Chương 7

7
Trong bữa cơm chiều, mẹ lỡ tay đánh vỡ một cái bát. Nghe thấy một tiếng choang trong đầu, mẹ hiểu rằng giờ phút khốn nạn sắp đến rồi!
Từ khi sinh đứa con gái thứ tư, bầu trời nhà Thượng Quan lúc nào cũng mây đen vần vũ, mặt bà nội như lưỡi hái vừa lấy ra khỏi nước tôi, sẵn sàng đâm chém ai đó bất cứ lúc nào.
Hoàn toàn không có chuyện nằm nơi sau khi đẻ. Vừa lau chùi cho đứa bé xong, giữa hai chân vẫn còn máu me đầm đìa, đã nghe thấy tiếng mẹ chồng cùng tiếng kìm thợ rèn gõ cành cạch vào cửa sổ:
- Lên mặt công thần phải không? - Bà Lã chửi té tát - Thối l. đẻ ra một lũ thị mẹt lại còn lên mặt công thần! Định bắt ta bốn mâm tám bát hầu hạ mi chắc? Con gái nhà Vu Bàn Vả thật đẹp mặt! Sao lại có đồ con dâu như mi?! Làm như mi là mẹ chồng không bằng! Kiếp trước làm nghề mổ trâu, nên trời báo ứng đây! Tôi quả thật lú lẫn, có mắt như mù, ma dẫn lối quỉ dưa đường mới cưới loại con dâu ấy cho con mình? - Bà gõ kìm vào cửa sổ, gầm lên - Tao nói mi đấy, còn giả vờ câm diếc không nghe thấy hay sao?
Mẹ trả lời ấp úng:
- Nghe thấy rồi ạ!
- Nghe thấy rồi thì còn dùng dằng ở đó làm gì? - Mẹ chồng nói - Bố chồng và chồng mi đang trục lúa ngoài bãi ấy, đặt chổi xuống thì cầm chàng nạng lên, bận đến nỗi thân xẻ làm tư cũng không hết việc. Còn mi thì cứ như mệnh phụ ấy, chăn bông đệm gấm, không thèm bước chân xuống giường nữa! Mi cứ sinh ra một thằng cu thì ta bê chậu vàng cho mi rửa chân!
Mẹ thay quần, quấn lên đầu chiếc khăn mặt bẩn, nhìn một thoáng đứa con gái còn dính đầy máu mẹ, dùng óng tay áo lau sạch nước mắt, lê đôi chân rã rời gắng chịu những cơn co thắt ở bụng dưới, nhích từng buộc ra sân.
Nắng tháng Năm âm lịch chói chang, mẹ không mở được mắt ra. Mẹ cầm gáo múc một gáo đầy nước lã trong chum, uống ừng ực. Chết đi, mẹ nghĩ thầm, sống là sống tội, hãy tự giày vò cho mình chết là rảnh nợ! Trong sân, mẹ chồng đang véo đùi non Lai Đệ bằng chiếc kìm thợ rèn đen sì. Chiêu Đệ và Lãnh Đệ đứng nhìn bằng cặp mắt khiếp đảm. Chúng nép bên đống cỏ, không dám hé răng kêu một tiếng, chỉ tiếc nỗi không thể chui tụt vào trong đống cỏ cho khuất mắt. Lai Đệ lăn lộn dưới đất gào lên như con lợn bị chọc tiết.
- Mày kêu này! Mày gào này? Bà Lã quát tháo, hai tay cầm kìm, kẹp từng nhát trên người Hai Đệ, chính xác và mạnh của người lâu năm trong nghề rèn.
Mẹ nhào tới ôm chặt cánh tay bà Lã, vừa khóc vừa van xin:
- Mẹ ơi, trẻ nhỏ không biết gì, xin mẹ tha cho cháu muốn kẹp thì hãy kẹp con đây này! Mẹ quì móp trước mặt bà Lã. Bà Lã giận dữ quẳng chiếc kìm xuống đất thần người ra, rồi hai tay đấm ngực gào khóc:
- Trời ơi là trời, tôi tức chết mất thôi!...
Mẹ lần ra đến sân trục lúa thì Thọ Hỉ phóng một chàng nạng vào giữa hai chân mẹ, chửi: - Đồ con lừa, sao bây giờ mới ra? Định để ông chết vì mệt phải không? Mẹ vốn chân đứng chưa vững, bất ngờ bị một chàng nạng, liền ngã phệt xuống sân. Mẹ trông thấy chồng phơi nắng đỏ như tôm luộc, gào lên bằng cái giọng khàn khàn:
- Giả vờ chết hả? Đứng ngay dậy lật rơm đi.
Anh chồng quẳng chiếc chàng nạng bằng gỗ dâu trước mặt mẹ, rồi lảo đảo ra chỗ gốc cây hòe hóng mát. Mẹ trông thấy bố chồng cũng quẳng cái chàng nạng xuống đất, chửi con trai:
- Đ. mẹ mày! Mày không làm, ông cũng không làm nữa, cả sân lúa này là của riêng tao đấy chắc?
Bố chồng cũng đến chỗ bóng râm. Hai bố con đối đáp chan chát, cá mè một lứa, chẳng có vẻ gì là bố còn nữa. Ông con nói:
- Tôi đếch làm nữa? Bao nhiêu là lúa mạch mà bữa nào cũng ăn bột thô!
Ông bố nói:
- Mày ăn bột thô thì tao ăn bột mịn hả?
Nghe hai cha con cãi vã mà mẹ thấy trong lòng chua xót. Nhà Thượng Quan năm nay được mùa lúa mạch, sân trục lúa phương viên hai mẫu đất chất đầy lúa mạch. Mùi lúa chín thơm thơm. Đuốc mùa vốn là niềm vui của phụ nữ làm ruộng dù họ đang trong hoàn cảnh đắng như hoàng liên.
Mẹ chống tay khó nhọc đứng lên. Khi cúi nhặt chiếc chàng nạng, mắt mẹ nảy đom đóm, phải tựa vào chàng nạng một lúc mới đứng vững mà vẫn còn cảm thấy trời đất như hai bánh xe khổng lồ quay tít, nghiêng ngả, người mẹ cũng lắc lư theo. Bụng đau quặn, dạ con vừa trút được gánh nặng co bóp dữ dội, mồ hôi lạnh chảy cùng mình, từng dòng âm ấm từ cửa mình chảy ra ướt đẫm hai đùi.
Nắng như luồng lửa màu trắng đốt cháy mặt đất. Thủy phần trong rơm rạ ngùn ngụt bốc hơi. Mẹ cố nhịn đau, dùng chàng nạng trở rơm để chúng khô nhanh hơn. Trên lưỡi cuốc có nước, trên chàng nạng có lửa. Mẹ nhớ tới lời mẹ chồng, bà có bao nhiêu điều không tốt, nhưng vẫn là người phụ nữ đáng kính nhất ở thôn này. Bà làm việc theo lẽ phải, có đảm lượng, trượng nghĩa, tuy trong nhà thì tiết kiệm tới mức keo kiệt, nhưng lại rộng rãi với hàng xóm láng giềng. Bà là bậc cao thủ trong nghề rèn, sản phẩm của bà làm ra được ưa chuộng trong công việc đồng áng. Mẹ cảm thấy, so với bà, mẹ chỉ như con thỏ đứng trước con sư tử, vừa sợ vừa hận vừa kính nể. Mẹ chồng đúng là hai bàn tay vàng! Những cọng rơm vàng óng, kêu sột soạt khi lọt qua kẽ chàng nạng, những hạt lúa mạch rời khỏi bông rơi lả tả. Một con luồm luỗm đầu nhọn râu dài, xòe đôi cánh trong màu phấn hồng bay tới đậu trên tay mẹ. Con côn trùng xinh xắn có cặp mắt kép trong như ngọc thạch này đã bị lưỡi hái xén đứt một nửa bụng. Đứt nửa bụng mà vẫn sống, mà vẫn bay! Cái sinh vật nhỏ nhoi đầy sức sống này khiến mẹ cảm động. Mẹ phẩy tay cho nó bay đi nhưng nó không đi. Mẹ cảm nhận được sức mạnh của chân nó bấu chặt vào da mẹ, bất giác thở dài, nhớ lại cái hôm thụ thai Chiêu Đệ trong túp lều canh dưa của nhà bà cô, gió mát từ phía sông Mực tràn vào trong lều. Trên ruộng đưa, những trái dưa tròn xoay, da xanh sẫm nằm lăn lóc bên cạnh những lá dưa màu xám bạc. Khi ấy Lai Đệ còn đang bú. Từng đàn luồm luỗm cũng giong đôi cánh màu phấn hồng bay rào rào xung quanh lều. Ông chú Vu Bàn Vả quì trước mặt mẹ, hai tay đấm vào đầu một cách đau khổ, nói:
- Dượng bị cô của cháu đánh lừa! Trong lòng dượng không lúc nào thanh thản, dượng không còn là còn người nữa, Toàn Nhi, dao đây, cháu hãy giết dượng đi!
Dượng chỉ vào con dao bổ đưa gác trên tấm liếp, vừa chảy nước mắt vừa nói. Lòng mẹ rối như tơ vò. Mẹ lưỡng lự rồi giơ tay sờ cái đầu nhẵn bóng của chú dượng, nói:
- Chú ơi, cháu không oán chú, chính là họ đã đẩy cháu đến bước ấy!
Đột nhiên, mẹ rít lên, ngoảnh ra nói với những quả dưa tròn xoay - làm như chúng là khán giả vậy:
- Các người nghe thấy rồi chứ Các người cứ cười đi! Chú ơi, đời là thế, cháu muốn làm chính chuyên liệt nữ thì bị đánh, bị mắng, bị trả về nhà mẹ đẻ. Cháu đi xin trộm giống của người khác thì lại trở thành chính nhân quân tử! Chú ơi, con thuyền của cháu sớm muộn cũng chìm, không chìm ở rãnh nước nhà chú Kèo thì cũng chìm trong rãnh nước của nhà chú Cột, chú ơi? - Mẹ cười nhạt Chẳng phải đã có câu miếng ngon chẳng đến người ngoài đấy ư?
Ông chú dượng bàng hoàng đứng lên, còn mẹ thì như một ngươi đàn bà từng trải, tụt luôn quần ra...
Trên sân trục lúa của nhà Phúc Sinh Đường, bốn con la kéo trục đá chạy vòng quanh. Những người làm công đánh roi bôm bốp, giục giã. Bên họ thì như thế, hò reo phấn khỏi, tiếng trục đá lăn rào rạo hòa trộn với tiếng chân lừa dẫm trên rơm rạ, những bông lúa vàng óng lượn sóng dời chân lừa. Còn trên sân phơi nhà Thượng Quan chỉ mỗi mình mẹ bận túi bụi, mồ hôi đầm đìa, lưng áo ướt đẫm. Rơm được nắng khô cong, ném que diêm là bốc cháy không còn một cọng. Đây là lúc tốt nhất để phơi lúa. Bầu trời sáng như lòng lò. Những cây hòe ở rìa sân héo rũ lá. Bố con Thượng Quan há miệng ngồi thở dưới bóng râm. Con chó nhà Triệu thò đầu ra chỗ tường vỡ, thè lưỡi thở hồng hộc. Mẹ cảm thấy khắp người nhơm nhớp mồ hôi, cổ họng khô cháy. Nhức đầu, buồn nôn, mạch máu trên đầu chạy giần giật như muốn vỡ ra. Nửa người dưới nặng chịch như chiếc áo bông rách nhúng vào chum tương. Mẹ cố sức cưỡng lại, trở rơm như điên với quyết tâm chết luôn trên sân phơi. Trên sân một màu vàng rực, những bông lúa như sống dậy, từng đàn từng lũ, chen vai thích cánh, hàng triệu triệu hạt mạch như những con cá vàng, như triệu triệu những con rắn uốn khúc. Mẹ phơi lúa mà trong lòng đau xót quá đỗi. Trời ơi, ông trời hãy mở mắt mà xem con dâu nhà Thượng Quan vừa đẻ xong, người bê bết máu đã phải lết ra sân phơi dưới cái nắng chói chang như lửa. Còn bố chồng và chồng, hai người-lớn-không-phải-đàn-ông, thì ngồi đấu khẩu dưới bóng râm! Hãy mở ba nghìn năm hoàng lịch ra xem, chưa có ai khổ như thân tôi! Mẹ xúc động bởi những suy nghĩ của chính mình, nước mắt lã chã rồi bật lên thành tiếng khóc thảm thiết. Nước mắt rơi xuống rơm bốc ngay thành hơi, năm sắc cầu vồng lung linh thuốc mắt. Trời cao đến nỗi không nhìn thấy nền, bỗng vang lên tiếng lục lạc. Xa giá của Trời đã chuyển động, đàn sáo nổi lên, rồng vàng kéo xe, phượng hoàng bay lượn. Bà Mụ cưỡi kỳ lân, bế hài đồng bụ bẫm. Trong một thoáng, trước khi ngất đi, mẹ trông thấy Bà Mụ ném hài đồng cho mẹ. Hài đồng trắng như cục bột, cái chim xinh xinh, kêu lên một tiếng Mẹ, rồi chui luôn vào bụng mẹ. Mẹ cảm thấy mình phủ phục trên mặt đất. Cảm ơn Bà Mụ, cảm ơn!
Khi tỉnh dậy, mẹ thấy mình nằm trong bóng râm của bức tường đổ, đất cát bê bết trên người y hệt con chó đang thoi thóp, nhặng xanh bu đầy đặc. Con la đen đứng im trên sân phơi, mẹ chồng đang vung roi quật bố con Thượng Quan lười nhác. Cặp bố con quí hóa này ôm đầu kêu ăng ăng như chó bị đánh, nháo nhác chạy quanh để tránh đòn.
- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa! - Bố chồng ôm đầu khẩn khoản - Bà nó ơi, bố con tôi xin làm ngay bây giờ!
- Còn mày nữa, đồ vô lại! - Bà Lã vụt Thọ Hỉ một roi - Tao biết mày là thằng đầu têu mỗi khi bố con mày trốn việc?
Thọ Hỉ vươn cái cổ cò ra, van xin:
- Mẹ ơi, mẹ yêu quí, đừng đánh con nữa, con mà chết thì lấy ai phụng dưỡng và làm ma cho mẹ?
Bà Lã xót xa:
- Mong gì mày phụng dưỡng, làm ma cho tao! Xì, chỉ sợ khi người ta nhặt xương tao làm củi đun vẫn không tìm được người tống táng?
Hai bố con lóng ngóng mắc lừa vào trục, một người cầm trang, một người cầm chàng nạng, bắt đầu trở rơm, trang lúa.
Bà Lã tay cầm roi đi tới chỗ bức tường đổ, giọng ai oán:
- Về nhà đi, cô con dâu quí hóa của tôi, còn nằm đây làm gì? Ăn vạ tôi đấy phỏng? Để người ta cho tôi là mụ mẹ chồng cay nghiệt phỏng? Coi con dâu không phải là người phỏng? Sao vẫn chưa về? Đợi kiệu bát cống đến dón mới về chắc? Hừ, thời buổi này con dâu to hơn mẹ chồng? Mong cho cô đẻ thằng con trai để sau này nếm mùi làm mẹ chồng, xem nó như thế nào!
Mẹ vịn thẳng đứng lên.
Mẹ chồng hạ nón trên đầu đội cho mẹ, nói:
- Về đi! Qua vườn rau hái mấy quả đưa chuột, bữa chiều rán mấy quả trứng cho bố con nó ăn. Chưa mệt thì gánh mấy gánh nước tưới cho chỗ rau cải cúc. Thế này mà cũng gọi là sống? Nói cho cùng, tôi cũng vì các người cả thôi?
Mẹ chồng vừa lảm nhảm một mình vừa quay trở lại sân phơi.
Đêm hôm ấy sấm chớp ầm ầm. Một sân đầy lúa là một năm mồ hôi nước mắt! Mẹ cắn răng chịu đau, lết ra sân phơi chạy mưa cùng với mọi người. Mẹ ướt như chuột lột, lạnh cóng. Nửa đêm trở về giường, mẹ cảm thấy đã xuống đến cửa Diêm vương, quỉ đầu trâu rung xích sắt loảng xoảng, xích cổ mẹ lại!...
Mẹ cúi nhặt viên gạch vỡ với một quyết tâm hẳn hoi, liền nghe thấy c năm nay, mẹ không về thăm nhà. Mẹ chồng giục mẹ về mẹ bảo:
- Nhà con chết cả rồi, mẹ bảo con về đâu bây giờ?
Xem ra giống của ông chú dượng Vu Bàn Vả cũng không được việc! Mẹ nghĩ, phải xin giống ở người đàn ông nào tốt hơn. Này mẹ chổng, này chồng, các người cứ đánh tôi đi, cứ mong đi, tôi sẽ đẻ con trai nhưng nó không phải giống nhà Thượng Quan, các người thiệt to rồi? Mẹ nghĩ ngợi miên man, tay rẽ những cây lau gần như bịt kín lối đi. Bãi lau xào xạc, mùa tanh tanh của những cây thủy sinh khiến mẹ sờ sợ. Tiếng chim kiếm ăn trong nước kêu quác quác từ nơi rất sâu, từng làn gió nhẹ lách qua kẽ lá. Một con lợn rừng mõm dài nghêu đứng chắn đường, chỉ cách vài bước chân, hai chiếc răng nanh nhọn hoắt chìa ra hai bên mép. Nó giương cặp mắt ti hí phủ đầy lông mi dày nhìn mẹ với vẻ thù địch, khịt khịt mũi hăm dọa. Mẹ như sực tỉnh sau khi uống một ngụm dấm, bất giác sợ run lên, nghĩ rằng sao mình lại lọt vào nơi này? Có ai ở Cao Mật biết mình vào đây? Bãi sậy mênh mông là sào huyệt của bọn thổ phỉ, ngay cả Vương Tam, Tư lệnh du kích vùng Tề-Lỗ trong tay cả đại đội nhân mã mà cũng không dám thọc sâu. Lần tiễu phỉ năm xưa, ông ta chỉ dám đặt súng cối ngoài đường lớn, nã vào bãi sậy hơn chục phát rồi rút.
Khì tìm đường để ra, mẹ mới phát hiện có rất nhiều con đường nhỏ chạy ngang chạy dọc trong ánh sáng lờ mờ, không rõ đó là lối đi của người hay của thú. Mẹ không thể nhận ra mình đã đến chỗ này bằng con đường nào. Mẹ chạy nháo nhào một lúc rồi đứng lại khóc. ánh sáng xuyên qua kẽ lá có hình lưỡi kiếm, mùi thối rữa từ mặt đất bốc lên. Chân mẹ dẫm phải một bãi phân lỏng, tuy thối nhúc mũi nhưng mẹ lại cảm thấy yên tâm, có phân là có người. Mẹ gọi to:
- Có ai đấy không? Có ai đấy không?
Tiếng gọi như bị nghẹt rồi tan biến trong bãi sậy dày đặc. Mẹ cúi nhìn mới thấy bãi phân lổn nhổn những rễ và đọt cây thì hiểu rằng không phải phân người mà là phân lợn rừng hoặc của loài thú nào đó. Lại chạy thực mạng một đoạn nữa rồi tuyệt vọng ngời xuống mà gào khóc. Mẹ cảm thấy sống lưng lạnh toát như có hàng trăm con mắt dữ dằn đang nhìn trộm mình. Quay lại không thấy gì cả, chỉ có những cây lau ken dày, lá nhọn chĩa thẳng lên trời. Một làn gió nhẹ từ bãi lau nổi lên rồi tan đi trong bãi lau, chỉ còn lại những tiếng xào xạc. Tiếng chim hót từ một nơi xa thăm, nghe quái dị, hình như đó là người nhại tiếng chim. Mẹ không dám nán lại lâu hơn nữa, ba bề bốn bên nguy hiển đang rình rập, bao nhiêu cặp mắt xanh lè nhìn qua kẽ lá. Những đốm lân tinh nhảy nhót trên lá sậy. Tim mẹ như muốn vỡ ra, khắp người nổi da gà, vú đanh lại như một thỏi sắt. Mẹ mất dần lý trí nhắm mắt xông bừa làm kinh động đàn muỗi đông như một đám mây đen. Chúng xông vào đốt mẹ. Mồ hôi đầm đìa khiến chúng kéo đến càng đông. Cái hũ sành đã rơi mất, cây sào cũng mất nốt, mẹ vừa kêu gào vừa chạy thực mạng. Khổ thân mẹ! Giữa lúc hoàn toàn tuyệt vọng đó, Thượng đế sai cứu tinh đến: chính là anh chàng bán vịt con!
Anh mặc áo tơi, đội nón lá, dẫn mẹ đến một khoảnh đất cao trong bãi sậy. Chỗ này sậy mọc thưa. Chính giữa là túp lều trước cửa lều có một bếp lửa cháy rừng rục, phía trên treo một nồi cháo kê thoàn phức.
Anh ta dẫn mẹ vào trong lều. Mẹ quì xuống nói:
- Xin quí anh cho em về, em là con dâu nhà thợ rèn Thượng Quan.
Anh ta cười:
- Vội gì? Đã mấy khi có khách, phải thết dãi chút gì chứ!
Trong lều kê tấm phản gỗ làm giường, trên phủ tấm da hổ để chống ẩm. Anh ta đốt lá ngải xông muỗi, hỏi mẹ:
- Đau lắm hả? Muỗi vùng này cắn chết trâu, huống hồ da thịt thơm tho của chị Hai!
Lá ngải bốc khói trắng, tỏa mùi thơm dễ chịu. Anh ta hạ chiếc làn treo trên xà ngang xuống, lấy ra chiếc hộp con màu đỏ, mở nắp quệt một ít cao màu vàng chanh bôi lên những chỗ bị muỗi cắn trên mặt trên tay mẹ. Mẹ cảm thấy một mùi thơm thấm tận trong tim. Anh lại lấy ra một viên đường, ép mẹ ăn bằng được. Mẹ hiểu rằng, một nam một nữ ở nơi mênh mông sâu thẳm này, chuyện ấy sớm muộn sẽ diễn ra. Mẹ vừa nói vừa chảy nước mắt:
- Quí anh ơi, anh làm gì em cũng được, chỉ xin anh cho em về sớm một chút, cháu bé đang khát sữa ở nhà...
Mẹ tiếp nhận người đàn ông với thái dộ vâng chịu, không xót xa cũng chẳng mừng vui, chỉ cầu mong anh ta cho mẹ một thằng con trai.
6
Bố đẻ chị Tư, chị Tưởng Đệ, là một thầy lang bán thuốc rong. Đó là một thanh niên mảnh khảnh, mũi diều mắt chim cắt. Anh ta rung chiếc chuông đồng đi khắp hang cùng ngõ hẻm, miệng rao:
- Ông làm quan ngự y, bố mở hiệu bào chế, đến đời tôi cơ khổ lênh đênh, giang hồ kiếm sống đây!
Mẹ địu sọt cỏ tươi từ ngoài đồng trở về, bắt gặp thầy lang đang lấy sâu răng trong miệng một ông già. Anh ta cầm cái nhíp màu đen gắp ra những con sâu nhỏ tí màu trắng. Về đến nhà, mẹ kể lại chuyện thầy lang cho mẹ chồng đang đau răng.
Thầy lang bảo mẹ cầm đèn soi miệng bà Lã. Anh ta lấy nhíp lay thử hàm răng, nói: - Bác ơi, răng bác là răng hỏa, không phải răng sâu! Rồi lấy ra mấy chiếc kìm bạc châm vào tay, vào má bà Lã, rồi lấy trong túi thuốc một ít thuốc bột, thổi vào miệng bà. Lát sau, răng bà Lã không đau nữa. Thầy lang ngủ nhờ một đêm ở chái đông nhà Thượng Quan. Ngày hôm sau, anh ta lấy ra một đồng bạc trắng xin thuê chái đông để xem bệnh bốc thuốc. Bà nội thấy thầy lang đã chữa khỏi đau răng cho bà, hai là thấy đồng bạc trắng lóa mắt, bèn vui vẻ chấp thuận.
Thầy lang quả là bậc cao thủ.
Trong thôn có ông Tư Dư chuyên chăn trâu. ở cổ ông bị cái nhọt bọc nhiều năm không lành, hễ đụng phải là máu mủ lại rỉ ra, ngứa ngáy không chịu nổi. Thầy lang vừa trông thấy đã cười, bảo:
- Mạch lươn, chữa dễ ợt! Lấy phân trâu mới ỉa đắp lên miệng là khỏi!
Mọi người tưởng thầy nói đùa.
Lão Tư Dư nói:
- Thầy trêu chọc người bệnh là trái với lẽ t chồng mừng quá, mở hòm lấy tiền để mẹ đi tạ thầy và thay đơn thuốc.
Khi ông thầy thay đơn, mẹ nhân tiện nhờ thầy chạy chữa sao cho đẻ con trai. Người nói đi, kẻ hỏi lại, càng nói càng sâu. Hòa thượng vốn đa tình, mẹ lại rất mong có con trai, và thế là hai người kết thân với nhau. Lão Béo thôn Sa Tử đã được nếm mùi trên cơ thể mẹ, theo dõi mẹ chặt chẽ.
Một hôm, trời gần tối, mặt trời đã khuất núi, mặt trăng tròn vạnh vừa ló lên, mẹ cưỡi la từ chùa Thiên Tề trở về qua ruộng cao lương bờ nam sông Mục thì lão Béo nhảy ra chặn đầu con la.
- Lỗ Toàn Nhi, sao cô bạc tình thế! - Lão Béo nói.
Mẹ nói: - Anh Béo này, tôi thấy anh đáng thương nên nhắm mắt khuất thân với anh mấy lần, anh đừng có được đằng chân lân đằng đầu!
Lão Béo nói: - Không được có mới nới cũ!
Mẹ nói:
- Đừng nói bậy!
Lão Béo nói:
- Cô không giấu nổi tôi đâu. Tử tế thì thôi, không tử tế thì tôi sẽ đi rêu rao khắp vùng đông bắc Cao Mật, rằng cô mượn cớ chữa bệnh cho mẹ chồng để tằng tịu với thầy tiểu chùa Thiên Tề!
Mẹ bị lão Béo bế xốc vào trong ruộng cao lương. Mẹ chồng khỏi bệnh, nhưng tiếng đồn về quan hệ giữa mẹ với hòa thượng Trí Thông đã đến tai bà.
Niệm Đệ vừa lọt lòng oe oe khóc, mẹ chồng thấy vẫn là con gái, liền chẳng nói chẳng rằng túm lấy hai chân định đem dìm chết trong chum nước.
Mẹ nhào xuống đất ôm chặt hai chân mẹ chồng, van xin:
- Mẹ ơi mẹ, xin mẹ mở lượng từ bi, thương con hầu hạ mẹ nửa năm nay mà tha cho cháu bé!
Mẹ chồng tay vẫn xách chân đứa bé, dằn giọng hỏi:
- Mi hãy nói thật, chuyện nhà sư có thật không?
Mẹ do dự.
Mẹ chồng nói:
- Nói! Có phải con hoang không?
Mẹ lắc đầu, dứt khoát không nhận.
Mẹ chồng thả con bé xuống giường.
9
Mùa thu năm 1935, trong khi cắt cỏ ở bờ bắc sông Thuồng Luồng, mẹ bị bốn tên lính thất trận luân phiên hãm hiếp.
Đứng trước dòng nước trong xanh, mẹ nảy ra ý định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhưng khi vén áo chuẩn bị nhảy, mẹ bỗng trông thấy bầu trời xanh biếc của vùng đông bắc Cao Mật in bóng dưới lòng sông. Mấy cụm mây trắng như bông bay ngang trời, những con chim sơn ca cất tiếng hót véo von dưới cụm mây trắng. Những con cá nhỏ, trong suốt bơi trong bóng mây in dưới lòng sông. Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra, trời vẫn trong xanh, mây vẫn nhởn nhơ, lười nhác và trắng muốt như thế. Chim chóc không vì có điều hâu mà ngừng ca hát, những con cá nhỏ không vì có chim bói cá mà ngừng bơi lội. Mẹ cảm thấy một làn gió tươi mát xua tan mọi uất ức trong lòng. Mẹ khoát nước, rửa sạch nước mắt và mồ hôi trên mặt, sửa sang lại quần áo rồi trở về nhà. Đầu mùa hè năm sau, Thượng Quan Lỗ thị sau tám năm không sinh nở, lại sinh đứa con gái thứ bảy: Cầu Đệ.
Vốn dĩ gửi gắm biết bao hy vọng vào lần có thai này, nên bà Lã tuyệt vọng đến cục điểm. Bà loạng choạng đi vào phòng riêng, mở hòm lấy bình rượu quí cất giữ đã lâu, ngửa cổ uống ứng ục và mượn hơi men, bà khóc hu hu. Thượng Quan Lỗ Thị cũng rất ngán ngẩm nhìn khuôn mặt bé tí của đứa con sơ sinh, than thấm:
- Trời ơi, sao mà ông keo kiệt đến như vậy, ông chỉ cho thêm một tí đất sét là cho con được một thằng cu!...
Thọ Hỉ xông vào trong buồng lật tã lên xem rồi ngã ngửa. Công việc đầu tiên sau khi hết bàng hoàng là vớ lấy cái chày đập giặt quần áo, nhắm thẳng đầu vợ phang một chày. Người đàn-ông-không-bao-giờ-lớn này giận đến phát điên, anh ta dùng kìm kẹp lấy một miếng sắt trong lò ấn vào giữa hai chân của vợ.
Làn khói màu vàng bay lên, mùi lông và thịt cháy khét lẹt tỏa khắp phòng. Mẹ rú lên thê thảm, lăn từ trên giường xuống đất, người cong như cánh cung, co giật từng cơn.
Ông Vu Bàn Vả nghe tin liền vác khẩu súng săn đến nhà Thượng Quan. Bước vào cổng, ông chẳng nói chẳng rằng, giương súng nhằm bộ ngực đồ sộ của bà Lã, lẩy cò. Cũng là số bà Lã chưa đến lúc hết, súng không nổ. Trong lúc ông Vu thay kíp nổ khác, bà Lã chạy vụt vào buồng chốt cửa lại. Cơn giận vẫn chưa nguôi, ông Vu nhằm cánh cửa nã một phát. Hàng trăm viên đạn ghém phá tung cánh cửa một lỗ bằng miệng bát. Trong buồng, bà Lã rú lên một tiếng kinh hoàng.
Vu Bàn Vả dùng báng súng động cửa. Ông vẫn không nói nửa câu, chỉ thở nặng nhọc. Thân hình cao to lừng lũng của ông lắc lư như một con gấu. Đám con gái nhà Thượng Quan trốn hết vào trong chái đông, hốt hoảng nhìn ra sân.
Cha con nhà Thượng Quan, một ngươi cầm chùy sắt, một người cầm kìm, nghiêng ngó trong sân, tìm cách tiếp cận Vu Bàn Vả. Thọ Hỉ như con chim chích lướt tới chọc một nhát kìm trúng lưng ông Vu. Ông Vu quay lại gầm lên một tiếng. Thọ Hỉ vứt kìm định bỏ chạy nhưng chân đã nhũn ra, anh ta vội cười nịnh mong thoát hiểm.
- Ông thì giết cái đồ giòi bọ này - Ông Vu chửi, giơ báng súng tống Thọ Hỉ ngã lăn ra.
Ông dùng sức quá mạnh, báng súng gãy đôi. Ông Phúc Lộc vung chùy xông tới nhưng đánh hụt, mất đà loạng choạng suýt ngã. Ông Vu chặt một nhát cạnh bàn tai vào vai, Phúc Lộc ngã lăn ra cùng với con trai.
Vu Bàn Vả dùng cả hai chân luân phiên đá cha con nhà Thượng Quan. Để đá cho mạnh hơn, người ông liên tục rướn lên. Chị em nhà Thượng Quan nhìn ông dượng mà có cảm tưởng đang xem diễn trò. Cha con Thượng Quan co quắp dưới đất, lăn như quả bóng. Lúc đầu, cha con thi nhau gào thật to, nhưng chỉ lát sau đã câm bặt. Thọ Hỉ như con cóc bị đánh gãy lưng, chổng mông lên mà bò, ông Vu bồi cho một đá, anh ta lại ngã lăn ra. Ông Vu vớ lấy cặp chùy sắt nặng chịch của nhà Thượng Quan nhằm đầu Thọ Hỉ, miệng chửi:
- Đồ chó chết, ông đập nát đầu mày như quả đưa!
Giữa lúc nguy cấp, mẹ đẩy cửa loạng choạng bước ra. Mẹ nói:
- Chú ơi, việc nhà cháurời và đạo làm người đấy!
Thầy lang nói:
- Nếu ông không tin tôi thì đi tìm phân trâu tươi mà làm đi. Nếu không tin thì tìm thầy khác mà chữa!
Ngày hôm sau, Tư Dư xách một con cá to tướng đến tạ thầy. Lão nói sau khi đắp phân trâu vào, ngứa không chịu nổi, lát sau, một số con bọ màu đen chui ra, ngứa cũng đỡ. Liên tục đắp hơn chục lượt, miệng nhọt đã thu lại!
- Đúng là thần y! - Lão Tư Dư nói.
Thầy lang giảng giải: - Cái nhọt của ông thuộc loại nhọt bọ hung. Bọ hung thấy phân trâu, không chui ra sao được?
Từ đó, tiếng tăm thầy lang nổi như cồn. Thầy trọ ở nhà Thượng Quan ba tháng, tháng nào cũng tiền phòng tiền cơm trả sòng phẳng, quan hệ với gia đình Thượng Quan vui vẻ dễ chịu. Bà Lã hỏi ý kiến thầy về vấn đề đẻ con trai. Thầy lang cho kê một đơn thuốc: Trứng gà 10 quả, trộn mật ong, dầu thơm.
Thọ Hỉ nói:
- Thuốc này thì tôi cũng muốn được chữa. Mẹ rất có cảm tình với ông thầy ma giáo này. Mẹ lẻn vào nơi thầy ở, nói hết sự thực về chồng không có khả năng sinh con.
Thầy lang nói:
- Những con sâu răng là tôi để sẵn trong hộp.
Khi biết chắc là mẹ đã mang thai, ông thầy chuyển đi nơi khác. Lúc sắp lên đường, ông biếu bà Lã toàn bộ số tiền kiếm được trong mấy tháng và nhận bà làm mẹ nuôi.

Truyện Báu Vật Của Đời Lời giới thiệu Chương 1 Chương 1(tiếp) Chương 2 Chương 2 (tiếp) Chương 2 (tiếp) Chương 2 (tiếp) Chương 2 (tiếp) Chương 3 Chương 3 (tiếp) Chương 3 (tiếp) Chương 3 (tiếp) Chương 4 Chương 4(tiếp) Chương 4(tiếp) Chương 4(tiếp) Chương 5 m gối, để hở hai bắp chân trắng nõn, tất ngắn màu trắng, giày thể thao cũng màu trắng.
Bầu không khí mới mẻ, một luồng gió tươi mát tràn đầy lồng ngực dân chúng vùng đông bắc Cao Mật. Các cô gái xếp hàng, cúi chào mọi người rồi ngước mắt lên trời mà hát rằng: Chúng tôi không bó chân, chúng tôi không bó chân, da thịt trên người cha mẹ sinh. Họ giơ cao chân để khoe với mọi người bàn chân dài. Thoải mái vô cùng ta chạy nhảy, không như chân bó khổ trăm đường! Họ lại vừa nhảy vừa hát Phong kiến coi ta như đồ chơi, đã hại biết bao người Giải phóng đôi chân, ta giải phóng, quăng đi vải bó, đi lên tiên. Các cô gái lui vào bên trong. Một bác sĩ khoa xương bê ra mô hình một cái chân bị bó, chỉ cho mọi người thấy chỗ nào xương chân bị gãy, chỗ nào xương chân biến dạng. Cuối cùng, ông huyện trưởng nảy ra một ý, lệnh cho người có gót sen vàng được coi là đẹp nhất vùng Cao Mật lên trình diện, để mọi người thấy rõ đôi bàn chân ấy khó coi đến múc nào.
Mẹ tái mặt, nấp sau lưng bà cô. Ông trưởng trấn nói:
- Đây là mệnh lệnh của huyện trưởng, không ai được cưỡng lại! Mẹ ôm chặt eo lưng bà cô, nói:
- Cô ơi, cô cứu cháu! Cháu không lên đâu!
Bà cô nói:
- Cháu cứ lên cho người ta xem? Chỉ sợ người ta không biết đó là hàng đẹp, không sợ hàng mình không đẹp!
Cô không tin rằng đôi bàn chân do cô tạo nên lại xấu hơn chân của sáu con lừa đó.
Bà cô dắt mẹ ra phía trước rồi lánh sang một bên. Mẹ một bước đi ba lần nhún nhảy như cành liễu trước gió. Trong con mắt những người thủ cựu vùng Cao Mật, như thế mới là người đẹp? Họ tròn mắt ra nhìn, chỉ tiếc nỗi không thể nhìn xuyên quần xiên áo để ngắm trộm toàn bộ dung nhan người đẹp. ánh mắt của huyện trưởng như con thiêu thân, chui tụt trong ống quần Toàn Nhi, miệng há hốc ngẩn ra hồi lâu rồi lớn tiếng nói: - Hãy trông đây, người đẹp như thế này, vì cái chân bó, mà trở thành một quái vật vai không thể gánh, chân không thể giơ lên! Bà cô không sợ gì cả, gạt lời huyện trưởng:
- Thiên kim tiểu thư chỉ để nuôi làm cảnh, công việc nặng nhọc đã có đầy tớ.
Huyện trưởng vằn mắt nhìn bà cô, hỏi:
- Bà là mẹ của cô ấy hả?
Bà cô nói:
- Là mẹ thì sao?
Huyên trưởng nói:
- Chân cô ấy là kiệt tác của bà phải không
Bà cô:
- Nếu đúng như vậy thì đã sao?
Huyện trưởng nói:
- Bắt trói mụ già độc ác này lại cho ta! Ngày nào con gái mụ chưa tháo vải bó chân thì vẫn cứ giam mụ lại!
- Để xem các ngươi dám bắt người không - Vu Bàn Vả gầm lên như sét đánh giữa trưa, vung hai quả đấm nhảy ra đứng chắn trước mặt vợ.
Huyện trưởng nói:
- Anh là ai?
Vu Bàn Vả ngang nước trả lời:
- Tao là bố mày!
Huyện trưởng cả giận, quát:
- Bắt lấy nó!
Mấy tên sai nha rụt rè tiến lên. Chỉ một cái gạt, ông Vu Bàn Vảđã hất chúng sang một bên.
Dân chúng bàn tán xôn xao. Có người lượm đất cục ném sáu cô gái.
Dân Cao Mật vốn tính hung hãn, điều này có thể Ngưu huyện trưởng đã nghe nói. Ông ta nói:
- Hôm nay bản huyện có việc quan trọng, nên tạm tha cho nhà ngươi! Bỏ bó chân là nghiêm lệnh của nhà nước, kẻ nào vi phạm tất bị trừng phạt!
Huyện trưởng chui vào ca bin, quát to:
- Cho xe chạy!
Lái xe chạy vòng lên đầu xe, cắm ma-ni-ven vào lỗ rồi giật mạnh.
Các cô gái chân to và bọn tùy tùng vội vã trèo lên thùng xe.
Xe phành phạch nổ máy. Tài xế trèo lên ca bin, quay đầu xe. Chiếc xe chạy đi, kéo theo một đám bụi mù. Một bé trai vỗ tay:
- Ông Bàn Vả can đảm ghê, ông đuổi Huyện trưởng chạy té re.
Đêm hôm ấy, bà Lã - vợ của ông thợ rèn Thượng Quan Phúc Lộc tìm bà mối Viên, biệt hiệu Viên Lắm Điều, tặng bà ta một súc nhỏ vải trắng, nhờ bà ta đánh tiếng hỏi Toàn Nhi cho con trai độc nhất của bà.
Bà Viên đập quạt lá đánh bốp một cái vào đùi mình, nói với bà cô:
- Bà chị, nếu nhà Mãn Thanh không đổ, thì có chọc dùi vào mông, em cũng không dám bước qua ngưỡng cửa nhà chị! Nhưng bây giờ là Trung Hoa Dân Quốc, con gái bó chân không được chuộng nữa! Các công tử con nhà đại gia đều tiếp thu tư tưởng mới, mặc com lê, hút thuốc thơm, kết thân với những cô đầm chân to, chạy nhảy nói cười thoải mái, ôm ấp nhau mà hôn mà hít. Cô cháu gái của bà chị như phượng hoàng lỡ bước thua xa đàn gà, nhưng nhà Thượng Quan không vì thế mà chê, bà chị ơi, vậy là phúc đức cho nhà mình! Cậu Phúc Hỉ mặt mũi dễ coi, tính nết hòa nhã. Nhà có một con lừa, một con la, lại có một lò rèn, tuy không giàu nứt đố đổ vách, cũng không phải thiếu ăn thiếu mặc? Cô Toàn Nhi mà vào nhà ấy thì cũng chẳng có gì ân hận?
Bà cô nói:
- Tôi dạy dỗ nó để trở thành một nương nương, lại đem gả cho con trai ông thợ rèn?!
Viên Lắm Điều nói:
- Bà chị không nghe người ta kể sao? Chính cung nương nương của vua Tuyên Thống là dân đánh giày ở Cáp Nhĩ Tân đấy. Con người ta nay thế này mai thế khác chứ!
Bà cô nói:
- Chị bảo nhà Thượng Quan trực tiếp nói chuyện với tôi!
Sáng hôm sau, từ kẽ liếp nhìn ra, mẹ trông thấy bà Lã, mẹ chồng tương lai cao to lùng lững. Mẹ còn trông thấy cô mình và bà Lã đỏ mặt tía tai về chuyện đồ dẫn cưới nhiều ít. Bà cô nói:
- Bà cứ về bàn bạc cho kỹ, hoặc là một con la, hoặc là hai mẫu ruộng, tôi nuôi nó mười bảy năm, không thể trắng tay.
Bà Lã nói:
- Cũng được, coi như nhà tôi chịu thiệt, con la đen nộp cho nhà bà. Còn của hồi môn của nó là chiếc xe cút kít.
Hai người đập tay vào nhau, coi như đã thỏa thuận. Bà cô gọi to:
- Con Toàn đâu, ra chào mẹ chồng đi!
3
Lỗ Toàn Nhi và Thượng Quan Thọ Hỉ lấy nhau đã ba năm mà vẫn chưa có con. Mẹ chồng cô chửi mèo mắng chó:
- Chỉ biết ăn mà không biết đẻ nuôi cái đồ vô tích sự ấy làm gì!
Bà Lã ném mẩu sắt nung đỏ vào giữa đám gà mái. Một con tưởng ăn được, thò cổ mổ, mỏ bốc khói. Lỗ Toàn Nhi đang đập vỡ những khúc xương còn dính thịt, những mảnh vụn bắn lên người, trắng có, đỏ có. Bà Lã vốn keo kiệt, không mua thịt mà chỉ mua vài cân xương chưa lọc sạch, đập vụn rồi nhét vào làm nhân bánh bao, chào mừng ngày khao liềm hái, ngày mồng tám tháng Tư âm lịch. Đại mạch đã chín, tiểu mạch đã đỏ đuôi nông dân chuẩn bị liềm hái ngựa nghẽo, chuẩn bị thu hoạch.
Mùa xuân năm ấy mưa thuận gió hòa, lúa mạch rất tốt. Lò rèn nhà Thượng Quan làm ăn khấm khá, nông dân từng đoàn từng lũ đến mua liềm hái mới, đem liềm cũ đến cắt trấu hoặc cạp thép. Bễ lò đặt giữa sân, phía trên che bằng vải dầu. Lửa rừng rực trong lò, mùi than hoa thơm thơm, ngọn lửa đỏ hồng dưới nắng. Thượng Quan Phúc Lộc giữ kìm. Thượng Quan Thọ Lộc kéo bễ. Thượng Quan Lã thị mặc chiếc áo cộc đen cài khuy giữa, lưng thắt tạp để bằng vải bạt thủng lấm tấm do tàn lửa văng ra từ gỉ sắt, đầu quấn chiếc khăn rách, giữ búa tạ. Mồ hôi trên mặt chảy từng vệt trộn lẫn với bụi than. Nếu như không có cặp vú bằng hai cái vò trước ngực thì không ai nhận ra bà là phụ nữ. Tiếng búa chan chát từ sáng đến đêm. Đã thành lệ, nhà thợ rèn cơm ngày hai bữa. Lỗ Toàn Nhi phụ trách cơm nước, cho gia súc ăn, chăn lợn. Cô cũng bận tối mắt tối mũi, vậy mà vẫn bị mẹ chồng chì chiết. Bà vừa quai búa vừa giám sát con dâu, miệng cằn nhằn không lúc nào ngơi, chửi con dâu chán lại chửi con trai, chửi con trai chán lại chửi chồng. Cả nhà đã quen với những câu chửi của bà. Bà thật sự là người chủ của gia đình, và cũng thật trên tài về kỹ thuật rèn. Lỗ Toàn Nhi vừa hận vừa sợ mẹ chồng, nhưng không thể không bái phục mẹ chồng.
Lúc trời chiều, xem Thượng Quan Lã thị rèn sắt là tiết mục không bao giờ nhàm của người trong thôn. Trước và sau mùa gặt, cổng nhà Thượng Quan lúc nào cũng rộng mở. Chiều chiều, người ta đến lấy liềm hái, lấy rồi nhưng không vội về. Ráng chiều như lửa, hoa hòe nở đầy cây trắng như tuyết. Lửa trong lò màu vàng kim, thép đủ nhiệt độ, sáng trắng. Thượng Quan Phúc Lộc dùng kìm lôi thỏi sắt đặt lên đe, tay kia cầm búa nhỏ khệnh khạng đập những nhát chỉ chỗ. Thượng Quan Lã thị trông thấy sắt đã nung chín, lập tức như người vừa đã cơn nghiện, tinh thần phấn chấn, mặt đỏ bừng, mắt sáng rục, nhổ bãi nước bọt vào lòng bàn tay, vung búa tạ nện từng nhát lên thỏi sắt đo, tiếng búa trầm đục như nện vào miếng cao su sơ chế. Tinh tang, bụp, tinh tang, bụp! Người bà nhổm lên cúi xuống, khí tráng sơn hà, cuộc đọ sức giữa con người và sắt thép, cuộc thi tài giữa đàn ông và đàn bà, thỏi sắt biến dạng dần sau những nhát búa. Khi bà quai búa, mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ngực bà, cặp vú nhảy tung tung không lúc nào dừng. Thằng cha có tên là Thầy Dùi bật cười một mình. Bà Lã hỏi:
- Thảy Dùi, ngươi cười gì thế!
Thầy Dùi nói:
- Ngày mai cháu đem hai cái lục lạc đến cho bác.
Bà Lã hỏi:
- Cho ta lục lạc để làm gì?
Thầy Dùi nói:
- Để treo dưới vú của bác, như vậy chúng sẽ rung lên mỗi khi bác quai búa!
Bà Lã nói:
- Thế thì có gì đáng cười? Cái thằng vắt mũi chưa sạch kia, ngày mai mà mày không đem hai cái lục lạc đến đây, ta sẽ lột da mày ra!
Rèn cho đến lúc trăng non mọc, sao nhấp nháy đầy trời, rồi đóng con dấu của nhà Thượng Quan lên thân liềm. Đó là nhãn hiệu, là tiêu chí của sự tín nhiệm, nếu liềm hái bị mẻ, bị quắn hoặc gãy thì cứ đem đến sửa không lấy tiền hoặc đổi cái khác. Hàng nhà Thượng Quan làm ra đều đóng dấu riêng. Liềm hái của nhà Thượng Quan trông có vẻ cục mịch, sống dao thô, nhưng những chỗ cần làm kỹ thì không bao giờ qua loa chiếu lệ. Lưỡi hái từ chỗ rộng hai ngón tay trở đi, ánh thép xanh biếc, cắt cả buổi sáng không cùn, nước thép như vậy mới tốt. Nước thép không tốt thì chỉ mài vài nhát đã quằn, lởm chởm như răng của, cắt những nhát đầu thì sắc, nhưng chẳng mấy chốc đã nhụt, trơ ra. Liềm hái nhà Thượng Quan rất khó mài, phải kiên nhẫn, ngậm một ngụm nước trong miệng rồi ngậm một cọng rơm, kẹp lưỡi hái giữa hai bàn chân rồi áp đá mài mà mài chầm chậm, vừa mài vừa phun nước lên lưỡi hái qua cọng rơm. Lưỡi hái nhà Thượng Quan sau khi mài trông hơi tù như cạnh lá he, thoạt đầu thì chưa sắc, nhưng càng cắt càng thấy tuyệt diệu. Do vậy mà hàng nhà Thượng Quan nổi tiếng gần xa. Lúa tốt thì nhà Thượng Quan cũng tiền nhiều. Đương nhiên kiếm được đồng tiền không phải dễ dàng, suốt ngày đánh bạn với lửa, đổ mồ hôi, sôi nước mắt? Cặp vú bà mẹ chồng quăng lên quật xuống như thép dẻo. Về nước tôi của bà thì không thể không nhắc đến. Hình dáng có đẹp đến mấy, nhưng nước tôi không tốt thì cũng là đồ bỏ đi. Công việc này phải dựa vào kinh nghiệm nhờ vào cảm giác. Bà Lã nói rằng, nhúng thép vào nước tôi phát ra tiếng xèo xèo, khó mà nói đó là tiếng của sắt hay của nước. Cái mùi tanh tanh ngòn ngọt khiến người ta mê mẩn. Đang buồn mà rèn xong một quả liền cảm thấy sung sướng trong mỏi mệt, mỏi mệt trong sung sướng. Hơi nước màu hồng cuồn cuộn bay lên, che khuất khuôn mặt bà thợ rèn. Cha con ông thợ rèn cứ đứng ngây ra mà nhìn người nữ thống soái của mình.
Cuộc sống của nhà Thượng Quan là cuộc sống của phụ nữ, không sai chút nào. Cuộc sống của Vu Bàn Vả cũng là cuộc sống của phụ nữ, điều này ai cũng rõ. Nhưng Thượng Quan Lã thị và Vu Lỗ thị lại là hai người đàn bà khác nhau hoàn toàn, một người thì cao to lừng lũng, sức mạnh tràn trề, người kia gầy gò nhỏ thó, chân tay nhanh nhẹn. Thượng Quan Lã thị giọng ồm ồm như chiếc chuông đại trong nhà thờ. Bà Vu thì nhát gừng, như dao sắc thái củ cải. Lửa trong lò thiếu gió vật vờ như những mảnh lụa vàng, ngọn lửa lay