Phú

Vậy thì Meta sẽ viết tiếp bài về Phú, Văn tế, cuối cùng là Lẩy Kiều. Có cách nào bỏ loạt bài này vào trong thư viện sách truyện được không? Trả lời câu hỏi có phải Hát nói thoát thai từ phú không, thì thưa không. Hát nói thoát thai từ song thất lục bát do các văn nhân thi sĩ thích ăn chơi hồi đầu thế kỷ 19 chế biến ra. Phú thì bắt nguồn và biến thể từ hát Sở Từ thời thượng cổ dùng để hát khi cúng tế hay nghi lễ triều đình. Hát nói và Phú hoàn toàn khác nhau.
Quy ước Meta: Từ bây giờ các bài phú, văn tế đều trình bày theo thể 2 câu đối nhau phân định bằng dấu chấm phẩy rồi mới xuống hàng. Ví dụ:
Mặt đâu tới lãnh bằng ngày nọ; Xác nào ra đầu thú hôm "nay".
-Đã thề nguyền hết sức đánh "Tây"; Đâu sợ chết cúi mình theo "giặc".
Luôn luôn mỗi xuống hàng là 1 cặp câu đối nhau.
Phú.
I - PHÚ
Chúng ta khi có trí khôn, phán đoán đầu tiên là phàm mọi sự việc trên đời chỉ gồm 2 giá trị là không và có. Lúc nằm nôi ta khóc đòi sữa. Khi nắm chắc bình sữa mẹ trao, ta nín khóc vì ta biết ta có. Giật bình sữa ra, ta khóc ngay vì ta mất, nói khác đi, vì ta không có. Lớn lên, sự việc không còn đơn giản nữa. Giữa không và có phải có 1 giá trị thứ ba nữa vì nó không hẳn là không mà cũng không hẳn là có. Một tù nhân cải tạo, suốt một ngày lao động khổ sai, chỉ được lưng chén cơm và chiều về thì nhịn đói. Nếu ta hỏi: Anh có được ăn cơm chưa? Trả lời có cũng chẳng đúng mà trả lời không cũng chẳng đúng. Trong ngành sinh vật học có những sinh vật nằm chính giữa ranh giới của động và thực vật: Loài vi khuẩn có thể tổng hợp ánh sáng như thực vật để tạo dinh dưỡng tự nuôi cơ thể mà cũng vừa có khả năng dời chỗ bằng những chức năng chuyên trách về di chuyển. Có những loại nguyên sinh động vật tự di chuyển được nhưng cũng có diệp lục tố để tự tổng hợp quang học trong tiến trình tự dinh dưỡng. Lại có những loại động vật không có khả năng di chuyển như san hô, suốt đời nằm một chỗ. Lại có những loại nằm giữa sống và chết như vi trùng: Trong môi trường thích hợp, vi trùng có khả năng sinh sản như một sinh vật nhưng nếu không có điều kiện thuận lợi, vi trùng chỉ là 1 vật thể không sự sống.
Trong văn học, ta thường phân loại những tác phẩm thành thơ và văn. Văn thì không có vần luật bằng trắc và thơ thì ngược lại. Đời sống mầu nhiệm ở sự muôn mầu muôn vẻ. Văn học cũng thế, thiên hình vạn trạng. Nếu chỉ có hai loại thơ và văn không thôi, hoá ra văn học đơn giản lắm sao? Chúng ta cũng có những thể loại gọi là văn cũng không được mà gọi thơ cũng chẳng xong. Đó là Phú và Văn Tế.
Phạm Đan Quế trong tập biên khảo về lẩy Kiều định nghĩa như sau:
- Phú vốn là một thể văn vần bắt nguồn từ thơ cổ không bắt buộc phải có đối. Nếu thơ thiên về tả tình thì phú thiên về tả cảnh nhưng vì cách đặt câu của phú khác với thơ nên thành ra một thể riêng. Dần dần, phú bị chia làm hai thể rõ rệt:
a) Phú có thể theo lối xưa (trước thời nhà Đường) không hạn định dài ngắn, niêm, đới, thanh âm chí cốt để gieo vần là đủ. Lối này thường có Sở Từ( có dùng chữ hề), tứ tự, lưu thuỷ...
Loại Phú cổ (trước nhà Đường) thiên về văn xuôi, không mẹo luật tương đối dễ. Meta xin lướt qua bằng 1 bài phú cổ có tên Đồng Tước Đài Phú của Khổng Minh Gia Cát Lượng:
Đồng tước đài phú.
Tòng minh hậu dĩ hi du hề
Đăng tầng đài dĩ ngu tình
Kiến Thái Phủ chi quảng khai hề
Quan Thánh đức chi sở dinh
Kiến cao môn chi tha nga hề
Phù song khuyết hồ Thái thanh
Lập trung thiên chi hoa quan hề
Liên phi các hồ Tây thành
Lâm Chương thuỷ chi trường lưu hề
Vọng viên quả chi tư vinh
Lập song đài ư tả hữu hề
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng
Lãm Nhị Kiều ư đông nam hề
Lạc triêu tịch chi dữ cộng
Phủ Hoàng Đô chi hoành lệ hề
Khám vân hà chi phù động
Hân quần tài chi lai tuỵ hề
Hiệp Phi Hùng chi cát mộng
Ngưỡng xuân phong chi hoà mục hề
Thính bách điểu chi bi minh
Vân thiên tuyên kỳ ký lập hề
Gia nguyện đắc hồ song sinh
Dương nhân hoá vu vũ trụ hề
Tận túc cung vu Thượng kinh
Duy Hoàn, Văn Chi vi thịnh hề
Khởi túc phương hồ thánh minh
Hưu hỹ! Mỹ hỹ!
Huệ trạch viễn dương
Dực tá ngã hoàng gia hề
Ninh bỉ tứ phương
Đồng thiên địa chi qui lượng hề
Tề nhật nguyệt chi huy quang
Vĩnh quý tôn nhi vô cực hề
Đẳng quân thọ ư Đông hoàng
Ngự long kỳ dĩ yêu ngao hề
Hồi loan giá nhi chu chương
Ân hoá cập hồ tứ hải hề
Gia vật phụ nhi dân khang
Nguyện tư đài chi vĩnh cố hề
Lạc chung cổ nhi vị ương!
ooOoo
Trên đây là phú cổ trước thời nhà Đường. Ta thấy tuy rằng có vần nhưng số chữ trong câu không nhất định và nhất là đọc lên nghe rất ngang tai vì cũng chẳng có bằng trắc chi hết. Văn học Việt nam hiếm thấy loại phú này. Meta nhắc đến thể phú này để tiện tham khảo cho đầy đủ thôi. Xin phép miễn dịch Nôm vì không nằm trong mục đích bài này.
b) Phú Đường luật được các thi gia đời Đường về sau thường dùng. Phú Đường luật không những có vần mà phải có đối, đúng luật bằng trắc và theo một khuôn khổ nhất định. Đây là thể Phú thông dụng nhất tại Việt Nam ta.
Hãy tập trung vào việc nhận xét loại Phú Đường luật, qui tắc và mẹo luật của nó.
VẦN TRONG PHÚ ĐƯỜNG LUẬT: Có nhiều cách gieo vần như sau:
a) Độc vận: Toàn bài, từ đầu chí cuối chỉ dùng một vần. Xin tham khảo bài Gia Định thất thủ phú của cụ Phan Văn Trị, dùng độc vận ở cuối bài.
b) Liên vận: Bài phú có nhiều vần liên tiếp.
c) Hạn vận: Bài phú bắt buộc phải theo đúng thứ tự các chữ trong một câu cho sẵn để làm vần cho đủ, không được gieo vần khác vào.
d) Phóng vận: Vần nào cũng được.
Bài phú có nhiều đoạn, mỗi đoạn có nhiều liên, mỗi liên có hai vế đối nhau. Vần phải gieo vào cuối vế thứ nhì, tức là vần ở cuối liên.
CÁCH ĐẶT CÂU: Tuỳ theo số chữ và cấu tạo, ta có 5 lối:
a) Tứ tự: Mỗi vế có 4 chữ. Ví dụ:
Về Thuý Kiều: Tài sắc gồm hai, phong lưu rất mực.
Về Thúc Sinh: Thanh khí lẽ hằng, hoa khôi tiếng mộ.
b) Bát tự: Mỗi vế 8 chữ chia thành 2 đoạn bằng nhau. Ví dụ:
- Bàn vày điếm nước, hoạ đàn đường tơ; Bầu tiên rót rượu, câu thần nối thơ.
- Mà gầy như mai, mà buồn như cúc; mà chau đôi mày, mà vò chín khúc.
c) Song quan: Mỗi vế có từ 5 đến 9 chữ đi liền một mạch. Ví dụ:
- Cùng nhau vàng đá mấy lời; Dám tiếc tóc tơ một mối.
- Kiếp phong trần đã đến thế thì thôi; Nợ oanh yến phải lấy thân mà trả.
d) Cách cú: Mỗi vế chia thành hai đoạn dài ngắn khác nhau. Ví dụ:
- Chẳng ngờ gã Giám Sinh, phong tình là đứa; chung lưng con mụ Tú, buôn bán quanh năm.
- Kiếp má hồng toan trả Trời xanh, sực thấy mấy câu thần mộng; Doành nước biếc nổi cồn sóng bạc, thân thương đến khách tri âm.
e) Hạc tất (hay gối hạc): Mỗi vế có từ 3 đoạn trở lên. Ví dụ:
- Trên tường gấm, ơn lòng quân tử, mơ quạt đổi trao; Dưới lầu son, vắng mặt tri âm, vò tơ bối rối.
- Giây phút tớ thầy chẳng tới, già Tú ơi, vùi dập sao nỡ đang tay; Khéo đâu như báo đến lời, Sở Khanh hỡi, nông nỗi nước này cũng lạ.
LUẬT BẰNG TRẮC:
a) Những chữ ở cuối mỗi vế phải theo luật bằng trắc là: Chữ cuối ở vế trên trắc thì chữ cuối ở vế dưới bằng hay ngược lại. Ví dụ:
- Thanh khí lẽ hằng (B); Hoa khôi tiếng mộ (T).
- Ngày xuân mưa gió càng nồng(B); Đêm xuân đi về lắm độ (T).
- Trăm năm tính cuộc (B); Muôn sự tại Trời (B).
- Cho thanh cao phần thanh cao mới được(T); Bắt phong trần cũng phong trần như ai (B).
b) Trong một vế có nhiều đoạn nhỏ thì chữ cuối của mỗi đoạn nhỏ ở trước, gọi là chữ đậu câu, phải nghịch thanh với chữ cuối cùng của vế ấy. Nghĩa là chữ cuối của vế là bằng thì các chữ đậu câu (chữ cuối của các đoạn nhỏ) trong vế ấy phải là trắc hay ngược lại. Ví dụ:
- Được một vài phân (B), lan huệ một nhà sực nức (T); Có ba trăm lạng (T), yến oanh ngoài cửa xôn xao (B).
- Chàng Thúc lấn ra (B), thở thở than than (B), tình ấy muôn cam chịu bạc (T); Tiểu thư chợt đến (T), cười cười nói nói (T), lạ cho cái giống nhà ghen (B).
CÁCH BỐ CỤC MỘT BÀI PHÚ:
Nếu như trong bài thơ thất ngôn bát cú, bố cục gồm 4 phần là đề, thực, luận, kết thì trong một bài phú, cách sắp đặt các đoạn mạch gồm có 6 phần:
a) Lung: Trình bày tổng quát đầu bài.
b) Biện nguyên: Xác nhận đầu bài, nêu rõ nguyên uỷ gốc tích, giải thích rõ ý của đầu bài mà chuyển vào bài.
c) Thích thực: Mô tả hết ý nghĩa của đầu bài.
d) Phô diễn: Suy rộng ý của đầu bài.
e) Nghị luận: Phê phán, đánh giá, bàn bạc ý nghĩa của đầu bài.
g) Kết: Gói ghém chung ý tứ của đầu bài lại.
PHÂN TÍCH:
Như trên đã trình bày, bài phú có nhiều đoạn, mỗi đoạn có nhiều liên, mỗi liên có hai vế đối nhau. Để rõ ràng Meta xin phép không dùng cách chấm câu theo lối văn phạm thông thường là dấu phẩy dùng để ngắt đoạn mà ý vẫn còn tiếp nối sang đoạn sau, dấu chấm dùng để ngắt câu đã trọn ý. Meta đặt ra quy ước chấm câu như sau: Mỗi 1 đoạn trong vế cách nhau bằng dấu phẩy, mỗi vế cách nhau một dấu chấm phẩy và hai vế (tức một liên) thì xuống hàng. Nhắc lại hai vế trong một liên phải đối với nhau. Bằng cách này tuy có chỗ phi lý, chẳng hạn câu:
-Sao rằng gian, sao rằng nịnh, ai muốn hỏi hãy nhìn tiêu trên mả Nguỵ Khôi; Đâu là hoạ, đâu là tai, ai muốn hỏi nên xem bảng tại làng Đa Phước.
Đoạn "Sao rằng gian, sao rằng nịnh" và đoạn "Đâu là hoạ, đâu là tai" phải được đánh dấu hỏi mới hợp lý nhưng Meta chỉ đánh dấu phẩy để cho rõ nó là tiểu đoạn trong vế. Sau dấu chấm phẩy là bắt đầu vế sau, đến khi xuống hàng là hết một liên. Cách chấm câu này làm cho việc phân tích bài phú thêm rõ ràng. Xin đừng bắt lỗi chấm câu theo cách thông thường nhé.
Cũng nhằm việc làm cho rõ ràng, Meta xin đánh số mỗi liên để tiện việc tham khảo. Bài Meta chọn để phân tích là bài Cáo thị Cần Vương, tác giả không rõ. Sơ lược về bối cảnh lịch sử bài phú như sau:
Mùa xuân năm Kỷ Mùi 1859, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lăng nước ta. Đồng bào lục tỉnh miền Nam đang sống an bình bỗng trở nên nghiêm trọng. Cuộc chiến tranh Việt Pháp diễn ra, triều đình phải ký kết nhường ba tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Định Tường cho Pháp. Theo tinh thần bản ký nhượng này, triều đình phải ngưng các cuộc nổi dậy đề kháng của các sĩ phu và dân chúng lại.
Tuy nhiên mặc cho lệnh triều đình, dân ta vẫn nổi lên chống lại. Bài cáo thị Cần Vương ra đời vào khoảng thời gian ấy với nội dung là kêu gọi lòng yêu nước trong nhân dân, nổi lên chống Pháp. Chúng ta chưa biết tác giả là ai, nhưng hẳn tác giả là một bậc sĩ phu miền Nam, kêu gọi đồng bào chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược. Cùng với nhân dân và đi trước nhân dân, bậc sĩ phu nước ta đã góp phần lớn lao trong công cuộc chống ngoại xâm bền bỉ, liên tục nhiều ngàn năm.
Hãy phân tích bài Cáo thị Cần Vương sau đây:
Cáo thị Cần Vương (Liên vận)
1 - Lời truyền cáo thị; Nói với sĩ phu.
2 - Nước Nam ta có mối xung thù; Cùng giặc Tây là loài di địch.
3 - Bởi chúng nó đem lòng bội nghịch; Khiến dân mình gặp thuở loạn ly.
4 - Chẳng qua là Trời bắt gian nguy; Cho nên nỗi nước nhiều tai nạn.
5 - Đường trị loạn sách xưa còn bản; Lẽ chánh tà đời trước treo gương.
6 - Làm người khôn nghĩ xét cho tường; Thà đứa dại lỗi đường cũng đáng.
7 - Nọ thủa Hung Nô đánh Hán, tướng mạnh như hùm, binh đông như cỏ, cướp ải Lang, dành ải Hổ, tới mãn tuồng Nô cũng về Nô ; Kìa khi Đột Quyết quấy Đường, xe đi chật đất, ngựa tế đầy đồng, phá trấn Bắc, đốt trấn Đông, chừng rã đám Đột hoàn lại Đột.
8 - Xa thơ mới hãy còn lộn một; Phong cương này há để chia ba.
Nay Tây cùng Ta:
9 - Muôn trùng non nước cách xa; Trăm việc ở ăn lạ thói.
10 - Tuy lắm tàu đồng ống khói; Dẫu nhiều súng thiếc đạn chì.
11 - Trải sáu tỉnh qua dẹp cõi biên thuỳ; Hơn trăm trận liền hao ngôi tướng soái.
12 - Đòi xin ba tỉnh, lời nào rằng phải; Bắt hoạ muôn dân, của mấy cho vừa.
13 - Ta hiệp lòng há nhịn thua ư; Mọi lấn chỗ sao đành để vậy.
14 - Ở đâu mà chẳng thấy phá miễu chùa, đào mồ mả, làm những việc bất nhân; Ở đâu mà chẳng thấy đốt nhà cửa, hãm vợ con, làm những điều vô đạo.
Hỡi ơi!
15 - Thành xiêu quách đổ bởi ai gây; Ruộng nát vườn tan do lũ ráo.
16 - Lồng lộng cao xanh, há nỡ để dân ta búng xáo; Mênh mông soi xét, lẽ nào cho chúng nó ăn chơi.
17 - Xưa nay ai mạnh qua Trời; Đâu đó vật đều có chủ.
Ngỏ nay:
18 - Nơi Thần Kinh ấy nơi thiên phú; Đức Kim Thượng là đức Thánh Tông.
19 - Hơn ba mươi tỉnh hội đồng; Dư sáu chục năm huệ dưỡng.
20 - Văn võ hiếm người làm tướng; Man di nhiều nước đến chầu.
21 - Nhớ xưa kia chúng đã cúi đầu; Đến nay lại tay nào trở mặt.
Ớ các tổng làng!
22 - Chớ thấy chín từng hoà nghị mà tấm lòng địch khái vội quên; Chớ rằng ba tỉnh trọn vong mà công cuộc báo cừu nỡ bỏ.
23 - Nhớ mới thuở rèn mác trường, đương nón gỗ, lên đường hăm hở ra oai.
24 - Há buổi nay chạy bạc nén, vén tiền trăm, vào cửa lom khom tạ nó.
25 - Mặt đâu tới lãnh bằng ngày nọ; Xác nào ra đầu thú hôm nay.
26 - Đã thề nguyền hết sức đánh Tây; Đâu sợ chết cúi mình theo giặc.
27 - Một đường cái há phân nam Bắc; Một tóc tơ nỡ nhuộm xanh vàng.
28 - Đừng cho thày Địch thở than; Chớ để họ Nhạc cay đắng.
29 - Ơn thuỷ thổ thảy đều mang nặng; Việc thần dân chớ khá lỗi nghì.
30 - Cố bảo nhau gắng giữ lòng bền; Đừng nghe chúng ra mà đầu thú.
31 - Chớ thấy Gò Công thất thủ, mà trở mặt hại nhau; Đừng rằng Bến nghér an cư, mà đành lòng theo mọi.
32 - Sao rằng gian, sao rằng nịnh, ai muốn hỏi hãy nhìn tiêu trên mả Nguỵ Khôi; Đâu là hoạ, đâu là tai, ai muốn hỏi nên xem bảng tại làng Đa Phước.
33 - Oan nhường ấy, tình nhường ấy, căm thù nhường ấy, tính sao trả được mới hài; Công bấy lâu, nghiệp bấy lâu, lao khổ bấy lâu, đâu nỡ bỏ đi sao phải.
34 - Dẫu có lỡ sát thời hãy tìm nơi sơn trại mà tụ tập anh hùng, sống vì Vua, thác vì Vua, dốc cùng lòng trước sau chẳng trái ; Dẫu có rủi sa cơ phải xuống dưới tuyền đài cũng phụng thờ hương khói, tên còn chép, họ còn chép, để nức danh thơm rọi sáng hoài.
35 - Chớ để xóm làng cho Bạch Quỷ vãng lai; Chớ để phần mộ cho Tây Dương phá hại.
36 - Khá ra tay mà vùa cột cái; Tua gắng sức chống đỡ tường xiêu.
37 - Để nghìn năm dằng dặc, vững đất Thuấn trời Nghiêu; Ngõ muôn kiếp miên miên, bền sự nghiệp thư son khoán sắt.
38 - Chữ đới thiên bất cộng, nghĩ căm căm ruột tím gan bầm; Câu giữ quốc đồng ưu, phải khăng khăng lòng ghi dạ tạc.
ooOoo
Bố cục:
Câu 1 - 4 là Lung, trình bày tổng quát đề bài.
Câu 5 - 8 là Biện nguyên, xác nhận đầu bài, nêu rõ nguyên uỷ gốc tích, giải thích rõ ý của đầu bài mà chuyển vào bài.
Câu 9 - 14 là thích thực: Mô tả hết ý nghĩa của đầu bài.
Câu 15 - 21 là phô diễn: Suy rộng ý của đầu bài.
Câu 22 - 36 là nghị luận: Phê phán, đánh giá, bàn bạc ý nghĩa của đầu bài.
Câu 37 - 38 Kết: Gói ghém chung ý tứ của đầu bài lại.
Gieo vần:
Ta thấy mỗi một câu (tức một liên, chia theo cách Meta) gồm hai vế đối với nhau chặt chẽ. Cách gieo vần thì chữ cuối một câu (gọi là chữ đậu câu ), nếu là vần trắc, sẽ bắt vần với chữ cuối, vần trắc của vế trước giữa câu kế. Chữ cuối câu kế là vần bằng, bắt với vần bằng chữ cuối vế trước của câu kế tiếp. Cứ như thế đến hết bài. Ví dụ:
-Mặt đâu tới lãnh bằng ngày nọ; Xác nào ra đầu thú hôm "nay".
-Đã thề nguyền hết sức đánh "Tây"; Đâu sợ chết cúi mình theo "giặc".
-Một đường cái há phân nam "Bắc"; Một tóc tơ nỡ nhuộm xanh "vàng".
-Đừng cho thày Địch thở "than"; Chớ để họ Nhạc cay đắng.
Chữ "vàng" ở cuối câu lại bắt vần bằng với chữ đậu câu của câu kế, chữ "than". Lối gieo vận này gọi là liên vận.
Phép đặt câu:
Câu 1 đặt câu theo lối tứ tự, mỗi vế 4 chữ.
Câu 2 - 6 đặt câu theo lối song quan, mỗi vế có từ 5 đến 9 chữ đi liền một mạch.
Câu 7 đặt câu theo lối hạc tất. Mỗi vế có từ 3 đoạn trở lên, dài ngắn khác nhau.
Câu 8 - 11 là song quan.
Câu 12 đặt câu theo lối bát tự, mỗi vế có 8 chữ chia thành hai đoạn bằng nhau, mỗi đoạn 4 chữ.
Câu 13 theo lối song quan.
Câu 14 hạc tất.
Câu 15 là song quan.
Câu 16 đặt theo lối cách cú, mỗi vế chia làm hai đoạn dài ngắn khác nhau.
Meta chỉ liệt kê từ câu 1 tơi câu 16 thôi. Tới đây hẳn bạn đọc phân biệt được phép đặt câu theo lối gì từ câu 17 cho đến hết bài rồi. Xin miễn nói thêm về lối đặt câu để tránh dài dòng.
ooOoo
Dẫu biết chép một bài phú nữa thì quá dài dòng, nhưng để bạn đọc biết về độc vận, Meta xin phép chép một bài nữa, dùng độc vận.
Phú Gia Định thất thủ ( độc vận)
Thương thay đất Gia định!
Tiếc thay đất Gia Định!
Vực hoá nên cồn; Đất bằng nổi sóng.
Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến trâu ; Dây thép giăng nhấp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng.
Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mờ; Non sông dời đổi hoạ mi, tưởng tới dường mê dường mộng.
Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, dọc ngang xe ngựa đất gò bằng; Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát chợ nhà Trời dậy sấm.
Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca; Tò le kèn thổi tối Trời nam, man mác năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh (1); Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ thêm lúng túng.
Từ Bến Thành trải qua Chợ Đũi loài tinh chiên (2) loạn xạ biết bao nhiêu; Nơi Chợ Lớn sấp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán, quân tham tàn đắc ý vênh râu; Chùa Cẩm Thảo trải tới Cây mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.
Nơi nơi nổi xóm mới nhà Tây; Chốn chốn lập đồn canh ụ súng.
Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô, thân thế đều khô ; Bát ngát nhỉ mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng.
Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp tan tành; Đòi nơi Rạch Giá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống lỗng.
Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu; Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.
Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng yên phần; Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ còn khôn nỗi sống.
Sau trước vầy đoàn bạch Quỷ, dân ta đòi bữa đòi suy; Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.
Cờ Thành Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chông gai; Áo Võ Vương sao chẳng thấy gầy, nỡ để dân đen bùn lấm.
Đầu Trung nguyên tóc hỡi còn dài, ơn này nhờ có Bá, học Xuân Thu xin chớ kiếm Hoàn Công; Tay tả nhẵm3) áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, đọc Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
Bóng xế dậm ngàn mây man mác, nước non này ai thấy cũng buồn; Trời chiều chim chóc nhẩy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động.
Ta nay nhân cảm với cuộc đời, Vậy nên tả một vài ngẫu vận.
ooOoo
(1) Tức là nghe gió thổi, chim hạc kêu mà phập phồng lo sợ tưởng như giặc tràn đến nơi. Tích Bồ Kiên, vua nhà Tần trước khi bị quân nhà Tấn đuổi đánh, quân sĩ tới đâu nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu cũng giật mình tưởng quân nhà Tấn đã tới.
(2) Tinh chiên là hôi tanh. Chỉ bọn cướp nước.
(3) Tả nhẫm là khép vạt áo sang bên trái, tục mọi rợ. Khổng Tử nói: "Không có Quản Trọng thì chúng ta khép vạt áo sang bên trái hết ". Nghĩa là không có Quản Trọng thì phong hoá suy đồi, văn minh thành mọi rợ ngay.
Bài này dùng chỉ một vần "ộng" hay "ụng", âm trắc. Không cần bắt yêu vận với chữ cuối của vế trước ở giữa câu kế.
Tới đây chúng ta có thể sang phần Văn Tế, cuối cùng là Kiều Lẩy.

Xem Tiếp: ----