu.
Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:
- Anh có thể xuống được rồi!
Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:
- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!
Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..
Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô lương tâm, trời hại các người?...
Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân. Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần dưới sân đều bịt mũi.
- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...
Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú, nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh ta. Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:
- Lôi nó đi!
Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất chĩa thẳng lên bầu trời u ám.
- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.
Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi, tay chống cây gậy trúc vàng óng.
- Đỡ ông già lên bục! - Phán Đệ nói to.
Không ai đến dìu ông ta. Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu cỏ bồ. Lão Cầu giơ ba ngón tay đè hai ngón tay của lão Quí. Lão Quí khăng khăng giữ ý, lật hai ngón tay lên đè trên ba ngón tay của lão Cầu, lão Cầu lại lật ba ngón tay đè lên hai ngón tay của lão Quí. Bốn năm lần như vậy, lão Cầu tỏ vẻ bất lực, chọn trong xâu dép lấy ra một đôi đã mốc xanh. Hoàng Thiên Quí nghiến răng lại để biểu thị sự tức giận. Lão vỗ ngực chỉ lên trời, chỉ xuống đất, không hiểu nghĩa là gì hoặc không có nghĩa gì cả. Lão giơ gậy chỉ vào một đôi thật tốt, bện bằng phần gốc cỏ bồ. Lão Cầu gạt chiếc gậy của lão Quí, giơ bốn ngón tay kiên quyết đòi đúng giá. Lão Quí chỉ trời, vạch đất, lộn trái chiếc túi gai đeo bên mình. Lão cúi xuống tháo lấy đôi dép mà lão ưng ý, tụt chân khỏi đôi giày da há mõm, rồi lập cập xỏ chân vào dép. Sau đó, lão moi trong chiếc túi may thêm vào quần lấy ra một tờ giấy bạc nhàu nát ném xuống trước mặt lão Cầu. Lão Cầu mặt giận bừng bừng, chửi nhưng không dám chửi thành tiếng, chỉ giẫm bành bạch. Nhưng rồi lão cũng nhặt tờ giấy bạc lên, vuốt mép cho phẳng giơ cho mọi người xem. Những người xung quanh, kẻ đồng tình thì lắc đầu, kẻ hồ đồ thì cười mỉm. Lão Quí chống gậy đi ra, bước chân lệt sệt, chỉ cách nhau một tấc, hai chân lão cứng đờ như que củi. Tôi không có cảm tình với lão Cầu. Lão ta đã nói là miệng cứ như tép nhảy. Tôi thầm mong lão trong cơn tức giận buột miệng nói thành lời là tôi dùng cái bát thiếc kẹp lưỡi lão. Nhưng lão rất tinh, hình như đoán ra ý đồ của tôi. Lão nhét tờ giấy bạc vào chiếc dép rõ ràng là đã chuẩn bị từ trước, treo ở đầu đòn gánh. Hắn lấy cả đôi dép xuống, chỉ tay vào từng người thợ bện dép xung quanh đang trố mắt ra nhìn tôi, rồi lại chỉ vào những đồng tiền lẻ trong dép, rồi bằng một thái độ cung kính, lão lẳng đôi dép về phía tôi. Đôi dép rơi trúng bụng, lăn xuống chân tôi, mấy tờ giấy bạc lẻ văng ra, trên mỗi tờ đều có những con cừu béo tốt, đứng ngơ ngẩn như đang đợi cắt lông hoặc đem giết thịt. Tiếp tục tiến lên, lại có mấy đôi dép ném tới, trong dép có tiền lẻ.
Đến gian hàng bán cơm, người vợ góa của Triệu Giáp là Phương Mai Hoa đang rán bột mì trong một cái chảo đáy bằng. Hai đứa con của chị ta, một trai một gái ngồi trên chiếu, quấn quanh người bằng một chiếc chăn. Bốn con mắt mở thao láo. Bên cạnh bếp bày mấy chiếc bàn long chân, sáu người đàn ông bán chiếu đang ngồi ăn nhồm nhoàm. Bánh bột mì hai mặt rán vàng, ăn với súp rau, cắn một miếng bánh lại húp một miếng súp. Súp nóng, những người đàn ông miệng nhờn mỡ. Những gian hàng bên cạnh không có khách, chủ hàng đứng suông, gõ xoong nồi cho đõ buồn, nhìn sang gian hàng chị góa bằng ánh mắt ghen tỵ.
Khi chiếc cáng của tôi đi qua, chị góa Phương Mai dán đồng tiền vào chiếc bánh bao, nhẹ nhàng liệng về phía tôi. Tôi vội cúi đầu xuống, chiếc bánh rơi trúng ngực Vương Công Bình. Chị góa tỏ vẻ xin lỗi, lau tay bằng mảnh khăn đầy mỡ. Trên khuôn mặt tái xanh của chị là đôi mắt hõm sâu, xung quanh có quầng đen. Một người đàn ông cao và gầy đi tắt qua quầy bán gà, bước tới. Những con gà mái hoảng hốt kêu cục cục, bà bán gà nhìn ông ta gật đầu. Dáng đi của ông ta rất lạ, người thẳng đuỗn, cứ mỗi bước đi lại rướn lên một cái. Tôi nhận ra ông ta. Ông ta là Trương Thiên Tứ, môn đồ của đạo Hoạt nạn. Mọi người đặt cho ông ta cái biệt hiệu là Ông trời. Ông ta theo đuổi một nghề kỳ quặc: dẫn độ người chết về quê. Ông ta dùng tà thuật khiến người chết đi lại được. Vùng Cao Mật có rất nhiều người chết nơi đất khách quê người, nhờ ông ta dẫn về. Rất nhiều người nơi khác chết ở Cao Mật, nhờ ông ta dẫn về quê cũ của họ. Ai mà không kính nể một con người có khả năng dẫn người chết vượt trăm núi nghìn sông. Trên người ông ta lúc nào cũng phảng phất mùi tử khí. Những con chó dữ nhất trông thấy ông ta cũng cụp đuôi lỉnh mất. Ông ta ngồi xuống ghế băng trong gian hàng của chị góa, giơ hai ngón tay lên, chị góa cũng ra hiệu đáp lại, chị hiểu rằng ông ta định ăn hai mẻ năm mươi cái, chứ không phải hai hoặc hai mươi cái. Chị góa vội vàng chuẩn bị bánh bao cho ông ta vì ông thực khách to bụng này khiến chị mừng rơn, mắt sáng lên, còn những gian hàng bên cạnh thì mắt tối sầm. Tôi rất mong họ mở miệng, nhưng ghen tức mấy thì ghen tức, họ không chịu hé răng. Trương Thiên Tứ im lặng ngồi nhìn chị góa chuẩn bị, hai tay đặt trên đầu gối, một cái túi bằng vải đen lủng lẳng ở thắt lưng.
Không ai biết rằng, hồi cuối thu ông ta vừa có chuyện làm ăn lớn, dẫn độ một vong hồn khách thương Quan Đông làm nghề buôn bán tranh niên họa chết ở thôn Ngải Khưu vùng Cao Mật. Con trai người khách thương sau khi ngã giá với ông ta liền về trước để chuẩn bị. Đường đi trăm núi ngàn sông, ai cũng nghĩ ông ta không về được. Vậy mà ông ta đã trở về, xem ra thì mới về, cái túi vải kia chắc là túi tiền. Ông ta đi đôi giày cỏ rách tả tơi, để lộ những ngón chân sưng tấy bằng quả bí đỏ mới rụng rốn, gót chân to như khuỷu chân trâu. Em gái thằng Gật ôm một cây cải bẹ lớn đi ngang qua cáng, cặp mắt đa tình của cô ta liếc xéo tôi. Cánh tay ôm cây cái đỏ tía lên vì lạnh. Khi cô ta đi qua chỗ bếp của chị góa, tôi thấy tay chị góa run bắn. Kẻ thù gặp nhau. Nhưng cái thù giết chồng cũng không làm chị góa vi phạm qui ước của Chợ Tuyết, chị không nói thành lời nhưng tôi trông thấy máu đang sôi lên trong huyết quản chị. Căm thù nhưng không để lỡ chuyện kinh doanh, đó là cái giỏi của chị góa. Chị hốt trọn cả mẻ bánh vào cái liễn sứ, bê đến trước mặt Trương Thiên Tứ. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, chị góa hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chị hiểu ra. Chị vỗ vỗ trán tự trách mình sơ ý. Chị dốc trong lọ lấy ra hai củ dưa hành vỏ tím đưa tận tay Trương Thiên Tứ và lấy cái bát nhỏ đổ đầy tương ớt coi như ưu đãi đặc biệt, đặt trước mặt Trương Thiên Tứ. Những người đàn ông bán chiếu bất mãn nhìn chị góa, lườm nguýt chị về thái độ ưu ái này. Trương Thiên Tứ thoải mái ngồi nhấm nháp một cách chậm rãi củ dưa hành, đợi bánh nguội. Ông ta kiên nhẫn tách từng nhánh hành, xếp chúng lên bàn ăn thành một hàng dọc theo thứ tự lớn nhỏ, thỉnh thoảng lại đổi vị trí của các nhánh cho phù hợp với trình tự đã định. Sau đó, lúc tôi đi sang gian hàng rau, từ xa tôi trông thấy Trương Thiên Tứ bắt đầu ăn bánh bao, ăn nhanh kinh khủng, không phải là ăn mà y như bỏ bánh vào chum!
- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?
Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên bố.
- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?
Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:
- Anh điên hay sao?
Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai nói gì.
Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.
Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập Nhân:
- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố?
Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay?
Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai nói câu gì.
Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:
- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết tôi! Mẹ ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là từ thời loạn thổ phỉ để lại.
Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.
Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.
Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.
Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh ta. Anh ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm, anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:
- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!
Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:
- Để ta xem mày có dám không?
Mẹ ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất cho Tư Mã Lương bỏ trốn.
- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh lệnh của tôi?
Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm vào đầu.
Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên của tiểu khu.
Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi chạy vụt lên đê.
- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.
Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:
- Cởi, cởi, cởi?
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:
- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!
Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.
Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón tay. Xem xong, hắn lại đưa ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao. Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.
Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.
Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão
Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.
Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:
- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với tôi! Như>Về chuyện Trương Thiên Tứ gọi hồn, đối với tôi, nó như một cái xương cá mắc trong họng, chừng nào chưa lấy ra thì tôi còn khó chịu. Đó là một buổi trưa gió rét căm căm, con trai của người khách thương Quan Đông thuê một cỗ xe ngựa và bốn người khỏe mạnh, chở thi thể bố anh ta từ thôn Ngải Khưu đến thôn tôi, hỏi thăm nhà Trương Thiên Tứ. Lúc đó, tôi cùng Tư Mã Lương đang chơi đùa trên phố. Tư Mã Lương dẫn đường cho họ. Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.
- Đến rồi hả? - Ông ta hỏi.
Con trai người khách thương mặc chiếc áo dài cổ lông chồn, hất đầu về phía cỗ xe ngựa, không trả lời. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, nói:
- Đưa đây!
Con trai người khách thương lôi trong bọc ra một gói giấy, nói:
- Đây là tiền đặt cọc. Nếu ông đưa đến ngày mồng Bốn tháng Chạp thì tôi thưởng cho ông thêm một khoản nữa, khoản này là...
Trương Thiên Tứ nói:
- Không phải khoan kim cương thì khoan sao nổi vật rắn! Ông yên tâm đi, chuẩn bị ngày mồng Bốn tháng Chạp đón hỉ thần!
Con trai người khách thương nói:
- Nếu lỡ hẹn...
Trương Thiên Tứ nói:
- Lỡ hẹn thì tôi không lấy một xu.
Con trai người khách thương nói:
- Nếu như thiếu chân thiếu tay thì...
Trương Thiên Tứ nói:
- Thiếu gì trên người ông già thì cứ xẻo lấy trên người tôi mà bù vào?
Con trai người khách thương nói:
- Tôi vẫn cứ phấp phỏng thế nào ấy, từ đây đến quê tôi chí ít cũng nghìn dặm, trèo đèo vượt suối, qua sông qua đò...
Trương Thiên Tứ nói:
- Ông có gọi hồn hay không thì bảo? Không gọi nữa thì cuốn xéo! Đạo Hoạt nạn chúng tôi ba nghìn thầy trò, gọi hồn khắp cái đất nước Trung Quốc này chưa hề sai sót điều gì?
Con trai người khách thương nói:
- Xin ông đừng nóng, sao tôi lại không tin ông. Không tin ông thì tôi chở đến đây làm gì?
- Thôi được, thỏa thuận như vậy nhé, ngày mồng Bốn tháng Chạp tôi bày cơm rượu đón hỉ thần, anh em, khênh vào đi!
Bốn người đàn ông mặc áo chẽn, thận trọng chuyển cái xác sang một cái cáng tạm bợ. Xác chết to bằng con trâu, bụng bằng cái chum đựng nước, đầu hói quá nửa, trên mặt đậy tờ giấy vàng. Ông ta dễ nặng đến hai tạ, khi còn sống chắc là đi đứng khá vất vả, nay chết rồi thì làm sao vượt hàng nghìn dặm để về quê ở Quan Đông? Nhân tiện xin nói thêm, vùng đông bắc Cao Mật, kề một bên thôn lớn thuộc châu Bình Độ, đó là thôn Ngải Khưu. Bắt đầu từ đời Minh, họ sáng tác tranh niên họa vẽ trên giấy điệp, bán khắp ba tỉnh Quan Đông.
Hàng năm cứ vào đầu mùa đông, các lái tranh vùng đông bắc đều về đây trong khi đợi lấy hàng thì uống rượu chơi gái vì họ rất nhiều tiền. Thôi, không nói dông dài nữa. Cái xác của ông chủ thương nặng trĩu bên phải, hai người khiêng bên phải mồ hôi đầm đìa, hai người khiêng bên trái thì lại tương đối nhẹ nhàng. Đây chính là hiện tượng người chết nặng một bên. Bốn trai tráng khênh cáng vào trong cổng liền đặt xuống theo lệnh của Trương Thiên Tứ, đặt trên một chiếc chiếu cói đã chuẩn bị sẵn. Trương Thiên Tứ không lịch sự gì cả, nói luôn:
- Các vị ra ngay để tôi tiếp linh khí.
Con trai người khách thương còn định nói gì nữa, nhưng Trương Thiên Tứ đẩy tất cả ra ngoài cổng rồi đóng sập cổng lại. Bốn trai tráng như bị trúng tà khí, đứng ngây ra như phỗng. Con trai người khách thương rút tiền trả bốn người. Anh ta lại bước tới bên cổng ghé mắt nhìn vào trong. Không nhìn thấy gì, vì cổng nhà Trương Thiên Tứ không một kẽ hở. Lại áp tai vào cánh cổng nghe động tĩnh, nhưng bên trong im ắng như nghĩa địa. Tường vây xây bằng gạch cao hơn mái nhà, trên tường chăng dây thép gai, ngôi nhà của Trương Thiên Tứ khiến người ta kính nể, ngay cả Lỗ Lập Nhân và chị Phán Đệ khi phát động phong trào Bần Nông Đoàn cũng không dám vào nhà, mặc dù rất biết mức sinh hoạt của Trương Thiên Tứ hơn hẳn trung nông. Nhân vật bự thích nghịch nghiên mực từng tặng Bần Nông Đoàn một câu như sau: Đấu một trung nông hơn đập chết mười con thỏ đồng. Con trai người khách thương không biết làm thế nào, đành phải ra về cùng với bốn trai tráng. Mười mấy đứa trẻ chúng tôi nhìn những phù chú quái gở trên cánh cổng mà rợn tóc gáy, lặng lẽ rút lui. Không biết ai đã kêu lên: Ma đấy? Thế là chúng tôi co giò chạy, để đối phó với quỉ nhập tràng, chúng tôi chạy thẳng vào gốc cây cổ thụ, sắp chạm gốc thì rẽ đột ngột. Chạy ngay sau lưng tôi là Tư Mã Lương né không kịp, vêu cả môi lên khi dập vào gốc cây liễu.
Cái hôm Trương Thiên Tứ dẫn người chết ra đi, người trong thôn đã đến đợi sẵn ngoài cổng. Trời chưa sáng hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh vẫn chưa lặn, chân trời phía đông lảng vảng mấy đám mây mỏng màu hồng, mặt trời chua mọc. Chúng tôi đứng im, cố nén cả tiếng hắt hơi. Không có gió, chỉ có hơi lạnh thấu quang, người khác thì tôi không rõ, riêng tôi run cầm cập. Phía đầm xa xa là màu kim nhũ. Mấy con ngỗng trời vươn cổ cong cong trên băng mỏng rúc mỏ vào trong cánh. Khói trắng cuồn cuộn trên ống khói nhà Trương Thiên Tứ, từng đám tàn giấy theo khói bay lên cao, một mùi lạ khiến người lộn mửa tỏa ra khắp nơi. Rồi lửa tắt, khói trắng cũng không bốc lên nữa, trong sân sáng mờ mờ, không một tiếng động, có thể nghe rõ tiếng đánh rắm của con ngỗng trời ngoài đầm. Cái mùi lạ càng đậm đặc khiến người ta phải lấy tay áo bịt mũi. Đợi rất lâu, cuối cùng cánh cổng mở ra, kẹt lên một tiếng như tiếng xé vải. Trng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!
Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa. Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh lao, nói:
- Chấp hành đi!
Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng, hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn trên đầm.
Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm, vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:
- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.
Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:
- Cởi, cởi, cởi!
Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải nghĩa như thế:
- Cởi, cởi, cởi?
Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời, chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả, hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.
Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.
- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng Câm không thèm để ý.
Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng tròng.
Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết, một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước. Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.
8
Ngày đầu tiên khi rút lui, dân chúng mười tám thôn trấn vùng Cao Mật dắt ngựa ôm gà, dìu già dắt trẻ, tập trung ở bãi đất phèn ở bờ bắc sông Thuồng Luồng. Mặt đất phủ một lớp vảy như những mảnh băng chưa tan. Những loại cây cỏ chịu được mặn như cỏ lác, cỏ mao, cây sậy thì cành lá khô héo, lắc lư trong gió lạnh. Những con quạ thích ồn ào sà thấp trên đầu mọi người mà nhòm ngó, thậm chí còn kêu Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tơ. Những người khác thì mỗi người một vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống. Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng. Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.
Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh ta. Da cổ chị nhăn thành nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Nửa người trên của chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng, nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết ông ta. Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt xuống bùn mà khóc tướng lên.
Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt. Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn. Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi. Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương. Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường, chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con vịt buộc vào con hạc.
- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.
Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh gác ngáp dài, bước tới bảo:
- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng quần, bắt cá trên cạn.
Hầu gầy nói:
- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!
Lưu béo nói:
- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia mà?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!
Hầu gầy nói:
- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!
- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói - Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!
Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.
- Mẹ ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.
Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.
- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!
Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai mộvang quạ quạ như những thi sĩ lãng mạn.
Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là: Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? Lũ quạ đậu kín những cây tùng, đậu trên các mộ, trên người đá ngựa đá. Chúng quà, chúng quạ ầm ĩ, phá đám cuộc diễn thuyết của Lỗ Lập Nhân, khiến dân chúng càng kinh hoảng, góp phần tăng thêm quyết tâm cùng chính quyền huyện, khu rút chạy.
Một tiếng súng nổ vang, cuộc rút chạy bắt đầu. Đám người đông như kiến ồn ào tản ra. Thế là lừa kêu ngựa hí, gà bay chó chạy, bà già khóc mếu, trẻ con kêu gào: Một thanh niên nhanh nhẹn tay cầm cờ đỏ, cưỡi ngựa trắng, chạy ngược chạy xuôi trên con đường đất phèn kéo dài vô tận về phía dông bắc, chốc chốc lại phất ngọn cờ chỉ hướng cho dòng người tiến lên. Đi đầu là đơn vị gồm hơn chục con la chở hồ sơ giấy má của huyện phủ, dưới sự điều khiển của hơn chục chú lính, uể oải cất bước. Cuối đoàn la là những con lạc đà còn lại từ thời Tư Mã Khố, với bộ lông dài bẩn thỉu màu vàng xỉn, thồ hai hòm sắt tây. ở vùng Cao Mật đã lâu, nó đang từ lạc đà biến thành trâu. Đi liền sau lạc đà, là đội dân phu khênh cỗ máy in của huyện và một số máy móc của xưởng sửa chữa cơ khí huyện. Hơn chục dân phu, đều là đàn ông, quần áo đều mỏng, trên vai mỗi người đều có tấm đệm vai hình lá sen. Qua bước chân loạng choạng và cái dáng mắm môi mắm lợi của họ, thì biết máy móc rất nặng.
Sau đội dân công, là đội ngũ tạp nham của dân chúng. Đám cán bộ huyện, khu như Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ thì cưỡi lừa hoặc ngựa chạy lên chạy xuống trên những vạt đất phèn, cố duy trì tình trạng có trật tự. Nhưng mặt đường quá hẹp, quá chật chội, mà hai bên đường thì lại rộng rãi bằng phẳng, dân chúng bèn bỏ con đường, mở rộng đội hình theo hàng ngang dẫm lép bép trên những vảy đất đi về hướng đông bắc. Ban đầu là một cuộc rút lui, nhưng nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy vô cùng lộn xộn.
Cả nhà tôi bị kẹt trong dòng người đông đặc, lúc thì đi trên đường, về sau cùng không rõ là đang đi trên đường hay đi dưới ruộng. Mẹ đeo bao đay trước ngực, đẩy chiếc xe cút kít bánh gỗ hai càng cách nhau khá xa, mẹ phải đang rộng tay hết cỡ. Hai chiếc sọt hình hộp buộc hai bên xe, sọt bên trái là Lỗ Thắng Lợi và chăn gối, quần áo của cả nhà, sọt bên phải là Câm anh và Câm em. Tôi và Sa Tảo Hoa mỗi người một bên, vịn vào sọt mà đi cùng xe. Chị Tám mù thì bám vạt áo mẹ, lếch thếch đi cuối cùng. Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ ươn ra như kiếp trâu kéo. Chiếc xe rít kin kít chói tai, mẹ và chị Cả thở như kéo bễ, bàn chân nhỏ khiến chị và mẹ cực kỳ vất vả. Ba đứa trẻ trên xe đầu ngất ngưỡng, quay hết bên nọ đến bên kia xem cảnh huyên náo. Chúng tôi dẫm chân lên đất phèn lạo xạo, mũi ngửi mùi mặn của muối, lúc đầu rất thú, nhưng đi được vài dặm thì đầu váng mắt hoa, chân tay bủn rún, mồ hôi ướt đầm trong nách. Con dê trắng khỏe mạnh như lừa của tôi ngoan ngoãn theo sau, nó rất hiểu ý người, không cần dùng đến thừng chạc. Hôm ấy có gió bấc nhẹ nhưng buốt như cắt tai. Trên cánh đồng mênh mông cuộn lên những làn bụi trắng. Đó là hỗn hợp của muối, phèn và kiềm. Vào mắt, mắt chảy nước, vào da, da đau rát, ăn vào miệng thì chẳng ngon lành gì? Mọi người ngược gió mà đi, mắt nhíu lại. Những dân phu khiêng máy người ướt đẫm quần áo, nhất loạt biến thành người trắng. Mẹ cũng đã thành người trắng, lông mi lông mày trắng toát, tóc cũng trắng.
Khi tiến vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn. Chị Cả phía trước đánh vật với con đường, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt. Không trông thấy mặt chị, chỉ nhìn thấy lưng áo mồ hôi từng mảng. Tiếng thở của chị khiến người ta phát hoảng. Còn mẹ thì sao? Nói rằng đẩy xe, thực ra mẹ chẳng khác Chúa Giêsu chịu cực hình.
Cặp mắt u buồn của mẹ đẫm nước mắt. Nước mắt trộn mồ hôi chảy từng vệt dài trên mặt mẹ. Chị Tám đeo sau mẹ như một cái bị. Chúng tôi để lại phía sau vết hằn rất sâu của bánh xe, nhưng nó lại bị xóa hoặc mờ đi bởi những bánh xe, chân người và gia súc của những toán đi sau. Phía trước, phía sau, bên phải, bên trái chúng tôi đều là những người tị nạn. Những khuôn mặt quen và không quen đều trở nên mơ hồ. Tất cả đều vất vả, người vất vả ngựa vất vả, lừa vất vả. Tương đối dễ chịu là con gà mái trong bọc bà lão, và con dê của tôi. Nó nhanh nhẹn, trên đường đi nó tranh thủ ăn được một ít lá khô.
Mặt trời rọi những tia nắng xuống mặt đất nhiễm phèn, ánh phản quang làm lóa mắt, làn sáng trắng đi động trên mặt đất từng mảng màu bạc. Cánh đồng hoang mênh mông làm cho phía trước giống như biển bắc trong truyền thuyết.
Đến trưa, y như bệnh hay lây, mọi người không ai bảo ai mà cũng chẳng hiệu lệnh nào cả, nhất loạt ngồi xuống nghỉ. Không có nước, cổ họng khô bỏng, lưỡi rát như bị dao cứa, đưa đẩy trong miệng rất khó khăn. Mũi phả hơi nóng nhưng lưng và bụng thì lạnh toát, gió thổi khô mồ hôi, quấn áo cứng như tôn lá. Mẹ ngồi trên một càng xe, lấy trong sọt một cái bánh bột ngô, bẻ đôi chia cho chúng tôi. Chị Cả cắn một miếng, đôi môi khô nẻ của chị tóe máu, vài giọt thấm vào bánh. Ba sinh vật nhỏ trên xe mặt mày xanh tái chẳng khác lũ quỉ trong đền, chẳng còn ra hình người. Chúng không chịu ăn, cau có. Chị Tám nhe hàm răng trắng, đều dặn, nhấm từng tí một chiếc bánh khô cứng.
Mẹ thở dài, nói:
- Đây là những chủ trương tốt đẹp của các ông bố bà mẹ yêu quí của các cháu?
Sa Tảo Hoa sụt sịt:
- Ngoại ơi, mình về nhà đi! Mẹ nhìn đoàn người đông như kiến cỏ mà thở dài, không nói gì. Mẹ bảo tôi:
- Kim Đồng, từ nay phải thay đổi cách ăn.
Mẹ lấy trong bọc ra chiếc bình gốm có in ngôi sao năm cánh đi đến phía sau con dê, dùng tay phủi sạch cát bụi trên vú nó. Con dê không chịu, mẹ bảo tôi ôm lấy đầu nó. Tôi t.
- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!
Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.
Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả. Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên, ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh đao.
- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải, người ngã nghiêng xuống đống bùn.
- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.
Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:
- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!
Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:
- Bác-bít!....
Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt xuống hở cái mông thâm tím. Chị ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Mẹ ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên má.
Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ máu.
Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật ngưỡng.
- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng Mã.
Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới. Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních, chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ nhà Thượng Quan.
Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm thù.
- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là...- Trung đội trưởng Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?
Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.
Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.
Mẹ nói:
- Tôi không phải là mẹ của bà!
Chị Phán Đệ nói:
- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ?
Mẹ nói:
- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?
Chị Phán Đệ nói:
- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?
Mẹ nói:
- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!
Chị Phán Đệ nói:
- Chúng con đã lấy lại được thiên hạ rồi!
Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...
- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!
Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:
- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!
Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:
- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.
Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:
- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!
Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:
- Ha ha, ha ha, ha ha ha!
Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?
- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!
Tư Mã Khố nói:
- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!
Tư Mã Khố nói:
- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.
Tư Mã Khố nói:
- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:
- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.
Lỗ Lập Nhân cười lớn:
- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?
Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.
Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:
- Cầm lấy!
Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói
- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!
Tư Mã Khố lắc đầu, nói:
- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!
Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:
- Giải hắn đi!
Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:
- Đi!
Tư Mã Khố gọi Bác-bít:
- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?
Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:
- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.
Chị Sáu nói:
- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!
Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:
- Mẹ nên khuyên cô ấy?
Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:
- Đặt lên lưng giúp ta?
Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.
Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.
6
Nước sông Thuồng Luồng dâng cao. Từ trên giường nhà tôi nhìn qua cửa sổ sau nhà, có thể nhìn thấy nước lũ ngang mặt đê, cuồn cuộn chảy về đồng. Các binh sĩ của trung đoàn 17 thuộc Trung đội 8 đứng quay mặt ra sông đang bàn tán về chuyện gì đó. Trong sân, mẹ đang chuẩn bị nướng bánh. Sa Tảo Hoa giúp mẹ nhóm lò. Củi bị ẩm, ngọn lửa vàng vọt, khói nồng nặc, che khuất cả ánh nắng.
Tư Mã Lương cùng với mùi hăng hắc của cây hòe bước vào nhà. Mùi hắc của cây hòe khiến chúng tôi phấn chấn lên. Nó nói:
- Chúng định giải bố cháu và dì Sáu lên quân khu. Chồng dì Ba và bọn lính đang kết bè, chuẩn bị vượt sông.
- Lương này. - Mẹ từ ngoài sân nói vào - Cháu dẫn cậu và dì út lên đê, bảo họ đừng sang vội, để bà ra tiễn.
Nước sông đục ngầu, cuốn theo rơm rạ, rác rưởi, dây khoai lang, xác súc vật, giữa dòng còn có cả một cây lớn. Cây cầu bị Tư Mã Khố đốt cháy ba khúc đã bị cuốn, chỉ còn dòng nước cuồn cuộn với tiếng réo ào ào chứng minh nó đã từng tồn tại. Những lùm cây trên thân đê đã bị nhận chìm đôi chỗ, chỉ còn vài cành ló lên mặt nước.
Mặt sông rộng mênh mông, từng dàn hải âu màu xám đuổi theo bọt sóng, chốc chốc lại bắt được một con cá nhỏ. Bên kia bờ sông chỉ còn như một sợi chí, bập bềnh trên sóng nước lóa mắt. Nước chỉ còn cách mặt đê vài đốt ngón tay, đôi chỗ cái lưỡi màu vàng của nó đã liếm mặt đê thành rãnh nhỏ, róc rách chảy vào trong đồng.
Khi chúng tôi lên tới mặt đê, thằng câm Tôn Bất Ngôn đang đái xuống sông, bộ máy sinh dục của hắn to quá cỡ, nước đái vàng khè, chảy tong tỏng xuống mặt nước. Trông thấy chúng tôi, hắn mỉm cười thân mật, móc túi lấy ra chiếc còi làm bằng vỏ đạn, thổi lên ríu rít những tiếng chim, tiếng trầm của họa mi, tiếng líu ríu của vàng anh, tiếng nức nở của bách linh. Tiếng chim quyến rũ, khuôn mặt có vết bớt của hắn tỏ ra đôi chút dịu dàng. Thổi đã rồi, hắn vẩy cho hết nước bọt trong còi, đưa cho tôi, miệng ú ớ ý tứ rất rõ, hắn tặng tôi chiếc còi. Tôi lùi lại, khiếp đảm nhìn hắn. Chị Tám nấp sau Tư Mã Lương, bàn tay trắng nhợt túm chặt cánh tay của nó. Bộ mặt nhà ngươi khi vung đao chém người, ta không bao giờ quên? Đồ quỉ? Hắn lại đưa chiếc còi cho tôi, miệng ú ớ tỏ ra bồn chồn không yên. Tôi lùi thì hắn tiến. Tư Mã Lương nói nhỏ sau lưng tôi:
- Đừng lấy cậu ạ, cái còi của thằng câm là để gọi ma, khi nào chiêu hồn ngoài nghĩa trang thì người ta thổi?
- Âu, âu! - Thằng câm giận dữ nhét chiếc còi vào tay tôi rồi đi tLúc này mặt trời đã ngả về tây, nơi đường chân trời có vầng mây hồng, dày và đặc quánh. Cây dâu cổ thụ đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh, cành lá vấy đầy máu, thân cây ướt mèm như đổ mồ hôi. Dưới sự chỉ huy của nữ đại đội trưởng, các cáng tải thương dần dần tập trung ở một ruộng lúa. Máy bay đã bay đi. Trên nền trời màu tím, những ngôi sao nhấp nháy trong ánh chớp của đạn pháo. Cuộc chiến vẫn tiếp tục Các dân công vừa đói vừa mệt. Tư Mã Đình dù sao thì tuổi đã cao, lại cặp đôi với một anh vừa bị trúng gió, nên càng mệt đứt hơi. Ông đứng mà ông không cảm thấy mình có chân hay không, mồ hôi trong người đã chảy hết từ ban ngày, giờ đây tại ruộng lúa, trên người ông chỉ còn rỉ ra một chất nước dính và sau đó ông cảm thấy lục phủ ngũ tạng khô héo đi như quả mướp khô. Trung đoàn trưởng Lã là con người thép, anh cắn răng chịu đau không rên một tiếng. Tư Mã Đình luôn cảm thấy mình khiêng trên vai một xác chết, mùi tử khí thi thoảng lại tạt vào mũi ông.
Nữ đại đội trưởng chỉnh đốn lại đội ngũ rồi ra lệnh xuất phát về tuyến sau. Chị ta khuyên mọi người không nên dừng lại để nghỉ, vì dừng lại là không dậy nổi nữa. Họ theo nữ đội trưởng qua sông. Mặt băng rạn vỡ vì đạn pháo. Hứa Bảo bước hụt, ngã xuống nước. Tư Mã Đình cũng ngã theo. Chàng thanh niên này như cố ý tự tử hay sao mà cởi luôn dây cáng trên người, chui luôn xuống lỗ băng mất hút. Trung đoàn trưởng Lã đau quá chịu không nổi, bật ra những tiếng rên rỉ. Nữ đại đội trưởng túm lấy một đầu cáng, cùng khiêng với Tư Mã Đình, thất thểu về đến bệnh viện hậu phương. Chuyển thương binh xong, đám dân công liền nằm lăn ra đất. Nữ đại đội trưởng nói:
- Đừng nằm, các đồng chí ơi!
Nhưng chửa nói hết câu, chính chị cũng nằm lăn ra.
Trong một chiến dịch sau đó, Tư Mã Đình bị mảnh đạn tiện đứt ba ngón tay phải. Ông ta cắn răng chịu đau, cõng một trung đội trưởng bị gãy chân về tuyến sau.
Sáng sớm, lúc ngủ dậy, trước tiên tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, rồi trông thấy mẹ ngồi ngủ trong ghế dựa kê sát tường, một dòng nước bọt trong suốt chảy ra từ khóe mép. Tư Mã Đình ngồi ngủ gật trên chiếc ghế bên giường như con điều hâu đậu trên chạc cây. Mặt đất vương vãi những mẩu thuốc.
Cô Kỷ Quỳnh Chi mà sau này là cô giáo chủ nhiệm lớp tôi, từ huyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá cho phụ nữ. Cô đem theo một số cán bộ nữ hung hăng như ngựa hoang, tập trung tất cả phụ nữ lại để giảng giải ý nghĩa của chuyện cải giá. Sau đó, như phân phối gà mái, họ ghép đôi những phụ nữ góa chồng với những người đàn ông độc thân. Ngay cả ông Đỗ thọt cũng được chia một chị góa trẻ măng, da trắng nõn, mắt có nhài quạt. Khi chị góa này trông thấy cái chân đầy mủ hôi thối của ông Đỗ, chị khóc như mưa như gió, xin chị cán bộ cho phép không lấy ông ta. Chị cán bộ sốt ruột nói:
- Khóc cái gì? Chân rỉ ra mủ thì có gì đáng sợ? Chỉ cần chim không chảy mủ là được rồi?
Trong cuộc vận động này, những phụ nữ góa chồng nhà Thượng Quan trở thành vật cản. Chị Cả Lai Đệ không ai lấy, vì các vị biết rằng chị đã từng có quan hệ với Tư Mã Khố, cũng là người đã hứa hôn với Tôn Bất Ngôn, mà hai người này đều không hiền lành chút nào. Mẹ ở trong độ tuổi mà Kỷ Quỳnh Chi qui định phải tái giá nhưng mẹ kiên quyết không chịu. Cô cán bộ La Hồng Hà vừa bước vào nhà liền bị mẹ chửi cho một trận, đuổi ra.
Mẹ mắng:
- Cút, tôi còn lớn tuổi hơn mẹ cô!
Điều kỳ lạ là khi Kỷ Quỳnh Chi đến khuyên nhủ thì mẹ lại nhẹ nhàng hỏi: - Cô định gả tôi cho ai? Thái độ của mẹ đối với Kỷ Quỳnh Chi so với La Hồng Hà khác nhau một trời một vực, chỉ xảy ra cách nhau vài tiếng đồng hồ.
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Bác ạ, người trẻ thì không xứng đôi người lớn tuổi một tí thì chỉ có Tư Mã Đình. Lý lịch ông ta tuy có vết, nhưng sau đó ông ta đã lập công, lấy công bù tội. Hơn nữa, quan hệ của hai nhà không xa lạ như những gia đình khác.
Mẹ cười buồn:
- Cô này, em trai ông ta là rể của tôi?
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Thế thì đã sao?
Lễ cưới tập thể của bốn mươi lăm phụ nữ góa chồng được tổ chức trong nhà thờ dột nát. Tôi căm lắm, nhưng tôi vẫn đến dự. Mẹ ngồi trong đám các bà góa, một thoáng đỏ mặt trên sắc da tái xanh của mẹ. Tư Mã Đình đứng trong đám đàn ông, luôn vuốt tóc bằng những ngón tay cụt không hiểu là để khoe mẽ hay để che giấu sự bối rối.
Kỷ Quỳnh Chi thay mặt Chính phủ tặng khăn mặt và xà phòng cho các cặp vợ chồng mới cưới. Trưởng trấn phát cho họ giấy đăng ký kết hôn. Mẹ cầm khăn mặt, giấy đăng ký kết hôn mà mặt đỏ như gấc, như một cô gái cả thẹn.
Trong lòng tôi bùng lên ngọn lửa căm ghét. Mặt tôi nóng bừng, xấu hổ thay cho mẹ. Trên tường nhà thờ, nơi xưa kia treo tượng chúa Giêsu thì nay toàn là bụi. Trên cái bục mà xưa kia mục sư Malôa làm lễ rửa tội cho tôi thì nay chen chúc một lũ đàn ông đàn bà không biết xấu hổ. Họ co ro cúm rúm, lấm la lấm lét như kẻ cắp. Mẹ tóc đã hoa râm mà phải kết hôn cùng anh trai con rể. Không, ý nghĩa thật sự của kết hôn là Tư Mã Đình ngủ cùng giường với mẹ một cách công khai. Bầu vú to bự của mẹ sẽ bị Tư Mã Đình chiếm hữu, giống như Tư Mã Khố, Bác-bít, Sa Nguyệt Lương, Tôn Bất Ngôn đã chiếm hữu bầu vú của các chị tôi. Nghĩ đến đây, nỗi đau như khoan vào tim, những giọt lệ căm phẫn ứa ra khỏi mắt tôi. Một nữ cán bộ rắc những cánh hoa nguyệt quế lên đầu các cô dâu, những cánh hoa khô héo rơi lả tả như một trận mưa bẩn thỉu, như những lông chim rơi xuống đầu mẹ, mái đầu hoa râm nhưng trơn bóng vì mẹ chải bằng dầu vỏ cây du.
Tôi chạy ra khỏi nhà thờ như một con chó dại. Trên đường phố già cỗi, tôi trông thấy rất rõ mục sư Malôa với chiếc áo chùng đen đang thủng thẳng bước đi, mặt đầy bùn đất, mái tóc đầy những mầm lúa mạch. Hai con mắt ông như hai quả nho tím, lạnh băng, ánh mắt đau xót.
Tôi lớn tiếng thông báo cho ônúng tôi đi trên con đường rải đá rất rộng, trúc mặt có một chi đội người ngựa đi ngược chiều, các binh sĩ ăn mặc như binh sĩ của trung đoàn 17. Bộ đội đi ngược chiều chứng tỏ ở quê chúng tôi đã trở thành chiến trường. Sau đội kỵ mã là bộ binh, sau bộ binh là những con la kéo pháo, đầu nòng cắm một bó hoa, các pháo thủ vênh váo ngồi trên nòng pháo. Sau pháo là đội cứu thương. Sau đội cứu thương là những xe nhỏ xếp hàng hai, trên xe là những bao bột mì hoặc bao gạo, ngoài ra còn có một số bao cỏ.
Những người dân tị nạn vùng Cao Mật sợ hãi đứng nép hai bên nhường đường cho đại quân. Trong đoàn bộ binh, có mấy người đeo súng pạc-hoọc tách ra khỏi đội ngũ, đến hỏi thăm tình hình trong đám dân tị nạn. Anh thợ cắt tóc Vương Siêu đẩy cỗ xe bánh cao su rất thời thượng, dọc đường đã trải qua ung dung, nhưng đến đoạn đường này thì anh ta gặp vận xui. Một chiếc xe trong đội vận chuyển Lương thảo bị gãy trục, người đàn ông đẩy xe tuổi trung niên lật nghiêng xe, tháo cái trục ra ngắm nghía mãi, hai bàn tay đen sì dầu mỡ. Làm bò kéo xe là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi trên đầu có cái nhọt mạch lươn, hai khóe mép lở loét, mình mặc chiếc áo cộc không có cúc, thắt lưng băng sợi dây thừng.
Chú hỏi:
- Sao vậy, bố?
Thì ra đó là hai bố con. Người bố mặt mày rầu rĩ, nói:
- Trục gãy rồi, con ạ!
Hai cha con hè nhau lôi cái bánh xe nặng chịch ra.
- Bố ơi làm thế nào bây giờ - chú hỏi.
Người bố ra chỗ cây bạch dương bên đường, chùi tay vào vỏ cây:
- Chẳng còn cách nào? Lúc này, một người đeo tiểu liên, cụt một tay, mặc quân phục mỏng đã cũ nhưng trên đầu lại đội một chiếc mũ da chó, người nghiêng nghiêng đi tới.
- Vương Kim, Vương Kim! - Người cụt tay giận dữ quát - sao tụt lại đằng sau hả? Có phải anh định làm mất mặt đại đội gang thép của chúng tôi?
- Thưa chỉ đạo viên - Vương Kim nhăn nhó - Xe tôi gãy trục rồi?...
Chỉ đạo viên cụt tay giận điên lên:
- Đ. mẹ, không gãy vào lúc khác mà lại nhằm vào lúc ra mặt trận? Đã bảo anh phải kiểm tra xe cho kỹ?
Chỉ đạo viên cụt tay càng nói càng cáu, khuôn mặt xám ngoét của anh ta khiến tôi lại nhớ tới Sạ nguyệt Lượng. Anh ta giơ cánh tay đặc biệt phát triển đánh Vương Kim một bạt tai. Vương Kim ối lên một tiếng, gục đầu xuống, máu chảy ra từ hai lỗ mũi.
- Ông là ai mà đánh bố tôi? - Chú bé chất vấn chỉ đạo viên. Chỉ đạo viên nói.
- Sao, không chịu hả? Giao Lương không đúng kỳ hạn thì tao bắn chết cả hai bố con!
Chú thiếu niên nói:
- Ai muốn gãy trục xe làm gì? Nhà cháu nghèo, chiếc xe này cháu mượn của cô cháu.
Vương Kim moi một ít bông trong tay áo đứt nút lỗ mũi, lầu bầu:
- Chỉ đạo viên, ông bất chấp cả lẽ phải!
- Lẽ phải nào? - chỉ đạo viên nghiêm mặt hỏi - đưa được lương thực ra mặt trận là lẽ phải, không đưa được lương thực ra mặt trận là không có lẽ phải. Các người đừng có ca cẩm nữa, dù phải cõng phải vác, cũng phải đưa hai trăm bốn mươi cân kê này tới trấn Đào Quan trong ngày hôm nay!
Vương Kim nói:
- Chỉ đạo viên, ông thường hay nói phải thực tế hai trăm bốn mươi cân... cháu lại nhỏ... tôi van ông đấy
Chỉ đạo viên ngẩng lên nhìn mặt trời, cúi xuống xem đồng hồ, ngoảnh nhìn ra tứ phía, bất chợt trông thấy cỗ xe nhà tôi, nhìn tiếp thấy cỗ xe bánh cao su của Vương Siêu. Vương Siêu có nghề cắt tóc kiếm tiền cũng khá, lại độc thân, có tiền mua thịt mua cá, dinh dưỡng tốt nên mặt mũi đầy đặn, nước da hồng hào chẳng ra dáng người làm ruộng. Chiếc xe nhỏ bánh cao su của anh ta, một bên là cái hòm đựng đồ nghề cắt tóc, bên kia là chiếc chăn hoa, bên ngoài chiếc chăn còn được bọc một tấm da chó. Chiếc xe được đóng bằng gỗ hòe gai; đánh một lớp véc ni, gỗ hòe nhẵn bóng, không những đẹp mắt mà còn rất thơm. Trước khi lên đường, anh ta còn bơm bánh xe thật căng đi trên đường rải đá, chiếc xe nhảy tâng tâng, xe nhẹ người khỏe, trong bọc giắt bình rượu, đi vài dặm lại gác càng xe mở nút làm vài ngụm, chân nhẹ tênh, miệng nghêu ngao dăm câu hát, anh ta là quí tộc trong đám dân tị nạn. Cặp mắt đen của chỉ đạo viên đảo như chớp, vừa mỉm cười vừa bước tới tỏ vẻ thân thiện:
- Các vị từ đâu tới?
Không ai trả lời anh ta, vì rằng khi hỏi câu ấy, anh ta nhìn vào cây bạch dương, thân cây có vết dầu mỡ mà anh dân phu vừa bôi lên. Những cây bạch dương màu xám, cây nọ tiếp cây kia, các cành vươn lên cao trong tư thế chọc trời. Nhưng ánh mắt anh ta nhanh chóng chuyển sang Vương Siêu, nét thân thiện trên mặt biến mất, thay vào đó là thái dộ nghiêm nghị như tượng trong đền.
- Anh thành phần gì? - Anh ta nhìn khuôn mặt bóng nhẫy của Vương Siêu hỏi.
Vương Siêu choáng váng, không hiểu đầu đuôi ra sao.
- Trông bộ anh - Anh cụt tay nói như đinh đóng cột - không địa chủ thì cũng là phú nông, không phú nông thì tiểu chủ, nghĩa là cái loại người ngồi mát ăn bát vàng chứ không sống bằng sức lao động của mình.
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Oan cho tôi, tôi là thợ cắt tóc, sống bằng tay nghề, nhà chỉ có hai gian, ruộng không có, vợ con cũng không, một người ăn, no cả nhà, ăn hôm nay không biết có ngày mai. Nơi tôi vừa vạch xong thành phần, trên khu qui tôi là thợ thủ công, tương đương trung nông lớp dưới, thành phần cơ bản mà!
- Nói láo - Anh cụt tay nói - anh bẻm mép như vẹt cũng không qua được mắt tôi. Chúng tôi trưng dụng cái xe của anh!
Anh ta quay lại gọi cha con Vương Kim:
- Mau dỡ hàng xuống, chất lên xe này!
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Chiếc xe này tôi tích cóp nửa đời người mới có, ông không được tước đoạt người nghèo.
Anh cụt tay nổi giận nói:
- Vì thắng lợi, ông đã hiến cả cánh tay. Cái xe rách của anh đáng mấy g về việc Tư Mã Đình đã kết hôn với mẹ, nhìn thấy những thớ thịt co giật trên khuôn mặt đau khổ của ông, thân hình ông và cả chiếc áo choàng đen trong khoảnh khắc tan ra từng mảnh rồi biến thành một cụm khói đen, bay đi.
Trong sân, chị Cả đang vươn cái cổ trắng nõn để gội mái tóc dày của chị. Khi chị cúi xuống, hai bầu vú trắng hồng tuyệt đẹp của chị khoan khoái cất giọng du dương như chim vàng anh. Khi chị đứng thẳng lên, những giọt nước nối đuôi nhau chảy giữa khe vú. Chị đưa hai tay ra sau gáy vấn tóc, nheo mắt nhìn tôi rồi cười nhạt.
- Biết chưa? Mẹ lấy Tư Mã Đình - Tôi bảo chị.
Chị không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. Mẹ dắt chị Ngọc Nữ, trên tóc còn vương những cánh hoa nhục nhã, bước vào trong nhà. Tư Mã Đình len lén theo sau. Chị Cả bưng chậu nước gội đầu hắt mạnh ra sân, nước bay thành vòng cung, trắng xóa. Mẹ thở dài, không nói gì. Tư Mã Đình móc trong túi ra tấm huân chương đưa cho tôi, không hiểu là để lấy lòng hay để khoe. Tôi nghiêm nghị nhìn vào mặt ông ta, trên mặt ông là một nụ cười giả dối. Mắt ông né tránh cái nhìn của tôi, ông giả vờ ho khẽ để che giấu sự lúng túng. Tôi ném chiếc huân chương đi, nó bay như con chim qua nóc nhà.
Mẹ giận dữ nói:
- Đi nhặt về đây!
Tôi vùng vằng, nói:
- Không nhặt!
Tư Mã Đình nói:
- Thôi, để cũng chẳng làm gì!
Mẹ đánh tôi một bạt tai.
Tôi nằm lăn xuống đất, lăn lộn như con lừa tắm khan. Mẹ dùng chân đá tôi, tôi chửi cay độc:
- Đồ mặt dày, đồ mặt dày!
Mẹ sững người, đầu gục xuống ngực rồi đột nhiên gào khóc ầm ĩ, vừa khóc vừa đi vào trong nhà. Tư Mã Đình thở dài, ngồi xổm hút thuốc dưới gốc cây lê. Hút xong mấy điếu thuốc, Tư Mã Đình đứng dậy bảo tôi:
- Cháu khuyên mẹ đừng khóc nữa!
Ông móc túi lấy tờ đăng ký kết hôn xé vụn, quẳng xuống đất rồi bỏ đi. Nhìn từ sau lưng, ông đã già thật sự

- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Ông với tôi không cùng khu, cũng không cùng huyện, ông quyền gì mà trung dụng xe của tôi?
Anh cụt tay nói:
- Huyện nào khu nào cũng phải phục vụ tiền tuyến!
Vương Siêu nói:
- Không được, tôi không đồng ý!
Anh cụt tay quì một chân xuống đất, rút bút máy ra, dùng miệng mở nắp bút, lại lấy ra một mảnh giấy bằng bàn tay đặt lên đùi, nguệch ngoạc viết mấy chữ, hỏi:
- Anh tên gì? Huyện nào, khu nào?
Vuông Siêu trả lời từng điểm một.
Anh cụt tay nói:
- Tôi với Huyện trưởng Lỗ Lập Nhân là chiến hữu. Thế này nhé, xong trận này anh đưa giấy này cho ông ta, ông ta sẽ đền cho anh một chiếc xe.
Vương Siêu chỉ vào chúng tôi, nói:
- Thưa ông, đây là mẹ vợ Lỗ huyện trưởng, đây là cả gia đình!
Anh cụt nói:
- Bác ơi, nhờ bác làm chúng hộ, nói rằng tình hình khẩn cấp, chỉ đạo viên Quách Mạt Phúc của Đoàn dân công chi viện tiền tuyến khu Bột Hải có trưng dụng một chiếc xe của Vương Siêu, đề nghị anh Lỗ giải quyết chuyện đền bù cho thỏa đáng!
- Tốt rồi - Anh cụt nhét mảnh giấy vào tay Vương Siêu rồi giận dữ quát cha con Vương Kim - Còn chần chừ gì nữa? Mẹ kiếp! Giao lương không đúng hẹn, cha con anh thì ăn roi, còn tôi thì ăn đạn!
Quách Mạt Phúc chỉ vào mũi của Vương Siêu, nói:
- Mau dỡ đồ đạc của anh xuống!
Vương Siêu nói: - Thưa ông, ông bảo tôi làm thế nào bây giờ?
Quách Mạt Phúc vỗ tay vào báng súng lục, sầm mặt lại nói:
- Cứ phải lẩy cho anh một phát vào đầu mới xong phải không? Dỡ xuống! Mẹ kiếp, sao mà giác ngộ thấp thế! Tôi từng uống rượu tiết gà, kết bạn sinh tử với huyện trưởng nhà anh, anh xấu hay tốt tôi chỉ cần đá lưỡi một cái là xong!
Vương Siêu nhăn nhó nhìn mẹ:
- Bác ơi, bác làm chứng cho tôi nhé?
Mẹ gật đầu.
Cha con Vương Kim đẩy chiếc xe của Vương Siêu, vui như mở cờ trong bụng.
Anh cụt lịch sự gật đầu chào mẹ, không thèm ngó Vương Siêu - người đã hiến chiếc xe, rảo bước chạy theo đội ngũ.
Vương Siêu ngồi phịch xuống bó chăn, mặt dài như mặt khỉ, lẩm bẩm một mình: Sao mà mình xui thế không biết? Người khác chẳng sao, lại rơi đúng vào đầu mình? Mình có chơi xấu ai đâu mà đến nông nỗi này! Nước mắt chảy dài theo cặp má phúng phính, anh ta khóc như đứa trẻ lên ba.
Chúng tôi đã tới dưới chân quả núi lớn, con đường rải đá tẽ thành hơn chục con đường nhỏ ngoằn ngoèo bò lên núi. Buổi tối, những người tị nạn tụm năm tụm ba bàn luận những tin tức trái ngược nhau bằng đủ các giọng. Đêm ấy, mọi người ngủ qua đêm trong các bụi quán mộc. Từ mạn nam và mạn bắc vọng tới những tiếng nổ nặng nề, những tia chớp đầu nòng xé rách màn đêm. Vào lúc nửa đêm, không khí quánh lại và ẩm ướt, gần như có thé quơ tay mà nắm như nắm những sợi bông. Gió như những con rắn, luồn theo khe núi trơn tới, rung những lá vàng còn dính trên cây xào xạc. Tiếng cáo kêu thê tham trong hang. Tiếng hú của những con sói trong khe núi. Những đứa trẻ sắp chết rên như tiếng mèo hen. Ông già ho như gõ thanh la. Đúng là một đêm kinh khủng. Lúc trời sáng đã thấy mấy xác chết vứt trong khe núi, trẻ con có, người già có có cả trung niên. Cả nhà tôi sống sót là do chúng tôi đã chiếm được một bụi cây khá đặc biệt: những cây khác rụng hết lá, riêng nó thì còn nguyên, lại còn có một đống cỏ khô rất dày. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau, chiếc chăn duy nhất trùm lên dấu, con dê nằm sát sau lưng thành một bức tường che gió cho tôi. Cơ cục nhất là lúc nửa đêm về sáng, pháo nổ đùng đoàng phía nam càng tăng thêm cảnh tĩnh mịch trong những bụi cây, tiếng rên như cứa vào tim, khiến người nổi gai ốc, tai ong ong như có tiếng hát bội trong đó. Thực ra, đó là tiếng khóc ti tỉ của một phụ nữ.
Sương mù bám lấy chiếc chăn lạnh giá trên đầu. Trời mưa, mưa đông, những hạt mưa rơi trên chăn, mưa rơi loạt soạt trên những lá vàng khô của bụi quán mộc, rơi trên sườn núi, trên đầu dân tị nạn, rơi trên bộ lông vàng rộm và dày của những con sói đang hú. Hạt mưa rơi giữa chừng biến thành bột xốp, đến mặt đất lập tức đóng thành băng, hạt mưa tí tách, bóng đêm chứa ẩn bao điều huyền bí. Tôi chợt nhớ lại cái đêm ông ba Phàn giơ cao ngọn đuốc dẫn đắt chúng tôi ra khỏi cõi chết. Ngọn đuốc như con ngựa hồng nhảy nhót trong đêm tối. Đêm ấy tôi chìm trong hơi ấm của sữa, ôm bầu vú vĩ đại mà tưởng mình bay lên thiên đàng. Giờ đây ảo mộng đáng sợ lại bắt đầu. Luồng sáng màu vàng xuyên qua màn đêm như luồng ánh sáng trên máy chiếu phim của. Bác-bít, côn trùng bay trong luồng sáng như những chám trắng, một phụ nữ tóc dài tha thướt, áo màu mây hồng đính hàng ngàn vạn viên ngọc lấp lánh, lúc thì giống chị Lai Đệ, lúc giống Tiên Chim, lúc lại gíông Kim-Một-Vú, đột nhiên lại biến thành bà người Mỹ. Bà ta mỉm cười dịu dàng, ánh mắt sao mà đẹp, duyên dáng, mê hoặc, như đớp lấy hồn người ta, những giọt nước mắt lấp ló bên bờ mi, hàng lông mày cong vút, hàm răng trắng bóng cắn nhẹ môi dưới, đôi môi đỏ hồng. Sau đó bà lần lượt cắn nhẹ các ngón tay tôi, cắn nhẹ các ngón chân tôi. Thấp thoáng cái eo nhỏ, cái rốn xinh xinh như hạt anh đào. Tôi nhìn ngọc lên và bất giác nước mắt đâm đìa, nức nở thành tiếng: Hai bầu vú như đúc bằng vàng khối nạm hai viên ngọc thấp thoáng sau làn áo mỏng. Tiếng nói của người dẹp từ trên cao dội xuống, lạy đi, thằng nhỏ nhà Thượng Quan, đây là Thượng đế của nhà ngươi. Thì ra Thượng đế là hai bầu vú. Thượng đế có thể biến hóa, biến hóa đến vô cùng, anh mê say cái gì, Thượng đế sẽ biến thành nó để anh xem, nếu không, sao gọi là Thượng đế? Tôi không vươn tới được Người, Người cao quá!
Thế là bà ta sà thấp xuống, vén làn áo mỏng trước mặt tôi, mỏng như nước, vấn vương quanh núi. Thân hình bà chập chờn bất định, crờn khiến tôi nghĩ rằng họ đang đứng trên mặt nước chứ không phải trên mặt đê.
- Đổi tín hiệu! - Lỗ Lập Nhân nói.
Chú lính lấy ngọn cờ đỏ giắt bên người, buộc vào cành liễu mà ông già Long quẳng dưới đất. Chú ta phất ngọn cờ đỏ với bờ bên kia, bờ bên kia vọng lại tiếng hoan hô.
- Tốt rồi! - Lỗ Lập Nhân đeo ống nhòm vào cổ, quay sang lệnh cho người cán bộ dưới quyền: - Tham mưu Tiền, chạy về bảo Tham mưu trưởng Đỗ giải tù binh ra!
Người cán bộ chạy đi.
Lỗ Lập Nhân nhảy lên bè, ra sức dẫm mạnh để thử độ bền. Anh ta hỏi ông già Tôn Long:
- Ra đến giữa sông, bè không vỡ chứ?
Ông già Tôn Long nói:
- Xin thượng quan yên tâm, năm Dân quốc thứ mười, cái bè đưa dân biểu Triệu qua sông, chính là do tôi ghép.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Hôm nay ta phải đưa một tên phạm nhân do thượng cấp chỉ đích danh, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào.
- Thủ trưởng yên tâm, nếu bè vỡ thì cứ chặt chín ngón tay của tôi đi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Không nhất thiết phải như thế, nếu bè vỡ thì có chặt cả mười ngón tay của tôi cũng vô dụng.
Mẹ dẫn đội ngũ của mẹ trèo lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân chạy tới đón, rất khách sáo:
- Bà ơi, bà đợi một lát, họ ra ngay bây giờ!
Anh ta cúi xuống làm thân với Lỗ Thắng Lợi, nhưng nó sợ, khóc toáng lên. Lỗ Lập Nhân lúng túng sửa lại dây kính thay cho gọng, nói:
- Con bế này, ngay cả bố đẻ nó cũng không nhận ra!
Mẹ thở dài:
- Rể! Năm nay, các anh cứ quần nhau như vậy biết khi nào mới thôi?
Lỗ Lập Nhân đã có chủ ý, nói:
- Bà mẹ yên tâm, lâu là ba năm, chóng là hai năm, mẹ có thể sống trong hòa bình rồi!
Mẹ nói:
- Tôi là đàn bà, lẽ ra không nên nhiều lời, liệu anh có tha cho họ không? Nói gì thì nói, các anh là anh em cọc chèo với nhau.
Lỗ Lập Nhân cười:
- Nhạc mẫu ơi, tôi không có quyền, ai bảo mẹ chiêu mộ những chàng rể không yên phận ấy làm gì?
Nói xong, anh ta lại cười. Tiếng cười của Lỗ Lập Nhân làm dịu bớt không khí trang nghiêm trên đê.
Mẹ bảo:
- Anh nói với quan trên của anh, tha cho họ.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Gieo gió gặt bão, trồng tật lê thì đừng sợ gai đâm vào tay. Mẹ vợ ơi xin mẹ đừng bận tâm làm gì!
Các vệ binh áp giải Tư Mã Khố, Bác-bít và Niệm Đệ từ ngõ lên đê. Tư Mã Khố bị trói giật cánh khuỷu bằng thừng. Bác-bít thì hai tay bị trói ra phía trước bằng một đoạn xà cạp. Niệm Đệ không bị trói. Một vệ binh bước tới ngáng đường bị Tư Mã Khố nhổ nước bọt vào mặt, quát:
- Tránh ra, để ta từ biệt người nhà của ta!
Lỗ Lập Nhân bắt tay làm loa nói to về phía ngõ:
- Tư lệnh Tư Mã, đừng vào đấy nữa. Họ ở cả đây rồi?
Tư Mã Khố làm như không nghe tiếng cứ ưỡn ngực bước vào nhà tôi, theo sau là Bác-bít và Niệm Đệ. Họ loay hoay trong sân nhà tôi rất lâu. Lỗ Lập Nhân chốc chốc lại xem đồng hồ. Bờ bên kia đội áp giải liên tục phất cờ hồng, đánh tín hiệu sang bên này. Thông tin viên bên này cũng phất cờ, đánh tín hiệu trả lời. Động tác của họ luôn thay đổi, chúng tỏ nghiệp vụ rất thành thạo.
Bọn Tư Mã Khố rồi cũng ra khỏi nhà tôi, trèo rất nhanh lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân hạ lệnh:
- Cho bè hạ thủy! Mười mấy tên lính hè nhau bẩy chiếc bè xuống nước. Mặt nước chấn động mạnh, chiếc bè chìm xuống rồi từ từ nổi lên. Nước ven bờ chảy chậm, chỉ làm cho bè dập dềnh. Mấy binh sĩ níu chặt dây neo bè bằng vải xà cạp phòng chiếc bè bị nước cuốn đi. Lỗ Lập Nhân nói:
- Tư lệnh Tư Mã, ông Bác-bít, quân đội chúng tôi chí nhân chí nghĩa, thể tất tình người nên mới cho phép các ông chia tay với người nhà, mong các ông gặp phiên phiến thôi!
Tư Mã Khố, Bác-bít, chị Niệm Đệ đi tới trước mặt chúng tôi. Tư Mã Khố mặt mày vui vẻ, Bác-bít đầy vẻ lo âu. Chị Niệm Đệ nét mặt nặng nề và trang nghiêm như một kẻ tử vì đạo. Lỗ Lập Nhân nói khẽ:
- Dì Sáu, dì có thể ở lại. Chị Niệm Đệ lắc đầu tỏ ý nhất quyết đi cùng chồng.
Mẹ bỏ vuông vải dậy làn ra. Sa Tảo Hoa đưa tới một củ hành đã lột vỏ. Mẹ bẻ củ hành làm hai, gói trong một miếng bánh bột mì trắng, sau đó lấy từ trong làn một bát tương ớt, đưa cho Tư Mã Lương, bảo:
- Lương, bê cái bát này! Tư Mã Lương đón cái bát, ngẩn nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Đừng nhìn bà, hãy nhìn cha cháu đi!
ánh mắt của Tư Mã Lương chuyến sang Tư Mã Khố. Tư Mã Khố cúi nhìn đứa con trai khỏe mạnh, đen như củ súng, một thoáng buồn lướt trên khuôn mặt chữ điền xưa nay chưa hề biết thế nào là buồn tủi. Anh ta nhích vai một cái có lẽ định giơ tay xoa đầu đứa con. Tư Mã Lương mở miệng gọi khẽ:
- Bố ơi!
Tư Mã Khố chớp chớp cặp mắt có con ngươi vàng, đẩy nước mắt xuống khoang mũi và họng. Anh ta đá nhẹ vào mông Tư Mã Lương, nói:
- Con yêu, hãy nhớ rằng, dòng họ nhà Tư Mã chúng ta không ai chết trên giường, con cũng phải như thế.
Tư Mã Lương hỏi:
- Bố ơi, liệu họ có bắn bố không?
Tư Mã Khố liếc nhìn dòng sông đục ngầu, nói:
- Bố thua thiệt vì bố giữ chữ nhân. Con nên nhớ rằng muốn làm kẻ ác thì phải lòng lim dạ sứa, giết người không ghê tay? Muốn làm người thiện thì đi đường cũng tránh dẫm phải kiến. Tuyệt đối không nên làm con dơi, chim không ra chim, thú không phải thú. Con nhớ chưa?
Tư Mã Lương cắn môi, nghiêm trang gật đầu.
Mẹ đưa chiếc bánh đã cuốn hành cho chị Lai Đệ. Chị cầm lấy, ngẩn nặp vú Thượng đế của tôi có lúc chạm vào trán tôi, có lúc quệt ngang má tôi, nhưng không bao giờ chạm vào môi tôi. Tôi máy lần dưới lên như con cá vọt lên mặt nước, miệng há to nhưng toàn đớp hụt. Tôi giận dỗi, tôi sốt ruột, nhưng là giận dỗi trong hạnh phúc, sốt ruột trong hy vọng tràn trề. Bà mỉm cười, nụ cười ranh mãnh và đầy quyến rũ. Tôi không ghét sự ranh mãnh đó, vì sự ranh mãnh đó là mật ong, là búp sen hình bầu vú, là quả thảo mai ngậm sương có hình búp sen, là bầu vú có hình quả thảo mai bôi mật ong. Cái lúm đồng tiền của bà làm tôi mê mấn, chỉ một tiếng cười khiến tôi cảm động tới mức quì xuống ăn phân chó. Vì bà, tôi có thể ăn phân chó, dù rằng tôi là thằng con trai sống toàn bằng sữa. Bà không nên dập dờn như thế, tôi xin bà cho tôi cắn vào bà, tôi nguyện cùng bà bay lên chín tầng mây xem những con Ô Thước bắc cầu. Vì bà tôi có thể nắn miệng thành mỏ, khuôn mặt trở nên gớm ghiếc, trên người mọc lông tơ, hai vai mọc đôi cánh, hai chân mọc thêm vuốt, bọn trẻ nhà Thượng Quan chúng tôi, ai cũng có cảm tình với loài chim. Vậy thì người hãy mọc lông mọc cánh đi! Thế là toàn thân tôi đau đớn một cách kỳ lạ và sốt cao vì mọc lông mọc cánh.
- Kim Đồng, Kim Đồng!
Mẹ đang gọi tôi. Mẹ kéo tôi ra khỏi ảo giác. Mẹ và chị Cả xoa bóp chân tay tôi trong bóng tối, kéo tôi trở về từ chỗ ranh giới giữa cái sống và cái chết.
Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết. Dưới tán lá khô vàng của bụi quán mộc và cái chăn có phủ lớp vải dầu, trái tim của bảy người trong gia dình tôi đang đập. Số thuốc của chị Phán Đệ cho, mẹ chia cho mỗi người một viên. Tôi không uống, mẹ nhét viên thuốc vào miệng con dê. Nó nuốt viên thuốc rồi ăn những lá khô trên bụi quán mộc. Băng bám đầy trên lá, trên cành cây, phủ một lớp trong suốt lên những hòn đá quạ dưới khe núi, tất cả đều phủ một lớp băng mỏng. Không có gió, mưa lạnh tiếp tục rơi, cành cây loạt soạt đường trên núi bóng loáng có thể soi gương.
Một người tị nạn dắt con lừa, trên lưng con lừa là cái xác của một phụ nữ, định men theo một lối mòn lên núi. Con lừa của anh ta ngã lên ngã xuống vì trượt chân.
Anh ta giúp con lừa, nhưng dùng súc quá mạnh nên ngã theo. Người và lừa trở nên lóng ngóng, cái xác của người phụ nữ lăn xuống khe. Trong thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo. Chị vừa lăn vừa bò trên tảng đá đóng băng, cằm rách, răng cửa gãy, gáy rỉ máu, móng tay gãy, cổ chân bị trẹo gân, tay trật khớp, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, nhưng chị không cho con báo được thở, đuổi đến cùng cuối cùng, chị tóm được đuôi con báo.
Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc rút chạy. Ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi đã biến thành một đốm trắng lấp lánh, cây cối trên sườn núi cũng biến thành màu trắng. Trên độ cao ấy, mưa lạnh đã biến thành tuyết. Mọi người không dám trèo lên, chỉ loay hoay dưới chân núi. Chúng tôi nhìn thấy thi thể anh thợ cắt tóc Vương Siêu dưới gốc cây tượng thụ, anh ta dùng thắt lưng treo cổ dưới cành thấp nhất, cành cây cong như cánh cung, có thể gãy bất cứ lúc nào. Ngón chân anh ta chớm mặt đất chiếc quần dài tụt xuống đầu gối, chiếc áo khoác ngoài phủ kín mông nên không đến nỗi khó coi. Tôi chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt to bè tím ngắt và cái lưỡi lè ra như một mẩu vải rách rồi vội quay mặt đi. Vậy mà những hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi trong giấc ngủ. Không ai để ý đến anh ta. Mấy người có vẻ hiền lành đang tranh nhau cái chăn và tấm da chó của anh ta. Giằng đi kéo lại cuối cùng cắn xé nhau. Người to con đột nhiên hét tướng lên, cái tai vểnh của anh ta đã bị người bé nhỏ cắn đứt. Người bé nhỏ nhổ cái vành tai vào lòng bàn tay, cầm lên ngắm nghía, quăng trả người to con, rồi anh ta ôm bọc chăn và tấm da chó bỏ chạy, khéo léo tìm chỗ đặt anh sao cho khỏi ngã. Anh ta chạy đến bên một ông già, ông già giơ cây chống càng xe vụt cho anh ta một cái vào đầu. Anh ta ngã lăn ra như một bao tải gạo. Ông già tựa lưng vào thân cây, tay cầm cây gậy ba chạc bảo vệ cái chăn. Mấy kẻ liều mạng định đến cướp nhưng bị ông già chọc nhẹ một cái là ngã chổng bốn vó. Ông già mặc chiếc áo bông dài, thắt quanh người sợi thừng to bự, đầu thừng lủng lẳng cái tẩu và túi đựng thuốc hút. Ông có chòm râu bạc trắng bám đầy băng.
- Không sợ chết thì cứ xông vào!
Ông già thét chói tai, mặt dài ra, mắt đổi màu xanh lục. Mọi người hoang mang dãn ra.
Mẹ quyết định dứt khoát:
- Quay về, về nhà! Mẹ dựng xe lên rồi chập choạng đẩy đi. Trục xe sau khi bị nước mưa rít lên chói tai khi lăn bánh. Chúng tôi ra những người đầu têu. Nhiều người, cứ lặng lẽ đi theo chúng tôi, có người nhanh chóng vượt cả chúng tôi, lại rong ruổi trên con đường trở về quê cũ.
Băng vỡ dưới bánh xe, băng bắn sang hai bên, trời bổ sung bằng mưa lất phất, rồi đột nhiên trong mưa có những cục đá đánh rát vành tai và da mặt, cuối cùng là mưa đá. Cánh đồng hoang mênh mông rào rào như xay lúa. Chúng tôi giữ nguyên cung cách như khi đi, mẹ đẩy xe, chị Cả làm bò, gót chân chị nút nẻ gần như trông thấy xương. Chị kéo xe mà như múa ương ca. Mỗi khi xe bị chao nghiêng, chị cũng chao nghiêng, lần nào cũng như lần nào. Lục phản hồi của sợi thừng kéo căng làm chị ngã liền mấy bận. Chị vừa kéo vừa khóc hu hu. Tôi và Sa Tảo Hoa cũng khóc. Mẹ không khóc, hai mắt thâm quầng, mẹ mắm môi mắm lợi dồn hết tinh lục, vừa thận trọng vừa kiên quyết biến hai bàn chân tí xíu như hai bàn xẻng nhỏ tí bám mặt đất tiến lên từng bước chắc chắn. Chị Tám lặng lẽ đi sau mẹ, tay túm vạt áo, lon ton như một quả cà ủng trôi theo dòng nước.
Con dê của tôi là một con dê sáng giá. Nó theo tôi không rời nửa bước. Nó cũng ngã xoành xoạch, nhưng mỗi lần ngã lại bật dậy ngay lập tức. Để bảo vệ bầu vú cho nó, mẹ lấy miếng vải trắng trùm ngược vú, thắt hai nút trên lưng, lại còn lồng vào giữa hai miếng da thỏ để giữ hơi ấm. Tấm da thỏ khiến người ta nhớ lại thời kỳ yêu như điên như cuồng của Sa Nguyệt Lượng. Con dê ứa nước mắt, mũi phát ra những tiếng rên rỉ, đó là ngôn ngữ của nó. Hai tai nó nứt nẻ vì băng giá, bốn chân màu phấn hồng. Từ khi bầu vú được che ấm, nó trở thành con dê hạnh phúc nhất. Miếng vải và tấm da thỏ, ngoài tác~ dụng giữ hơi ấm, còn là vật để đỡ vú. Đó là một sáng tạo. Sau này, khi tôi là chuyên gia về nịt vú, tôi đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt.
Chúng tôi trở về với những bước chân vội vã, dự kiến giữa trưa thì về tới chỗ đường rải đá có ca bạch dương. ánh nắng chưa chọc thủng mây, nhưng đất trời đã hửng sáng. Con đường rải đá long lanh như ngọc lưu ly. Sau đó, băng mỏng bị những bông tuyết thay thế. Mặt đường, ngọn cây, đồng ruộng hai bên đường, rất nhanh chuyển sang màu trắng. Thường xuyên gặp những xác chết trên đường, xác người và xác súc vật, đôi khi có cả xác chim sẻ, chim thước, gà rừng. Chỉ có chim quạ là không chết, trên nền tuyết trắng, bộ lông con quạ càng đen nhánh. Chúng mổ xác chết, mỏ bị đau nên cất tiếng kêu than thở.
Vận may đã đến. Đầu tiên là tôi nhặt được nửa bao thức ăn gia súc, bã đậu trộn với cám mạch. Con dê ăn một bữa căng bụng, chỗ còn thừa để trên chân Câm anh, Câm em, che gió và tuyết cho chúng. Con dê ăn xong, liếm tuyết, nhìn tôi gật đầu. Tôi hiểu nó định nói gì.
- Tiếp tục tiến lên?
Sa Tảo Hoa nói nó ngửi thấy mùi lúa mạch cháy. Mẹ động viên nó lần theo mùi đó mà tìm, trong một căn nhà nhỏ dùng để trông phần mộ, chúng tôi lượm được hai bao lương khô trên người một binh sĩ đã chết. Thấy người chết nhiều nên không còn cảm giác sợ. Chúng tôi quyết định ngủ lại trong căn nhà đó. Mẹ và chị Cả kéo cái xác anh lính trẻ ra ngoài. Anh ta tự sát. Anh ta ôm súng trong lòng, miệng ngậm đầu nòng, dùng ngón chân cái lòi ra ngoài bít tất đẩy cò cho súng nổ. Viên đạn phá vỡ xương chẩm phía sau gáy. Chuột gặm hết tai của anh ta, gặm cả mũi, xương ngón tay trắng hếu như cành liễu bị bóc vỏ. Khi mẹ và chị Cả kéo cái xác ra ngoài, lũ chuột vằn mắt chạy theo. Để cảm ơn anh lính đã cho lương khô, mẹ dùng lưỡi lê của anh ta đào một cái huyệt nông choèn trên mặt đất băng giá chôn phần đầu của anh ta xuống đấy. Nấm đất nhỏ đối với vua đào hang là lũ chuột chỉ là trò đùa, nhưng lòng mẹ cũng đôi phần thanh thản.
Căn nhà chỉ chứa nổi cả nhà tôi và con dê. Chúng tôi dùng xe chặn cửa. Mẹ ôm khẩu súng trường dính óc của anh lính ngồi ngoài cùng. Lúc trời sắp tối, từng tốp dân tị nạn định chen vào trong đó không ít người có máu đạo tặc nhưng nhìn thây cây súng lăm lăm trong tay mẹ, họ đều sợ hãi bỏ đi. Một người đàn ông miệng rộng, mắt gườm gườm nhìn mẹ vẻ khinh miệt, hỏi:
- Biết bắn không? - Anh ta vừa hỏi vừa xông vào nhà. Mẹ giơ súng cản lại, mẹ không biết bắn. Chị Lai Đệ giăng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra; đẩy cơ bẩm một viên đạn lên nòng, bẻ gập qui lát xuống, chĩa súng phía trên đầu hói đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời. Động tác thành thạo khiến tôi nhớ lại trang sử vẻ vang của chị trong những năm tháng cùng Sa Nguyệt Lượng nam chinh bắc chiến. Người đàn ông miệng rộng bỏ chạy như chó ăn đòn. Mẹ nhìn chị Lai Đệ băng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị.
Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, mãi khi mặt tròi tỏa nắng trên đại lục tuyết mới tỉnh dậy. Tôi muốn quì xuống van nài mẹ không nên rời căn nhà này, căn nhà mà phía trước có ngôi mộ sùng sững, không nên rời rừng tùng đen đội mũ bằng tuyết trắng. Đây là nơi đất lành, là phúc địa. Nhưng mẹ đã lên đường, khẩu súng có nước thép xanh dựng bên Lỗ Thắng Lợi, dưới tấm chăn rách. Trên đường, tuyết đầy đến nửa thước, lạo xạo dưới mỗi bước chân của chúng tôi và dưới bánh xe. Vấp ngã giảm hẳn, chúng tôi đi nhanh hơn. Tuyết chói mắt dưới nắng, người trông càng đen hơn, bất luận mặc quần áo màu gì cũng trở thành đen. Có thể, vì khẩu súng trong sọt và tài bắn súng của chị Lai Đệ khiến mẹ trở nên cứng cổ.
Buổi trưa, bọn tàn quân bỏ chạy từ hướng nam định lục soát xe của chúng tôi, mẹ dang thẳng cánh cho tên lính giả vờ cụt tay một cái tát nẩy lửa, bay cả mũ xuống đất. Tên lính bỏ chạy, không kịp nhặt mũ. Mẹ tiện tay nhặt cái mũ còn mới, chụp lên đầu con dê của toi. Nó chạy nhảy tung tăng với chiếc mũ lính trên đầu. Dân tị nạn đứng xung quanh mặc dù đói rét mụ cả người, cũng há cái miệng đen ngòm ra mà cười, tiếng cười thê thảm như tiếng khóc.
Lúc trời rạng sáng tôi uống no sữa dê, tinh thần sảng khoái, trí tuệ minh mẫn. Tôi phát hiện ra máy in và hòm công văn giấy tờ của huyện bỏ lại bên đường. Những người phu đi đâu cả rồi? Không rõ. Đội la đi đâu? Không rõ.
Mặt đường bắt đầu nhộn nhịp. Từng đội cứu thương từ phía nam rút về, trên cáng là những thương binh luôn miệng rên rỉ. Những dân công tải thương mồ hôi đầm đìa trên mặt, thở như kéo bễ, bước đi loạng choạng trên tuyết
Một số nhân viên áo bơ lu trắng, mũ trắng chạy theo đội tải thương. Một phu khiêng ngã bệt xuống đất, cái cáng lật sang bên, người bị thương ngã lăn ra. Người này băng kín mặt, chỉ hở hai con mắt và cái miệng tê tái. Anh ta vừa khóc vừa chửi:
- Đ. mẹ chúng mày, chết tao rồi?...
Anh ta khóc rồi chửi, chửi rồi khóc. Một nữ quân nhân có khuôn mặt trái xoan đeo túi cứu thương chạy tới. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra đó là cô Đường, bạn chiến đấu của chị Phán Đệ. Cô chửi bới người phu khiêng thậm tệ, dịu dàng khuyên nhủ người thương binh. Những nếp nhăn đã xuất hiện rất nhiều trên trán, trên khóe mắt, cô nữ binh tươi tắn xưa kia, giờ đây đã trở thành một bà già khô héo. Cô hoàn toàn không nhận ra chúng tôi, mẹ cũng không nhận ra cô.
Những đội cứu thương kéo đi nườm nượp như không bao giờ hết. Chúng tôi đứng nép bên vệ đường để khỏi làm vướng họ. Cuối cùng, họ cũng đi hết, mặt đường phủ tuyết trắng tinh khiết giờ đây bẩn tới mức khó mà hình dung nổi, toàn là bùn và nước bẩn. Những chỗ tuyết còn nguyên trông chẳng khác làn da bị bỏng vì có những giọt máu rơi vào. Mũi chỉ ngửi thấy mùi tuyết tan và mùi máu, mùi mồ hôi chua loét. Chúng tôi đi tiếp, cứ phấp phỏng trong bụng, ngay cả con dê của tôi khi nãy nhảy tâng tâng vì được đội mũ lính, giờ đây cũng lấm lét chẳng khác lính mới lần đầu ra trận. Những người tị nạn tỏ ra do dự, tiến thoái lưỡng nan. Không nghi ngờ gì nữa, trước mặt là chiến trường, đi về phía nam có nghĩa là ra mặt trận, vào nơi rừng tên mũi đạn, mà đạn thì không có mắt, nó không nể gì anh, còn lính tráng thì như một lũ hổ, có kiêng dè ai. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai muốn cho người khác biết ý tứ của mình. Mẹ không nhìn ai, kiên quyết đẩy xe theo hướng về nhà. Tôi nhìn lại, thấy dân tị nạn có người đi ngược lên hướng đông bắc, có người đi theo chúng tôi.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Mõ Hà Nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!--
Chương 3 (tiếp)
--!!tach_noi_dung!!--
Chương 4
--!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả BẠCH MIÊN HOA Băng Tuyết Mỹ Nhân Báu Vật Của Đời Cao Lương Đỏ Cây Tỏi Nổi Giận CHÂU CHẤU ĐỎ Đàn Hương Hình Linh dược Lửa Thiêu Hoa Lam Các Ma Chiến Hữu

Xem Tiếp »