Chương 2 (tiếp)

3
Mùa đông năm nay đã tới gần, mẹ mặc chiếc áo bông bọc lụa xanh của bà nội. Chiếc áo được may nhân dịp bà nội sáu mươi tuổi, nhờ một bà con cháu đầy đàn trong thôn, may giúp. Giờ đây nó trở thành áo rét của mẹ. Bà nội đã mất khả năng nói năng, hành động, đánh bạn với lừa ngựa ở chái tây. ở hai vạt trước của chiếc áo bông, mẹ khoét hai lỗ hình tròn để hai vú lộ ra ngoài, tiện cho tôi bú tí bất cứ lúc nào. Cái ngày thu phẫn nộ ấy, đôi vú của mẹ bị chà đạp, nhưng tai họa rồi cũng qua đi, bầu vú chân chính thì không thể bị hủy hoại, giống như có những người trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như cây tùng. Để che gió lạnh, giữ cho vú được ấm, mẹ đính hai miếng vải đỏ trước hai lỗ như rèm che. Phát minh của mẹ trở thành truyền thống, đến nay vẫn thịnh hành ở Cao Mật, có điều, bây giờ hai lỗ thật tròn, vải rèm càng mềm mại, hơn nữa còn thêu một bông hoa trên đó.
Trang phục mùa đông của Kim Đồng là một cái túi rất bền bằng vải bạt, có thể thắt miệng túi lại bằng một sợi dây. Thân túi đính hai quai thật chắc, quàng đuổi cặp vú của mẹ. Khi cho tôi bú, mẹ thót bụng lại, xoay cái túi ra trước ngực. Trong túi, tôi chuyển từ tư thế đứng sang tư thế quì là đầu tôi ngang tầm ngực mẹ, tôi chỉ việc ngoẹo đầu sang trái là ngoạm được đầu vú phải, ngoẹo đầu sang phải là bập được vào đầu vú trái, sang trái sang phải đều gặp nguồn sữa. Nhưng cái túi cũng có điều bất tiện. Tay tôi bị vướng, khiến tôi mất thói quen thường ngày: miệng ngậm bầu này thì một tay bảo vệ bầu kia. Quyền được bú tí của chị Tám đã bị tôi tước đoạt hoàn toàn. Hễ chị sán lại gần là tôi tay cấu chân đạp, khiến chị khóc suốt. Bây giờ chị sống bằng cháo. Thấy vậy, các chị đều rất không bằng lòng. Do vậy, cả một mùa đông dài đặc và khắc nghiệt, tôi luôn luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi ti sữa. Khi ngậm vú trái, toàn bộ tinh thần tôi tập trung chú ý bầu vú bên phải, luôn cảm thấy những bàn tay lông lá đột nhiên thò vào lỗ thủng, bắt bầu vú đem đi. Vì lo sợ như vậy, tôi liên tục đổi bên, vừa mút cho chảy sữa ở bầu trái, tôi đã lập tức chuyển sang bầu phải. Mẹ đoán ra tâm trạng tôi, thơm tôi bằng cặp môi lạnh ngắt, nói khẽ:
- Kim Đồng, con cưng của mẹ. Sữa mẹ chỉ dành cho con, không ai cướp được của con!
Mẹ nói vậy khiến tôi đỡ lo nhưng vẫn không thể yên tâm hoàn toàn, tôi vẫn cảm thấy luôn luôn có những bàn tay lông lá rập rình bên vú mẹ.
Một buổi sáng, tuyết rơi nhẹ, mẹ mặc chiếc áo bông có khoét lỗ, địu Kim Đồng cuộn tròn trong cái túi ám áp trên lưng, chỉ huy các chị khuân củ cải vào hầm. Tôi không quan tâm củ cải từ đâu tới mà chỉ để ý hình dáng của chúng. Đầu nhọn, thân phình to đột ngột của chúng khiến tôi nghĩ đến bầu vú. Từ đó, trong ký ức về vú, ngoại trừ những bầu hồ lô bóng loáng, ngoại trừ con chim câu trắng mềm mại, đã có thêm hình ảnh những củ cải đỏ Chúng có màu sắc riêng, thần thái riêng và độ ấm riêng, tất cả đều có hình dáng như bầu vú, đều tượng trưng cho bầu vú trong bất cứ thời tiết nào, hoàn cảnh nào.
Bầu trời hết hùng sáng lại u ám, tuyết nhẹ lúc rơi lúc dừng. Các chị mặc quần áo mỏng, co ro trước gió bấc. Chị Cả chịu trách nhiệm nhặt củ cải từ trong sọt ra, chị Hai và chị Ba chịu trách nhiệm bê đến cửa hầm, chị Tư và chị Năm san đều củ cải trong hầm, chị Sáu và chị Bảy thì không làm gì. Chị Tám không có khả năng lao động, một mình trên giường trầm tư mặc tưởng. Chị Sáu mỗi lần bê bốn củ, chị Bảy mỗi lần bê hai củ. Mẹ và Kim Đồng đi lại trong khoảng từ đống củ cải đến cửa hầm, sai phái, rầy la các chị và than vãn. Những lời ca cám của mẹ, tựu trung xoay quanh trung tâm tư tưởng sau đây: cuộc sống gian truân, phải cố mà làm việc mới có thể vượt qua. Các chị có thái độ tiêu cực khi mẹ ra lệnh, bất mãn khi nghe mẹ than thở. Các chị thờ ở trước những lời than vãn của mẹ. Đến nay tôi vẫn không hiểu vì sao nhà tôi bỗng có nhiều củ cải đến thế! Sau này tôi mới rõ vì sao mẹ tôi dự trữ củ cải nhiều đến như vậy cho mùa đông năm ấy.
Công việc khuân vác sắp kết thúc, mặt đất chỉ còn lại một số củ vặn vẹo như những bầu vú dị dạng. Mẹ khom người quì trước cửa hầm, thò tay xuống lôi chị Tưởng Đệ và Phán Đệ lên. Trong quá trình đó, tôi bị hai lần chổng ngược, từ dưới nách mẹ tôi trông thấy mờ ảo những bông tuyết trắng. Cuối cùng, mẹ bê một cái ang sứt miệng, trong ang chất đầy những bông gòn và vỏ hến, đậy miệng hầm lại. Các chị xếp thành một hàng ngang đứng sát tường áp mái, như đang chờ lệnh mới. Mẹ lại than thở:
- Lấy gì may áo bông cho các con bây giờ?
Chị Ba nói:
- Mua bông, mua vải.
Mẹ nói:
- Chỉ có vậy thì hỏi các con làm gì? Mẹ nói là kiếm đâu ra tiền?
Chị Hai tỏ vẻ không bằng lòng, nói:
- Bán mẹ con con lừa đi!
Mẹ cắt ngang:
- Bán lừa và la đi thì sang xuân cày ruộng bằng gì?
Chị Cả Lai Đệ trước sau giữ thái độ im lặng. Mẹ liếc sang phía chị, chị cúi gằm xuống. Mẹ lo ngại nhìn chị, nói:
- Ngày mai, con và Chiêu Đệ dắt con la ra chợ mà bán?
Chị năm Phán Đệ thét lên, giọng the thé:
- Con la vẫn còn bú sữa mẹ. Sao nhà mình không bán thóc đi! Thóc nhà mình nhiều như thế cơ mà! Mẹ liếc sang chái đông, cửa buồng khép hờ, trên sợi dây thép căng ngang cửa sổ có đôi tất của Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng. Con la lon ton chạy ra sân, nó cùng ngày tháng năm sinh với tôi, cũng như tôi, nó là con đực. Tôi vẫn còn đứng trong túi vải bạt trên lưng mẹ, nó đã cao bằng mẹ nó rồi.
- Vậy đấy, ngày mai bán con la đi! - Mẹ vừa nói vừa đi vào trong buồng. Có tiếng gọi sang sản người thì chết, người thì bỏ đi, tan đàn sẻ nghé, mẹ trông thấy chị Tư đã lâu bặt vô âm tín thì làm sao không đứt từng khúc ruột! Số vàng ngọc châu báu chị Tư giấu trong hộp đàn tì bà đã bị cán bộ công xã tịch thu, chỉ cho phép chị mang cây đàn đã bị đập vỡ hộp cộng hưởng về nhà. Chị và mẹ ôm nhau khóc, khóc chán, lau sạch nước mắt. Chị Tư nhìn mái đầu hoa râm của mẹ, nói:
- Mẹ, không ngờ kiếp này con còn được gặp lại mẹ!...
Nói chưa dứt câu, chị đã òa khóc. Mẹ xoa vai chị, nói:
- Tưởng Đệ, con gái xấu số của mẹ...
Chị Tư hỏi thăm tình hình các chị, mẹ xua tay:
- Đừng hỏi gì nữa!
Chị Tư nhìn tôi, nói:
- Chỉ cần còn Kim Đồng là chị yên tâm, nhà Thượng Quan chúng ta có người nối dõi rồi!
Mẹ ngao ngán, nói:
- Cô ngốc của mẹ, gì mà nối dõi với chả nối dõi? Thời buổi bây giờ làm sao tính được những chuyện ấy!
Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, chúng tôi không có quyền hỏi. Chúng tôi thận trọng bảo vệ vết thương hễ chạm là ứa máu của chị. Nhưng người ngoài thì không nghĩ vậy, họ muốn gia đình tôi ngày nào cũng có chuyện giật gân cho họ xem. Sau khi trở về, chị Tư ở lì trong nhà, nhưng cái tin cô gái nhà Thượng Quan làm điếm mấy chục năm, đem về không biết bao nhiêu vàng ngọc châu báu đã lan rất nhanh khắp vùng Cao Mật. Tôi ra đồng tìm lương thực trong các hang chuột, vợ ông Trần Thọt là Trương Quốc Hoa cuối hí hí bảo tôi:
- Ông anh, việc gì ông anh khổ sở thế! Việc gì phải đào hang chuột để lấy lương thực? Chỉ cần bán một thứ trong số châu báu chị Tư đem về đã đủ mua một chuyến tầu bột mì ngoại?
Tôi trừng mắt nhìn người đàn bà tai tiếng vì thông dâm với bố chồng, nói:
- Chị nói thối như cứt ấy!
Chị ta xán lại, hỏi nhỏ:
- Ông anh này, nghe nói có một viên ngọc dạ minh châu to bằng quả trúng gà phải không? Về đêm nó phát sáng, soi rõ mọi thứ trong buồng, đúng không? Liệu có thể cho chị đây ngó qua một tí để mở rộng tầm mắt? Liệu có thể xin chị Tư một hạt, dù chỉ bằng hạt đỗ làm đồ trang sức, dù chỉ một dây chuyền mảnh như sợi tóc cũng tốt chán?- Chị ta đưa mắt tống tình, trêu - Đừng chê chị có nước da đen, chị đây là dưa Ha-mi, vỏ thô nhưng cùi ngọt. Chàng chẳng nghe người ta nói đấy sao: Thông trắng cám vàng, đen thì lắm nước, hói đầu rỗ mặt thì không biết mệt đó sao!...
Chị Tư ở lì trong nhà cũng không thoát nạn, đúng như câu cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng. Cái tật thích đấu tranh trong công xã lại kịch phát, họ tổ chức triển lãm nhằm giáo dục đấu tranh giai cấp ở hội trường công xã. Đây là cuộc triển lãm đấu tranh giai cấp lần thứ hai trong lịch sử Cao Mật, so với lần đầu thì về nội dung có khác đôi chút. Tranh ảnh và áp phích đều xoay quanh hai nhà Thượng Quan và Tư Mã, làm như lịch sử Cao Mật là lịch sử hai gia đình Thượng Quan và Tư Mã vậy. Dân chúng không thích xem những tranh ảnh này, chỉ thích xem triển lãm về chị Tư. Các cán bộ đáng ghét của công xã trưng bày trong tủ kính tất cả những thứ mà cả đời chị Tư ky cóp được, cho mọi người xem. Chúng sáng lấp lánh khiến mọi người hoa mắt. Sau ba ngày triển lãm, nhiệt tình với báu vật giảm đi, hận thù giai cấp vẫn không thấy nâng cao rõ rệt, các cán bộ công xã liền nảy ra một ý, bắt chị Tư đến triển lãm làm hiện vật sống, bắt chị tự tố cáo chị. Uỷ viên tuyên truyền của Đảng ủy công xã Dương Giải Phóng đeo kính, đầu nhẵn bóng như chiếc gáo, mặt như mặt khỉ, dẫn bốn dân quân đeo tiểu liên đến đập cổng nhà tôi. Chị Tư run bắn, hai tay sờ soạng hai bên. Chị nghiện thuốc lá, Răng vàng khè vì ám khói. Cuối cùng chị cũng tìm thấy thuốc, bật diêm châm lửa hút. Dù là con đẻ, dù chị có ơn với cả nhà, nhưng mẹ vốn tiết kiệm, rất ghét cái tật nghiện thuốc của chị. Thuốc của chị là do tôi mua ở hợp tác xã cung tiêu nhãn hiệu Cần kiệm, giá một hào một bao. Tôi cho rằng trong túi chị chỉ còn đủ tiền mua hai bao thuốc. Chị rít tóp cả má, đầu thuốc kêu xèo xèo, thuốc tồi, mùi khét lẹt! Trong một thoáng tôi thấy chị đã biến thành một bà già. Chị cúi đầu, những giọt nước mắt được dính như keo ứa ra, đến nỗi những con nhặng dính chân không bay được. Có lẽ chị sợ, có lẽ chị không sợ! Có thể chị căm thù, cũng có thể chị không căm thù! Khuôn mặt kinh khủng của chị bị trùm lên một lớp sương mù, khiến người ta không dám nhìn thẳng vào chị. Vốn là người từng trải, mẹ bảo:
- Kim Đồng, ra mở cổng, không biết phúc hay họa, nếu họa thì có tránh cũng không xong!
Cánh cổng mở toang, ủy viên Dương ngạo nghễ bước vào mặt vênh váo ra vẻ ta đây cán bộ công xã. Hắn người nhỏ thó, nhưng cực kỳ hăng hái, y hệt cái giống của con lừa đực lúc cương cường. Bốn tên dân quân cũng cáo mượn oai hùm, hạ súng trên vai xuống, vỗ báng súng bôm bốp. Mẹ nheo mắt nhìn ủy viên Dương từ đầu đến chân. Hắn có vẻ chờn, húng hắng ho mấy tiếng như con cừu, quay mặt lại bảo chị Tư:
- Thượng Quan Tưởng Đệ, mời chị đi cùng chúng tôi!
Mấy chục năm qua, nhà Thượng Quan đã quen nghe giọng lưỡi kiểu này. Đằng sau câu nói ấy là một nội dung tàn nhẫn, gian ác, chúng tôi còn lạ gì, nó đồng nghĩa với vào nhà giam, ra trường g bắn. Mẹ hỏi: Sao vậy? Con gái tôi phạm tội gì? Uỷ viên Dương chống chế:
- Ai bảo con bà phạm tội? Tôi bảo cô ta phạm tội hả? Tôi có nói cô ta phạm tội đâu, chỉ lôi cô ta đi thôi mà!
Mẹ hỏi:
- Các ông đưa nó đi đâu? Uỷ viên Dương nói:
- Bà hỏi tôi, vậy tôi hỏi ai? Tôi chỉ là thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy, là đầu sai mà thôi?
Mẹ đứng chắn trước mặt chị Tư, kiên quyết:
- Không đi đâu cả, chúng tôi không phạm pháp, không đi đâu cả?
Bốn tên dân quân lại vỗ báng súng bôm bốp. Mẹ nguýt chúng, vẻ khinh bỉ:
- Đừng vỗ nữa, cái trò ấy tôi nghe mãi rồi, khi bọn Nhật nã đại bác vào đây, các người còn chưa đẻ kia! Uủ viên Dương đàng từ phía sau lưng chúng tôi:
- Mẹ nuôi ơi!
Sa Nguyệt Lượng mất tăm đã ba ngày, nay trở lại nhà tôi dắt theo con lừa đen của anh ta. Trên lưng lừa là hai bọc to tướng bằng vải hoa căng phồng, tù kẽ hở lộ ra những màu sắc rực rỡ.
- Mẹ nuôi ơi!
Anh ta tỏ vẻ thân thiện. Mẹ quay lại, nhìn khuôn mặt xương xương đen nhẻm với nụ cười ngọng nghịu của anh ta, nói dứt khoát:
- Sa Đội trưởng, tôi đã nói nhiều lần rồi, tôi không phải là mẹ nuôi của anh!
Sa Nguyệt Lượng không nao núng, nói:
- Không phải mẹ nuôi? Còn hơn cả mẹ nuôi nữa kìa! Mẹ nuôi không ưng tôi, nhưng tôi một lòng hiếu thuận với mẹ!
Nói rồi, anh ta gọi hai đội viên du kích vào đỡ hai bọc vải xuống, bảo họ dắt lừa về nhà thờ. Tôi cũng nhìn con lừa đực của Sa Nguyệt Lượng bằng cặp mắt căm giận. Nó hếch mũi lên, ngửi cái mùi tỏa ra từ con lừa cái nhà tôi. Sa Nguyệt Lượng cởi cái bọc, cầm lên một chiếc áo khoác băng lông cáo, giơ ra dưới tuyết. Sức nóng tỏa ra từ chiếc áo khiến những bông tuyết nhẹ tan thành nước cách cái áo một thước.
- Mẹ nuôi ơi! Sa Nguyệt Lượng cầm áo lại gần mẹ. - Mẹ nuôi ơi, đây là chút lòng hiếu thảo của tôi!
Mẹ vội vã né tránh, nhưng không tránh được, kết cục là chiếc áo khoác lên người. Mặt tôi tối sầm, mùi lông cáo và mùi long não khiến tôi nghẹt thở. Khi tôi lại thấy ánh sáng, sân nhà tôi đã trở thành một thế giới động vật: Chị cả Lai Đệ khoác chiếc áo lông tử điêu, cổ quấn khăn lông chồn còn nguyên hai mặt lóng lánh. Chị hai Chiêu Đệ khoác chiếc áo bằng lông điêu thử. Chị ba Lãnh Đệ khoác chiếc áo lông gấu đen. Chị tư Tưởng Đệ khoác chiếc áo da màu vàng rơm. Chị năm Phán Đệ khoác chiếc áo bằng lông sói đốm. Chị sáu Niệm Đệ khoác chiếc áo lông cừu. Chị bảy Cầu Đệ khoác chiếc áo bằng lông thỏ trắng. Chiếc áo khoác lông cáo của mẹ rơi xuống đất. Mẹ quát:
- Cởi hết ra cho tôi, cởi hết ra!
Các chị hầu như không nghe mẹ nói gì, đầu ngọ nguậy trong cổ áo, hai tay vuốt ve thân áo. Qua nét mặt, thấy rõ các chị như mụ đi vì ngạc nhiên và vui sướng, vui sướng trong ngạc nhiên. Mẹ run lên, thều thào:
- Chúng mày điên cả rồi hay sao?
Sa Nguyệt Lượng cầm lên hai chiếc áo khoác nhỏ cuối cùng, dùng tay phủi nhẹ mặt ngoài áo bóng như lụa, nền nâu điểm hoa đen, xúc động nói:
- Mẹ nuôi ơi, đây là da con mèo rừng, cả vùng Cao Mật chỉ có hai con. Cha con lão Cảnh Thuyên phải bỏ ra gần ba năm mới tóm được chúng. Đây là da con mèo rừng đực, đây là da con mèo rừng cái. Các em đã trông thấy con mèo rừng bao giờ chưa?
Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các chị, không ai trả lời. Anh ta giảng giải cho các chị như một giáo viên tiểu học: Mèo rùng giống như con mèo nhưng lớn hơn nhiều, giống con báo nhưng nhỏ hơn báo, biết trèo cây, biết bơi, một cú nhảy cao một trượng, có thể bắt chim trên ngọn cây. Loài này chẳng khác yêu tinh. Hai con mèo rừng vùng Cao Mật này sống trong các hang bãi tha ma, bắt được chúng còn khó hon lên trời, nhưng cuối cùng đã tóm được. Mẹ nuôi ơi, hai chiếc áo này tôi tặng hai em Kim Đồng và Ngọc Nữ.
Anh ta vừa nói vừa vắt hai chiếc áo may bằng da con mèo rừng biết trèo cây, biết bơi, nhảy cao một trượng, lên cánh tay mẹ. Rồi cúi nhặt chiếc áo lông cáo đỏ như lửa, rũ bụi, cũng vắt lên tay mẹ, nói một câu khiến người cảm động:
- Mẹ nuôi ơi, hãy nể mặt tôi.
Đêm hôm ấy, mẹ chốt cửa buồng chính, gọi chị Lai Đệ sang buồng chúng tôi. Mẹ đặt tôi và Ngọc Nữ nằm sóng đôi trên đầu giường. Tôi giơ tay cào một cái vào mặt chị Tám. Chị khóc, co người lại một góc. Mẹ không kịp ngó đến chúng tôi. Mẹ quay lại chốt cửa buồng. Chị Cả khoác chiếc áo lông chồn, quấn chiếc khăn lông cáo của chị, dè dặt nhưng ương bướng đứng bên giường. Mẹ gác một chân lên giường, rút chiếc trâm sau gáy khêu bấc đèn. ánh đèn bùng lên. Mẹ ngồi xếp thẻ trên giường hỏi chị Cả, giọng mỉa mai:
- Thưa tiểu thư, tiểu thư ngồi xuống đi, đừng sợ làm bẩn chiếc áo da của tiểu thư!
Mặt chị Cả đỏ ửng, chị chành môi, ngồi xuống chiếc ghế băng cạnh giường. Con cáo của chị vênh cái mõm lên ở giữa ngực chị, hai mắt lấp lánh.
Ngoài sân là thế giới của Sa Nguyệt Lượng. Từ khi anh ta dọn đến ở chái đông nhà tôi, cái cổng lớn không bao giờ khép chặt. Đêm nay, ở chái đông càng ồn ào, ánh đèn măng-sông sáng trắng, xuyên qua giấy dán cửa sổ, soi sáng cả ngoài sân. Tuyết bay trong ánh đỡn. Trong sân, tiếng chân đi nhộn nhịp, cánh cổng kêu ken két, vó ngựa vang lên từng chặp trong ngõ. Trong gian chái vang lên tiếng cười ầm ĩ và thô lỗ. Những trò đố vui, nào là Đào viên kết nghĩa, nào là năm ông trạng nguyên, nào là tám đóa hoa mai, tám chú ngựa... Mùi cá thịt thơm lừng khiến sáu chị tập trung tại cửa sổ buồng phía đông thèm rỏ đãi. Mắt mẹ như tóe lửa, nhìn chị Cả không chớp. Chị Cả ngang ngạnh nhìn lại mẹ, hai luồng mắt gặp nhau, cùng tóe lửa xanh.
- Mày nghĩ như thế nào? Mẹ hỏi.
Chị Cả vuốt những chỗ lông xù ở đuôi khăn lông cáo, hỏi lại:
- Mẹ hỏi gì cơ?
Mẹ nói:
- Đừng có giả vờ!
Chị Cả nói:
- Mẹ, con không hiểu ý mẹ?
Mẹ đổi giọng rầu rĩ, nói:
- Lai Đệ, con có chín chị em, con là lớn, nếu xảy ra chuyện gì thì biết dựa vào ai?
Chị đứng phắt dậy, giọng xúc động chưa bao giờ thấy ở chị:
- Mẹ, mẹ còn muốn gì ở con? Trong trái tim mẹ chỉ có Kim Đồng, còn lũ con gái chúng con không bằng bãi cứt chó!
Mẹ nói:
- Con dùng nghĩ sai về mẹ. Kim Đồng là vàng, các con ít ra cũng là bạc, sao lại có thể không bằng bãi cứt chó? Đêm nay, mẹ con mình có gì cứ nói thẳng với nhau. Cái anh chàng Sa Nguyệt Lượng ấy chẳng khác cáo đến chúc Tết gà, tâm địa chẳng có gì tốt. Nó đang câu con đấy!
Chị Cả cúi đầu, vuốt ve cái đuôi con cáo, nước mắt đột nhiên ứa ra, chị nói:
- Mẹ, lấy được người như vậy là con mãn nguyện lắm rồi!
Mẹ như bị điện giật, nói:
- Lai Đệ, con lấy ai mẹ cũng đồng ý, nhưng đừng lấy Sa Nguyệt Lượng!
Chị Cả hỏi: - Vì sao hả mẹ?
Mẹ nói: - Chẳng vì sao cả!
Chị Cả với giọng day nghiến, không phù hợp chút nào với cái tuổi của chị:
- Tôi làm thân trâu ngựa cho nhà Thượng Quan đủ quá rồi!
Giọng gay gắt của chị khiến mẹ giật thót. Mẹ đưa mắt dò xét nhìn khuôn mặt đỏ gay vì giận của chị, rồi lại nhìn bàn tay nắm chặt đuôi con cáo của chị. Mẹ sờ soạng bên cạnh tôi, vớ được cái chổi quét giường giơ cao lên:
- Mày đổ đốn rồi! Tao thì đánh chết mày!
Mẹ nhảy xuống đất, giơ chổi vụt vào đầu chị Cả, chị giơ đầu ra, không tránh né cũng không chống lại. Tay mẹ dùng lại giữa chừng, khi hạ xuống thì đã mềm nhũn. Mẹ vút cây chổi, ôm vai chị mà khóc:
- Lai Đệ, ta với thằng Lượng không đi cùng đường. Mẹ không muốn nhìn thấy con gái của mẹ nhảy vào lửa!...
Chị Cả cũng nức nở khóc.
Cuối cùng, khóc đã chán, mẹ dùng mu bàn tay lau nước mắt, van nài:
- Lai Đệ, con hứa với mẹ đi, không quan hệ với thằng ấy nữa!
Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết, nói:
- Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp!
Chị liếc nhìn chiếc áo khoác bằng lông cáo và hai chiếc áo bằng da mèo rừng ở trên giường. Mẹ cũng kiên quyết:
- Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!
Chị Cả nói:
- Mẹ nỡ lòng nào nhìn các em con bị chết cóng!
Mẹ nói:
- Cái thằng buôn áo lông chết tiệt!
Chị Cả rút then cửa đi thẳng về buồng của chị, không ngoái lại.
Mẹ ủ rũ ngồi xuống mép giường, thở gấp.
Lúc này tiếng chân lạch bạch của Sa Nguyệt Lượng đã tới bên cửa sổ. Lưỡi líu, môi tê dại, anh ta cũng định từ tốn gõ cửa, nhẹ nhàng nói với mẹ về chuyện hôn nhân đại sự, nhưng rượu đã làm tê liệt thần kinh khiến cử chỉ phản lại ý muốn của anh ta. Anh ta gõ mạnh đến nỗi cửa sổ rung lên thủng cả giấy dán, gió lạnh từ sân lọt vào, hơi rượu từ miệng anh ta cũng lọt vào. Với giọng lè nhè dáng ghét đồng thời cũng đáng yêu của thằng say, anh ta gào lên:
- Mẹ ơi!
Mẹ nhổm dậy trên giường, ngớ ra một thoáng rồi kéo tôi lùi xa cửa sổ. Sa Nguyệt Lượng nói:
- Mẹ, chuyện vợ chồng giữa tôi và Lai Đệ thì khi nào tổ chức?... Tôi sốt ruột lắm rồi
Mẹ nghiến rằng, nói:
- Anh Lượng, cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời, có mà năm mơ!
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Mẹ nói vậy là thế nào?
Mẹ nói:
- Ta bảo anh nằm mơ!
Sa Nguyệt Lượng chợt tỉnh rượu, nói rành rẽ:
- Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lượng này chưa bao giờ hạ mình xin xỏ ai!
Mẹ nói:
- Ai bảo anh xin mà xin!
Sa Nguyệt Lượng nói: - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lương này định làm gì là làm bằng được.
Mẹ nói: - Vậy anh hãy giết tôi đi đã.
Sa Nguyệt Lượng cười:
- Tôi định lấy con gái thì làm sao lại giết mẹ vợ.
Mẹ nói:
- Vậy đến mạt kiếp anh cũng không lấy được
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Con gái lớn rồi, mẹ cứ ý mình sao được? Mẹ vợ ơi, chúng tôi bỏ đi cho mà xem!
Sa Nguyệt Lượng vừa cười vừa đi tới buồng phía đông, chọc thủng giấy dán cửa sổ, tung nắm kẹo to tướng vào trong, nói to:
- Các dì ơi, có anh rể của các dì đây, ngọt bùi ta sẽ có nhau!...
Đêm ấy Sa Nguyệt Lượng không ngủ, đi lại suốt đêm trong sân, chốc lại ho, chốc lại huýt sáo miệng. Tài nghệ xuất sắc, anh ta nhại được giọng mười mấy loại chim. Ngoài chuyện ho, huýt sáo, anh ta còn hát các tích tuồng cũ và cả những bài ca chống Nhật đang lưu hành, với giọng to hết cỡ. Lúc thì mắng Trần Sĩ Mỹ tại phủ Khai Phong, lúc lại hươi đao chém đầu quân giặc. Để đề phòng người hùng chống Nhật, tình duyên bị ngáng trở xông vào buồng, mẹ chèn cửa bằng cây chống, bễ thổi lửa, rương quần áo, gạch vỡ... Mẹ cho tôi vào túi, địu trên lưng, tay cầm dao phay đi đi lại lại trong nhà, từ buồng tây sang buồng đông. Các chị không ai cởi bỏ áo khoác, ngồi ôm nhau, mồ hôi lấm tấm trên mũi, rồi ngủ thiếp đi trong tiếng ồn đủ loại do Sa Nguyệt Lượng gây ra. Nước dãi của chị Cầu Đệ làm ướt áo lông sói của chị hai Chiêu Đệ. Chị sáu Niệm Đệ như con cừu non, rúc vào chiếc áo lông gấu của chị ba Lãnh Đệ.
Giờ dây nghĩ lại, tôi thấy cuộc đấu với Sa Nguyệt Lượng, mẹ đã thua ngay từ đầu. Sa Nguyệt Lượng dùng lông thú thuần phục các chị tôi, thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi, mẹ tôi mất quần chúng, bị cô lập.
Ngày hôm sau, mẹ địu tôi trên lưng, chạy như bay đến nhà ông Ba Phàn giải thích ngắn gọn: Để trả ơn Tôn Đại Cô đã đỡ đẻ cho, mẹ gả Lai Đệ cho thằng câm lớn, người hùng cầm nhuyễn đao chiến đấu với bầy quạ. Nói dứt khoát ngày thứ nhất chạm ngõ, ngày thứ hai đưa sính lễ, ngày thứ ba làm lễ thành hôn.
Ba Phàn cứ ngẩn ra mà nghe. Mẹ nói:
- Chú ơi, chú đừng căn vặn làm gì, rượu biếu chú, con đã chuẩn bị xong rồi!
Ba Phàn hỏi:
- Làm mối ngược à?
Mẹ bảo:
- Ngược!
Ba Phàn lại hỏi:
- Vì sao phải làm thế?
Mẹ nói:
- Chú ơi! Xin chú đừng hỏi. Chú bảo thằng câm trưa nay đem lễ đến.
Ba Phàn nói:
- Nhà nó có gì đâu?
Mẹ nói:
- Có gì đem nấy.
Chúng tôi chạy về nhà, dọc đường tim mẹ giật thon thót, vô cùng lo lắng. Mẹ linh cảm không sai. Vừa vào sân đã thấy một lô động vật: chồn, gấu đen, sói đốm, cừu, thỏ trắng... đang nhảy múa, chỉ không thấy tử điêu. Tử điêu trên cổ quấn con chồn đang ngồi trên bao lúa mạch ngắm viên đội trưởng du kích. Hắn ngồi lau súng, lau hồ lô trên đệm của hắn.
Mẹ kéo Lai Đệ đứng dậy, lạnh nhạt bảo Sa Nguyệt Lượng:
- Anh đội trưởng, nó đã có chủ rồi! Các anh là đội quân chống Nhật, chắc không dụ dỗ gái có chồng chứ?
Sa Nguyệt Lượng bình tĩnh nói:
- Điều này thì bác khỏi bận tâm.
Mẹ lôi chị Lai Đệ về căn buồng phía đông. Gần trưa, thằng câm lớn xách một con thỏ đến nhà tôi. Hắn mặc chiếc áo chẽn hở cả bụng, tay áo dài đến khuỷu, lộ hai bắp tay vạm vỡ. Cúc áo đứt sạch, hắn khép hai vạt bằng sợi dây thừng. Hắn cúi rạp chào mẹ, nụ cười ngơ ngẩn trên khuôn mặt. Hắn đưa con thỏ cho mẹ bằng cả hai tay. Ba Phàn cùng đến với thằng câm, nói:
- Chị Thọ Hỉ, tôi đã làm như lời chị dặn.
Mẹ bàng hoàng nhìn con thỏ rừng miệng còn dính máu.
- Chú ơi, trưa nay chú ở lại, anh câm cũng ở lại đây.
Mẹ chỉ vào thằng câm nói:
- Củ cải ninh thịt thỏ, coi như lễ đính hôn cho bọn trẻ!
Trong căn buồng phía đông, tiếng khóc của chị Lai Đệ chợt vỡ ra. Lúc đầu khóc ti tỉ như trẻ con, vài phút sau chuyển thành tiếng gào thét, xen lẫn những câu chửi tục kinh khủng. Rồi mươi phút sau chỉ là tiếng gào khan, không có nước mắt.
Chị Lai Đệ ngồi bệt xuống đất bẩn trong buồng, quên phắt đang mặc chiếc áo quí. Mắt chị ráo hoảnh, miệng há ra như một cái giếng cạn, tiếng gào khan từ đó bật ra. Sáu chị khác của tôi cố ghìm giọng nức nở, nước mắt lăn trên áo lông gấu, nhảy trên áo lông chồn, lấp lánh trên áo lông sói, thấm vào áo lông cừu, dây bẩn áo lông thỏ.
Ba Phàn thò đầu vào buồng đông, mắt trợn trùng như gặp ma, môi run bần bật. Ông đi giật lùi ra giữa nhà rồi loạng choạng bỏ chạy.
Thằng câm lớn của nhà họ Tôn đứng giữa nhà tôi ngó ngang ngó dọc, trên khuôn mặt hắn, ngoài nụ cười ngớ ngẩn, còn gợn lên nét suy tư khó bề đoán trước, sự hoang văng như hóa thạch và một nỗi đau tê buốt. Sau này tôi còn chứng kiến vẻ mặt đáng sợ khi hắn nổi giận.
Mẹ lấy sợi dây thép nhỏ xâu miệng con thỏ rồi treo dưới mái hiên. Mẹ coi như không nghe thấy tiếng gầm của chị Cả, coi như không nhìn thấy nét mặt cổ quái của thằng câm. Mẹ cầm con dao gỉ, sút mẻ, lột da con thỏ. Sa Nguyệt Lượng khoác súng từ buồng đông đi ra, mẹ không ngoái lại, nói với giọng lạnh nhạt:
- Anh Đội, đứa lớn nhà tôi hôm nay đính hôn, con thỏ này là ăn lễ hỏi.
Sa Nguyệt Lông cười:
- Lễ hậu hĩ quá nhỉ!
Mẹ cắt phần đầu con thỏ, nói:
- Nó hôm nay đính hôn, mai đưa đồ cưới, ngày kia làm lễ thành thân!
Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào Sa Nguyệt Lượng, nói:
- Đừng quên uống rượu mừng đấy!
Sa Nguyệt Lượng nói: - Quên thế nào được!
Nói xong, hắn khoác súng lên vai, miệng huýt sáo lanh lảnh, bước ra cổng.
Mẹ tiếp tục lột da con thỏ, nhưng không còn hào húng như trước. Mẹ treo con thỏ trên khung cửa, địu tôi đi vào trong nhà. Trên bàn có mấy củ cải to. Mẹ cầm dao đến gần, củ cải không phản ứng gì, năm im chờ đợi. Mẹ quát to:
- Lai Đệ, ân oán cũng thể mẹ con, mày cứ oán tao đi!
Nói xong câu dữ dằn đó, mẹ ôm mặt khóc không thành tiếng, đôi vai run bần bật, nước mắt chảy ràn rụa. Mẹ bắt đầu bổ củ cải. Một nhát bổ xuống, củ cải bửa làm hai, lại một nhát nữa, củ cải bửa làm tư. Bổ liên tiếp, động tác của mẹ ngày càng nhanh, ngày càng điệu nghệ. Củ cải bị băm nhỏ đầy bàn. Mẹ lại giơ cao còn dao lần nữa, nhưng động tác hạ xuống thì cực kỳ nhẹ nhàng. Con dao rời khỏi tay, nằm trên đống củ cải đã băm nhỏ, mùi hăng hắc tỏa ra khắp căn buồng.
Thằng câm giơ ngón tay cái lén tỏ ý khâm phục mẹ, miệng lắp bắp để bổ sung cho động tác. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, bảo thằng câm:
- Anh về đi!
Thằng câm hoa tay, tung chân đá vào khoảng không. Mẹ cao giọng, chỉ về phía nhà hắn, quát to:
- Anh về đi, tôi bảo anh về đi!
Thằng câm hiểu ra. Hắn làm ngoáo ộp một cái với tôi như trẻ con, hàng ria đen nhánh trên cái môi dầy. Hắn làm bộ rất chuẩn xác động tác trèo cây, mô phỏng động tác tóm được con chim đang quẫy. Hắn cười, chỉ vào tôi, lại chỉ vào trái tim hắn.
Mẹ lại chỉ,về hướng nhà. Hắn ngẩn người, gục gặc đầu ra vẻ hiểu, rồi quì trước mặt mẹ - mẹ vội né sang một bên - hắn hướng về cái bàn để củ cải, dập đầu một cái thật kêu rồi vênh váo bước ra cổng.
Đêm ấy, mẹ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, đếm đủ tám mươi tám con thỏ béo mũm mĩm treo đây trên cây ngô đồng, cây hương xuân và cây hạnh trong sân.
Mẹ vịn khung cửa, từ từ ngồi xuống.
Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lương đối với mẹ. Chị Cả bỏ theo trai, chị Hai, chị Ba, chị Tư là đồng lõa. Sự việc.xảy ra khi đã quá nửa đêm như sau: Khi mẹ mệt mỏi hắt hơi thì chị Năm, chị Sáu chị Bảy đi vào giấc ngủ. Chị Hai nhổm dậy, chân trần, mò mẫm tháo gỡ những chướng ngại vật mà mẹ dựng sau cửa, chị Ba chị Tư kéo hai cánh cửa cho mở ra.
Lúc chiều tối, Sa Nguyệt Lượng đã đổ đầu vào cột cửa, cửa mở không một tiếng kêu. Dưới ánh trăng bàng bạc của nửa đêm về sáng, chị em ôm nhau từ biệt. Sa Nguyệt Lượng nhìn những con thỏ treo trên cây, cười thầm. Ngày thứ ba là ngày thằng câm và chị Cả làm lễ thành hôn. Mẹ bình tĩnh ngồi khâu vá trên giường. Gần trưa, không chờ đợi được nữa, thằng câm mò đến. Hắn dùng điệu bộ và cả nét mặt để đòi người. Mẹ bước ra sân, chỉ sang buồng phía đông, rồi chỉ lên cây treo đầy những còn thỏ đã đông cúng. Mẹ không nói câu nào, nhưng thằng câm hiểu hết.
Vào lúc hoàng hôn, cả nhà tôi đang ngồi trên giường ăn cháo mạch, bỗng có tiếng đập cổng đánh rầm. Chị Hai đút cơm cho bà nội ở chái tây hớt hải chạy vào, gọi:
- Mẹ, hỏng to rồi! Anh em nhà thằng câm đến đấy. Đem theo cả chó. Các chị hoảng sợ. Mẹ ngồi im như một tảng đá, dùng thìa đút cháo mạch cho chị Tám. Khi chị Tám đã no, mẹ bắt đầu nhai củ cải rau ráu. Trông mẹ thảnh thơi như một con thỏ cái có chửa. Tiếng ồn ngoài cổng bỗng lắng xuống. Khoảng hút tàn diếu thuốc, ba bóng đen vọt qua bức tường vây phía nam, nơi mặt tường rất thấp. Ba anh em nhà câm đến rồi Cùng vọt vào sân là ba con chó đen bóng như sơn then. Chúng như ba đạo hắc quang bay vào sân, không một tiếng động. Dưới ráng chiều đỏ rực, ba anh em nhà câm và ba con chó đứng yên trong khoảnh khắc y hệt một nhóm tượng. Thằng câm lớn tay cầm thanh nhuyễn đao Miến Điện ánh thép sắc lạnh. Thằng Hai câm chống thanh yêu đao. Thằng ba câm kéo lê thanh phác đao cán dài có tua đỏ. Trên vai đứa nào cũng khoác một bọc nhỏ bằng vải hoa nền xanh hoa trắng, hình như chúng sắp đi xa. Các chị sợ đến nghẹt thở, còn mẹ thì vẫn thản nhiên như không, húp cháo sùm sụp. Đột nhiên, thằng câm lớn gầm lên một tiếng, Hai câm và Ba câm cũng gầm theo, những con chó cũng lên tiếng sủa. Nước bọt bắn ra từ miệng người và mõm chó như những con trùng nhỏ, lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tiếp đó, thằng câm lớn biểu diễn dao pháp, giống như hôm đánh nhau với dàn quạ trong buổi tang lễ trên cánh đồng lúa mạch. Trong cái buổi hoàng hôn chớm đông xa xăm ấy, ánh đao loang loáng trong sân nhà tôi, ba thằng đàn ông hung hãn như ba con chó săn, liên tiếp nhảy vọt lên, vươn dài thân như tấm thép, chém nát những con thỏ treo trên cành cây. Những con chó của chúng gâu gâu mừng rỡ, lắc lắc cái đầu to bự giăng xé những xác con thỏ, thịt bay tứ tung. Ba thằng câm sát phạt chán chê, đứa nào đứa ấy tỏ vẻ thỏa mãn. Sân nhà tôi trở thành lò sát sinh. Mấy con thỏ chỉ còn cái đầu treo lủng lẳng trên cây như những quả khô. Những thằng câm cùng với mấy con chó diệu võ dương oai mấy vòng quanh sân, rồi cũng như khi đến, chúng vượt tường, mất hút trong màn đêm mờ ảo.
Mẹ bưng bát cháo, cười nhạt. Nụ cười đặc biệt của mẹ khắc sâu trong đầu tôi.
4
Người phụ nữ già đi bắt đầu từ cặp vú, cặp vú già đi bắt đầu từ đầu vú. Vì chuyện chị Lai Đê bỏ theo trai, hai đầu vú của mẹ vốn dĩ ngỏng lên thì nay rũ xuống như bông kê chín. Đồng thời, màu phấn hồng cũng chuyển sang màu đỏ sậm. Những ngày ấy lượng sữa ít đi, mùi vị cũng kém phần thơm ngọt, trong vị sữa nhàn nhạt có mùi của gỗ mục. May mà cùng với thời gian tâm trạng mẹ có khá hơn, nhất là sau khi mẹ ăn con lươn to bự, đầu vú dần dà lại ngỏng lên, màu đỏ sậm cũng nhạt đi, lượng sữa trở lại như hồi mùa thu, trong sữa đã có nhiều vị sắt, ngoại trừ có vị tanh tanh, chất lượng sữa cao hơn trước. Điều không yên tâm là, lần suy yếu này để lại một nếp hằn giữa đầu và bầu vú như trang giấy bị gập, tuy đã được vuốt phẳng, nhưng nếp gấp không mất đi. Biến cố này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tôi, dựa vào bản năng, có lẽ là trời xui khiến vậy tôi phải thay đổi thái độ đối với bầu vú, phải trân trọng chúng, phải coi chúng như vật dễ vỡ mà nhẹ chân nhẹ tay.
Mùa đông năm nay lạnh kinh khủng. Nhờ có nửa gian buồng lúa mạch và một hầm củ cải, chúng tôi sống yên ổn cho đến khi sang xuân. Trong những ngày rét buốt nhất của mùa đông, tuyết rơi dầy đặc lấp kín cửa ra vào, đè gãy những cành cây trong vườn. Chúng tôi mặc áo lông của Sa Nguyệt Lượng cho, ngồi quây quần xung quanh mẹ, mơ màng trong trạng thái ngủ đông.
Một hôm, mặt trời ló ra, tuyết tan, những cột băng treo dưới mái hiên, những con chim sẻ từ chỗ nấp chui ra, nhảy nhót trên cành đầy tuyết. Chúng tôi bừng tỉnh sau thời kỳ ngủ đông. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày đun tuyết lấy nước, vài trăm lần ăn một món củ cải đun bằng nước tuyết, khiến các chị ớn đến tận cổ. Chị hai Chiêu Đệ là người đầu tiên đề xuất đi lấy nước sông về ăn, vì tuyết năm nay có mùi tanh của máu, nếu không sẽ mắc bệnh mà không biết, ngay cả Kim Đồng chỉ ăn toàn sữa mẹ cũng không thoát. Chị Chiêu Đệ nghiễm nhiên thay thế vị trí của chị cả Lai Đệ. Chiêu Đệ có cặp môi đỏ mọng, giọng nói hơi rè cực kỳ hấp dẫn. Lời chị như mệnh lệnh, vì từ đầu mùa đông đến giờ chị cáng đáng toàn bộ chuyện ăn uống. Mẹ như một con bò cái bị thương, lúc nào cũng nơm nớp, đôi khi lại bao dạn hẳn lên, khoác chiếc áo quí phái lên người, ngồi trên giường sửa sang lại dáng vóc, quan tâm tới lượng và chất của sữa.
- Từ hôm nay trở đi lấy nước sông về mà dùng?
Chị Hai nhìn mẹ, nói bằng một giọng không dễ bác bỏ. Mẹ không phản úng gì. Chị ba Lãnh Đệ cau mày nhận xét cái mùi khó chịu của củ cải nấu bằng nước tuyết. Một lần nữa, chị lại dề xuất chuyện bán con la để lấy tiền mua thịt. Mẹ giễu cợt
- Băng tuyết thế này thì bán con la ở đâu?
Chị Ba nói:
- Vậy chúng ta đi săn thỏ rừng, trời đất này thỏ bị cóng không chạy được.
Mặt me đột nhiên đổi sắc:
- Các con hãy nhớ, cho đến khi chết, đừng để mẹ trông thấy thỏ rừng!
Thật ra, trong mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều gia đình đi bắt thỏ về ăn thịt. Những con thỏ béo núc bò lê trong tuyết chứ không chạy, ngay các bà bó chân cũng bắt được. Mùa đông năm ấy là thời kỳ hoàng kim của cáo lông đỏ và cáo cỏ. Do chiến tranh, súng săn bị đủ các loại du kích tịch thu, người trong thôn không còn vũ khí. Cũng do chiến tranh, tình cảm thôn xóm bị tổn thương, nên giữa mùa săn cáo lấy lông, lũ cáo không lo bị giết hại như những nắp hố xí lộ thiên chuyển những thứ ô uế ra cánh đồng rau. Mẹ, đó là nơi trở về tốt nhất của con, có lẽ nó cũng phù hợp với ước nguyện của mẹ?...
Chìm đắm trong suy tưởng, anh như nghe thấy tiếng tụng kinh của các con chiên văng vẳng bên tai:
- Chúa ơi, Chúa của chúng con ở trên trời, chúng con tắm trong ánh hào quang của Chúa! Máu của Chúa tưới cho hoa hồng và hoa tường vi, hãy cho chúng con được ngửi mùi thơm thiêng liêng đó, chúng con được rửa tội, chúng con được yên ổn trong lòng. A men! A men!
Anh áp khuôn mặt nóng bừng vì cảm động lên nấm mồ ẩm ướt, anh ngửi thấy mùi máu và mùi mồ hôi, cảm thấy làn gió mát mẻ thổi qua đầu. Trong cơn thảng thốt, anh thấy mẹ ngồi bên cạnh anh, làn gió sớm mai chính là bàn tay mẹ vừa rửa bằng nước lạnh. Anh cảm thấy không phải mẹ đang nằm trong huyệt mà chính là anh đang nằm, mẹ rắc từng nắm đất lên mặt anh, trong đất có mồ hôi và nước mắt của mẹ. Cảm thấy quá sung sướng, anh ôm mặt khóc hu hu.
- Này, này, đứng dậy đi!
Có tiếng quát nạt phía sau, anh cảm thấy gót chân bị ai đá mấy cái, tiếp theo là mông đít bị một đạp. Hốt hoảng chồm dậy, anh thấy cái khớp xương bị bệnh tê thấp kêu răng rắc, ngực buốt như kim châm. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng chan hòa, một bóng xám đen to lớn đang đi động trước mặt anh. Người ấy vênh mặt, dằn giọng hỏi:
- Ai cho anh chôn người ở đây?
Kim Đồng lập tức cảm thấy người nóng ran, chân tay quýnh lên, mồ hôi toát cùng mình, đồng thời, dòng nước tiểu âm ấm cũng vãi ra quần. Anh biết mình vẫn có khả năng nhịn đái, nhưng cứ để mặc cho nó tuôn ra, làm như vãi đái ra quần thì ông người nhà nước này sẽ thương hại anh mà bỏ qua.
Ông.người nhà nước này không thông cảm cho anh, ánh mắt ông đầy vẻ khinh người, kênh kiệu. Phù hiệu trên mũ trên ngực áo ông sáng lóa, trông mà phát khiếp! Không khách khí gì hết, ông ra lệnh:
- Đào tử thi lên lập tức đưa đi hỏa táng!
Kim Đồng nói:
- Thưa lãnh đạo, chỗ đất này là đất hoang, mong ông giơ cao đánh sẽ cho!... Ông người nhà nước nhảy dựng lên như bị chó cắn, nghiêm giọng quát:
- Anh nói lại tôi xem nào? Đất hoang? Ai bảo anh đây là đất hoang? Dù là đất hoang thì vẫn là mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, ai cho phép anh bậy bạ như thế!
Kim Đồng sụt sịt khóc:
- Lãnh đạo làm ơn, mẹ tôi đã hơn chín mươi tuổi, nhập thổ đâu có dễ, xin đừng hành hạ bà cụ...
Ông người nhà nước nổi giận, nói dứt khoát:
- Đừng nhiều lời, đào lên đi!
Kim Đồng nói:
- Tôi san bằng đi không được sao? San bằng thì không chiếm mặt đất của nhà nước!
Ông người nhà nước tỏ vẻ ngán ngẩm:
- Anh làm sao thế! Anh giả vờ hay lẩm cẩm thật rồi? Hỏa táng người chết là pháp qui!
Kim Đồng quì xuống, nước mắt, nước mũi dàn dụa, van xin:
- Lãnh đạo ơi Chính phủ ơi, xin mở lượng làm phúc, trời tháng sáu nóng nực này mà lại đào lên thì thối rữa ra mất, mẹ tôi chịu sao nổi hở trời?
Ông người nhà nước giận dữ quát:
- Kêu cũng chẳng ích gì, gào cũng chẳng ích gì, chuyện này tôi cũng không quyết định được!
Kim Đồng Chợt có linh cảm, móc túi lấy ra mấy chục đồng nhân dân tệ lúc nãy, dùng cả hai tay đưa cho ông người nhà nước, vừa khóc vừa van xin:
- Lãnh đạo nhận cho chén rượu nhạt, tôi sống độc thân, lại nghèo rớt mồng tơi, tìm người giúp một tay trong chuyện này không dễ dàng chút nào? Trong người chỉ còn mấy đồng tiền còm này thì phí hỏa táng cũng không đủ, có đem đến đó thì chỉ tốn điện nhà nước, ô nhiễm môi trường của Chính phủ, xin ông rủ lòng thương cho mẹ tôi được ở lại đây... Xin Chính phủ rủ lòng thương?
Ông người nhà nước liếc nhìn mấy tờ giấy bạc nhăn nhúm bẩn thỉu, nổi giận quát:
- Anh định làm gì thế! Anh có biết anh đang làm gì không? Anh đang hối lộ đấy, đang hủ hóa cán bộ nhà nước đây, là phạm tội đấy? Anh định dùng mấy đồng tiền còm này để ta vứt bỏ nguyên tắc hả? Đừng có mà nằm mơ! - Ông người nhà nước dậm chân, nói giọng pháp luật - Trước lúc trời tối phải lôi cái xác lên, nếu không đừng có trách?
Ông người nhà nước hiên ngang bỏ đi. Ông đến, như trên trời rơi xuống. Ông đi như đất nẻ, mất tăm. Kim Đồng bị đổ gục trước khó khăn vượt quá sức anh, hai tay ôm đầu, anh khe khẽ cất tiếng khóc. Chính phủ ơi, chính phủ - ngươi dân ở đây quen gọi các quan chức nhà nước và tất cả những người ăn lương nhà nước là Chính phủ - Vậy là ông Chính phủ gây khó dễ cho tôi rồi! Ngay dù tôi có hỏa thiêu mẹ tôi, thì tôi cũng cần một chỗ đất để chôn tro thi hài chứ? Chỗ này xa thành phố, không phải đất trồng trọt, chôn người ở đây thì chỉ vài năm là biến thành bùn đất. Ông bắt tôi đào lên. Đào lên rồi tôi xoay xở thế nào? Tôi chỉ có một mình, cõng không nổi, kéo thì không có xe, hỏa thiêu thì không đủ tiền trả lệ phí, càng không có tiền mua hộp đựng tro. Để nhờ được mấy ông trong làng, tôi phải chạy rạc cảng! Chính phủ ơi! Ông há không biết rằng thời buổi bây giờ khác trước, bây giờ không có tiền người ta không làm, không còn nghĩa khí như ngày xưa. Tuy bác Trương không lấy tiền của tôi những người giúp chôn cất không lấy tiền của tôi, nhưng đào lên thì phải trả tiền họ mới dào, ngay dù người ta không lấy tiền, thì cái nợ nhân tình này tôi biết lấy gì để trả? Chính phủ ơi, Chính phủ kính mến ơi, xin ông nghĩ lại cho tôi...
Anh vừa khóc vừa kể lể, làm như ông người nhà nước đang đứng trước mặt.
Một chiếc xe com măng ca Nhật màu kim nhũ từ con đường nhỏ chạy tới, kéo theo cát bụi mù mịt. Kim Đồng hoảng sợ, tưởng người ta đến bắt anh. Thoạt đầu, anh gần như chết khiếp, nhưng cùng với chiếc xe tiến lại gần, trong lòng anh lại cảm thấy thanh thản. Mình đã tám năm lao động cải tạo ở nông trường, bây giờ ngồi tù tám năm nữa thì có gì đáng ngại. ở tù, công việc do người cắt đặt, cơm nước có người nấu nướng, chỉ cần nai lưng ra mà làm là yên thân, đối với Kim Đồng thì ở tu là thiên đàng. Điều quan trọng là, bắt mình đi rồi thì họ có bỏ ra một vạn nhân dân tệ cũng không thuê được người đào xác mẹ mình lên. Và như vậy, mẹ không bị hành hạ nữa, mẹ có một mảnh đất ở Cao Mật, coi như được yên nghỉ. Mình báo hại mẹ cả một đời, giờ đây đổi lấy bằng an cho mẹ bằng sự mất tự do của mình là dáng giá, là một lần báo hiếu của đứa con bất hiếu này, là sự vươn lên của đồ bị thịt là mình. Nghĩ đến đây, anh sung sướng đến lịm người, anh gạt nước mắt đứng lên, những nếp nhăn trên mặt giãn ra, hai vai thoải mái như cất được gánh nặng. Anh duỗi hai tay ra phía trước như chờ đợi người ta còng tay anh lại. Nhưng rất đáng tiếc là chiếc xe com măng ca lắc lư chạy qua trước mặt anh, kính xe tráng thủy ngân sáng lóa mắt, không thể nhìn rõ trong xe có những gì. Đến chỗ cách mộ mới khoảng trăm thước, chiếc xe dùng lại. Cửa xe mở, ba người xuống xe, hai người đàn ông thì một to béo, mặc quần áo săn màu xanh pha trắng; một mảnh khảnh, tay cầm khẩu súng săn hai nòng, cổ tay đeo một bao da nhỏ, bên trong là mobil phone.
Kim Đồng trong thời kỳ Trung tâm nuôi chim Phương Đông làm ăn phát đạt, anh cũng từng đeo của này ở cổ tay, vì vậy anh biết nó. Đi giữa hai người đàn ông là một phụ nữ mặc váy màu đỏ, vì xa nên trông không rõ mặt mũi, nhưng qua sắc da mịn màng màu sứ, có thể đoán người đàn bà này đẹp.
Ba người đi thành hàng dọc theo con đường nhỏ ven đầm, chậm rãi đi lại về phía Kim Đồng. Người đàn bà ríu rít kể chuyện gì đó, thỉnh thoảng lại bật cười khanh khách. Người đàn ông to lớn đôi lúc lại ho một tiếng, tiếng ho khỏe nghe như tiếng sắt tiếng đồng. Người đàn ông mảnh khảnh đi sau cùng, thái dộ cung kính, thoạt nhìn đã biết ngay là thư ký. Đột nhiên, người cao to quài tay về phía sau, viên thư ký nhanh nhẹn dưa khẩu súng cho ông ta. Người cao to dón lấy khẩu súng, không ngắm, nâng lên ngang tầm là lẩy có, bắn liền hai phát, tiếng nổ sắc nhọn, ù cả tai. Nhìn ra phía đầm, đàn thiên nga đang khó nhọc cất cánh. Hai con trúng đạn, một con nổi trên mặt nước, đã chết, còn một con đang đập cánh lia lịa trong bụi cỏ nước, cổ đầy máu lắc lư như rắn hổ mang. Người đàn bà mặc váy đỏ vỗ tay hoan hô:
- Trúng rồi, trúng rồi! Ôi anh phó thị trưởng Mã, anh quả là nhà thiện xạ!
Nhìn cặp vú tung tẩy của chị ta, Kim Đồng biết rằng chị ta ăn mặc trẻ trung thế thôi, thực ra không còn trẻ nữa. Động tác nhảy cẫng chẳng qua là bắt chước nữ sinh trung học một cách vụng về và điều đó khiến Kim Đồng ngán ngẩm. Còn anh chàng đàn ông cũng là loại bất trị, sắp chết đến nơi mà vẫn đi tìm thú tiêu khiển. Người đàn bà váy đỏ như cố ý trêu tức Kim Đồng. Chị ta giơ hai cánh tay trắng nõn ôm lấy cổ người đàn ông rồi dướn người lên dẩu mỏ hôn đánh chụt một cái. Anh thư ký cởi giày da, xắn quần lội ra nhặt hai con thiên nga. Khi nhặt con thiên nga chưa chết hẳn, anh thư ký suýt nữa bị sa lầy chỗ bùn sâu lút đầu, khiến phó thị trưởng Mã sợ quá gọi to:
- Cẩn thận, Tiểu Hà!
Anh thư ký đặt cả hai con thiên nga lên đám cỏ xanh. Người đàn bà váy đỏ cúi xuống lấy ngón tay gãi gãi lông con thiên nga, đột nhiên kinh ngạc kêu lên:
- Ôi, thiên nga có rận này!
Những người đi săn tiếp tục tiến lên, đi qua trước mặt Kim Đồng. Phó thị trưởng Mã và anh thư ký mải tìm kiếm con mồi trong đầm, hoàn toàn không để ý nấm mồ mới đắp, ngược lại, người đàn bà váy đỏ mấy bận đưa mắt nhìn Kim Đồng. Trong mùi nước hoa đắt tiền sục nức trên người đàn bà, Kim Đồng phân biệt được ngay mùi chồn hôi quyện lẫn. Người đàn bà này có một hình thể tuyệt đẹp, chân dài, cổ cao ba ngấn nhưng vú đã chảy dù đã dùng hàng của Thú Một Sừng, nhưng giả thì chung qui vẫn là giả không che mắt được những người sành sỏi. Trong một thoáng khi khoát tay, Kim Đồng còn phát hiện ra chùm lông nách màu lửa của chị ta, và cái mùi hôi như chồn toát ra từ đó. Họ đã đi qua. Kim Đồng hiểu rằng, họ đến không phải vì chuyện của anh, tuy vẫn còn đôi chút băn khoăn, nhưng đã nửa mừng nửa lo. Những người đi săn và hai con thiên nga khiến anh nhớ tới Hàn Chim. Anh ta đúng là một quái nhân trong chuyện hiểu ngôn ngữ của loài chim, nếu không anh ta làm sao sống nổi mười lăm năm trong thâm sơn cùng cốc? Chắc chắn anh ta trò chuyện, giao lưu tư tưởng với các loài chim, kể lể với chúng về nỗi nhớ quê da diết. Có thể rất nhiều con chim vượt trùng dương sang Cao Mật báo tin, có điều, ta không hiểu tiếng nói của chúng đấy thôi. Đoàng, đoành? Lại hai tiếng súng nữa, lại một con vịt trời bị bắn chết. Con chim đáng thương bay khỏi mặt nước mấy thước mới trúng đạn, nó rơi thẳng xuống như một cục gạch. Anh thư ký tay xách đôi giày da, tay xắn quần định xuống vớt con vịt, nhưng ông Mã ngăn lại:
- Chú Hà, bỏ, con này nhỏ!
Người đàn bà váy đỏ õng ẹo:
- ứ ừ, em thích những lông xanh biếc trên người nó cơ!
Tiểu Hà nói:
- Không sao, để em xuống nhặt!
Anh ta hăng hái lội ào xuống, bước trong bùn oàm oạp, bước đi khó khăn vì bùn đã lút đầu gối. Khi gần đến chỗ con vịt thì rõ ràng là bùn đã sâu, lút ngang đùi. Ông Mã gọi to:
- Chú Hà, quay lại!
Nhưng đã muộn, mặt bùn sủi bong bóng có mùi lưu huỳnh, không phải cơ thể Tiểu Hà lún xuống mà như bùn dềnh lên. Tiểu Hà ngoảnh lại kêu lên điều gì đó mà Kim Đồng nghe không rõ, nhưng khuôn mặt trắng bệch của chàng thanh niên đã ăn sâu trong tâm trí anh.
Trời chạng vạng tối, đám người cấp cứu anh thư ký bất lực ra về, chỉ còn lại một bà già ngồi phệt bên đầm mà gào khóc đến khản giọng. Những dấu chân người dày đặc. Không khí buổi chiều hôm có mùi hơi người, mùi xe cộ và mùi đầm lầy trộn lẫn. Mấy chiến sĩ dò dẫm hết cách cũng không dò thấy đáy. Anh thư ký đã biến thành con luơn, không biết chui vào chỗ nào.
Cả ngày hôm ấy Kim Đồng ngồi bên mộ mẹ, không ai chuyện trò với anh, càng không có ai hỏi người dưới mộ là ai. Cái chết của anh thư ký đã gợi cho anh một ý nghĩ: Nếu ông nhà nước lại đến bắt anh phải khai quật mộ lên thì anh sẽ đào, sẽ khai quật, rồi cõng mẹ trên lưng, chỉ vài chục bước chân là anh sẽ chìm nghỉm trong bùn lầy. Anh nhất quyết không rời mẹ ra để càng nặng hơn, chìm nhanh hơn.
Bóng đêm sẫm dần, chim chóc trú trong bụi cỏ chuẩn bị qua đêm. Thi thoảng có vài con chim hoảng sợ bay vọt lên như bị rắn đớp. Chuyến tầu chạy về hướng tây ầm ầm lao qua. Những bông hoa độc màu đỏ tía bắt đầu nở giữa đầm, nơi con người không thể lội ra. Từng đợt gió đêm đưa lại mùi của đầm lầy. Lúc này mà ông người nhà nước không trở lại thì có nghĩa là ông ta không đến nữa. Ông đến thì tôi cũng không sợ, anh nghĩ. Chàng thanh niên hoạt bát là thế, triển vọng là thế mà chỉ trong ít phút ngay cả thi thể cũng không tìm thấy. Vậy thì với cái tuổi gần kề miệng lỗ như anh có gì đáng sợ? Sau khi rũ bỏ hoàn toàn gánh nặng tinh thần, anh thấy bụng đau quặn, biết là mình đói. Kể từ lúc mẹ nằm xuống, anh ăn uống chẳng ra làm sao. Anh lờ mờ cảm thấy phải vào phố kiếm chút gì ăn. ở đó, những nam nữ thanh niên áo quần lòe loẹt rất thích lãng phí thức ăn. Nhặt lấy mà ăn, một là trong sạch môi trường, hai là không chết đói, ba là đỡ lãng phí. Người ta muốn sống thực ra cũng không khó. Anh định đi, nhưng hai chân không cất nổi. Anh trông thấy phía sau mộ mẹ, nơi không bị dẫm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những bông hoa màu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi thơm. Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh hoa rất giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn mùi máu. Vì sao hoa có mùi máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người.
Đêm hôm ấy, một đêm trời đầy sao, Kim Đồng nằm ngửa bên mộ mẹ, miệng ngậm những cánh hoa, anh nhớ lại bao nhiêu chuyện cũ, đều là những mẩu lấp lánh. Sau đó, dòng hồi ức gián đoạn, lướt qua trước mặt anh là những bầu vú. Trong đời anh đã trông thấy đủ các loại vú, dài có, tròn có, nhọn có, dẹt có, đen có, trắng có, thô có, mịn có. Những bảo bối ấy, nhưng tinh linh ấy trình diễn trước mắt anh kỹ xảo phi hành đặc biệt và những diệu múa kỳ ảo. Chúng giống chim, giống hoa, giống những tia chớp hình cầu, đẹp tuyệt. Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là vú to mông nẩy? Anh từ bỏ ý nghĩ tóm được chúng, dứt khoát không tóm nổi thì phí sức làm gì? Anh chỉ cần sung sướng ngăm nhìn chúng. Sau đó, trên đầu anh, những bầu vú bay dọc bay ngang ấy tụ lại thành một bầu vú khổng lồ, lớn dần ra, cao dần lên thành quả núi cao, cao nhất giữa trời và đất, núm vú phủ tuyết trắng, mặt trời mặt trăng xoay quanh như hai con bọ dừa màu nhũ bạc.
------ Hết --------

Xem Tiếp: ----

Truyện Cùng Tác Giả BẠCH MIÊN HOA Băng Tuyết Mỹ Nhân Báu Vật Của Đời Cao Lương Đỏ Cây Tỏi Nổi Giận CHÂU CHẤU ĐỎ Đàn Hương Hình Linh dược Lửa Thiêu Hoa Lam Các Ma Chiến Hữu ung cấp. Hắn nói do Nhất Phẩm Hồng, cô điếm ở Lầu-quên-buôn nói với hắn. Người điều tra hỏi Nhất Phẩm Hồng, cô bảo cô không bao giờ nói như thế. Cô nói, cô đã tiếp tất cả kỹ sư và binh lính Đức trong đội đo đạc, từng bị đầu gối của chúng dằn nát đùi, làm sao có thế cái tin bậy bạ ấy lại từ miệng cô nói ra? Đầu mối đến đây thì bị đứt, các đội viên thoát chết của đội Hổ Lang trở về với nghề cũ của mình, ai đánh cá thì đi đánh cá, ai cày ruộng thì về cày ruộng. Mẹ nói rằng, chồng của dì chúng tôi là Vu-Bàn-Vả khi ấy là một thanh niên cường tráng, tuy không tham gia đội Hổ Lang, nhưng có dự trận đánh phân và nước tiểu, cõng ba vò phân trên cây gậy. Ông kể, khi quân Đức qua cầu, Răng-To bắn về phía chúng một phát hỏa mai, Thượng Quan Đẩu bắn một phát súng săn, rồi dẫn toàn đội rút về Bãi-Cát-Dài. Bọn lính Đức đầu đội mũ đen cắm lông chim năm màu, mình mặc áo màu xanh lục đầy cúc đồng, quần bó ống màu trắng, chân vừa thon vừa dài, khi chạy không co gối, quả nhiên trông như không có đầu gối. Rút đến chân Bãi-Cát-Dài, toàn đội dàn hàng ngang mà chửi, chửi có vần có vè, đều do ông giáo trường tư thục Trần Đằng Giao soạn thảo. Đội Hổ Lang dàn trận chửi, bọn lính Đức nhất loạt quì một chân xuống. Sao bảo bọn Đức không biết quì? Ông chú dượng chúng tôi băn khoăn thầm nghĩ. Mẹ nói, ông chưa hiểu nếp tẻ ra sao, đã thấy những cụm khói trắng tỏa ra từ đầu nòng súng của bọn Đức, tiếp đó là hàng loạt tiếng nổ, vài đội viên của đội Hổ Lang đang chửi bỗng ngã gục, trên người chảy máu. Thấy tình thế bất lọi, Răng-To vội ra lệnh khênh những xác chết về phía sau Bãi-Cát-Dài. Cát lún sâu đến bắp chân, họ đang nghĩ đến chuyện bọn Đức không có đầu gối. Lính Đức rượt theo có thể trông rõ đầu gối to tướng hằn lên trong quần.
Chúng chạy trong cát không vất vả như các đội viên đội Hổ Lang. Các đội viên hoang mang, Răng-To cũng dâm hoảng nhưng nói cứng:
- Đừng sợ, anh em ơi, cát không vùi chúng nó, thì ta đã có chiêu khác!
Đúng khi ấy, bọn Đức vượt được bãi cát, xông vào rừng cây hòe. Cụ tổ nhà mình hô: Giật! Mấy chục đội viên cầm lấy đầu thừng giấu trong cát giật mạnh, những chum lọ đựng cứt đái treo lẫn trong những cụm hoa hòe ào ào trút xuống trên đầu trên người bọn Đức như mua, vài chum buộc không chặt rơi trúng đầu một tên Đức chết tại chỗ. Bọn Đức kêu rầm trời, xách súng bỏ chạy tán loạn. Chú dượng tôi nói, giá như dội Hổ Lang thừa thắng xông lên thì chẳng khác mãnh hổ xông vào đàn dê, tám mươi tên lính Đức chắc chắn không một tên sống sót. Đăng này các ông tướng lại cứ đứng đực ra mà vỗ tay hoan hô, mà cười hể hả, để mặc bọn Đức rút về mé sông. Chúng nhảy ào xuống nước, tắm gội thật sạch cứt đái trên người, rồi nâng súng bắn từng loạt. Một viên đạn xuyên từ miệng ra sau gáy ông Răng-To, ông chết ngay lập tức, không kêu được tiếng nào. Bọn Đức đốt trụi vùng Cao Mật. Viên Thế Khải đem quân đến bắt sống cụ tổ Thượng Quan Đẩu. Để hù dọa mọi người, chúng áp dụng hình phạt cực kỳ thảm khốc đối với cụ tổ dưới cây liễu cổ thụ giữa thôn: đi chân trần trên lưỡi mai nung đỏ. Hôm thi hành án, cả vùng Cao Mật rung động, người đến chứng kiến có cả hàng ngàn, dì chúng tôi cũng có mặt. Dì kể, bọn quan lại cho xếp đá để dặt trên đó mười tám cái lưỡi mai, chất củi ở dưới đốt cho lưỡi mai đỏ lên. Rồi bọn đao phủ dẫn cụ tổ đến, bắt đi trên lưỡi mai đỏ rục bằng chân trần. Bàn chân cụ tổ cháy khét lẹt, khiến dì tôi chóng mặt mấy ngày liền. Dì tôi kể rằng, Thượng Quan Đẩu không hổ danh là thợ rèn, xương đồng da sắt, hình phạt thảm khốc như vậy, tuy có khóc, có gào, nhưng tuyệt nhiên không một lời van xin. Cụ đi lại hai lượt trên lưỡi mai, đôi bàn chân không còn ra hình thù gì nữa... Sau đó, bọn quan lại giết chết cụ tổ, chặt lấy đầu đem đi triển lãm tại thủ phủ Tế Nam.
- Đại ca, hòm hòm rồi đấy - Anh đội viên hứa sẽ dùng mỡ con hoan chữa bỏng cho Tư Mã Khố, bảo với Tư Mã Khố như vậy - chuyến tầu trước lúc trời sáng sắp đến rồi.
Dưới chân cầu đã có hàng chục thanh sắt nằm ngổn ngang, tia lửa tràng xanh vẫn đang hoạt động phía trên.
- Mẹ kiếp! - Tư Mã Khố nói - Chúng tưởng bở! Cậu có đảm bảo cầu sẽ gục không?
- Đại ca, cắt nữa thì tầu chưa đến, cầu đã gục!
- Vậy thì thôi, kỹ sư Khương, kỹ sư Khương, xuống đi! - Tư Mã Khố nói to - Các cậu đỡ hai hảo hán này xuống, thưởng cho mỗi người một chai rượu!
Những tia lửa tắt phụt. Các đội viên đỡ kỹ sư Thương và cậu giúp việc xuống, dìu lại chỗ xe trượt. Trước khi trời sáng, gió ngừng thổi, trời càng lạnh, như cắt da cắt thịt. Những con ngựa Mông Cổ kéo xe trượt, mò mẫm đi trong bóng đêm. Chùng hai dặm, Tư Mã Khố ra lệnh dừng lại. Anh ta nói:
- Vất vả cả một đêm, xem cho đã mắt!
Khi mặt trời vừa ló thì đoàn tầu đến. Khúc sông hừng sáng. Cây cối hai bên bờ lấp lánh ánh vàng, ánh bạc. Chiếc cầu nằm im. Tư Mã Khố luôn xoa tay tỏ vẻ sốt ruột, miệng lẩm bẩm chửi tục. Con tầu đồ sộ oai phong lẫm liệt trườn tới, gần tới cầu kéo một hồi còi vang dội. Đầu tầu nhả khói đen, phụt hơi trắng giữa khoảng cách các bánh, tiếng va đập khiến người rừng mình, rung cả mặt băng trên sông. Các đội viên thấp thỏm nhìn đoàn tầu. Ngựa Mông Cổ cụp tai ra phía sau, áp sát tận bờm. Đoàn tầu ngất ngưởng trườn lên cầu, thô bạo và man rợ. Chiếc cầu vẫn uy nghi, không hề rung chuyển. Trong một thoáng, Tư Mã Khố và các đội viên mặt trắng bệch, nhưng chỉ một giây sau đó, họ đã nhay cỡn trên băng mà hoan hô. Người to miệng nhất là Tu Mã Khố, nhảy lên cao nhất cũng là Tư Mã Khố, mặc dù vết thương ở mông quả thật trầm trọng. Chiếc cầu chỉ trong một giây rụng xuống cùng với tà vẹt, đường ray, đá dăm, bê tông và cái đầu tầu. Đầu tầu dập vào mố cầu, mố cầu đổ theo, sau đó mới nghe một tiếng ầm dinh tai nhúc óc, rồi sau đó mới thấy đất đá, những mẩu tà vẹt, những mẩu sắt cong queo, và những mảnh băng tung lên cao mấy chục trượng, loang loáng trong nắng sớm. Rồi tiếp đó là mấy chục toa chở đầy hàng tông vào nhau, toa rơi xuống sông, toa đổ kềnh bên đường ray, tiếng ầm ầm không dứt bắt đầu từ toa chở thuốc nổ rồi lan sang các toa chở đạn được. Băng trên sông nứt vỡ, nước sông trào lên, trong nước có tôm cá, có cả những con cua mai màu xanh. Một cẳng chân người còn nguyên cả giày ủng văng trúng đầu con ngựa Mông Cổ. Con ngựa bị choáng, hai chân khuỵu xuống mặt băng, ướt đẫm cả một mảng lông. Một bánh tầu nặng dễ hàng tấn văng xuống làm tung lên một cột nước toàn là đất bùn. Những tiếng nổ đanh làm cho Tư Mã Khố ù đặc cả hai tai, anh ta trông thấy lũ ngựa Mông Cổ chạy tán loạn cùng với những cỗ xe trượt chẳng khác những con nhặng bị ngắt đầu, các đội viên hoặc đứng hoặc ngồi, cứ ngẩn ra mà nhìn, có người chảy cả máu tai. Tư Mã Khố gào lên, chính anh ta cũng không nghe thấy tiếng của mình. Các đội viên há miệng, hình như cũng đang kêu lên, nhưng chính họ cũng không nghe thấy tiếng của họ.
Tư Mã Khố rất vất vả mới đưa được chiếc xe trượt của anh ta trở lại chỗ cắt băng hôm qua. Chị Hai dẫn chị Ba, chị Tư lại ra chỗ đó lấy nước bắt cá. Những cái lỗ băng hôm qua, chỉ qua một đêm đã bị lấp kín, băng dày một móng tay. Chị Hai dùng choòng ngắn dập vỡ băng. Đội quân của Tư Mã Khố đã rút hết về đây, những con ngựa Mông Cổ tranh nhau uống nước. Vài phút sau khi uống no, những con ngựa chân lẩy bẩy ngã vật xuống, chỉ lát sau tất cả đều chết. Nước lạnh khiến những lá phổi nở hết cỡ của chúng bị vỡ.
Sáng sớm hôm đó, toàn bộ sinh linh vùng Cao Mật: người, lừa ngựa, trâu bò, gà chó, ngan ngỗng... ngay cả những con rắn đang ngủ đông trong hang, đều cảm nhận được tiếng nổ khủng khiếp từ phía tây nam dội tới. Những con rắn tưởng đó là sấm mùa xuân, tranh nhau bò ra khỏi hang, chết cóng hết ở ngoài đồng. Tư Mã Khố dẫn các đội viên về thôn để chấn chỉnh đội ngũ, chửi họ bằng tất cả những câu tục tĩu nhất của Trung Quốc, nhưng họ chẳng nghe thấy gì cả, còn tưởng rằng đang được biểu dương vì trông thấy nét mặt dương dương tự đắc của anh ta khi chửi. Ba cô vợ của Tư Mã Khố thi nhau đưa ra bài thuốc gia truyền của mình, chữa bỏng và chữa cóng ở mông cho anh chồng chung. Thường là cô vợ cả vừa dán miếng cao lên mông chồng, cô vợ hai đã bê lại một chậu nước thuốc, sắc từ hơn chục vị thuốc quí lột bỏ cao dán, rửa mông sạch sẽ, cô vợ ba đã lập tức đem tới thuốc bột tinh chế từ lá trắc bách diệp, đông thanh căn, trứng gà, râu chuột xù... Liên tục như vậy, khiến cái mông của Tư Mã Khố hết khô lại ướt, hết ướt lại khô, vết thương mới đỡ lên vết thương cũ, đến nỗi Tư Mã Khố phải mặc luôn quần vào, thắt hai thắt lưng, trông thấy bóng ba cô vợ là cầm ngay lấy búa hoặc lên cò súng. Vết thương ở mông chưa khỏi, nhưng thính lực thì đã khôi phục.
Khi tai đã nghe được, thì câu đầu tiên là câu chửi của anh trai:
- Mày là đồ chó chết! Cả thôn sẽ bị tai họa vì mày, cứ đấy mà xem?
Tư Mã Khố giơ bàn tay nhỏ nhắn nhưng mũm mĩm như bàn tay anh trai, nắm lấy cằm Tư Mã Đình. Anh ta nhìn mấy sợi râu trê trên mép anh trai, những sợi râu quăn queo vàng ệch và những vết nứt nẻ trên môi, lắc đầu thương hại:
- Tôi và anh đều là hạt giống của cha, chửi tôi tức là chửi anh, anh cứ chửi đi, chửi cho đã!
Nói xong bỏ tay ra.
Tư Mã Đình cứng họng, nhìn từ sau lưng thân hình to lớn của em trai, lắc đầu tỏ vẻ bất lực. Lão cầm thanh la, bước ra khỏi nhà, lóng ngóng trèo lên tháp canh, ngóng về hướng tây bắc.
Tư Mã Khố dẫn các đội viên trở lại chỗ cầu sắt một lần nữa lôi về những thanh đường ray cong queo, một bánh tầu hỏa còn nguyên sơn đỏ, và một đống đồng nát sắt vụn, bày ra trước cổng chính của giáo đường để khoe với bà con nông dân. Hai bên mép sùi bọt, anh ta kể đi kể lại anh ta đã phá cầu, lật đổ đoàn tàu của quân Nhật như thế nào, mỗi lần kể lại thêm những tình tiết mới, càng kể càng phong phú, càng thú vị, đến nỗi về sau không kém chuyện Phong Thần. Chị hai Chiêu Đệ trở thành thính giả trung thành của anh ta, lúc đầu là thính giả sau trở thành nhân chứng của vũ khí mới, rồi cuối cùng là người tham gia vào việc phá cầu, y như chị cùng Tư Mã Khố trèo lên mố cầu, rồi cùng bị ngã, khi Tư Mã Khố đau ở chỗ mông thì chị cũng cắn răng, như là chị cũng đau ở mông.
Đúng như mẹ nói, đàn ông nhà Tư Mã ai cũng điên điên khùng khùng. Cô gái mù trong chum, xinh đẹp vô cùng nhưng hai mắt thong manh, khi nói không ai hiểu là nói gì, không những không nghe rõ lời, mà cũng không hiểu ý tứ ra sao? Cô không phải là hồ ly tinh hiện hình thì cũng là bệnh tâm thần! Bạn thử nghĩ, con cháu của người đàn bà như vậy, làm sao bình thường được. Mẹ cũng nhận ra nỗi lòng của Chiêu Đệ, dự cảm sẽ tái diễn chuyện như Lai Đệ. Mẹ lo lắng nhìn rất lâu vào ánh mắt háo hức đáng ngại trong con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát của chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực? Mẹ nói:
- Chiêu Đệ, con gái của mẹ, con đã làm là bao?
Chị mở to cặp mắt, cãi:
- Bằng tuổi con, mẹ đã lấy bố con rồi! Mẹ còn kể, năm mười sáu tuổi, dì đã đẻ sinh đôi, cả hai đứa trẻ đều rất mập.
Đến nước này thì mẹ cũng đành lắc đầu thở dài. Nhưng chị Hai vẫn dấn tới:
- Con biết mẹ đình nói anh ta đã có ba vợ. Con sẽ làm vợ thứ tư. Con biết mẹ định nói anh ta nhiều tuổi hơn mẹ. Con với anh ta không cùng họ, càng không phải đồng tông, chẳng phải cái gì hết!
Mẹ từ bỏ quyền quản chế chị Hai, mặc chị muốn làm gì thì làm. Bề ngoài mẹ tỏ ra bình tĩnh, nhưng qua mùi vị của sữa, tôi biết trong lòng mẹ đang nổi gió. Trong những ngày chị Hai cặp kè với Tư Mã Khố, mẹ cùng sáu chị khác của tôi đào một đường hầm từ hầm củ cải thông ra bên ngoài bức tường phía nam, chỗ có một đống rơm rạ. Đất đào lên, phần thì đổ xuống hố phân, phần thì rải trong chuồng lừa, còn phần lớn thì đổ xuống giếng cạn chỗ cây rơm.
Tết Nguyên đán bình yên trôi qua. Trong đêm nguyên tiêu, mẹ địu tôi trên lưng, dẫn sáu chị ra phố xem đỡn. Trong thôn, nhà nào cũng treo đèn, nhưng đều là đỡn nhỏ, chỉ có nhà Phúc Sinh Đường treo hai chiếc đèn lồng to bằng hai cái ang đụng nước ở hai bên cổng, bên trong là hai cây nến to hơn bắp tay tôi, ánh nến lung linh, đẹp mắt. Chị Hai đi đâu, mẹ cũng không hỏi. Chị đã trở thành chiến sĩ du kích của gia đình tôi, có khi ba ngày không về nhà, có khi về bất chợt. Trong đêm trừ tịch, chúng tôi đang chuẩn bị đốt pháo mừng thần tài, chị khoác chiếc áo choàng đen trở về. Chị cố ý khoe chiếc thắt lưng da ôm chặt vòng eo và khẩu súng lục kiểu cối xay nặng chĩu, sáng ngời ánh thép. Mẹ nói mỉa:
- Không ngờ nhà Thượng Quan lại nảy nòi một con ngựa vía.
Nói rồi mẹ chau mày ủ rũ. Chị Hai lại cười, một nụ cười thiếu nữ, khiến mẹ cảm thấy còn có cơ cứu vãn bước đường sai lầm của chị. Thế là mẹ bảo:
- Chiêu Đệ, mẹ không bằng lòng cho con làm vợ bé Tư Mã Khố!
Chiêu Đệ cười nhạt, cái cười cay độc của đàn bà, niềm hy vọng vừa nhen lên trong mẹ, lập tức tắt ngấm.
Ngày mồng một tết, mẹ đến nhà dì chúc tết, nhắc đến chuyện Lai Đệ và Chiêu Đệ. Dì là một người từng trải. Dì nói:
- Chuyện bọn con gái cứ phải để vậy thôi. Với lại chị có hai con rể như Tư Mã Khố và Sa Nguyệt Lượng thì còn lo nỗi gì? Chúng là hai con đại bàng!
Mẹ nói:
- Cháu chỉ sợ chúng nó không được chết trên giường!
Bà dì nói:
- Chết trên giường phần lớn là đồ bị thịt!
Mẹ còn định ca cẩm, nhưng bà dì sốt ruột, xua tay như đuổi ruồi không cho mẹ nói tiếp. Bà nói:
- Cho dì xem thằng cu nào!
Mẹ bế tôi ra khỏi túi đặt trên giường. Tôi sợ hãi nhìn khuôn mặt nhỏ bé, đầy vết nhăn và cặp mắt xanh tinh tường nằm giữa hai hốc mắt của bà. Lông mày thì không có, trái lại, quanh viền mắt lại đầy những lông mi màu vàng. Bà giơ bàn tay khô khỏng xoa đầu tôi, kéo tai tôi bóp nhẹ mũi tôi, thậm chí thọc tay vào giữa hai dùi sờ chim tôi. Tôi rất ghét cái lối sờ soạng có tính chất hạ nhục ấy, cố bò ra mép giường. Bà túm lấy tôi, quát to:
- Thằng con lai, đứng lên xem nào!
Mẹ nói:
- Dì ơi, nó mới được bảy tháng, đứng lên thế nào được?
Bà nói:
- Tao lúc bảy tháng đã ra ổ gà lấy trứng cho bà ngoại rồi!
- Dì ơi đó là dì, dì không phải con người bình thường!
Bà nói:
- Thằng nhỏ này, ta thấy cũng không phải là người bình thường! Tiếc cái ông Malôa quá!
Mẹ đỏ mặt, rồi tái nhợt. Tôi bò đến bên cửa sổ, bám gờ cửa đứng lên. Bà dì vỗ tay:
- Xem kìa, ta bảo nó đứng dậy là nó đứng dậy. Quay lại đây, thằng con lai.
- Dì ơi, nó tên là Kim Đồng, sao dì cứ gọi là thằng con lai?
- Con lai hay không, chỉ có mẹ nó biết, phải không, cô cháu ruột của ta! Với lại ta thích gọi thằng con lai, thằng nước, thằng súc sinh, thỏ con... đều là gọi yêu. Thằng con lai, lại đây.
Tôi quay lại, hai chân lẩy bẩy, nhìn mẹ nước mắt đầm đìa. - Kim Đồng, con yêu của mẹ! - Mẹ giơ hai tay gọi tôi.
Tôi nhào vào lòng mẹ. Tôi biết đi rồi. Mẹ ôm chặt tôi, lẩm bẩm:
- Con trai tôi biết đi rồi!
Bà dì giọng nghiêm trang, nói:
- Con cái như đàn chim, khi chúng đã biết bay thì có giữ cũng chẳng giữ nổi. Cháu thế nào? Ta nói là họ chết cả rồi, cháu sống ra sao?.
Mẹ nói:
- Cháu sống được.
Bà dì cao giọng, nói:
- Được hay không là ở chỗ khi có chuyện thì phải nghĩ rộng trên trời dưới biển, chí ít cũng phải ngang tầm quả núi, đừng tự mình làm khổ mình. Cháu có hiểu ý ta không?
Mẹ nói:
- Cháu hiểu.
Khi cáo từ ra về, bà dì hỏi:
- Mẹ chồng cháu còn sống không?
Mẹ nói:
- Còn sống, giường cứt chiếu đái trong chuồng lừa!
Bà dì nói:
- Cả đời hung hăng, ai ngờ đến nông nỗi ấy!
Nếu không có buổi trao đổi riêng tư hôm mồng một tết, thì tôi chưa thể bảy tháng đã biết đi, mẹ cũng khó mà vui vẻ dẫn chúng tôi đi xem đèn ngoài phố, chúng tôi chỉ ăn một cái tết nguyên tiêu vô vị, và như vậy lịch sử của gia đình tôi không phải như bây giờ. Người trên đường nườm nượp, nhưng hầu như toàn những khuôn mặt không quen. Một không khí đoàn kết yên vui giữa mọi người. Trẻ con dốt pháo chuột, len lỏi trong đám đông. Chúng tôi dừng lại trước cổng nhà Phúc Sinh Đường, ngắm nhìn hai quả đèn lồng to như hai chum nước treo hai bên cổng. ánh đèn rạng rỡ chiếu sáng tấm biển Phúc Sinh Đường. Cổng nhà Phúc Sinh Đường mở rộng, khoảng sân hun hút đèn nến sáng.trưng, tiếng ồn ào rộ lên từng đợt. Rất đông người tụ tập ngoài cổng, khoanh tay đứng im như đang chờ đợi. Chị Ba vốn lắm lời, hỏi người bên cạnh:
- Bác ơi, sắp phát chẩn hả bác?
Người đó không biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu. Một người đứng phía sau nói:
- Cô bé, làm gì có chuyện phát chẩn? Chị Hai quay lại hỏi:
- Không phải phát chẩn thì có chuyện gì vậy?.
Người kia nói:
- Diễn kịch hiện đại, nghe đâu có nghệ sĩ xuất sắc từ Tế Nam về biểu diễn.
Chị Hai còn định hỏi nữa, nhưng mẹ véo cho chị một cái, nên thôi.
Rồi, bốn người từ bên trong nhà Tư Mã đi ra, trên tay cầm bốn cây sào dài, đầu sào treo bốn vật đen sì, phun lửa chói mắt, sáng như ban ngày, không, sáng hơn ban ngày. Trên tháp chuông cách nhà Tư Mã không xa, đàn bồ câu bay tán loạn, vụt qua vùng sáng rồi mất hút vào màn đêm. Trong đám đông có người xuýt xoa đèn khí. Từ đó, chúng tôi mới biết, ngoài đèn đầu lạc, đèn đầu hỏa, đèn huỳnh quang, còn có đèn khí sáng nhức mắt. Bốn đại hán đen nhẻm chia nhau đứng thành một hình vuông trước cổng chẳng khác bốn cây cột nhà cháy. Trong cổng lại có mấy người khênh ra một tấm chiếu cói cuộn thành hình ống. Họ dặt cuộn chiếu xuống khoảnh đất hình vuông giữa bốn người kia, cơi dây buộc, tấm chiếu tự động mở ra. Họ cúi xuống túm lấy góc chiếu, còn hai chân thì đi chuyển những buộc ngắn mà nhanh. Do nhịp bước nhanh và ánh sáng những cây đèn quá mãnh liệt, nên chúng tôi bị hiện tượng lưu ảnh trong mắt, nhìn người nào cũng có ít nhất là bốn chân, giữa hai chân còn có luồng ánh sáng trong suốt và chằng chịt như mạng nhện, thành thử trông như họ đang giẫy giụa trong một cái mạng nhện khổng lồ. Trải chiếu xong, họ chào khán giả bằng điệu bộ của phường tuồng, mặt người nào cũng hóa trang thành một loại thú: báo, hươu sao, mèo rừng, có người hóa trang thành con hoan, một loại chồn khuôn mặt rằn ri, chuyên ăn vụng đồ cúng trong miếu. Chào xong, họ rút lui theo vũ điệu ương ca, hai bước tiến một bước lùi, vào trong sân nhà Phúc Sinh Đường.
Trong tiếng réo ù ù của đèn khí đốt, chúng tôi im lặng chờ đợi, chiếc chiếu mới tinh cũng đang chờ đợi. Bốn đại hán đen nhẻm, đã biến thành bốn tượng đá, tay giơ cao bốn cây đèn khí đốt. Một hồi não bạt rung lên, chúng tôi vô cùng náo nức, mọi ánh mắt đều nhìn vào trong cổng. Tôi có cảm tưởng chờ đợi đã nửa đời người mới thấy ông chủ Phúc Sinh Đường, Trưởng trấn Đại Lan, đương kim Trưởng An ninh thị trấn Tư Mã Đình với bộ mặt âu sầu bước ra. Lão xách trên tay chiếc thanh la méo mó vì bị gõ hàng tỉ lần, đi vòng quanh sân khấu một cách gượng gạo rồi dừng lại ở giữa chiếu, nói với khán giả:
- Các vị hương đảng, các cụ ông cụ bà, các bác các chú, các anh các chị, các cô các dì và các em! Anh em Tư Mã tôi đánh sập cầu, diệt đoàn tàu, tin thắng trận bay đi muôn ngả! Xa gần đều hỉ hả, quà tặng thư khen chất đầy nhà. Để ăn mừng thắng lợi vĩ đại này, anh em tôi có mời một ban hát về biểu diễn. Họ sắp sửa phấn son trình diện, diễn tích mới để giáo dục chung, ăn tết vui chớ quên chống Nhật, quyết đánh Nhật gìn giữ quê hương! Tư Mã Đình là đấng nam nhi, không chịu làm tay sai cho giặc. ới bà con, người Trung Quốc chúng ta, không bao giờ làm tay sai cho giặc!
Nói xong những lời có vần có vè ấy, Tư Mã Đình cúi chào, xách thanh la chạy vào va phải những người đang đi ra: một cây nhị, một cây sáo ngang, một cây tì bà. Các nhạc công này nách kẹp nhạc cụ, tay cầm ghế đẩu, tiến ra sân khấu.
Các nhạc công ngồi bên cạnh chiếc chiếu, so dây tưng tửng, lấy độ cao của sáo làm chuẩn. Cao thì hạ thấp, thấp thì tăng cao. Thống nhất giữa nhị, sáo và tì bà xong, họ dạo một đoạn tay ba, rồi dừng lại, chờ đợi. Rồi trống, thanh la, não bạt, phách kéo ra, ngồi đối diện với các nhạc công rồi tấu lên một hồi đinh tai nhức óc. Tiếng thanh la nhát gừng, tiếng trống điểm, tì bà, nhị, sáo cùng nổi lên, níu chân chúng tôi lại không cho bỏ đi, giữ hồn chúng tôi lại không cho nghĩ sang chuyện khác. Làn điệu lê thê, ai oán bi lụy, lúc thì nức nở, lúc não nuột. Đó là khúc gì nhỉ? Đó là một làn điệu vùng Cao Mật với giọng rướn cao, tục gọi là đóng cọc vợ. Điệu này mà hát lên là đảo lộn cương thường, nghe điệu này là quên cha quên mẹ. Thế là, cùng với tiếng phách, người nghe chân gõ nhịp, môi mấp máy và con tim thì lồng lên. Sự chờ đợi của chúng tôi căng thẳng như dây cung kéo hết cỡ... Một giọng rướn cao, lúc sắp kết thúc lại tăng lên một cung bậc nữa, vút tận trời xanh. Em là thiếu nữ dịu dàng... này... Trong dư âm của tiếng hát lả lơi, chị Hai Chiêu Đệ đầu cài bông hồng nhưng, mặc áo cài cúc lệch màu xanh sĩ lâm, quần chùng, giày thêu, tay trái khoác làn, tay phải cầm dùi gõ, bước đi như lưu thủy, từ trong cổng lướt ra sân khấu. Chị dừng lại giữa chiếu, ngay dưới ánh đèn, chào khán giả. Không phải lông mày mà là vầng trăng lưỡi liềm, mắt sắc như nước, mũi dọc dừa, cặp môi mọng, đỏ hơn hoa anh đào tháng Năm. Một khoảng im lặng, hàng vạn cặp mắt nhìn không chớp, hàng vạn trái tim ngừng đập, nín thở, rồi tất cả bật ra lời tán thưởng. Tiếp đó, chị Hai nhún chân nghiêng mình đảo một vòng quanh sân khấu, thân hình lả lướt như cây liễu bên hồ, chân bước nhẹ nhàng như rắn mạch tiêu trên ngọn lúa. Tối hôm đó tuy trời không gió, nhưng rất lạnh, chị Hai mặc bộ đồ mỏng, mẹ kinh ngạc khi nhận ra rằng, từ sau ngày ăn thịt con lệch, cơ thể chị Hai rất phát triển, hai trái lê đầy đặn và rất đẹp trước ngực, kế thừa truyền thống vú to mông nây của nhà Thượng Quan. Chị Hai dạo một vòng, hơi thở bình thường, thần sắc không thay đổi, hát tiếp câu thứ hai:.. kết duyên cùng anh hùng Tư Mã Khố. Câu này đều đều, không có đoạn vút lên cao, nhưng tác động thì lại ghê gớm. Khán giả thì thầm hỏi nhau:
- Con nhà ai thế!
- Con gái nhà Thượng Quan đấy!
- Con gái nhà Thượng Quan chẳng phải đã bỏ nhà đi theo đội trưởng Đội Hỏa-Mai rồi sao?
- Đây là đứa thứ hai.
- Làm vợ bé Tư Mã Khố từ hồi nào vậy?
- Đ. mẹ các vị, đây là diễn kịch! - Đ. mẹ các vị, câm mồm!
Chị ba Lãnh Đệ và các chị gào lên để thanh minh cho chị Hai. Đám đông tạm thời im lặng.
Chồng tôi là chuyên gia phá cầu. Tết Đoan dương dùng rượu đánh hỏa công, cầu Thuồng Luồng lửa xanh trùm kín, bọn giặc lùn kêu mẹ khóc cha! Mông bị thương chàng không bỏ cuộc, đêm hôm qua mưa gió đầy trời, chàng lại phá sập đường sắt....
Tiếp theo, chị Hai làm động tác đục băng, giặt giũ quần áo. Chị giả vờ xuýt xoa vì rét, chẳng khác chiếc lá khô còn vương trên cành giữa mùa đông. Khán giả như bị nhập cuộc, người thì xuýt xoa than thở, kẻ lau nước mắt. Đột nhiên, chị Hai đứng vụt dậy nhìn về phương xa...
Hướng tây nam tiếng nổ vang trời, ánh lửa hồng rừng rựectrong đêm, nhất định là chúng tôi đã thắng, lũ giặc lùn đi chầu Diêm vương. Tôi trở về nhanh tay hầm rượu, vặt con gà làm một bát ninh....
Rồi chị Hai làm bộ thu dọn quần áo, hát tiếp: Ngẩng lên nhìn, gặp một con lang.... Những người khênh chiếu khi nãy mặt vẽ rằn ri, lộn vòng tròn ra sân khấu, vây quanh chị Hai, người cào người cấu, chẳng khác nào bốn con mèo vây quanh một con chuột. Người mặt vẽ sọc như con hoan hát giọng quái gở: đội trưởng Kaxi chính là ta, ta đang tìm cô gái mặt hoa. Nghe nơi đây người đẹp đầy đường, ngước mắt nhìn gặp ngay một ả Nương tử ơi, xin hãy dừng chân, theo ta về cùng nhau hưởng phúc. Liền sau đó, bốn người áp sát chị Hai. Chị Hai cứng người lại thẳng như một khúc gỗ, bốn tên giặc Nhật nâng chị cao quá đầu, đi vòng quanh chiếu. Thanh la não bạt dồn dập như giông bão. Khán giả kích động sán lại gần. Mẹ quát to:
- Để con gái tôi xuống - vừa quát vừa xông lên sân khấu.
Tôi đứng thẳng hai chân trong túi, có cảm giác giống như sau này tôi cưỡi ngựa. Mẹ giơ hai tay như chim ưng sắp vồ con thỏ, ghì chặt hai chân đội trưởng Kaxi. Hắn kêu lên đau đớn rồi bỏ tay ra. Ba tên kia cũng rụt tay về. Chị Hai ngã thẳng cẳng trên chiếu, ba người kia bỏ chạy. Mẹ tôi ngồi lên bụng Kaxi, cào xé mặt anh ta. Chị Hai kéo tay mẹ, lớn tiếng trách:
- Mẹ ơi, đây là diễn kịch, không phải thật!
Có mấy người chạy ra, gỡ Kaxi khỏi tay mẹ. Đội trưởng Kaxi mặt đầy máu, bỏ chạy vào trong cổng. Mẹ thở hồng hộc, vẫn chưa hết giận, nói:
- Dám hà hiếp con gái ta nữa thôi?
Chị Hai nổi cáu:
- Mẹ, kịch hay thế mà mẹ phá đám.
Mẹ bảo:
- Chiêu Đệ, về nhà đi con, con không nên diễn loại kịch này.
Mẹ giơ tay kéo chi Hai Chị gạt tay mẹ ra, rầu rĩ:
- Mẹ đừng bêu xấu con ở chỗ này! Mẹ nói:
- Chính con bêu xấu mẹ! Về nhà!
Chị Hai nói:
- Con không về.
Lúc này Tư Mã Khố hát giọng nam cao bước ra: Đánh sập cầu, ta thúc ngựa trở về.... Anh ta đi ủng, dội mũ lính, tay cầm roi da, xuống ngựa - con tuấn mã tưởng tượng - chân di chuyển, người nhấp nhô như sóng, hai tay giữ dây cương vô hình, làm bộ phi ngựa. Chiêng trống rầm trời, đàn sáo réo rắt, nhất là cây sáo ngang khiến người tâm thần mê mẩn, không phải vì kinh sợ, mà vì sức truyền cảm. Tư Mã Khố mặt đanh lại, hát tiếp: Trên đê chợt nghe tiếng ồn ào, ra roi thúc ngựa đến xem sao?.. Hồ cầm mô phỏng tiếng vó ngựa, cộp cộp... cộp cộp... Lòng như lửa dốt, ngựa ruổi như bay, một bước gộp nửa, ba bước gộp hai... Chiêng trống càng gấp, đánh gót, nhích chân, đại bàng nghiêng cánh, trâu già vận hơi, sư tử hí cầu... Tư Mã Khố biểu diễn toàn bộ những tuyệt kỹ của anh ta, khó mà nghĩ rằng mông đít anh ta đang dán miếng cao nặng nửa cân.
Chị Hai sốt ruột đẩy mẹ ra. Mẹ vẫn chửi sơi sơi nhưng đã lui về chỗ cũ. Ba diễn viên sắm vai lính Nhật lách vào giữa lại định nâng chị Hai lên. Đội trưởng Kaxi đã mất tăm, ba người còn lại đành phải hai người khênh đằng đầu, một người khênh hai chân, mái tóc hoa râm của anh ta kẹp giữa hai chân chị Hai trông thật ngộ, khán giả cười rũ. Cái đầu kẹp giữa hai chân nháy mắt nhíu mày, khán giả càng cười, lại càng nhíu mày nháy mắt. Tư Mã Khố tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn hát tiếp: Chợt nghe tiếng người huyên náo, giặc Nhật kia giở thói ngông cuồng, không kể hiểm nguy ta liều xông tới làm điệu bộ túm tay.
- Dừng ngay! Tư Mã Khố túm tóc trên cái đầu kẹp giữa hai chân chị Hai, quát to. Tiếp đó là cảnh đấu võ, vốn là bốn đấu một, nay chỉ còn ba đấu một. Sau một trận đánh xáp lá cà, Tư Mã Khố đã đánh bại quân Nhật, cứu thoát vợ. Giặc Nhật quì trên chiếu, Tư Mã Khố dắt tay chị Hai trong tiếng nhạc tung bừng phấn khởi đi vào trong cổng. Sau đó bốn người cầm đèn khí đốt đột nhiên sống lại, vác sào chạy vào trong, ánh sáng không còn nữa, trước mắt chúng tôi là màn đêm đen kịt.
Sáng sóm hôm sau, quân Nhật chính cống bao vây thôn. Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng ngựa hí lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ bế tôi dẫn bảy chị xuống hầm, bò một đoạn tối tăm ướt át và lạnh, đến chỗ hầm rộng. Mẹ thắp đèn. ánh đèn vàng vọt, chúng tôi ngồi trên cỏ khô, lắng nghe động tĩnh bên trên. Không rõ thời gian đã trôi đi bao lâu, có tiếng thở phì phò ở đoạn hầm phía trước. Mẹ cầm lấy cái kìm rèn sắt, thổi tắt ngọn đèn trong hốc vách hầm. Trong hầm lập tức tối đen. Tôi khóc, mẹ nhét đầu vú vào miệng tôi. Tôi cảm thấy đầu vú của mẹ lạnh ngắt và cúng, mất hẳn tính đàn hồi, còn có vị vừa mặn vừa đắng.
Tiếng thở ngày càng gần, mẹ giơ cao chiếc kìm. Khi đó tôi nghe rõ tiếng chị Hai đã lạc cả giọng:
- Mẹ ơi, mẹ đừng đánh, con dây mà!...
Mẹ thở ra một hơi, hai tay cầm kìm buông thõng:
- Chiêu Đệ, con làm mẹ sợ chết khiếp - mẹ nói.
- Mẹ thắp đèn lên đi, phía sau còn có người - chị Hai nói.
Mẹ rất vất vả mới thắp được đèn lên. ánh đèn vàng vọt lại chiếu sáng căn hầm. Chúng tôi nhìn chị Hai lấm bùn từ đầu đến chân. Trên má chị có một vết máu, trong tay ôm một cái bọc. - Bọc gì đấy? Mẹ hoảng sợ, hỏi. Miệng chị Hai chợt méo xệch, nước mắt chảy trên khuôn mặt lem luốc:
- Mẹ ơi! chị nức nở, đây là con trai của bà Ba.
Mẹ sững người, nổi điên lên:
- ở đâu thì đem trả về đó!
Chị lết bằng đầu gối, ngửa mặt nhìn mẹ:
- Xin mẹ mở lòng từ bi, anh ấy bị giết cả nhà, chỉ còn mỗi hạt giống này....
Mẹ lật một góc cái bọc, lộ ra khuôn mặt choắt vừa gầy vừa đen của thằng nhỏ nhà Tư Mã. Nó đang ngủ say. Nó thở đều đều, miệng chóp chép như đang bú. Tôi căm thằng nhỏ quá đỗi. Tôi nhả đầu vú ra, gào thật to. Mẹ bịt miệng tôi bằng cái đầu vú càng đắng hơn.
- Mẹ có bằng lòng cho nó ở lại không? - Chị Hai hỏi.
Mẹ nhắm mắt, không trả lời.
Chị Hai dúi thằng nhỏ vào lòng chị Ba, quì xuống lạy mẹ một lạy, vừa khóc vừa nói:
- Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ.
Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại, hỏi:
- Mày đi đâu bây giờ?
Chị Hai nói:
- Mẹ ơi, chân anh ấy bị thương, hiện nấp ở chỗ cối xay bột. Con phải đi tìm anh ấy!
Lúc này, bên ngoài vọng lại tiếng chân ngựa và tiếng súng chói tai. Mẹ nghiêng người bịt lấy lối ra hầm củ cải, nói:
- Mẹ đồng ý với con bất cứ điều gì, nhưng không thể để con đến chỗ chết!
Chi Hai nói:
- Mẹ ơi, chân anh ấy máu cứ chảy mãi. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết, thì con sống còn có ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi...
Mẹ kêu trời, nhưng sau đó im bặt.
Chị Hai nói:
- Mẹ, con gái mẹ xin lạy mẹ đây!
Chị quì xuống, dập đầu lạy, ấp mặt vào bắp chân mẹ một thoáng, rồi chị nhắc chân mẹ sang một bên, chui ra ngoài.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Mõ Hà nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---