Dịch giả: Nguyễn Học
Những vấn đề quân sự và hoà bình 2

Tôi hiểu rằng phải tỉnh táo phân tích tình hình? Giải trừ quân bị, giữ Liên Xô trong trạng thái sẵn sàng đánh trả xâm lược? Chủ yếu là ở chỗ bây giờ các cường quốc có vũ khí toàn cầu công suất như thế, số lượng như thế có thể dễ dàng nhanh chóng tiêu diệt sạch cả thế giới. Nếu đúng đánh giá tương quan vũ khí tàng trữ, thì có khả năng hạn chế chi phí quốc phòng. Tôi nói:
- Thậm chí có thoả thuận không sử dụng vũ khí hạt nhân, nếu bùng nổ chiến tranh chỉ sử dụng vũ khí cũ, còn sau đó cuộc bắn nhau thành công bắt đầu ngả sang có lợi cho một bên, thì ở phút cuối cùng, khi bên kia không còn lối thoát, sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân.
Điều đó, tất nhiên, là xấu, vì rằng sự nguy hiểm chiến tranh hạt nhân tiếp tục lơ lửng trên đầu nhân loại. Nhưng nó có thể có vai tròtích cực, khi giới lãnh đạo tỉnh táo của các cường quốc không cho phép chiến tranh.
Ai đó nói rằng thực tế đã phủ nhận thuyết này. Chiến tranh Mỹ ở Việt nam. Có những cuộc xung đột tại những khu vực khác nhau trên trái đất. Thường xuyên đẩy cường quốc đến bên miệng hố chiến tranh. Nhưng nếu cả hai bên tránh được chiến tranh hạt nhân, thì phòng ngừa được sự tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc khủng hoảng Cuba đúng là sự thử thách như thế, còn kết thúc bởi thoả thuận khôn ngoan. Đã đạt được cân bằng lực lượng, nói khác đi - cân bằng sự sợ hãi mà John Foster Dulles đã nói trước đây. Khi Dulles chết, Gromyko không muốn đến dự lễ tang. Tôi đã chứng minh rằng Gromyko xử lý không đúng, và khuyên ông tới dự lễ tang địch thủ cũ của mình. Và không những là chuẩn mực lễ độ vì rằng Dulles biểu thịsự thật rằng lý trí luôn luôn phải mạnh hơn bốc đồng.
Bây giờ trên thế giới tương quan lực lượng hai phe bằng nhau. Ở đây vấn đề không phải là số học mà là cái khác. Tôi nhớ lại lời tổng thống Kendedy:
- Chúng tôi, Hợp chủng quốc Hoa kỳ, bố trí vũ khí hạt nhân, có thể tiêu diệt Liên Xô hai lần. Nhưng Liên Xô cũng bố trí vũ khí hạt nhân có thể tiêu diệt Mỹ một lần, như thế lần thứ hai không cần đến nữa.
Đó là sự thừa nhận lực lượng của chúng ta. Không đòi hỏi lần thứ hai, vì rằng trước khi có lần hai, kẻ địch không còn nữa. Thậm chí khi nằm trên ranh giới chiến tranh, cần tỉnh táo xác định ranh giới này không gây tội ác không bị giết. Các vũ khí còn lại không còn là yếu tố quyết định để xác định đường lối chính trị, khi nói không phải về xung đột khu vực, mà về xung đột thế giới. Cái gì là ưu thế, chẳng hạn, bộ binh? Nghĩa là quân đội, trong khối thịt vị pháo nghiền? Bây giờ không phải là lúc số lượng bộ đội hoặc thậm chí sự tài giỏi của tướng lĩnh quyết định thành công. Ngày nay tất cả phụ thuộc vào tài giỏi điều khiển vũ khí hạt nhân. Nhưng từ đó đưa đến việc Liên Xô không áp đặt ai điều kiện của mình, trong chính sách giải trừ quân bị.
Vì sao tôi nghĩ như thế? Vì chúng tôi cắt giảm lực lượng vũ trang gần như gấp đôi. Sao nào? Yếu hơn? Chúng ta có nỗi sợ hãi nhiều hơn trước chiến tranh? Không có cái gì tương tự. Nghĩa là, bình tĩnh có thể giảm lượng vũ khí thông thường và cũ. Chúng tôi huỷ bỏ căn cứ của mình ở Phần Lan. Chẳng có lẽ dùng làm chúng tôi yếu hơn? Ngược lại, vị thế không yếu đi, mà và bầu không khí quốc tế được cải thiện.
Tôi luôn luôn có những người ủng hộ mình cắt giảm quân đội, rút tất cả quân đội mình ra khỏi lãnh thổ các nước khác, dỡ bỏ các căn cứ của mình. Điều này thuận lợi đối với tất cả mọi người. Trong tình hình quốc tế hiện nay Liên Xô hoàn toàn có khả năng tiến hành chính sách độc lập trong vấn đề vũ trang và giải trừ quân bị. Chúng tôi chẳng dại gì để bọn quân phiệt kiếm cớ khiêu khích. Các nước tư bản luôn luôn buộc chúng ta chạy đua vũ trang, buộc chúng ta có ngân sách quân đội lớn, để bằng cách như thế làm hao mòn sức lực chúng ta và không để nhân dân các nước nước xã hội chủ nghĩa dùng tiền để phát triển kinh tế nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá tăng lên không ngừng của mọi người. Chi phí quân đội - đây là cái thùng không đáy, tiêu tốn dự trữ quốc gia. Đương nhiên, tốt nhất - thoả thuận được với các nước tư bản chủ nghĩa ngừng chạy đua vũ trang và giải trừ quân bị. Nhưng điều này cần sự tin tưởng tuyệt đối. Tôi cho rằng điều này chưa đạt được. Nhưng hai bên thoả thuận được các biện pháp cụ thể, có thể chúng tôi năm 1963 đạt được thoả thuận ngừng sự thử vũ khí hạt nhân trong ba môi trường: trên không, dưới nước và vũ trụ. Những thoả thuận như thế, tổng hợp lại giảm mạnh chi phí quân sự và giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
Vâng, các nước tư bản có lợi trong chạy đua vũ trang. Chúng tôi, nếu chấp nhận chạy đua, cho họ là tiến hành đúng chính sách như vậy. Nhưng có thể nói ngược lại: nếu chúng tôi ngừng chạy đua vũ trang và sản xuất vũ khí chiến tranh sẽ nghĩa là tuân lệnh chính sách nước ngoài... Không giống nhau chút nào! Tên lửa hạt nhân kìm lại kẻ địch tấn công chúng tôi. chính sách như vậy đòi hỏi lãnh đạo Liên Xô cứng rắn và nhìn thấu suốt, không để bị lôi cuốn vào thi đấu phung phí tiền bạc vào vũ khí giết người và đồng thời có tất cả các thứ cần thiết để bảo vệ đất nước. Chúng tôi phải xây dựng ngân sách quốc phòng của mình, không bị ngả vào ảnh hưởng của giới quân đội trong và ngoài nước.
Vì sao - và cả bên trong? Vì rằng và chúng ta vẫn có những người, đang quan tâm đến việc tăng vũ khí. Họ có thể đẩy Chính phủ vào hướng sai lầm. Trước hết là những tướng lĩnh muốn chỉ huy quân đội đông người. Họ cật sức chứng minh cho Chính phủ rằng phía địch dường như có những vũ khí như thế này thế nọ mà chúng ta không có và vũ khí đó là cần cần thiết sống còn cho chúng ta. Không thể bị ngả theo ảnh hưởng của họ, Chính phủ tự quyết định chính sách quân sự. Sau đó, với những người như thế lại liên quan chặt với những người sản xuất vũ khí. Họ là những tổ hợp công nghiệp quân sự. Nhóm thứ ba của loại này là một phần dân chúng trong xã hội, bị ngả sự tuyên truyền vô lý và bắt đầu ép Chính phủ theo hướng đó. Trong những trường hợp tương tự, những người lãnh đạo có trách nhiệm cần không được sợ va chạm, như tôi không sợ va chạm với đô đốc Kuznesov, khi ông đưa ra chương trình vô dụng xây dựng hạm đội tàu chiến to lớn, hoặc với nguyên soái Barensev, lầu bầu về tên lửa, hoặc với nhà thiết kế Tupolev, thì thụt máy bay ném bom động cơ nguyên tử.
Không thể lý tưởng hoá mọi người, cho là họ những người cộng sản, thì họ tự động đứng đúng vị trí. Vớ vẩn! Stalin cũng là một người cộng sản, cái gì không ngăn cản ông trở thành tên ác ôn. Và Mao là một người cộng sản, cái gì không ngăn cản Mao tấn công người anh em Việt nam. Nếu giới quân sự và công nghiệp quốc phòng có thể buộc uân sự hoá đất nước xã hội chủ nghĩa, thì điều này không phải là cứu thoát đất nước, mà đưa đến sự sụp đổ. Trong tương quan lực lượng hiện nay, phe tư bản chưa chắc dám qg xung đọt quân sự với Liên Xô, mặc dù họ sẽ tiến hành chính sách phá hoại chống chúng tôi. Nhưng tôi cho là đây là bình thường, vì rằng chính sách như thế được gây ra bởi đối kháng giai cấp. Chúng tôi cũng không từ bỏ đối kháng tư tưởng với mọi biện pháp kèn theo nó, tuy nhiên loại trừ dẫn đến thảm hoạ.
Trong cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng chung sống hoà bình, theo tôi, là không thể, và cuộc đấu tranh này cần phải kết thúc bằng chiến thắng thế giới quan chủ nghĩa cộng sản. Nhưng sự đối đầu tơpng tự không đi ngược với lợi ích với tất cả các tiếp xúc trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá và vân vân và... Và giá như bây giờ tôi có ảnh hưởng nào đấy lối thoát của cuộc đàm phán hai bên hoặc nhiều bên, thì tôi kiên quyết tìm kiếm một hiệp định về thiết lập kiểm soát vũ khí. Ngày nay chúng ta không còn sợ kiểm soát song phương. Ngược lại, việc kiểm soát như thế trở thành yếu tố, dẫn đến làm dịu tình hình. Hiện nay trên cơ sở tương hỗ thể đi đếm sự kiểm soát rộng rãi nhất. Tất cả mọi người đều sợ cái chết, và kiểm soát cũng là cần cho tất cả mọi người. Có thể bình tĩnh thiết lập kiểm soát trên không tất cả các lãnh thổcác nước trên trái đất. Nó không cho phép ai cản trởsự có mặt của lực lượng an ninh, cần thiết để bảo vệ biên giới và lập lại trật tự.
Thoát hoàn toàn tái phạm căn bệnh Stalin, phải hình thành những cơ quan quốc tế kiểm soát vũ khí. Liên Xô công bố chương trình giải trừ quân bị, đồng ý thực hiện, mặc dù theo từng giai đoạn, với các nước tư bản chủ nghĩa và huy động cộng đồng thế giới vào cuộc đấu tranh vì hình thành trong cuộc sống.
Tôi thảo luận vấn đề này với nguyên soái Zukov, khi ông là Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô. Quan hệ của tôi với ông lúc ấy là cho đến khi, khi ông hành động không khôn ngoan, khiến chúng tôi cách chức Bộ trưởng quốc phòng của ông. Tôi hài lòng khi chúng tôi thảo luận khả năng đạt được với Mỹ thoả thuận cụ thể về việc giải trừ quân bị, trong số này cho phép thanh tra trên lãnh thổ chúng ta. Zukov, khác với nhiều quân nhân, không thể hiện sự cứng nhắc công chức. Ông không những đồng ý về việc cần thiết cắt giảm quân đội, mà còn đề nghị giảm lương một số ngạch quân nhân. Cả nguyên soái Sokolovski cũng lập luận nhìn thấu các vấn đề. Khi tôi làm việc với ông như Tổng tham mưu trưởng Bộ tổng tham mưu, sau những trao đổi suy nghĩ chúng tôi cũng luôn luôn tìn được tiếng nói chung.
Tôi muốn nói về quan hệ đối với trí thức ở Liên Xô. Chưa chắc tôi có khả năng lôi kéo tất cả mọi mặt của cuộc sống, nơi trí thức chúng tôi lao động. Nhưng cuộc sống trước tiên, tác động đến xã hội, thực hiện sự nghiệp mà ĐCS lãnh đạo. Với trí thức làm công tác kỹ thuật vấn đề có chuý đơn giản hơn. Mối quan hệ của Đảng với họ đơn giản hơn, vì những người này thể hiện năng lực và tài năng chủ yếu đối với các đối tượng cụ thể, phục vụ xã hội. Những hoạt động của họ tràn vào trực tiếp đến cuộc sống tinh thần và vấn đề hệ tư tưởng. Cổ vũ họ lao động để có lợi tăng sản xuất ở mức mới.
Hóc búa nhất là những quan hệ với giới nghệ thuật, bao gồm nhà báo, nhà văn, hoạ sĩ, nhà tạc tượng, nghệ sỹ... Họ không tạo ra giá trị vật chất, mà thiếu nó con người không thể tồn tại, bù lại làm xã hội hưng phấn để lao động trong các lĩnh vực khác nhau của nhân loại, tràn vào cả chính trị, cũng như làm giầu của mọi người bằng những tác phẩm văn học, nghệ thuật và trong môi trường nhân văn. Nhưng bởi vì trong hệ tư tưởng ĐCS có xu hướng độc tôn, nên việc quan tâm của Đảng là thu hút giới trí thức này theo của mình không có phải giải thích nữa.
Nhiều cái ở đây là cực kỳ chủ quan. Thí dụ, một Đảng viên có chức vụ, mở đài nghe âm nhạc, ông ta không thích nó hoặc tâm trạng xấu, và ông tắt đài. Sau đó người ta giải thích rằng tác giả bản nhạc là - Chaikovski hoặc, thí dụ, Prokofev. Tác phẩm này ra sao? Ở đây có bối cảnh, ý nghĩa, nội tâm người nghe và hấp thụ của nó và nhiều thứ khác. Thế là phải thông qua khái niệm “thích”, “rất không thích”, “không thích”.
Nhưng kết quả sau này liên quan đến số phận tác giả, và tất cả công chúng, có thể vô tình tước bỏ tác phẩm tuyệt vời. Tránh được sở thị hiếu này như thế nào? Đặc biệt nếu tính đến rằng cùng một tác phẩm có thể sống những thời kỳ khác nhau và gây một ấn tượng không giống nhau. Một số dễ hơn - tác phẩm của nhà văn. Họ như thợ nề hoặc thậm chí thợ tiện, mài dũa tác phẩm của mình từ các phía khác nhau. Nó tự động tràn vào tất cả môi trường xã hội, thông qua các nhân vật của mình. Đánh giá tác phẩm của nhạc sĩ, hoạ sĩ còn phức tạp hơn.
Tôi muốn quay về Stalin đối xử thế nào đối với trí thức. Ông hiểu ý nghĩa xã hội của họ. Nhưng chủ yếu chừng mực nào ông tỏ ra độ lượng, kiên nhẫn, tôn trọng trong từng trường hợp cụ thể. Stalin là người chủ quan chủ nghĩa. Trong khi số phận bất kỳ người nào phụ thuộc vào một lời của ông. Chủ nghĩa chủ quan của ông đôi lúc tạo điều kiện mạnh cho sự phát triển một hưn ức, bị xử bắn. Tabakov là người Do Thái, một người cộng sản rất tốt. Tôi biết ông, khi ông là giám đốc một cung đường, còn sau đó - là giám đốc Liên hiệp sản xuất sứ cho luyện kim. Tại Donbass có nhà máy chế tạo gạch ốp chịu lửa dùng cho công nghiệp và dân dụng, chính Tabakov đảm nhận việc này. Tôi có quan hệ tốt với ông, ông dựa vào tổ chức vùng Yuzov, và chúng tôi cùng ông theo học tại Học viện. Chúng tôi một lòng theo Đảng, có những đồng chí khác ủng hộ chúng tôi, chẳng hạn Alliluev từ Viễn đông. Alliluev hình như bây giờ còn sống, nhưng hưu rồi. (Ông Alliluev này chẳng có mối quan hệ nào với ông Alliluev, bố vợ Stalin, đơn giản vì cùng họ). Chúng tôi còn có những đồng chí khác, cả một nhóm khá lớn, nhưng tất cả chúng tôi vẫn là thiểu số. Có thể tôi bị nhầm. Hình như, có một điều gì đó có liên quan đến chủ đề này? Chính tôi muốn nói về Stalin, về vai trò của ông. Nhưng điều này vừa hay lại có quan hệ trực tiếp với chủ đề trên.
Tại Học viện công nghiệp xảy ra cuộc đấu tranh bảo vệ đường lối chung của BCHTƯ chống “phái hữu” và phái của Zinovev, còn sau đó là khối tả-levak của Syrsov - Lominadze. Trong cuộc đấu tranh này vai trò của tôi ít khi tách rời trong tập thể, và BCHTƯ nhìn điều này. Vì thế tên tôi nổi bật là một đảng viên tích cực của Đảng, lãnh đạo nhóm những người cộng sản và tiến hành đấu tranh chống nhóm Uglanov, Rykov, Zinovev và Troskit tại Học viện công nghiệp. Cuộc đấu tranh chính trị xảy ra rất mạnh. Chính ở đó phần đông tập hợp những đảng viên có thâm niên cách mạng, và cần nói rằng nhóm này rất đoàn kết: trong đó có cả những người có thế lực. Chẳng hạn, tôi nhớ đồng chí Makarov - vùng Donbass. Ông là giám đốc nhà máy Youzov (vùng Youzov), chính ông cũng là người vùng Nizegorod, một đảng viên từ 1905, một người rất thông minh và đáng kính. Chính thức thì Makarov không nói đồng lòng với “phái hữu”, nhưng ủng hộ hay chống “phái hữu” không bao giờ ông hé răng nửa lời. Hình như ông thoả thuận với “phái hữu” giữ một số bí mật để không bị những kẻ đối địch lôi ra. Có thể coi ông dường như đứng ở phía đường lối chung của đảng, thực ra bằng hoạt động của mình ông có khả năng củng cố sức mạnh nhóm Uglanov, Bukharin, Rykov.
Có thể nêu ra một chuyện đùa ở thí dụ như thế này. Việc bầu Đoàn chủ tịch hội nghị toàn thể Đảng bộ có lần mất cả buổi và phải để sang ngày sau. Tôi nhớ, mọi người đề cử tôi vào Đoàn chủ tịch, nhưng tôi biết hai ba lần tôi bị trượt và không được bầu. Khi tham gia bầu cử, tất cả những người ứng cử Đoàn chủ tịch phải lên diễn đàn nói tiểu sử của mình. Các ứng cử viên có ít thâm niên đảng cũng phải làm thế. Cuộc đấu tranh xảy ra như thế này. Quả thật người ta chọn vào ban lãnh đạo đảng bộ nói chung là đặc biệt. Đôi lần người ta đưa tôi ra, dù xuất ứng cử viên của tôi chẳng thể nào qua được. Nói chung phải bầu đi bầu lại Đảng bộ, vì rằng đấu đá dữ dội quá đến nỗi bị thay đổi nhiều.
Báo Sự Thật thường tiến hành chống “phái hữu”, và như thường lệ sau mỗi bài của báo thì hội nghị toàn thể của Đảng được triệu tập, rồi lại bầu lại Đảng uỷ. Nhưng “phái hữu” chưng hửng đến nỗi khi Khakharev không thể còn là bí thư đảng bộ Học viện công nghiệp, buộc họ đưa ra Levochkin. Levochkin, người vùng Briansk, lại là một nhân vật mờ nhạt, thực chất, cũng “phái hữu”. Vì thế cánh Đảng uỷ vẫn ủng hộ “phái hữu” tiếp tục cả sau khi bầu lại. Lại thêm một bài của “Sự Thật”. Lại thêm một hội nghị sóng gió, mất nhiều thời gian bầu Đoàn chủ tịch, cuối cùng họ chọn tôi vào và tôi trúng. Đoàn chủ tịch hội nghị đảng bộ Học viện công nghiệp, thực tế cũng là hội nghị toàn thể Học viện công nghiệp, vì ở đây tất cả đều là các đảng viên VĐCS(b). Phiên họp rất sóng gió. Việc ầm ỹ đã trở thành sự kiện, tôi sẽ kể bối cảnh diễn ra phức tạp trong thời gian ấy.
Đó là năm 1930. Đảng chuẩn bị Đại hội 16. Tại đó có hội nghị trù bị. Lại có những cuộc thảo luận rộng và sâu. Lúc đó “phái hữu” muốn loại gạt bỏ tôi khỏi cuộc thảo luận nên trước khi bầu đại biểu dự hội nghị đảng bộ khu vực, người ta nghĩ ra một cách. Chúng tôi, khi lãnh đạo nông trang mang tên Stalin vùng Samara, trích quỹ để mua nông cụ cho nông trang này. Thế là Đảng uỷ quyết định cử đại biểu trao công cụ cho nông trang viên. Tất nhiên “việc trao nông cụ” chỉ là ước lệ, vì chúng tôi không chở máy theo đơn giản là chúng tôi biết giá máy, thay vì mua máy nông cụ (máy gieo hạt, gặt đập liên hợp...) thì chúng tôi đưa một khoản tiền và trao cho đảng bộ nông trang mang tên Stalin. Lập ra đoàn đại biểu Đoàn đại biểu, gồm 2 người: tôi và Xasa Zdobnov. Zdobnov cũng học viên Học viện công nghiệp, người vùng Ural, một đồng chí tốt. Ông hình như về sau cũng chết trong “cối xay thịt” năm 1937.
Trên đường, tôi đọc cuốn sách mỏng viết về chiếc máy gặt đập liên hợp như thế. Chúng tôi đến nơi, tiến hành hội nghị và sống ở đó vài ngày. Thế rồi tôi cũng biết tình hình thật ở làng. Trước đó bản thân tôi không biết ngôi làng này, vì chúng tôi sống tại Học viện công nghiệp bị cách biệt với không khí thôn quê. Tới đó, chúng tôi gặp một trận đói thực sự. Những con người đói khát lê bước, như những con ruồi. Tôi nhớ lại cuộc họp toàn thể nông trang viên, chúng tôi phát biểu suốt cuộc họp có phiên dịch, vì rằng nông trang gồm toàn người Chuvát, họ chỉ một lời đề nghị chúng tôi cho họ bánh mỳ, còn máy móc chở cho họ thì chẳng gây ấn tượng: Những người này đói thật rồi, còn tôi lần đầu tiên thấy cảnh tượng ấy. Họ đưa tôi vào nhà một quả phụ. Nhà nghèo đến nỗi không có một mẩu bánh mỳ. Chúng tôi chia sẻ những gì mang theo trên đường đi với người goá phụ này.
Chúng tôi kết thúc công việc của mình, quay về Moskva, còn trong thời gian này vẫn họp hội nghị đảng bộ địa phương tại thủ đô. Đảng bộ chúng tôi cũng chọn ra 10 người hoặc hơn, tôi không nhớ bao nhiêu nữa. Đội học viên Học viện công nghiệp đông, tiêu chuẩn người đại diện không lớn, vì Đảng bộ Moskva so với các đoàn khác cũng không phải lớn lắm. Từ Học viện công nghiệp đến hội nghị khu vực đã bầu Stalin, Rykov và Bukharin. Tôi không nhớ Uglanov có được bầu hay không. Hình như, không phải, vì rằng danh sách ứng cử ớng sáng tạo, đôi lúc làm tê liệt, không cho quay về và chỉ ra bản thân, đôi lúc dẫn tới cái chết và của mọi người, và tác phẩm của họ. Cũng có những nhà văn, không cảm thấy cái ách thống trị này, làm việc mà chẳng có giới hạn trong và ngoài? Rôi khó nói về họ. Vì Stalin là bạo chúa, và ý nguyện của ông quyết định chính sách quốc gia. Nhưng mọi bạo chúa cư xử tốt với văn học chỉ có ở điều kiện nếu nhà văn viết tốt về họ và thời đại của họ. Vì lẽ gì Aleksandr I và Nicolai I hành hạ Puskin? Chính những công lao lịch sử của Puskin trước tổ quốc và văn họ của ông trở nên rõ ràng ngay khi ông còn sống. Tuy nhiên ông bị đi đày không phải một năm và hối tiếc hậu quả tính khí thất thường của Sa hoàng và thuộc hạ. Những thí dụ như thế trong quá khứ nhân loại có thể tìm hàng nghìn.
Thời Stalin Vorosilov đảm nhiệm tương đối lâu trả lời về đường lối chính sách nghệ thuật xô viết. Ông là không thông minh từ hoạ sĩ Aleksandr Gerasimov. Tôi đồng ý rằng Aleksandr Gerasimov là hoạ sĩ giỏi. Tuy nhiên Vorosilov thích Gerasimov trước hết là Gerasimov ca tụng ông trong những bức tranh của mình. Cũng có thể nói về các ca sĩ. Những nhạc sĩ, sáng tác bài hát theo một phong cách và thể loại nhất định, đặc biệt nếu chúng làm nổi bật những nhân vật cụ thể, sáng tác nịnh bợ, bịa đặt, được thưởng và được cất nhắc. Bạo chúa tiến kéo họ lại về mình và bằng mọi cách cổ vũ họ. Điều này không cản trở thừa nhận tác phẩm tuyệt vời ở khía cạnh thuần tuý nghệ thuật.
Nhà văn Fadeev là người tài năng. Tác phẩm của ông “Sự thất bại” nói về những người du kích Viễn Đông gây ra ấn tượng chấn động. “Đội cận vệ trẻ” - cũng là một tiểu thuyết hay. Nhưng người ta chộp được nhà văn tài năng thậm chí thiên tài này. Cớ gì mà Stalin sau chiến tranh đặc biệt cám ơn chính Fadeev? Vì rằng trong thời gian đàn áp, Fadeev lãnh đạo Hội nhà văn Liên Xô, đã ủng hộ đường lối đàn áp. Và làm bay đi nhiều cái đầu của các tác giả vô tội. Chỉ cần viết rằng trong cửa hàng bán khoai tây thối, và điều này đánh giá như chống Liên Xô, người viết lãnh đủ.
Thảm cảnh của Fadeev được giải thích là ông tự sát. Ngay sau khi người ta vạch mặt Stalin và chỉ ra rằng hàng nghìn nạn nhân là hoàn toàn vô tội, thì Fadeev, một người thông minh tế nhị, không thể tha thứ cho mình vì tội phản lại sự thật. Chính giới trí thức văn nghệ cũng chết cùng với những người khác. Còn Fadeev làm chứng gian rằng người ta phát biểu thế này thế nọ chống tổ quốc. Sẵn sàng nghĩ rằng ông làm điều này một cách chân thật, tin vào sự cần thiết của cái gì đã được làm. Nhưng mọi người đứng trước giới trí thức văn nghệ trong vai trò công tố viên của Stalin. Nhưng khi nhìn thấy vòng vâykhép lại, Fadeev chấm dứt cuộc sống của mình. Tất nhiên phải chú ý rằng Fadeev trước lúc đó, đã uống rượu và vì thế đã làm mất nhiều cá tính trước đây của mình. Stalin triệu tập Uỷ ban về giải thưởng Stalin (điều này phải làm trước khi chết để chính tay ông chia giải thưởng mang tên mình), ông đọc báo cáo tặng thưởng Fadeev. Nhưng khi tất cả kết thúc, Stalin nói về Fadeev:
- Chật vật lắm mới đứng dậy được, say hoàn toàn!
Mọi người thấy điều này, tất cả biết điều này. Không ít lần lãnh đạo phải giáo dục công an và cơ quan an ninh để tìm ông trong một chỗ mua vui nào đấy. Fadeev, đau khổ vji cắn rứt lương tâm đã đi đến tình cảnh như thế này. Ông loại bỏ mình và sợ mặt đốu mặt với những nhà văn mà ông giúp Stalin dồn họ vào tù, một số trong số họ quay về nhà sau này. Biện pháp như thế chỉ là một trong nhiều sai lầm, которые có thể gây ra đối với giới trí thức văn nghệ.
Về Tvadovski. Thơ của ông trên miệng hàng triệu người - cả bộ đội đánh nhay với quân Hittler, cả nhân viên hậu cần. Thơ ông nói về Vasili Terkin, một tác phẩm bất hủ. Như mọi người biết Demian Bednyi trong thời gian nội chiến, đúng là Tvadovski nổi tiếng trong những năm chiến tranh vệ quốc. Sau đó thơ ông được viết trong nguyên bộ sách, còn các nhân vật của chúng được vẽ thành tranh. Stalin cảm động nhìn bức tranh có hình Vasili Terkin. Khi Stalin lần đầu tiên nhìn thấy tranh, lập tức đề nghị; “Treo nó ở Kreml”.
Và người ta treo nó ở đó, trước lối vào phòng Ekaerina. Nếu, ra từ phòng họp Xô viết tối cao Liên Xô, quay sang phải, то có thể thấy Terkin được vây quanh bởi các chiến sỹ sau giao chiến. Nhưng bây giờ con đường sáng tạo nghệ thuật của Aleksandr Trifonovich Tvadovski chấm dứt không có tôn vinh. Nhưng chính không phải là ở chỗ ông bây giờ chẳng ai thích. Không thể không thừa nhận vai trò sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhân dân công nhận ông. Đây là hiện diện chủ nghĩa chủ quan thay đổi từ người lãnh đạo này tới người lãnh đạo kia.
Tôi nói vài lời về Pastenak. Tôi không bàn về nghệ thuật thơ ông và chỉ sử dụng ý kiến của các nhà thơ đánh giá rất cao thơ Pastenak, kể cả bản dịch thơ ông từ tiếng nước ngoài. Ông viết tiểu thuyết “Bác sĩ Zivago” và rất muốn người ta in nó. Vấn đề về tác phẩm này được giải quyết như thế nào? Người báo cáo tôi về nó là Suslov, lãnh đạo tuyên huấn. Không có Suslov, không thể có thể đả động đến vấn đề đó. Suslov nói tác phẩm “Bác sĩ Zivago” là xấu, không theo tinh thần xô viết. Chi tiết luận cứ tôi không nhớ, tôi không muốn nói sai đi. Tóm lại, đây là một tác phẩm không đứng đắn, không đáng in. Tôi cũng chấp nhận quyết định này. Tôi cho rằng ở mỗi giai đoạn có những biến cố, ngoài Suslov, chưa ai trong số những người có trách nhiệm, đọc tiểu thuyết này. Tôi thậm chí còn ngờ Suslov đọc nó. Suslov, có lẽ, nên trình bày nội dung tác phẩm ba trang. Tất nhiên bàn về nghệ thuật, lại kết án tác phẩm và tác giả của nó, thật không chịu đựng được! Đâu đâu người ta cũng hỏi tôi? Tôi trả lời: tôi tiếc là bây giờ kết thúc cuộc đời hoạt động của mình như một người về hưu bị đày ở nhà nghỉ cuối tuần vùng Petrovsko-Dalnee ngoại ô Moskva? Trong những năm ấy, khi tôi có khả năng ảnh hưởng đến quyết định - in hoặc không in, chấp nhận hoặc không chấp nhận quan điểm của Suslov, người báo cáo, - thì chính tôi lại chưa đọc cuốn sách này. Tôi chưa đọc, nhưng nhưng lại đưa ra những biện pháp hành chính có hại nhất trong quan hệ với giới nghệ thuật.
Đương nhiên, ở nước ngoài om xòm lên, khi bản thảo lọt ra và in nó. Tôi không biết, tác phẩm này tương xứng đến mức nào tiêu chuẩn giải Nobel, nhưng người ta tặng giải này cho Pastenak. Nảy sinh thêm chuyện ầm ĩ: Chính phủ xô viết không cho nhà văn đến nhận giải. Tôi đề nghị các đồng nghiệp:
- Hãy thông báo công khai rằng Pastenak nếu muốn, có thể ra nước ngoài để nhận giải của mình.
Nhưng Pastenak trả lời qua báo chí rằng ông không đặt vấn đề ra nước ngoài nhân danh mục đích này. Cho đến bây giờ tôi tiếc rằng, thời tôi, cuốn tiểu thuyết ấy không được in. Không thể mang phương pháp cảnh sát để phán xét những người hoạt động nghệ thuật. Cái gì đặc biệt xảy ra, nếu như “Bác sĩ Zivago” được in khi đó? Chẳng có gì cả đâu, tôi tin như vậy! mọi người phản đôi tôi:
- Anh tỉnh ngộ muộn.
Đúng là muộn thật, nhưng muộn vẫn tốt hơn không bao giờ. Không phải tôi ủng hộ vấn đề của Suslov. Cứ để bạn đọc công nhận tác giả. Nhưng công nhận theo cách khác: tác giả đã bỏ sức lao động, người ta công nhận nó trên toàn thế giới, còn ở Liên Xô bằng các biện pháp chính quyền người ta cấm đoán nó...
Tôi cay đắng là đã từng ủng hộ một trong những tác phẩm đầu tiên của Sonzenisyn. Khi tôi tiếp Tvadovski mang tác phẩm này, trình bày nội dung của nó và bày tỏ suy nghĩ của mình:
- Tôi coi tác phẩm này là cực kỳ mạnh mẽ và nhận thấy tác giả sẽ là một nhà văn lớn trong tương lai. Đề tài ông đề cập có thể gây ra những đánh giá khác nhau. Mọi người hãy đọc đi. Nhưng tôi đề nghị không in tiểu thuyết này trong tạp chí “Thế giới mới”...
Tôi không nhớ tiểu sử Sonzenisyn. Tôi được báo cáo rằng trước đây ông có thời gian dài ngồi tù. Trong cuốn tiểu thuyết, ông có những quan sát riêng. Tôi đã đọc nó. Cuốn tiểu thuyết nặng nề này để lại những ấn tượng, lo lắng, nhưng đúng sự thật. Nhưng chủ yếu gây ra sự kinh tởm những gì được tạo ra thời Stalinе, làm rung động những điều kiện tồn tại của những người dân chân chất. Không phải ngẫu nhiên mà độc giả chúng ta vồ lấy cuốn thiểu thuyết này. Mọi người tìm thấy lời giải thích tại sao những người tương tự Ivan Denisovich, lại bị nhốt vào trại tù trong những điều kiện một đất nước xã hội chủ nghĩa. Tác giả đánh thức nhận thức lơ mơ của nhiều người.
Khi về hưu, tôi đọc cuốn hồi ký của tướng Gorbatov, người từng bị đàn áp. Tôi biết Gorbatov trong chiến tranh. Cuối 1941 ông tới mặt trận của chúng tôi đóng ở Kharkov. Khi đó tôi là uỷ viên hội đồng quân sự có thảo luận với ông. Ông không kể chi tiết về nhà tù, mà chỉ nói về những vị tướng Liên Xô vô tội nằm trong tù. Ông kể tên họ. Timosenko cũng quan tâm nghe ông, vì ông cũng biết rõ những người này. Cả hai chúng tôi đã viết thư cho Stalin đề nghị thả họ và đưa họ ra mặt trận. Còn bây giờ tôi biết chi tiết, người ta phỉ báng như thế nào người chỉ huy quân sự xô viết trung thực Gorbatov. Liệu có ít chuyện thế này không?
Với Sonzenisyn, ông tiếp tục viết, nhưng không in ở Liên Xô, mà ở nước ngoài. Lúc ấy ông ở “điều kiện đặc biệt”.
Tuy nhiên một bộ phận trí thức chúng ta cảm thông với ông và thậm chí còn là liều nữa. Người ta nói ông sống ở nhà nghỉ cuối tuần của Rostropovich, một nhạc sĩ tuyệt vời, một tay violon nổi tiếng. Khi quyết định bước đi này, Rostropovich tự đặt mình vào tình thế không thuận lợi, nói mềm đi. Điều này chứng minh phẩm chất nhân văn và tinh thần mạnh mẽ của Rostropovich. Sonzenisyn không có một tội gì cả. Ông phát biểu suy nghĩ của mình, viết về những gì mình chịu đựng, đánh giá cá nhân về những điều kiện ông giết thời gian những ngày ngồi tù. Và nói chung, ý kiến của ông hoàn toàn đúng: Stalin là tội phạm, mà là bọn tội phạm thì phải khép tội dù chỉ là về tinh thần. Phiên toà mạnh nhất - phỉ nhổ chúng trong tác phẩm nghệ thuật. Ngược lại, tại sao người ta coi Sonzenisyn là tội phạm? Nếu ông viết dở, người ta không đọc ông. Nếu ông vu khống, có thể bắt ông chịu trách nhiệm, nhưng trên cơ sở luật pháp. Hình như không lôi cuốn vì điều này. Nhưng sợ stj. Mặt nghệ thuật trong trường hợp đã nêu chẳng can hệ gì. Chẳng hạn, tôi không thích tác phẩm “Cung điện Materin” của Sonzenisyn, nhưng đây chỉ là việc sở thích. Đừng cản trở người ta bằng thu thập ý kiến.
Nói chung khổ sở nhất là dân chúng xô viết - trí thức chúng ta. Cá nhân văn nghệ sỹ đoạt trong tác phẩm của mình định đoạt những quan hệ giữa con người, chịu đựng về tinh thần của họ, sự tiếp xúc của họ với chính quyền và những người xung quanh. Ở đây nhà văn hiếm khi rơi vào tình thế nặng nề. Người ta bắt đầu can thiệp vào công việc của anh ta, kiểm soát ânh ta, kiểm duyệt. chúng ta vẫn nói là không có kiểm duyệt. Đây là chuyện vớ vẩn! Chuyện trẻ con. Tại Liên Xô không những có thật, mà tôi nói thậm chí còn là kiểm duyệt cực kỳ khắc nghiệt. Tôi nhớ số phận cuốn sách Kazakevich “Quyển vở xanh”.
Một cuốn sách hay. Sau này nó được làm thành phim, tôi xem phim này hai lần trên TV. Sự thật, Zinovev trong phim là nhút nhát. Sau những biến cố rháng 7-1917 ở Petrograd, ông cùng với Lenin náu mình trong lều. Tác giả cuốn sách gửi cho tôi một bức thư ngắn và đề nghị tôi làm quen với bản thảo. Người ta không chấp nhận in bản thaeo này. Tôi đọc, và tôi thích. Tô không nhận xét một cái gì cả có thể cho là không chấp nhận in nó.
Khi đó, tôi nghỉ ở Kavkaz, gần chỗ Mikoian nghỉ. Tôi gọi cho Mikoian và nói:
- Anastas Ivanovich, tôi gửi anh bản thảo, tôi đề nghị anh đoc nó, sau đó chúng ta gặp nhau và trao đổi những suy nghĩ.
- Ý kiến của anh ra sao? - tôi hỏi, khi chúng tôi gặp nhau.
- Tôi - Mikoian trả lời - tôi cho rằng cuốn sách viết tốt đấy. Tôi không hiểu, vì sao bộ phận kiểm duyệt không cho phép in.
- Được thôi, khi về Moskva, chúng tôi đặt vấn đề để thảo luận trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ - tôi nói.
Người ta gửi cuốn sách cuốn sách này cho tất cả uỷ viên Đoàn chủ tịch, và vấn đề của nó được đưa vào nghị sự phiên họp thường kỳ.
- Ai có ý kiến gì không? Vì sao cuốn sách này không được in? - tôi hỏi.
 Sau vụ này, tôi nổi tiếng đảng bộ Moskva và trong BCHTƯ. Điều đó, nói riêng, cũng định đoạt trước số phận sau này của tôi như một cán bộ đảng. Sau này tôi mới biết, số phận tôi được định đoạt vì tại Học viện công nghiệp, cùng học với tôi Nadia Allilueva, vợ Stalin. Tôi không hề biết việc này. Trước khi được bầu làm bí thư, thì Nadia Allilueva đã học cùng với chúng tôi. Nhưng Nadia Allilueva tận mắt thấy tất cả cuộc đấu tranh này, có lẽ, khi về nhà kể cho Stalin. Khi kể lại, tất nhiên, cả những người khác. Barobev, một thanh niên can đảm, đến mức anh ta gọi Stalin là “Nikolai Pankin”, nói chung là chửi rủa mọi điều. Vào thời ấy, theo tôi hiểu, là phạm tội. Chúng tôi cho rằng đó là ám hại Đảng. Và chỉ sau đó 10 năm, người ta hiểu rằng tính chất như thế chính là biệt danh rất đúng cho Stalin.
Hội nghị Bauman rất sóng gió. Những phiên họp đầu tiên tôi không có mặt vì khi đó tôi vẫn chưa có thư uỷ nhiệm, nhưng sau đó người ta đã kể lại cho tôi. Nadezda Konstantinova Krupskaiaphát biểu, còn hội nghị thì khó chấp nhận bài phát biểu đó. Lời của Nadezda Konstantinova Krupskaia lúc đó không theo nhịp đường lối chung của đảng, và người ta đã nói riêng ở hành lang rằng sẽ phân tích lời phát biểu của bà. Lúc đó, tất nhiên, cả tôi cũng có thái độ như thế. Cả tôi và cả những người khác cũng có cảm giác nước đôi: một mặt, kính trọng Nadezda Konstantinova Krupskaia như người cùng chiến hào và thân cận với Lenin; mặt khác, bà phát biểu, không ủng hộ Stalin. Sau đó tôi cũng theo cách khác đánh giá điều này, chủ yếu sau khi Stalin chết, khi tôi xem xét cả những hoạt động của Stalin, đánh giá ông như lãnh tụ và như một cá nhân. Hình như trong thời gian đó là đúng. Nhưng hội nghị không hiểu bà, không chấp nhận và phân tích lời phát biểu của bà.
Тhế là tôi bắt đầu hoạt động của một cán bộ đảng. Chẳng bao lâu tôi được bầu vào BCH đảng bộ vùng Bauma. Điều này xảy ra vào tháng giêng 1931, còn hội nghị họp, theo tôi, tháng bẩy 1930. Trong thời gian ấy tôi làm quen với Bulganin. Ông là giám đốc Nhà máy sản xuất đồ điện Bauman. Ở Moskva tiến hành hội nghị, tôi cũng tham gia vào Uỷ ban kiểm tra Đảng của Nhà máy sản xuất đồ điện. Lúc đó những người đi tiến hành kiểm tra phải có thâm niên đảng lớn, vì thế cả Moskva không đủ những người như thế. Chúng tôi miễn cưỡng phải làm việc này, họ dứt chúng tôi khỏi các buổi học. Bản thân Bulganin không đi kiểm tra, ông ở ngoài cuộc, và chỉ khi xong việc ông đến, chúng tôi và ông nói chuyện. Ông đem lại cho tôi nhiều ấn tượng tốt, sau đó vì công lao đã nhận phần thưởng cao quý - Huân chương Lenin.
Khi Sirin, bí thư đảng khu vực đến Học viện, thì không được kính trọng, thậm chí không cho ông phát biểu nữa. Tsikhon đến, một người uy tín, Dân uỷ viên, nhưng trước đó từng là bí thư đảng vùng Bauman (sau này ông cũng chết, người ta bắn ông), người ta cũng không cho ông phát biểu. Ông nói:
- Hãy nghe, tôi đã có việc với những người xây dựng, và thậm chí ở đó nề nếp cũng được giữ chặt hơn ở chỗ các đồng chí, vì chính các đồng chí là học viên Học viện.
Tôi quay về Alliluev, bà cũng là cơ sở đảng của nhóm Học viện. Có lần bà đến chỗ tôi nói:
- Tôi muốn cùng với ông thống nhất ý kiến đường lối của chúng ta, bây giờ nhóm đảng viên phán xét vấn đề gì đấy, như đã viết đúng đặc điểm chính trị hiện tại?
Sự thảo luận liên quan tới cuộc đấu tranh với “phái hữu”. Tôi trả lời bà ấy, nhưng ngay khi bà ấy đi khỏi, tôi nghĩ “Bà ấy về nhà kể hết cho Stalin, và ông ta sẽ nói gì?”. Hôm sau bà ta không nói gì cả, còn tôi cũng không hỏi bà. Hình như đánh giá của tôi là đúng. Khi tôi gặp Stalin, ban đầu tôi không hiểu tại sao ông nhắc đến sự kiện gì đó trong những hoạt động của tôi tại Học viện công nghiệp. Tôi im lặng và không trả lời: không biết vui hay lo vì điều này. Nhưng tôi tự nghĩ: “Tại sao ông ấy biết?”.
Sau đó, tôi nhìn, hình như ông mỉm cười. Lúc đó tôi nhanh trí: có lẽ Nadezda Sergeyeva kể chi tiết cho ông ta về sinh hoạt đảng bộ và vai trò của tôi là bí thư, đưa tôi vào vị thế tốt đẹp.
Có thể, Stalin sau đó cũng nói điều này cho Kaganovich:
- Đưa Khrusev về làm việc ở đảng bộ Moskva!
Tương lai được về làm việc với Kaganovich làm tôi hài lòng, vì tôi tin và kính phục Kaganovich. Chỉ sau này khi biết thái độ thô lỗ của ông khiến tôi không thiện cảm.
Thế là tôi được kéo về Đảng bộ Moskva, đây là một vinh dự lớn. Đảng bộ Moskva - thủ đô. Nhưng không bao giờ tôi quên, công việc ở đây không mấy dễ chịu. Có lần Kaganovich hỏi tôi:
- Anh cảm thấy thế nào?
Tôi nói:
- Rất chán!
 - Vì sao? - ông ngạc nhiên.
- Tôi không biết kinh tế thành phố, tất cả những vấn đề phải được giải quyểt ở đây.
- Anh với Bulganin có mối quan hệ nào chứ?
- Về hình thức những quan hệ thậm chí rất tốt, nhưng tôi nghĩ, ông ta không thừa nhận tôi là người lãnh đạo kinh tế thành phố, còn đối với thành phố đây là.
- Ông đề cao ông ấy và tự hạ thấp mình đấy. Nhưng ông ấy vẫn đến thăm anh chứ?
- Thỉnh thoảng có đến, thống nhất ý kiến. Nhưng tôi cảm thấy ông ấy hiểu rõ công việc nếu có đến chỗ tôi, thì đơn giản là đến Bí thư đảng bộ Moskva. Còn nói chung chúng tôi có những quan hệ rất tốt, còn tôi kính trọng ông ta.
Sau này, khi chúng tôi làm việc cùng với nhau, tôi thấy Bulganin là người chỉ vẻ bề ngoài, hời hợt. Ông không đi sâu vào kinh tế, còn trong vấn đề chính trị thì có thể thậm chí coi là vô chính trị, không bao giờ ông sống trong bão táp chính trị. Tôi không biết tiểu sử ông ta, mặc dù tôi biết rằng ông làm trong Cheka đường sắt chống bọn trộm cắp, lừa đảo, rồi sau đó người ta điều ông về giám đốc nhà máy. Ông là một giám đốc hình như không tồi. Ông chỉ mới học hết trung học, lúc đó là một hiện tượng hiếm có. Thông thường người ta đề bạt giám đốc từ công nhân. Kaganovich gọi Bulganin là kế toán viên. Đúng thế, nhìn phong cách ông là viên kế toán viên.
Trong thời gian này tôi đơn giản ủng hộ Bulganin. Stalin, đôi khi, mời cả hai chúng tôi cùng với nhau đến ăn cơm gia đình và thường đùa:
- Hãy đến đây ăn đi, bố già thành phố!
Kaganovich không đến cùng với chúng tôi. Ông vẫn là bí thư Đảng uỷ Moskva, nhưng, hình như Stalin cũng không thừa nhận vai trò của nó, chỉ xem là bí thư BCHTƯ. Còn chúng tôi, “những người cha thành phố”, đại diện cho Moskva. Về thực chất Kaganovich không có khả năng giải quyết vấn đề của thủ đô, vì còn bận công việc BCHTƯ. Ông làm việc rất tận tâm: như người ta nói, tối mắt tối mũi.

Truyện HỒI KÝ KHRUSEV Mở đâu Lời của người con trai Lời nói đầu Tại học viện công nghiệp Làm quen với Stalin Một lần nữa về Ukraina Ukraina-Moskva Năm 1941 khó khăn Bước ngoặt Stalingrad Trước trận đánh ở Kurk và khởi đầu trận đánh Những suy nghĩ sau chiến tranh Những suy nghĩ sau chiến tranh ( 2) Những năm đầu tiên sau chiến tranh Lại về Moskva Xung những người nổi tiếng Suy nghĩ của tôi về Stalin Một lần nữa nói về Beria Cái chết của Stalin t tại cuộc thảo luận. Bà phát biểu rất mạnh chống Erenburg. Erenburg, nghe bà nói, đúng là như đỉa phải vôi, nhẩy cẫng lên, còn bà vẫn quất túi bụi, gọi ông là kẻ nịnh bợ nịnh bợ Stalin và lên án ông khi Stalin chặt đầu và lưu đầy nhà văn, Erenburg phát biểu ủng hộ chính sách Stalin trong quan hệ với văn nghệ sỹ. Erenburg rất bực tức. Tôi hiểu Serebriakova, một tác giả tài năng của bộ sách 3 quyển về Marx và Ăng-ghen. Bây giờ Serebriakova biến mất khỏi chân trời, từ lâu tôi không nghe tên bà, trên bìa sách thoáng qua không có tên bà. Có thể, tác phẩm của bà có những lời thú nhận và nhìn thấy ánh sáng?
Bây giờ tôi tiếc nhiều người không có mặt tại buổi thảo luận. Khi phê bình Neizvetnyi, thậm chí tôi tỏ thô lỗ, nói rằng ông lấy cho mình cái họ như thế không phải vô cớ. Họ của ông làm tôi tức giận. Trong mọi trường hợp, từ phía tôi thể hiện sự thô lỗ, và nếu như tôi gặp ông bây giờ, thì tôi đề nghị ông tha thứ. Hơn nữa khi đó, tôi giữ chức vụ cao và không kiềm chế, không còn là cuộc trao đổi mà là quát mắng. Evtusenko phát biểu rất hăng, ủng hộ Neizvetnyi. Chủ nghĩa trừu tượng không phải là hướng mới trong văn hoá, nó có từ lâu và cũng từ lâu, một bộ phận trí thức đấu tranh chống xu thế này. Nó đặc biệt phát triển ở nước ngoài, mặc dù cả ở nước ta cũng có những người theo chủ nghĩa trừu tượng và những người khác khuynh hướng vị lai (tương lai). Một người trẻ tuổi theo chủ nghĩa vị lai là Maiakovski đi trong áo len vàng.
Tôi vẫn chưa tán thành trào lưu đó trong văn học, kịch, và điêu khắc. Nhưng tôi không nói gì. Không thể bằng biện pháp hành chính chống lại những gì nảy sinh trong môi trườngvăn nghệ sỹ: kịch, điêu khắc, âm nhạc... Evtusenko khi đó nêu một thí dụ cụ thể chẳng hạn ở Cuba những những người theo trường phái trừu tượng và những người theo trường phái hiện thực phát biểu cùng với nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, chống xâm lược.! Và mặc cho những chứng cứ thông minh của Evtusenko, người ta vẫn phê bình Neizvetnyi rất mạnh. Neizvetnyi sau này nhắn tôi qua cán bộ Agitprov (không phải BCHTƯ Đoàn thanh niên cộng sản) rằng ông chuyển sang quan điểm hiện thực chủ nghĩa. Tất nhiên tôi hài lòng. Thật là Neizvetnyi - một người tài năng. Bây giờ báo chío viết rằng ông sáng tác một loạt tác phẩm tốt. Tôi cũng vui mừng. Chừng mực nào mà phê bình có thể giúp ông? Có thể, chính bản thân ông quay về vị trí hiện thực trong sáng tạo của mình.
Tôi hối hận về cách phê bình Neizvetnyi, theo bản chất, thì tôi và không đồng ý với những người theo chủ nghĩa trừu tượng. Đơn giản là tôi không hiểu, và chống. Tôi theo xu hướng hiện thực chủ nghĩa. Tôi nhớ, khi ở Anh, tôi sống ở nhà nghỉ cuối tuần ngoại ô và bàn bạc với Anton Iden. Ông nhân thể hỏi tôi:
- Ngài Khrusev, Ý kiến của Ngài thế nào về chủ nghĩa trừu tượng và những trào lưu mode khác trong nghệ thuật hiện đại?
Tôi trả lời:
- Tôi không hiểu những thứ đó, thưa ngài Iden. Tôi đứng vững ở vị trí nghệ thuật hiện thực.
- Và tôi cũng không - Iden nói - và cũng ở vị trí hiện thực chủ nghĩa.
Sau đó ông cười và nói thêm:
- Những người cộng sản cộng yêu Picasso, sao nhỉ? Picasso không phải là người theo chủ nghĩa hiện thực.
Tôi nói với ông:
- Đúng, Picasso - hoạ sĩ lớn, tác giả bức tranh nổi tiếng “Chim bồ câu hoà bình”, là biểu tượng đấu tranh cho hoà bình.
Tôi chẳng phê bình mà cũng chẳng bênh Picasso.
Tôi kính trọng Sostakovich. Bây giờ tôi không nhớ, Zdanov đã phê bình cụ thể cái gì trong tác phẩm của ông. Nhưng tôi không thể nói rằng Sostakovich nói chung bị ruồng bỏ thời Stalin. Ông viết nhiều tác phẩm hay, cả trong thời gian chiến tranh, khi ông sáng tác kiệt tác của mình - bản giao hưởng phòng thủ Leningrad. Về công lao, ông có vị trí nổi bật trong số nhạc sĩ và là một trong những nhạc sĩ giỏi của âm nhạc. Thời còn làm lãnh đạo Liên Xô tôi không hiểu Sostakovich tại sao ông ủng hộ nhạc jazzz. Nói thẳng là ông đúng. Không thể đấu tranh với âm nhạc, kể cả jazz bằng biện pháp hành chính. Hãy để chính nhân dân biểu hiện mối quan hệ với nó.
Tôi không phí thời gian phê bình Utesov. Hồi còn trẻ, khi mọi người hát những bài hát của Utesov, thì báo Sự Thật chửi rủa Utesov. Tôi có một người bạn Lev Rimski, một người cộng sản trong trắng. Ông thường hát hát “Bánh mỳ vòng nóng ròn đây”, và kể cho tôi nghe những người bạn của ông làm việc ở xưởng in báo “Sự Thật”, chuẩn bị in những bài báo phê phán Utesov, nhưng chính họ lẩm nhẩm hát trong thời gian những bài hát thịnh hàng. Đây là sự đánh giá của nhân dân! Tôi không phân tích sáng tạo nhiều mặt của Utesov, trong số này có những bài hát “tiếng lóng của bọn du đãng.
Ngược lại, tôi rất hài lòng, lại xuất hiện những đĩa bài hát Utesov trong cửa hàng, mà tôi thường nghe.
Còn cả những thứ khác. Tôi thường tắt radio khi phát bản jazz làm đâu đầu. Không phải là âm nhạc, mà là những tiếng chói tai. Tôi không hiểu những nhạc sĩ người như thế lại thích được nhạc này. Nhưng đây là việc của tôi. Nhưng có người nghe nó, vỗ tay và bốc lên sự thích thú. Tiếp theo, họ thích? Vì thế các áp dụng biện pháp hành chính cho nghệ thuật là không thể. Người phát biểu phải là khán giả. Tôi là người già, được giáo dục theo khuôn mẫu khác nghệ thuật âm nhạc. Tôi thích những bài dân ca, những điệu múa nhân dân, âm nhạc nhân dân. Tất nhiên và cả nhạc cổ điển. Nhưng không phải là jazz. Tôi ở đây tựa như mang sự sám hối, không phải tuyệt đói như thế: mà là thừa nhận những sai lầm của tôi, khi tôi có ủng hộ hoặc cấm trào lưu nghệ thuật nào đấy. Trong thâm tâm tôi bây giờ cũng chống một số trong chúng. Đơn giản tôi nhấn mạnh rằng không đấu tranh như thế với cái mà mình không thích.
Có lúc những cô gái mặc váy ngắn. Sau đó lại xuất hiện váy dài. Mode thay đổi cả trong âm nhạc và còn lại tất cả. Phải có kiên nhẫn với sự thay đổi này. Nhưng có phải họ làm yếu hệ tư tưởng cộng sản? Theo tôi, hoàn toàn không! Ở đây Evtusenko đúng. Chúng tôi từng phê bình Maiakovski, còn Maiakovski để lại cho đất nước những tác phẩm cho đến bây giờ vẫn là vũ khí của ĐCS trong cuộc đấu tranh cho tương lai tốt đẹp. Chẳng hạn, không ai trong số các nhà thơ viết về Lenin truyền cảm hơn ông. Mặc dù Maiakovski theo phong cách thơ của mình đối với tôi rất khó. Khi tôi mang nó ra đọc, thì thơ ông tác động đến tôi không phải khi tôi nghe. Khi ngâm, những vần thơ vang lên nghiêm túc và được thúc giục. Tôi nói điều này để xác nhận Evtusenko nói đúng. Nhưng chính những vần thơ của Evtusenko liệu có làm tôi thích không? Đúng, tôi thích. Vả lại, tôi không thể nói về tất cả những bài thơ của ông mà tôi chưa đọc. Tôi biết rằng một số đã thành lời bài hát. Chẳng hạn, “Người Nga muốn chiến tranh phải không?”.
Một số người phát biểu phê phán lời bài hát này: dường như thơ của Evtusenko nói chung phủ nhận chiến tranh và làm rã đám tinh thần bộ đội. Họ sai. Lời thơ của ông thể hiện bản chất cuộc đấu tranh chống quân sự hoá và cảnh báo nếu buộc chúng tôi phải chiến tranh, thì nước Nga có thể đường hoàng đánh trả. Tôi cho rằng Evtusenko là nhà thơ rất khả năng, mặc dù và tính ông ngang tàng. Và lại sự ngang tàng là khái niệm phụ thuộc vào quan điểm.
Đơn giản là con người ta không phải luôn luôn đặ trong khung, nếm mùi bởi kiểm duyệt, nghĩa là những những người tất cả phải chịu sự thần phục và làm vừa lòng người ta người ta. Nhưng nếu mọi người viết như nhau, dùng những luận cứ như nhau, xuất phát từ cùng một hiểu biết như nhau, thì chẳng bao giờ sinh ra nghê thuậtcả. Cuối cùng tất cả mọi người chỉ nhai đi nhai lại một thứ. Các tác phẩm như thế chỉ làm cho người đọc nôn mửa. Nhất định phải dũng cảm hơn tạo ra điều kiện cho văn nghệ sỹ phát biểu, hành động, sáng tác. Hãy sáng tác!
N. S. Khrusev
Hồi ký của Khrusev bị ngắt ở đoạn văn này được ghi trong số đầu tiên tháng 9-1971. Ngày 5-9-1971, ông bị đột quỵ lần thứ ba, ngày 11-9-1971 ông qua đời. Chương cuối cùng cuốn hồi ký “Tôi không phải quan toà...” không làm tác giả thích. Khi nghe băng, ông đề nghị xoá đi để có thể đọc lại. Nhưng số phận không điều khiển được. Chương này chứng minh tác giả đánh giá và đánh giá lại một số sự kiện trước đây, thỉnh thoảng không đồng ý với chính mình.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Nguyễn Học
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội)
Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 7 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!--