Dịch giả: Nguyễn Học
Năm 1941 khó khăn

Chiến tranh kề sát chúng tôi. Không phải chúng tôi gây ra chiến tranh, mà là nó kéo đến chúng tôi. Chúng tôi đã nói về điều này và người ta đã làm tất cả để kẻ thù làm chúng tôi bất ngờ, để quân ta ở mức cao về tổ chức, trang vị và khả năng chiến đấu, công nghiệp chúng tôi có mức tương xứng phát triển, đảm bảo mọi nhu cầu cần thiết trang bị và phương tiện quân sự, nếu nổ ra chiến tranh, nếu kẻ thù tấn công chúng tôi. Và thế là chiến tranh không thương xót ập đến chúng tôi. Cái gì được làm trong quân đội, cụ thể không thể nói được, vì rằng tôi không biết. Tôi không biết ai trong số các uỷ viên Bộ chính trị biết tình hình cụ thể, biết tình hình quân đội chúng tôi, vũ khí và công nghiệp quốc phòng. Tôi nghĩ rằng hoàn toàn, hình như không ai biết, trừ Stalin. Hoặc chỉ một số người trong vòng rất hẹp biết, vâng, và không phải biết tất cả các vấn đề. Sự điều động cán bộ, những người có hiểu biết nhiều để chuẩn bị chiến tranh, cũng do Stalin làm.
Giữ “ghế” Ban tổ chức là Sadenko, một người, nổi tiếng với tính cách của mình. Ông là người có tính hung dữ trong quan hệ với mọi người. Sau đó “ngồi” ở Ban tổ chức là Golikov, từ tình báo chuyển về. Bây giờ chính xác không thể nhớ lại, nhưng ông cũng gần Stalin và tham gia những vấn đề này. Mekhlns có ảnh hưởng rất mạnh đến, nhưng chủ yếu trong vấn đề công việc chính trị. Ông là thủ trưởng Tổng cục chính trị, tuy nhiên ông thường vượt ra khỏi khuôn khổ chức năng của mình, vì rằng với tính kiên trì của mình, mà Stalin rất thích. Ông nhiều lần cho Stalin những lời khuyên, và ông được xem là Stalin. Hình như điều này không có lợi cho quân đội.
Trước chiến tranh vệ quốc không lâu, Timosenko trở thành Dân uỷ viên quốc phòng. Tôi không biết, Timosenko triển khai công việc mới của mình ra sao, nhưng tôi nghĩ rằng công việc được tổ chức tốt hơn trước khi ông đến. Tôi không nói về Vorosilov biết công việc quân sự sâu đến chừng mực nào. Nhưng người ta nói ông là một người thích làm mẫu trước ống kính máy ảnh máy quay phim ở hoạ sỹ lão làng Gerasimov hơn là lãnh đạo vấn đề chiến tranh. Vì thế ông thường tham gia nhà hát opera và các diễn viên nghệ thuật, đặc biệt opera, và ông chiếm được vinh quang người am hiểu opera và cho ca sỹ nào đó những đặc tính độc đoán. Thậm chí vợ ông cũng nói điều này. Có lần tôi nghe thấy nói về một nghệ sỹ. Bà không ngẩng mắt và nói:
- Kliment Efremovich không có ý đặc biệt cao về ca sỹ này.
Điều này xem như là kết luận cuối cùng. Ông ta có những dữ liệu nào cho điều này và vì sao xuất hiện những phàn nàn như thế, khó giải thích. Sự thật Kliment Efremovich thích hát và đến những ngày cuối cùng của mình, khi tôi còn gặp ông, ông luôn luôn hát, mặc dù cũng đã khó nghe. Ông hát khá. Ông kể cho tôi, ông đã học trường dạy hát: cũng như Stalin, trong đời đã hát trong dàn đồng ca nhà thờ.
Tại Ukraina năm 1940, Zukov chỉ huy quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev. Đầu 1941 người ta chuyển Zukov đi, và bổ nhiệm Kirponos. Theo tôi, trước Zukov và trước Mereskov, thủ trưởng Bộ tổng tham mưu là Boris Mikhailovich Saponikov. Điều này - tuyệt đối uy tín đối với một quân nhân cao cấp. Trong thời gian ấy làm việc trong Bộ tổng tham mưu có cả Sokolovski và Vasilevski, hai nhà chuyên môn có năng lực. Nhưng thời ấy trong quân đội có tin đồn, đây là - cựu sĩ quan quân đội cũ, và không tin tưởng họ. Trong thời gian đó, tôi còn chưa biết Sokolovski, Vasilevski và vì thế tôi không có ý kiến của mình về họ, nhưng lắng nghe những lời tốt đẹp về họ của các lão thành hồng quân, những người tham gia nội chiến cũng có lòng tin với họ. Từ khi chính tôi biết họ trong thời gian chiến tranh, tôi có sự không tin cậy về mặt chính trị đối với những người này, tất nhiên, và không bao giờ nảy sinh. Tôi với họ rất tốt với Vasilevski, và với Sokolovski.
Với Vasilevski và tôi có xảy ra, tuy nhiên, một trường hợp năm 1942, không thể bị xoá nhoà khỏi óc tôi. Điều này liên quan tới chiến dịch, mà chúng tôi tiến hành đầu năm 1942 ở Kharkov, ở Barvenkovo. Tôi, sẽ nói riêng chiến dịch này, hoàn toàn, tôi không thể đả động cuộc nói chuyện của mình với Vasilevski. Ông gây cho tôi thời ấy một ấn tượng rất nặng nề. Tôi cho rằng thảm hoạ, nổ ở Barvenkovo, lẽ ra có thể tránh được, nếu Vasilevski giữ giữ vị trí, mà ông cần giữ. Ông có thể chiếm vị trí khác. Nhưng ông chiếm nó và chính điều này dẫn đến cái chết một nghìn chiến sĩ Hồng quân trong chiến dịch Kharkov.
Tư lệnh quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev tướng Kirponos, tôi hoàn toàn không biết ông trước khi ông được bổ nhiệm đến cho chúng tôi. Khi ông đến và nhận việc, tôi với ông, tất nhiên, làm quen, vì rằng ông là uỷ viên hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev. Nhưng tôi không thể nói một điều gì cả về ông, tốt, xấu. Chỉ một điều làm tôi lo ngại - làm sao khi Timosenko ra đi, công việc quân đội không yếu đi. Tôi đánh giá rất cao những hoạt động của Timosenko, tư lệnh quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev. Ông là người có khí phách và có uy tín trong số các quân nhân có tính cách cứng rắn cần cho một một chỉ huy, đặc biệt là chỉ huy quân đội. Uy tín của ông rất lớn: anh hùng nội chiến, chỉ huy một trong những sư đoàn quân kỵ binh thứ nhất, lập vinh quang và có công trạng.
Sau Timosenko, Zukov đến. Tôi hài lòng, thậm chí rất hài lòng với Zukov. Ông làm tôi vui bằng tài năng và kỹ xảo của mình giải quyết các vấn đề. Điều này tôi yên tâm: một chỉ huy giỏi, như tôi cảm nhận. Chiến tranh đã xác nhận rằng ông quả là một chỉ huy giỏi. Tôi cũng xem như thế, dù những bất đồng mạnh với ông trong thời kỳ sau này, khi ông trở thành Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô, mà tôi hết sức vất vả và cố gắng để đưa ra sự bổ nhiệm ông. Nhưng ông không hiểu đúng vai trò của mình, và chúng tôi bắt buộc phải cách chức Bộ trưởng của ông và khép tội những âm mưu của ông, mà ông hoàn toàn có và chúng tôi chặn đứng chúng. Tuy nhiên là một người lãnh đạo chiến tranh, tôi đánh giá ông rất cao và bây giờ không thể phủ nhậnsự đánh giá này. Tôi nói về điều này cho Stalin cả trong thời gian chiến tranh, cả sau chiến tranh, khi Stalin thay đổi mối quan hệ của mình với Zukov, khi Zukov bị thất sủng.
Trước chiến tranh vệ quốc, tôi ở Moskva, rất lâu bị giữ ở đấy, đúng bị hành hạ, nhưng đành chịu. Stalin luôn gợi ý tôi:
- Anh còn phải ở lại, anh định bỏ chạy đấy à? Phải ở đây.
Nhưng tôi thấy không có ý muốn ở Moskva: tôi cũng không nghe điều gì mới từ Stalin. Nhưng sau này lại ăn trưa, ăn tối, uống rượu... Các thứ đó với tôi đơn giản không có ích. Tuy nhiên tôi không thể làm được một cái gì cả. Tôi quan sát Stalin và ông gây cho tôi một ấn tượng xấu. Ông ở trạng thái không có sự tinh anh và tin tưởng rằng quân ta đường hoàng gặp quân thù. Ông có lần buông tay sau khi Pháp thua, và Hittler chiếm Pháp. Tôi ở chỗ ông trong thời gian Pháp đầu hàng. Lúc đó ông chửi rủa thậm tệ, bằng tiếng Nga, khi biết về điều này, nói: Thấy chưa, người ta đụng chạm trước mặt chúng ta, Hittler thò tay ở phương Tây. Ông không nói điều này trực tiếp, nhưng chúng tôi hiểu.
Chúng tôi cũng hiểu cả tính cáu kỉnh của ông. Stalin biết rõ hơn chúng tôi tình trạng của Hồng quân và, hình như, ông đã kết luận rằng chúng tôi chưa chuẩn bị chiến tranh “lớn”. Cuộc chiến tranh “nhỏ” của chúng tôi với Phần Lan đã chứng minh điều này.
Chiến tranh là rất đẫm máu, rất nặng nề đối với chúng tôi. Chúng tôi khó khăn mới đánh tan Phần Lan và cũng bị thiệt hại nặng. Tôi nói - “khó khăn”. Điều đó, tất nhiên, ước lệ. Dù là nguồn dự trữ của chúng tôi ở mức nào đó không thể ngang với Phần Lan. Nhưng tôi cũng đánh giá như thế vì rằng nếu lấy Liên Xô và Phần Lan để so sánh số người chết, mà chúng tôi chịu trong cuộc chiến tranh ấy, điều này, tất nhiên, có thể gây ra chỉ do sự không thành thạo và thiếu chuẩn bị tổ chức hoạt động quân sự. Chúng tôi khó đánh tan Phần Lan, đưa ra số lượng người lớn. Nhưng chúng tôi lẽ ra, nếu quả là chiến đấu, giết những người Phần Lan và như thế biểu thị khả năng chiến đấu quân đội chúng tôi. Nhưng chúng tôi lại biểu thị vừa vặn ngược lại: khả năng nhỏ và tính nhu nhược của lực lượng đánh trả của chúng tôi...
Tôi kiên trì cố đạt được quyết định ra đi, về Kiev và cuối cùng tôi trực tiếp nói với Stalin:
- Vì sao mà tôi ngồi ở đây, đồng chí Stalin? Chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ giờ nào và sẽ rất dở, nếu tôi sẽ còn ngồi ở Moskva hoặc thậm chí trên đường. Tôi phải đi, tôi phải ở Kiev.
Và ông đồng ý:
- Đúng, đúng thế, anh đi đi!
Câu trả lời như thế chứng minh rằng chính Stalin không biết, vì sao tôi bị bị giữ lại. Ông hiểu rằng tôi làm một cái gì đó, rằng chỗ của tôi ở Kiev, rằng tôi ở đó cần hơn ở đây - Moskva. Tựa như ông hoàn toàn đồng ý. Nhưng, ông hỏi ai giữ tôi? Điều này rằng ông cầm sự có mặt nhiều người trong số những người quanh mình. Nhu cầu về người thời ấy là như thế.
Tôi bây giờ lợi dụng sự đồng ý của Stalin và đi về Kiev. Mùa hè nóng bức. Tôi đi đến Kiev buổi sáng, như thường lệ. Đó là ngày thứ bẩy. Lập tức tôi đến BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina, báo cho cán bộ về tình hình công việc và buổi chiều đi về nhà. Bỗng nhiên 10 hoặc 11 giờ đêm, ban tham mưu Quân khu đặc biệt Kiev gọi tôi đến BCHTƯ, vì có tài liệu từ Moskva gửi đến. Kèm với điều này là tài liệu này để Bí thư BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina Khrusev biết. Tôi lại đi đến BCHTƯ. Đến đấy, tôi không nhớ chính xác ai: hoặc thủ trưởng ban tham mưu Quân khu đặc biệt Kiev Pukaev, hoặc phó của ông. Tôi tiếp xúc với Pukaev trong thời gian ở Kiev, vì rằng chỉ huy quân đoàn vài ngày trước đây dọn đến điểm chỉ huy ở Tarnopol. Ở đó bắt đầu xây dựng chỉ huy sở, và, mặc dù đó chưa phải là kết thúc, những phải rời đi, vì rằng cảm thấy chiến tranh sắp bùng nổ. Ở đó có cả bộ phận tham mưu ban tham mưu, thủ trưởng bộ phận tham mưu Bagramian và Tư lệnh quân đoàn Kirponos.
Pukaev (hoặc phó của ông) đọc tài liệu. Tài liệu nói rằng, phải chờ đợi sự bắt đầu chiến tranh đúng ngày, người có thể là đúng giờ. Bây giờ chính xác tôi không nhớ nội dung tài liệu, tôi nhớ chỉ có một thứ - sự băn khoăn nội dung và sự cảnh báo. Lúc đó xem xét: tất cả những gì cần làm, chuẩn bị lực lượng, được làm. Cho đến lúc Tư lệnh ra về với bộ phận tham mưu về ban tham mưu. Tiếp theo, chúng tôi chuẩn bị chiến đấu. Sau đó người ta gọi từ ban tham mưu Tarnopol và nói rằng ở hướng của chúng tôi có một người lính Đức chạy sang. Người này nói rằng ông là một người cộng sản, và bây giờ cũng xem mình như một người cộng sản, rằng ông là người chống phát xit, что ông chống cuộc phiêu lưu chiến tranh, mà Hittler gây ra, và cảnh báo rằng sáng mai vào lúc 3 giờ sáng bắt đầu cuộc tấn công quân Đức. Điều này trùng với những bằng chứng, vừa mới được Moskva thông báo ở tài liệu nhắc đến. Tôi không nhớ gọi ngày, giờ. Hình như có gọi. Tóm lại, đây không phải là cái gì mới, chỉ là xác nhận nó một cách cụ thể.
Người lính chạy từ phía tiền duyên. Người ta thẩm vấn anh ta, và tất cả những dấu hiệu mà anh ta chỉ ra, dựa bào nó mà ông ta nói rằng sáng mai lúc 3 giờ giờ bắt đầu cuộc tấn công, được mô tả logic và đáng tin. Thứ nhất, vì sao chính sáng mai? Người lính nói rằng họ nhận khẩu phần lương khô 3 ngày. Nhưng vì sao chính vào lúc 3 giờ? Vì rằng quân Đức luôn luôn chọn giờ sớm trong những trường hợp như thế này. Tôi không nhớ, ông nói cái gì liên quan đến giờ sáng, hoặc họ biết điều này theo “radio của lính”, cái đó luôn luôn rất chính xác xác định bắt đầu cuộc tấn công. Chúng tôi phải làm gì? Tư lệnh ở Tarnopolе, ban tham mưu cũng nằm ở đó. Bộ đội ở tại chỗ, sẵn sàng bắn quân thù. Chúng tôi xuất phát từ điều này. Tôi không về nhà và ở lại BCHTƯ đến giờ.
Và quả là, từ hửng sáng, khoảng 3 giờ, chúng tôi đã nhận thông báo, lính Đức nổ pháo và tiến hành những hành động tấn công, vượt qua tuyến phòng thủ phân giới thuỷ và bẻ gãy sự chống cự của chúng tôi. Bộ đội chúng tôi đánh lại và cản chúng. Tôi không nhớ, vào lúc nào, nhưng khi trời sáng, bỗng nhiên từ ban tham mưu Quân khu đặc biệt Kiev nói rằng máy bay Đức tiến gần Kiev. Lát sau, chúng trên bầu trời Kiev và ném bom xuống sân bay thành phố. Bom rơi vào hăngga, các đám cháy bắt đầu. Trong hăngga này có một số một số máy bay U-2.
Sau đó trong thời gian chiến tranh máy bay U-2 được sử dụng làm máy bay liên lạc, còn thời ấy - dùng cho nông nghiệp. Máy bay chiến đấu trên sân bay không có, chúng được đưa đến biên giới, được phân tán và nguỵ trang.
Quân Đức bằng những đợt bay đầu tiên không đạt được mục đích không thể loại ra khỏi đội ngũ sân bay và máy bay chúng tôi, không thể phá huỷ chúng. Máy bay của chúng tôi và xe tăng hoàn toàn không bị tiêu diệt từ đòn đánh đầu tiên. Tại Quân khu đặc biệt Kiev (mặc dù, có thể là, một họ còn che giấu một cái gì đó từ tôi, nhưng những báo cáo cho tôi thời ấy, nhưng tôi tin và bây giờ tôi tin, đó là thông tin đúng) ở các nơi quân Đức không thể hoàn toàn dùng sự bất ngờ để giáng đòn vào máy bay, xe tăng, pháo, kho tàng, vũ khí quân sự khác. Sau này người ta nói cho chúng tôi rằng không quân Đức ném bom Odessa, Sevastopol, và những thành phố phía nam nào đấy.
Khi chúng tôi đã có những bằng chứng rằng quân Đức nổ súng, từ Moskva đưa ra chỉ dẫn không bắn trả. Đây là chỉ dẫn lạ lùng, người ta giải thích nó như thế này: có thể, đây là sự phá hoại nào đấy của chỉ huy địa phương quân Đức hoặc là một sự khiêu khích không thực hiện chỉ thị Hittler. Điều này nói rằng Stalin sợ chiến tranh đến đỗi kiềm chế bộ đội chúng tôi họ không bắn trả kẻ thù. Ông không tin Hittler bắt đầu chiến tranh, mặc dù bản thân ông không ít lần nói rằng Hittler, tất nhiên, sử dụng tình hình phức tạp ở phương Tây, và có thể tấn công chúng tôi. Điều này chứng minh Stalin không muốn chiến tranh và vì thế tự trấn an Hittler giữ lời và không tấn công Liên Xô. Khi chúng tôi nói cho Stalin rằng kẻ thù đã ném bom Kiev, Sevastopol và Odessa, rằng điều này không thể nói là vụ khiêu khích địa phương của quân Đức trong một vùng hẹp nào đó, rằng đây quả là bắt đầu chiến tranh, ngay lúc ấy đã nói:
- Đúng, đây là chiến tranh, và quân đội phải chấp nhận biện pháp thích ứng.
Vâng, nói khác đi, nhưng lần này quân ta bắt buộc bắn trả.
Bắt đầu chiến tranh. Nhưng vẫn không có một tuyên bố nào của Chính phủ xô viết hoặc của đích thân của Stalin. Điều này không gây một ấn tượng tốt. Sau đó ban ngày hôm chủ nhật, Molotov phát biểu. Ông tuyên bố chiến tranh bắt đầu rằng Hittler tấn công Liên Xô. Nói về lời phát biểu này bây giờ chưa chắc cần, vì rằng tất cả đã được ghi lại và mọi người có thể làm quen với sự kiện trên báo chí thời ấy. Molotov phát biểu, sao không phải là Stalin phát biểu, vì sao có chuyện như thế? Stalin thời ấy không phát biểu. Ông hoàn toàn bị tê liệt trong những hoạt động của mình và đầu óc lung tung. Sau đó, sau chiến tranh, tôi biết rằng khi bắt đầu chiến tranh, Stalin ở ở Kreml. Beria và Malenkov đã nói với tôi điều này.
Beria kể: Khi chiến tranh bắt đầu, các uỷ viên Bộ chính trị ở tụ tập ở Stalin. Tôi không biết, tất cả hoặc chỉ có một nhóm thường xuyên tụ họp ở chỗ Stalin. Stalin tinh thần hoàn toàn bị ức chế và tuyên bố như thế này:
- Chiến tranh bắt đầu, nó phát triển một cách thảm hoạ. Lenin bỏ lại cho chúng tôi nhà nước Xô viết vô sản, còn chúng tôi... - Ngay đúng chỗ ấy ông biểu hiện. Tôi từ bỏ khỏi vị trí lãnh đạo...
Và ông bỏ đi. Ông bỏ đi ngồi vào xe và đi về một nhà nghỉ “gần”.
- Chúng tôi - Beria kể - vẫn còn ở lại. Làm cái gì tiếp đây? Sau khi Stalin thể hiện mình như thế, qua một thời gian nào đấy, chúng tôi thảo luận với Molotov, Kaganovich, Vorosilov (mặc dù Vorosilov ở đấy, tôi không biết, vì rằng trong thời gian ông thất sủng ở Stalin do thất bại trong chiến dịch chống Phần Lan). Chúng tôi bàn bạc và quyết định chạy đến chỗ Stalin, kéo ông quay về hoạt động, dùng tên ông và khả năng để tổ chức phòng thủ đất nước. Khi chúng tôi đi đến gặp ông ở nhà nghỉ, thì tôi nhìn mặt ông thấy rằng Stalin rất khiếp sợ. Tôi cho rằng Stalin nghĩ, liệu chúng tôi đến bắt ông vì rằng ông từ chối vai trò của mình và không làm một cái gì cả để tổ chức chặn cuộc xâm lăng của Đức? Chúng tôi thuyết phục ông rằng chúng ta là một nước lớn, chúng ta có khả năng tổ chức, cơ động nền công nghiệp và mọi người, kêu gọi nhân dân đấu tranh, ngắn gọn, làm tất cả để nâng tinh thần chống Hittler. Stalin tựa như hồi tỉnh một chút. Chúng tôi chia nhau, ai làm gì, nhận gì để tổ chức phòng thủ, công nghiệp quốc phòng và v.v...
Tôi không nghi ngờ rằng lời trên đây là đúng. Tất nhiên tôi không có năng hỏi Stalin có phải như thế không. Nhưng không có lý do gì để không tin điều này, vì rằng tôi thấy Stalin ngay trước lúc bắt đầu chiến tranh. Ông ở trạng thái sốc.
Ở Quân khu đặc biệt Kiev trong những ngày đầu tiên chiến tranh tình hình rất nặng nề, nhưng hoàn toàn không phải tình thế thảm hoạ. Chúng tôi trong nguồn dự trữ có hai quân đoàn xe tăng, còn quân Konev cần phải bắt đầu chuyển đi. Theo chỉ dẫn của Tổng hành dinh chúng tôi quyết định phản kích quân Đức đang tấn công, tung vào đấy một quân đoàn cơ giới của chúng tôi. Tôi không biết, nhưng chúng tôi biết người chỉ huy quân đoàn xe tăng Đức, nhưng chúng tôi cho rằng quân đoàn cơ giới của chúng tôi ăn mừng với chúng và chúng tôi phục hồi tình thế. Trong thời gian này Konev bắt đầu chuyển đi. Tôi gọi cho Stalin để ông quyết định cho chúng tôi tuyển mộ bộ đội Konev tấn công vùng đất này. Ban đầu ông đồng ý, nhưng sau này gọi lại và ra lệnh:
- Ngay lập tức chở quân Konev và chở thẳng đến Belorussia.
Những quân đoàn cơ giới chúng tôi bị tiêu diệt và cả bộ đội nữa. Quân Đức có khả năng tiến vào Kiev, còn ban tham mưu chúng tôi lại đóng ở Tarnopolем. Stalin gọi chúng tôi và nói rằng ban tham mưu nên bỏ vị trí và rút lui. Phía sau có một hầm bê tông cho tư lệnh quân đoàn, nằm sau đường biên giới cũ của chúng tôi. Hầm này, có lẽ, do Yakir xây. Chúng tôi tới làng này gần Kamenes-Podosk khi hửng sáng và ở đó nhận chỉ thị: không xáo tung ban tham mưu, nhưng rút lui đến Kiev, ban tham mưu quay về Kiev và tổ chức phòng thủ. Chúng tôi ngạc nhiên: sao lại phải lập tức quay về Kiev? Nhưng lại lên đường. Vâng chúng tôi cũng không thể khi đó nói rằng nhanh chóng quét bọn Đức, chúng tôi không có bộ đội cần thiết.
Trong khi rút lui chúng tôi về Kiev, thì quân Đức ngốn số bộ đội còn lại của quân chúng tôi. Chúng tôi mất pháo và xe tăng, chúng tôi cũng không còn súng máy. Lực lượng chính của chúng tôi - hai quân đoàn cơ giới - bị tiêu diệt chủ yếu bởi máy bay. Quân Đức bay mà không bị đánh trả, và chúng tôi không còn cái gì có thể được bảo vệ. Bộ đội của sư đoàn tập đoàn quân №6 và №12 khi bị quân Đức đuổi đằng sau, đã tháo chạy. Quân Đức luôn giữ họ một nửa sau, và họ không có tính cơ động. Nhưng đó lại là cái quan trọng nhất đối với bộ đội. Nhưng những tập đoàn quân này, tất nhiên, chưa bị tan rã. Họ tự bảo vệ và thậm chí còn tập kích địch theo hướng Broda. Họ rút lui về phía nam Kiev, vùng nam Umani. Họ đóng vây quanh chỗ đó. Gộp hai ban tham mưu: Ponedenin và tư lệnh tập đoàn quân №6. Người chỉ huy tập đoàn quân №12 bị thương. Khi quân Đức tiến gần, Ponedenin nhẩy ra khỏi vị trí và đầu hàng làm tù binh. Khi đó chúng tôi vẫn chưa biết phát xít và luôn luôn cố gắng tiến hành chiến tranh “bằng mọi cách”.
Tất nhiên, thật là ngu ngốc, khởi xướng bỏ mặt khi sử dụng bộ đội theo sự xem xét này. Sự can thiệp của Bộ tổng tham mưu nhận được như thế như ở một người lính can đảm Sveyk: tất cả đều tốt, chừng nào Bộ tổng tham mưu không can thiệp. Bộ đội chúng tôi chết như thế đấy. Từng người một đi ra từ những người xung quanh ông tướng. Popel đến. Vlasov khét tiếng với cái roi đến, không có bộ đội. Popel quay về sau 2, 3 tuần lễ. Ông qua khu rừng Polesia, ở đó vẫn chưa có bọn Đức, họ đi bằng con đường lớn. Popel thậm chí còn chở một trung tá bị thương và dẫn một lượng nhỏ bộ đội rút khỏi vòng vây.
Tháng bẩy hoặc tháng tám (có lẽ, tháng tám) tôi được gọi về Moskva. Tình thế ở mặt trận rất nặng nề. Tôi không thể thêm một cái gì nữa vào cái điều mà Stalin, Chính phủ và Bộ tổng tham mưu biết. Khi tôi đến, người ta nói cho tôi, rằng Stalin - đang ở Tổng hành dinh. Tổng hành dinh khi đó nằm ở ga xe điện ngầm cổng Kirovski. Tôi đến đó. Có một chiếc đi văng. Stalin ngồi một mình trên đi văng. Tôi lại gần và chào ông. Ông hoàn toàn thay đổi. Ông trông có vẻ hờ hững, uể oải. Nhưng mắt ông, tiều tuỵ, van lơn. Tôi phác hoạ cho ông tình hình phức tạp ở chỗ chúng tôi. Nhân dân chịu đựng những việc đã xảy ra như thế nào, thiếu thốn những gì. Không đủ vũ khí, thậm chí không có cả súng trường, còn quân Đức tấn công chúng tôi. Dưới Kiev chúng tôi kìm chân bọn Đức. Tin tưởng rằng chúng tôi sẽ kìm được, tuy nhiên, cũng khó, vì rằng chúng tôi không có vũ khí, không còn cả bộ đội. Chúng tôi góp nhặt, như người ta nói, chổi cùn rế rách, thu nhặt mọi người, súng trường và tổ chức phòng thủ rất yếu ớt. Còn quân Đức, khi tiến đến Kiev, cũng đã yếu, và điều này giúp đỡ chúng tôi. Quân Đức dường như trao cho chúng tôi thời gian, chúng tôi sử dụng nó và cứ mỗi ngày lại mở rộng phòng thủ thành phố. Quân Đức còn không thể lấy chiếm được Kiev, mặc dù cũng tiến hành âm mưu khá năng động để chiếm nó.
Tôi nhớ, khi đó tính cách của Stalin gây cho tôi một ấn tượng cực kỳ khó chịu. Tôi đứng, còn ông nhìn tôi và nói:
- Hừ, sự tháo vát người Nga ở đâu? Người ta đã nói về sự tháo vát người Nga. Nhưng nó bây giờ ở đâu trong cuộc chiến tranh này?
Tôi không nhớ, tôi trả lời ông hay không. Có thể trả lời thế nào vấn đề này trong tình hình như thế? Khi chiến tranh bắt đầu, người ta gửi đến chúng tôi những công nhân nhà máy “Những người thợ rèn Lenin”  và những người của các nhà máy khác, đề nghị cho họ vũ khí. Họ muốn ra mặt trận, giúp đỡ Hồng quân. Chúng tôi không thể cho họ một cái gì cả. Tôi lại được gọi về Moskva. Người duy nhất, mà tôi khi đó có thể trao đổi, là Malenkov. Tôi gọi cho Malenkov:
- Hãy nói cho tôi nhận súng trường ở đâu? Công nhân cần súng trường và muốn tham gia Hồng quân, đánh nhau chống quân Đức.
Ông trả lời:
- Tôi không thể nói với anh một điều gì cả. Ở đây hỗn loạn đến mức không thể thu xếp một cái gì cả. Tôi có thể nói với anh chỉ một điều rằng súng trường, có ở Moskva ở chỗ Osoaviakhima (nhưng đây là súng trường ổ đạn khoan, đã bị hư hỏng), chúng tôi ra lệnh làm lại thành súng chiến đấu, người ta đang gia công lỗ, và tất cả số súng trường này sẽ gửi đến Lenigrad. Anh không thể nhận một cái gì đâu.
Thế là rõ: súng trường - không, súng máy - không, máy bay hoàn toàn không còn. Chúng tôi còn không có cả pháo. Malenkov nói:
- Theo chỉ thị, tự rèn vũ khí, làm giáo mác, làm dao. Đánh nhau với xe tăng bằng chai lọ, chai xăng, quăng chúng và thiêu huỷ xe tăng.
Và tình hình như thế diễn ra một số tuần lễ! Chúng tôi không có vũ khí. Nếu khi đó nói điều này cho nhân dân, thì tôi không biết, ông phản ứng ra sao. Nhưng nhân dân không biết, tất nhiên, chúng tôi đang ở tình thế như vậy, mặc dù theo tình hình thực tế họ cũng đoán được. Hồng quân không đủ súng máy và pháo cần thiết, thậm chí không có cả súng trường. Đúng là, nói riêng, tình hình phức tạp như thế trong những tuần lễ đầu tiên của chiến tranh. Bây giờ tôi kể tỷ mỷ hơn.
Tôi không nhớ, một hôm trong những ngày đầu chiến tranh, Stalin gọi tôi. Ông nói:
- Zukov sẽ bay đến chỗ anh, và anh đi theo cùng với Zukov đến ban tham mưu.
Tôi trả lời:
- Được, tôi chờ Zukov.
Zukov bay ngày hôm đó hoặc hôm sau. Tôi, tất nhiên, rất vui lòng. Tôi biết Zukov và rất tin tưởng tài năng quân sự của ông. Tôi quen ông, khi ông là tư lệnh quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev, và tôi hài lòng, ông đến. Khi ông bay đến Kiev, chúng tôi và ông quyết định, làm thế nào tốt hơn để đến ban tham mưu. Bay đến bằng máy bay? (không thể đi bằng tàu hoả vì máy bay Đức hoành hành). Hay là đi bằng ô tô? Và cách nào cũng cũng không an toàn, vì máy bay chúng tôi bay đúng tầm đạn và máy bay địch hoạt động tích cực. Tàu hoả - rất chậm, mà địch ném bom và diệt nó. Cách này, nói chung, bỏ qua. Ô tô? Khi đó rất nhiều đã nói rằng xung quanh đó lính dù địch đang hoạt động, rằng kẻ địch ùa ra, như thú dữ, và cắt nát mọi giao thông, liên lạc. Điều nguy hiểm chúng tôi có thể trở thành nạn nhân của bọn lính dù.
Nhưng đường lại xa. Từ Kiev đến Tarnopol mất một số giờ đi vất vả. Trong lúc thời vụ, luá mỳ và luá mạch mọc cao, kẻ địch trên cánh đồng dễ dàng ẩn nấp, vì thế lính dù và bọn khủng bố có thể, lợi cho chúng bao nhiêu, khi lợi dụng các lùm cây. Hơn nữa chúng tôi phải đi từ biên giới cũ đến Tarnopol, đi quanh khu vực về tay chúng tôi năm 1939 sau khi Ba Lan thất bại. Dân địa phương bị nhồi sọ nặng bởi những người Ukraina dân tộc chủ nghĩa, những người này đã cộng tác với Đức. Chúng tôi cũng biết điều này. Nhưng không còn sự lựa chọn khác, vì thế quyết định di bằng ô tô. Chúng tôi lên đường. Nhiều báo động, khi chúng tôi trên đường đi, chúng tôi dừng lại để nhận thông tin về tình hình công việc. Cuối cùng vào buổi chiều chúng tôi đến ban tham mưu. Nó nằm ở tây bắc Tarnopol, nhưng gần một làng nhỏ. Tôi nhìn, có phải đây là ban tham mưu? Nhiều hố lớn đã được đào và được phủ đầy đất. Không thể làm được gì nhiều hơn nữa. Các cán bộ ban tham mưu và văn phòng sống ở nhà nông dân. Người chỉ huy quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev nương thân trong một cái lán nhỏ. Ở đó có phương tiện liên lạc, mọi người kéo đến và báo cáo.
Tình thế khi đó ở mặt trận là như sau. Hiện chưa phải là thảm hoạ! Nếu theo hướng Peremysl và phía nam, thì tình thế thậm chí lại là tốt. Nam Peremysl kẻ địch không tiến hành một cái gì cả. Ở đó trải dài biên giới với Hungary, tạm thời vẫn yên tĩnh. Nhưng chính tại Peremysl, địch tiến hành tán công tương đối kiên trì, nhưng bộ đội chúng tôi (ở đó có sư đoàn №99) đang chống cự, đánh bật kẻ địch khỏi những khu vực, mà địch đã chiếm do đòn phủ đầu, và chiếm những vị trí khác trong thành phố. Về sư đoàn này, sau này người ta đã viết nhiều, và vinh danh. Nó là sư đoàn đầu tiên trong số các sư đoàn tham chiến và được nhận huân chương Cờ Đỏ, vào đúng những ngày đầu tiên của chiến tranh. Tôi không thể im lặng và nói rằng người chỉ huy sư đoàn này trước khi chiến tranh là Vlasov, sau này ông trở thành kẻ bán nước, kẻ phản bội tổ quốc. Ông là một chỉ huy rất có khả năng. Trong các cuộc thi đấu quân sự, binh đoàn Hồng quân của sư đoàn của ông chiếm vị trí đầu tiên, còn từ trước chiến tranh Vlasov đã nhận quân đoàn, chỉ huy quân đoàn, còn ban tham mưu trao sư đoàn cho thủ trưởng của mình. Dưới sự chỉ huy của ông, sư đoàn cũng thể hiện chủ nghĩa anh hùng của mình và đi vào lịch sử chiến tranh là một sư đoàn chiến đấu giỏi nhất.
Các trận đánh dằng dai dọc xa lộ hướng về Broda. Như bây giờ đã được biết theo các tài liệu của bộ chỉ huy Hittler, đây là hướng đánh chính của tập đoàn quân Đức nhóm “Nam”.
Trên hướng này, quân Đức bà xuyên qua tới Kiev. Không thể nói rằng quân Hittler trong những cuộc chạm trán đầu tiên đã đánh tan bộ đội chúng tôi và dồn họ phải tháo chạy. Hoàn toàn không! Bộ đội chúng tôi kiên trì chiến đấu và bẻ gẫy nhiều cuộc tấn công. Tôi rất mừng khi chúng tôi đến đó. Zukov lập tức nhận “về mình” tin tức từ bộ đội và những báo cáo của lãnh đạo, rồi đưa ra những chỉ dẫn. Thật thú vị nhìn thấy ông đã khéo léo và có kiến thức công việc để thực hiện tất cả. Tình thế ấy, chúng tôi khi đó đánh giá thậm chí là tốt hơn cho rằng chúng tôi có thể đưa ra sự chống cự cần thiết với quân Đức.
Tôi không nhớ, bao nhiêu lần Zukov có mặt ở chỗ chúng tôi: một, hai, hoặc ba ngày. Sau đó có chuông điện thoại từ Moskva. Zukov nói với tôi rằng Stalin gọi cho ông:
- Ra lệnh cho tất cả dừng lại và cấp tốc chuyển về Moskva.
Stalin đã cho chúng tôi những lời khuyên đúng. Cần phải nói rằng trong những ngày ấy, bộ dạng của Stalin khoẻ mạnh, tự tin. Ông còn nói với tôi khi đó, rằng người chỉ huy quân đoàn chỗ tôi là yếu kém. “Làm gì đây làm? Không có tốt hơn. Phải ủng hộ ông ta”.
Tôi nói với ông một cách cởi mở:
- Tôi rất tiếc rằng anh bỏ đi (chúng tôi với nhau xưng “anh”). Bây giờ tôi không biết, công việc chỗ tôi ra sao ở tình thế như thế này và sự chỉ huy như thế. Nhưng không còn lối thoát khác.
Chúng tôi từ biẹt và ông đi.
Chẳng bao lâu, chỗ chúng tôi có những sự kiện rất nặng nề, lại ở trong vùng Broda. Ở đó xe tăng Hittler tấn công. Ở hướng này chúng tôi điều động ngoài bộ đội, đóng ở đó từ trước chiến tranh, một quân đoàn cơ giới, do chỉ huy Riabysev. Tôi không nhớ số hiệu của nó. Riabysev có một quân đoàn tốt và những xe tăng mới KV, một số chiếc, và cũng có một số chiếc xe tăng T-34. Và còn thêm một quân đoàn cơ giới, mà tôi quên họ tên người chỉ huy quân đoàn này. Trong chiến đấu, ông bị thương, và tôi không biết, sau này ông có tham gia chiến đấu nữa không. Đó cũng là một chỉ huy quân đoàn tốt gương mẫu. Chúng tôi đưa đến đó hai quân đoàn cơ giới, cho rằng đủ sức bẻ gãy cuộc tấn công của địch và cản trở ngại đường di chuyển tiếp theo của chúng. Chúng tôi không biết sự tập trung thực sự của quân địch, không biết rằng đòn tấn công chính của địch ở miền nam, mặc dù nó tấn công ở đây bằng một số lực lượng nhỏ hơn so với trung tâm tiền tuyến ở Moskva. Điều này là đương nhiên. Quân khu đặc biệt Belarussia và bộ đội chúng tôi là lớn hơn ở Kiev. Đã xác định đúng là hướng chính, sự nguy hiểm chính - dọc con đường qua Minsk đến Moskva, mặc dù Stalin nghĩ khác.
Quân Đức tập trung nhiều quân dù sao chăng nữa vào hướng Kiev. Chủ yếu, chúng khởi xướng. Tại hướng này chúng tôi đã đã có một tập đoàn quân dự trữ. Chỉ huy nó là Konev. Riêng tôi không biết ông, nhưng trước chiến tranh có một lần tôi gặp ông ở Moskva. Trước đây Konev phục vụ đâu đó ở ở Siberi. Giữa ông và Bí thư tỉnh uỷ địa phương có những quan hệ xấu. Quan hệ này căng thẳng đến mức Stalin gọi cả hai người về gặp mình và chính ông dàn xếp xung đột này, phát sinh bởi một vấn đề nào đó trong sinh hoạt. Lúc đó tôi cũng nhìn thấy Konev lần đầu tiên trong đời.
Konev đến Quân khu đặc biệt Kiev, quân đội của ông được bố trí, chúng tôi rất vui lòng nhận nguồn dự trữ. Chúng tôi chĩa tập đoàn quân này vào hướng Broda. Nhưng, ngay khi quân đội chúng tôi gặp địch, lại có chuông điện thoại từ Stalin:
- Nhanh chóng đưa tập đoàn quân Konev và tiến hành gửi cấp tốc những đoàn tầu này theo lệnh Moskva.
Lúc ấy tôi phải vật nài để lại tập đoàn quân Konev ở lại cho chúng tôi - tình thế thật nặng nề - và tôi nói:
- Nếu quân Konev ở lại, thì chúng tôi có lòng tin rằng chúng tôi ổn định tình thế theo hướng Broda và chủ yếu sẽ chặn quân địch đi đến phòng thủ. Nhưng có thể chúng tôi đánh tan được bọn địch.
Đúng, chúng tôi tưởng tượng là chẳng bao lâu sẽ đánh tan bọn Đức. Đây là không phải là mong úoc đơn thuần, chúng tôi đã tin vào điều này mặc dù tương quan lực lượng ở vùng này và sự có mặt của tập đoàn quân Konev, hình như dù sao chăng nữa, vẫn có lợi cho kẻ địch. Stalin lắng nghe tôi và trả lời:
- Được, chúng tôi để lại một tập đoàn quân dự trữ, nhưng chúng tôi để lại chính là để làm đòn tấn công.
Nhưng sau một thời gian - lại có chuông gọi từ Stalin:
- Chở ngay tập đoàn quân Konev.
Tập đoàn quân đã vào chiến dịch, nhưng lệnh đã đưa ra, và nó phải đi.
Chúng tôi, như thế, còn lại cái gì còn ở mình như khi bắt đầu chiến tranh. Nhưng cán cân rõ ràng có lợi cho địch, nảy ra mối đe doạ nặng nề vào hướng Brodaы và Rovno. Nhưng điều này nghĩa là - vào hướng Kiev. Như thế, sườn trái của chúng tôi còn lại phía sau quân thù. Thấy rõ quân Đức bị xé ra bởi mũi thọc sâu theo hướng nam, hướng Kiev, bằng cách bỏ lại nhóm Karpat đằng sau không đánh nhau với nó. Ở đó có tập đoàn quân №6, còn chiếm Karpat, hình như, tập đoàn quân №12. Vẫn còn lơ lửng mối đe doạ bao vây của kẻ thù đối với đội quân này. Nhưng tôi, về vấn đề này, không muốn phát biểu, tôi muốn làm rõ những tình tiết khó chịu đối với chúng tôi, xảy ra với một uỷ viên hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev.
Khi chúng tôi gặp điều kiện nặng nề trong vùng Brodaы, chúng tôi và tư lệnh quân đoàn áp dụng các biện pháp để tái tổ chức bộ đội và khẳng định hướng đánh trả kẻ địch tấn công vào Broda. Để lệnh này được trao kịp thời cho người chỉ huy quân đoàn cơ giới Riabysev và một chỉ huy quân đoàn khác, tôi quên họ tên của người này, chúng tôi quyết định cử một uỷ viên hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev để tự tay ông trao lệnh, trong đó có trình bày hướng đánh. Ông uỷ viên hội đồng quân sự đến quân đoàn. Tôi ít biết người này. Ông đến với chúng tôi từ Lenigrad trước chiến tranh và gây ấn tượng tốt, đúng thế, vẻ ngoài của ông biết nói thế nào nhỉ: một người còn trẻ, dáng thẳng, lịch sự, ăn mặc chải chuốt và thu hút sự chú ý. Và tính cách của ông có. Các quân nhân đã nói với tôi rằng ông là con người có điều tiếng. Người ta kể rằng ông đánh giá thấp tư lệnh quân đoàn Quân khu đặc biệt Kiev và cho rằng bản thân ông giỏi hơn ông tư lệnh và có thể có lợi hơn người đang giữ chức tư lệnh. Tất nhiên chưa chắc ông đã nói với ai đấy về điều này. Đây là sự kết tội của những người làm việc ở ban tham mưu. Đây chỉ là ý kiến cá nhân. Nhưng đương thời ông làm công việc của mình. Tôi xem xét ông: ông là con người không ngốc, vì thế tôi không có điều gì xấu chống ông ta, và không thể có.
Trước chuyến đi vào quân đoàn cơ giới ông rẽ vào chỗ tôi vào một buổi chiều. Bởi vì chỗ chúng tôi ở rất dở, chỗ làm việc và chỗ sinh hoạt chỉ ở một phòng, cùng với chỗ sĩ quan trực nhật. Chúng tôi ngủ trong lúc làm việc hoặc ngồi. Chúng tôi làm việc không theo lịch trình hàng ngày, chúng tôi vẫn còn không bị cuốn vào bầu không khí chiến tranh. Và khi ông uỷ viên hội đồng quân sự rẽ vào chỗ tôi, rồi đề nghị tôi ra ngoài, bởi vì khác đi không thể tiến hành cuộc nói chuyện tin cậy. Tôi ra ngoài. Ông nói với tôi:
- Tôi xem rằng ông phải nhanh chóng viết cho đồng chí Stalin rằng cần phải thay tư lệnh quân đoàn quân khu Kiev. Kirponos hoàn toàn vô dụng với chức năng tư lệnh.
Tôi kinh ngạc. Chiến tranh mới bắt đầu, mà một uỷ viên hội đồng quân sự, một chuyên gia quân sự, đặt vấn đề thay thế tư lệnh. Tôi trả lời:
- Không thấy cơ sở để thay thế, hơn nữa chiến tranh mới được bắt đầu.
- Ông ta yếu kém.
Tôi nói:
- Tính nhu nhược và sức lực được mọi người kiểm tra ở công việc. Vì thế tôi giả thiết rằng phải kiểm tra xem ông ta có yếu không”.
Tôi cũng biết viên tư lệnh không nhiều hơn ông uỷ viên hội đồng quân sự. Biết họ tên và mặt mũi, nhưng về chất lượng công việc không thấy có biểu hiện gì. Một người mới đến và giữ một chức vụ lớn như vậy. Nhưng tôi không muốn ngay lập tức ở lần gặp đầu tiên lại đề cập việc thay đổi thành phần chỉ huy. Tôi nói tiếp:
- Điều này gây ấn tượng rất xấu, tôi cũng không thấy có cơ sở, tôi không đồng ý.
Sau đó tôi hỏi:
- Ông xem ai làm tốt hơn? Ai có thể được bổ nhiệm thay thế Kirponos?
Ông trả lời:
- Tham mưu trưởng, tướng Pukaev.
Tôi có ý nghĩ rất tốt về Pukaev, tuy nhiên tôi nói:
- Tôi kính trọng Pukaev và tôi đánh giá cao, nhưng tôi không thấy có gì thay đổi, nếu chúng tôi thay Kirponos bằng Pukaev. Để lãnh đạo chiến đấu, cũng chẳng cần thêm một cái gì đấy, vì rằng Pukaev - tham mưu trưởng và cũng tham gia bàn bạc những quyết định được chấp nhận (tôi nhớ rằng tham mưu trưởng cũng nằm trong hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev). Kiến thức và kinh nghiệm của tướng Pukaev chúng tôi cũng hoàn toàn dùng và sẽ dùng tiếp tục. Tôi không đồng ý.
Ông uỷ viên hội đồng quân sự chạy về đơn vị, nhưng quay lại vào sáng sớm và gặp tôi. Bộ dạng ông xúc động một cách lạ lùng, một điều gì đó làm ông vô cùng to lớn xúc động. Ông đến đúng lúc, trong phòng không có ai cả, tất cả đã đi ra ngoài và ông nói với tôi rằng ông quyết định tự tử. Tôi nói:
- Ông làm sao thế? Ông nói những điều ngốc nghếch ấy để làm gì?
- Tôi có lỗi ở chỗ đã đưa một chỉ dẫn không đúng cho ban chỉ huy quân đoàn cơ giới. Tôi không muốn sống.
Tôi tiếp tục:
- Cái gì xảy ra thế? Ông trao mệnh lệnh cơ mà?
- Đúng, tôi trao.
- Chính là trong mệnh lệnh đã nói cách họ hoạt động và sử dụng quân đoàn cơ giới. Nhưng ông liên quan gì đến việc đó?
- Không, tôi cho họ sau đó những chỉ thị miệng, mà cái đó ngược với mệnh lệnh này.
Tôi nói:
- Ông không có quyền làm điều này. Nhưng nếu ông cũng đã cho chỉ thị như thế, đằng nào cũng thế, ban chỉ huy quân đoàn không có quyền theo nó, mà cần phải thực hiện chỉ dẫn, được nêu trong mệnh lệnh và được ký bởi tư lệnh mặt trận và tất cả các uỷ viên hội đồng quân sự. Những chỉ thị khác không còn hiệu lực đối với ban chỉ huy quân đoàn.
- Không, tôi ở đó...
Ngắn gọn, tôi thấy rằng ông gây với tôi một cuộc tranh cãi, chẳng có chút gì lập luận, còn bản thân ông - trong trạng thái sốc. Tôi nghĩ rằng nếu không khuyên nhủ người này, mà xử lý với ông ta nghiêm khắc hơn, thì sẽ kéo ông ra khỏi trạng thái sốc, ông tìm thấy nội lực và quay về trạng thái bình thường. Vì thế tôi nói:
- Ông nói cái gì ngu ngốc thế? Nếu quyết định tự bắn mình, thì còn chần chừ gì nữa?
Tôi muốn kìm lại những lời nói xẵng của ông để ông cảm thấy rằng ông can dự tính tội ác trong quan hệ bản thân. Nhưng ông bỗng nhiên rút súng lục ra (chúng tôi và ông ta hai người đứng đối diện nhau), đặt vào thái dương của mình bóp cò và ngã xuống. Tôi bỏ chạy ra ngoài. Lính bảo vệ vây quanh nhà. Tôi gọi lính bảo vệ, ra lệnh lấy xe và chở ông ta vào bệnh viện. Ông vẫn còn có dấu hiệu sự sống. Người ta chở ông vào bệnh viện, nhưng chẳng bao lâu ông chết ở đó.
Sau đó đã được nghe kể từ trợ lý của ông ta và những người, cùng với ông đến quân đoàn: khi quay về từ tiền tuyến, thì ông rất xúc động, không nghỉ, thường chạy vào nhà vệ sinh. Tôi giả thiết rằng ông làm điều này không phải do nhu cầu sinh hoạt, mà, hình như muốn tự sát ở đó. Có trời mà biết. Tôi không thể bấy giờ xác định sự lãng mạn của ông. Rõ ràng là ông luống cuống. Sau đó đến với tôi và tự bắn mình. Tuy nhiên trước đó, ông nói chuyện với những người, trực tiếp tiếp xúc với ông, và họ đã nghe lời ông nói. Ông cho rằng tất cả sẽ chết, chúng tôi rút lui, tất cả sẽ xảy ra như ở Pháp. “Chúng tôi chết!” - đó là nguyên văn lời ông ta. Tôi giả thiết rằng điều này cũng dãn ông vào ngõ cụt, và lối thoát duy nhất mà ông nhìn thấy - kết liễu cuộc sống bằng tự sát. Ông cũng xử sự như thế.
Sau đó tôi viết điện mật gửi Stalin, viết về cuộc nói chuyện của chúng tôi. Có những tài liệu tôi bây giờ giữ trong trí nhớ. Tôi nghĩ rằng, tôi nói chính xác, kết luận có thể, trật tự của sự giãi bày. Tôi mô tả bản chất, như nó đã có trong đời. Thậm chí ông uỷ viên hội đồng quân sự, người giữ chức vụ cao, đã rét cóng. Không phải thể xác nhát gan, không, ông rét cóng về mặt tinh thần, mất tự tin về khả năng đánh lui cuộc xâm lăng của Hittler. Đáng tiếc, điều này khi đó không phải là trường hợp duy nhất. Cũng xảy ra những trường hợp như thế và với viên chỉ huy khác. Bầu không khí là như thế. Nhưng chúng tôi vẫn còn hàng chục ngày không ở trong trạng thái chiến tranh.
Tôi quay về tình hình mà tôi nói trước đây bằng sự mô tả trường hợp với ông uỷ viên hội đồng quân sự. Như vậy, chúng tôi nhìn thấy rằng quân địch hầu như không tiến hành những hành động tích cực chống lại tập đoàn quân Muzychenko và tập đoàn quân №12 Ponedenin. Có sự phớt lờ rõ ràng sườn trái chúng tôi từ phía bọn Đức. Nhưng họ hy vọng sau khi quân đoàn xe tăng thọc sâu cánh phải, bao vây bộ đội chúng tôi và tiêu diệt hai tập đoàn quân này. Vì thế chúng tôi và tư lệnh quyết định rút tập đoàn quân №6, ban tham mưu của nó ở Lvov, còn bản thân quân đoàn đóng ở biên giới, bắc Peremyslя. Bộ đội của quân đoàn rút lui. Tôi không nhớ, họ rút lui bao nhiêu kilomet, nhưng kẻ địch thậm chí không đuổi theo họ. Và bỗng nhiên chúng tôi nhận chỉ thị từ Moskva - che giấu rằng bộ đội rút lui. Chấp hành lệnh - cho bộ đội quay lại để chiếm đường biên giới, như đã chiếm nó trước đây. Chúng tôi trả lời rằng:
- Vì cái gì mà phải chiếm nó? Không tiến hành các hoạt động quân sự chống hai tập đoàn quân này. Kẻ địch tập trung sức mạnh chính theo hướng Broda, mưu đồ của chúng thấy rõ. Địch có thể bao vây bộ đội chúng tôi, nhưng họ sau này không thoát khỏi đòn đánh vào sườn.
Nhưng người ta ra lệnh cho chúng tôi đưa tập đoàn quân quay lại, và chúng tôi đã làm điều này. Tôi rất giận và cay đắng chấp hành như thế. Trong tôi có ấn tượng rằng hai tập đoàn quân có thể chết. Họ sẽ đánh nhau trong vòng vây, nhưng họ không được sử dụng một cách hiệu quả như chúng tôi đưa họ về hướng đánh chính của quân thù. Tuy nhiên mệnh lệnh là mệnh lệnh và chúng tôi thực hiện nó.
Tôi giả thiết rằng khi đó (bây giờ tôi không nhớ, có phải chính Zukov gọi điện từ Moskva về vấn đề này?), Zukov không đúng. Tôi mang trong mình ý nghĩ này suốt nhiều năm, và khi cách chức Zukov năm 1957, tôi phát biểu phê bình hoạt động của ông, quay về thời điểm những ngày đầu chiến tranh, cấm rút quân đội khỏi khu vực Peremyslя và Lvov. Do tập đoàn quân №6 bị tiêu diệt sau đó trong vòng vây, cũng như cả tập đoàn quân №12 cũng chết. Tôi nói:
- Một người chỉ huy có khả năng như Zukov, mà cũng mắc sai lầm.
Ông trả lời:
- Đó không phải là sáng kiến của tôi, đó là chỉ thị của Stalin.
Bây giờ tôi không thể tranh cãi với ông ấy, nếu như đó là chỉ thị của Stalin. Có thể, tất nhiên, có những cái như thế, nhưng trên cơ sở báo cáo của Zukov, vì rằng Zukov vừa mới từ mặt trận quay về Moskva, và, tôi nghĩ, trong vấn đề này ông là cố vấn chính. Nếu ông nói rằng lệnh của hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev là đúng, thì Stalin, để tránh những tập đoàn quân này bị bao vây, có thể là, và không đưa chỉ thị của mình cho tập đoàn quân quay lại. Nhưng bây giờ tôi không biết cụ thể người khởi xướng mệnh lệnh này và, tiếp theo, người có tội thật về cái chết của hai tập đoàn quân, rơi vào thế bị bao vây sau đó.
Bạn có thể hình dung thời kỳ nặng nề đối với chúng tôi, khi Hittler huy động những binh đoàn cơ giới hoá cao và sung sức đánh nhau với chúng tôi, chúng tôi bị tước đoạt sức mạnh của hai tập đoàn quân №6 và №12? Họ rút lui, quân Đức tấn công họ và cuối cùng bao vây họ trong vùng Umani. Cả hai tập đoàn quân cùng với ban tham mưu và chỉ huy bị bắt làm tù binh. Nếu chúng tôi có thể trước đây dùng tập đoàn quân №6, thì có thể lấy một phần của nó những sư đoàn, để tổ chức đánh vào sườn kẻ thù trong vùng Broda. Không biết, cái gì xảy ra. Nếu thậm chí chúng tôi không cầm giữ quân thù hoàn toàn và không đánh tan nhóm này, thì trong mọi trường hợp chúng tôi cũng làm kiệt sức quân Đức một cách đáng kể và cầm chân trong một thời gian nào đấy. Tại hướng chúng tôi, có một bầu không khí hoàn toàn khác. Nhưng chúng tôi bị loại bỏ bởi những khả năng như thế. Vì sao tôi nói điều này? Ít người tin chúng tôi. Sự can thiệp từ trên có một phần, và không phải luôn luôn nó là khôn ngoan, hợp lý. Sự can thiệp, đáng giá nhiều mạng sống và máu. Lúc ấy - trong đầu tiên, nhưng tiếp theo, tôi sẽ dẫn thêm nhiều trường hợp khác, cũng đáng giá hàng nghìn, hàng nghìn nạn nhân, mà những trường hợp này là hoàn toàn không cần thiết và có thể tránh được, nếu như có lòng tin vào chỉ huy mặt trận và hội đồng quân sự của họ.
Sau một vài ngày, lại không phải theo sáng kiến của mình mà theo chỉ thị từ Moskva, chúng tôi rút lui từ chỉ huy sở. Họ ra lệnh cho chúng tôi chuyển ban tham mưu về Proskurov, có nghĩa là chúng tôi rút về sâu. Chúng tôi ngạc nhiên, bởi vì tại hướng chúng tôi, tình hình chưa đến nỗi xấu như thế, liệu có buộc phải áp dụng những biện pháp: rút lui và bố trí ban tham mưu vào sâu sau những quân đoàn chúng tôi. Nhưng đó là chỉ dẫn từ Moskva. Tôi không nhớ, gửi cho ai, nhưng tất cả cho rằng gọi từ Moskva, nghĩa là - chỉ thị của Stalin. Chúng tôi rút lui và di chuyển. Đó là một bức tranh khủng khiếp. Hàng trăm ô tô di chuyển từ tiền tuyến về phía sau cùng với các gia đình sĩ quan. Có nhiều gia đình sĩ quan ở Lvov, Drogobychе, Peremyslе. Cùng đi với họ là những người chạy nạn. Nhưng không có nông dân trong số này. Nông dân miền tây Ukraina không đi khỏi bọn Đức. Hình như điều này liên quan tới kết quả sự tuyên truyền những người dân tộc chủ nghĩa Ukraina, những người chờ đợi bọn Đức với cảm tình hơn chúng tôi. Nông dân bị lừa bằng lời hứa rằng Hittler sẽ giải phóng Ukraina. Nọn dân tộc chủ nghĩa Ukraina và bọn tuyên truyền lừa phỉnh nông dân như thế đấy.
Ngay khi chúng tôi đến Proskurov và triển khai ban tham mưu, thì Stalin gọi. Tôi nói chuyện với ông. Stalin nói:
- Anh bây giờ đi về Kiev và ở Kiev nhanh chóng tổ chức phòng thủ mó.
Chúng tôi đã làm như thế, mặc dù không biết cái gì được làm ở sườn phải của mặt trận. Tình thế ở mặt trận phía Tây, chúng tôi cũng không biết. Chúng tôi về Kiev, còn quân địch di chuyển theo chúng tôi đúng theo dấu vết, nhưng theo con đường khác: chúng tôi - theo Tarnopolsk, còn địch, tiêu diệt lực lượng chúng tôi ở hướng Broda-Rovno-Korosten. Đi lên phía bắc với tốc độ lớn. Và dưới Kiev tình hình chính xác là không còn tin cậy.
Bây giờ tôi không thể nói, ngày chiến tranh là như thế nào. Bộ đội thực tế không có, mặt trận bị vỡ. Kẻ địch vượt lên phía trước bằng quân đoàn cơ động, còn bộ đội chúng tôi nằm xa về phía sau lưng chúng và ở đó tiến hành chiến đấu. Kẻ địch tiến gần Kiev, vượt qua Irpen. Sông Irpen - không lớn, nhưng lầy lội. Trước con sông này, ngay từ năm 1928-1930 đã xây dựng một vùng phòng thủ vững chắc thuộc Kiev. Ở đó có hầm ngầm bê tông và phá, nhưng có trước đây thôi: chúng đã bị phá huỷ đề nghị của Mekhlic. Stalin ra lệnh tháo bỏ chúng, để sự chỉ huy chúng tôi không nhìn về phía sau, còn dồn sức củng cố sự vững mạnh biên giới mới, mà chúng tôi đã có được do sự thất bại chẳng Ba Lan trước Đức. Còn bây giờ, khi chúng tôi cần khu vực phòng thủ vững chắc như thế, thì nó lại bị phá huỷ. Công sự bê tông được giữ lại, nhưng vũ khí trong đó thì không có: không pháo, không súng máy và không có bộ đội. Vì thế chúng tôi bắt đầu thu nhặt đúng là tất cả những gì có thể: súng trường, pháo v.v... để phòng thủ.
Người ta bổ nhiệm tướng Parusinov chỉ huy khu này. Bây giờ tôi không biết một tí gì về ông. Ông khi đó đã có tuổi. Tôi có ấn tượng tốt về ông. Nhưng ở thời điểm đó, ông nhận việc hậu cần. Tôi không nhớ, chức vụ của ông được gọi như thế nào khi đó. Theo tôi, thủ trưởng hậu cẩn mặt trận, nhưng không đúng lắm. Nhưng chúng tôi cũng không có người khác và chúng tôi bổ nhiệm ông. Ông có lần phân tích cái gì chúng tôi có và cái gì chúng tôi gom được xây dựng phòng thủ thành phố. Nhưng quân Đức bố trí bên bờ tây sông Irpen. Quân Đức không tiến hành một mưu toan nào cả vượt sông Irpen. Một chiếc cầu ở đó bằng gỗ ọp ẹp. Chúng tôi cho nổ nó, tất nhiên. Tôi nghĩ rằng quân Đức đột phá tất cả bằng một số xe tăng tiên tiến, nhưng bộ binh họ không có, và vượt qua trở ngại này (tôi đã nói, không phải là sông mà là bùn) họ không bắt đầu.
Tình hình của chúng tôi là nặng nề nhất. Có người nói đùa rằng, địch đến Kiev, vượt qua sông Irpen! Trong thành phố được bắt đầu hoảng loạn. Điều này là đương nhiên. Tôi nhớ, vào ban đêm (tôi ngồi trên ghế băng) tướng Astakhov tư lệnh không quân Quân khu đặc biệt Kiev đến gặp tôi. Ông là một con người đứng đắn, tận tâm, vẻ bề ngoài chững chạc và mập mạp. Ông theo bề ngoài của mình dường như tượng trưng cho sự điềm tĩnh. Ông nói:
- Chúng tôi đã bị gần như mất sạch máy bay trong các trận chiến đấu. Nhưng bây giờ quân địch không cho chúng tôi mũi hở ra nữa.
Và khóc nức nở. Tôi bắt đầu an ủi ông, nhưng sau đó quát ông ta:
- Hãy bình tĩnh, đồng chí Astakhov! Hãy nhìn, mọi người đi lại, nhìn thấy một viên tướng trong trạng thái như thế. Chúng ta phải chiến đấu phải và, tiếp theo, phải làm chủ bản thân.
Đối với ông, điều này có tác dụng, nhưng mãi một lúc lâu, ông vẫn chưa bình tâm. Astakhov - một con người rất hiểu biết công việc. Nhưng trước đây ông là người tự tin, như những người khác, chúng tôi kênh kiệu rằng biên giới chúng tôi “bị khoá”, như lời bài hát, và rằng chúng tôi sẽ chiến đấu trên vùng đất lạ. Và bỗng nhiên chúng tôi chỉ sau một vài ngày bắt đầu chiến tranh lại dồn về Kiev. Trong tình thế bằng cách nào đó giữ Kiev, không có lực, không vũ khí, không bộ đội.
Tất cả những gì, chúng tôi có thể, chúng tôi mang ra để tổ chức phòng thủ Kiev. Kiev không đầu hàng! Hãy chống cự kẻ thù! Chúng tôi xây dựng tuyến phòng thủ từ phía tây theo dòng chảy sông Dnepr, bên phải Kiev, có sườn phải cao hơn thành phố. Nhưng từ phía nam đến bờ nam của Kiev có một khoảng không tương đối lớn, mà bộ đội chúng tôi chiếm giữ. Trước hết, theo hướng này rút lui tập đoàn quân №6 và №12. Họ bị bao vây, nhưng vẫn đánh nhau và gây cho địch tổn thất tương đối lớn. Chúng tôi tổ chức công việc sao cho từ phía đông xé tung vòng vây và giúp những tập đoàn quân này thoát khỏi khỏi vòng vây. Trong quá trình rút lui, ban tham mưu của hai tập đoàn quân được sát nhập.
Để bảo vệ Kiev chúng tôi quyết định xây dựng tập đoàn quân mới và đặt tên nó là №37. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm tư lệnh. Chúng tôi cùng với Kirponos đề nghị một loạt tướng, những người đã mất quân của mình và ở trong sự sắp xếp. Trong số đó, gây ấn tượng rất tốt là Vlasov. Và chúng tôi quyết định bổ nhiệm chính Vlasov làm tư lệnh. Ban cán bộ của Quân khu đặc biệt Kiev cũng giới thiệu ông và đưa ra tính cách có ưu thế hơn người khác. Tôi không biết Vlasov, không biết các tướng “tự do” khác, thậm chí tôi không nhớ họ tên của họ nữa. Nếu yêu cầu bằng chứng, thì tôi có người làm chứng, bây giờ vẫn còn sống, khoẻ mạnh, và tôi mong ông sống đến nghìn tuổi - Ivan Christoforovich Bagramian. Ông là khi đó theo chức danh là trung tá trưởng bộ phận tác chiến thuộc ban tham mưu mặt trận Tây Nam. Một người rất đứng đắn, một cán bộ quân sự tốt, và tác chiến giỏi, có vai trò lớn trong việc tổ chức chống cự cuộc xâm lăng của Hittler trên khu vực ông được trao làm việc này.
Và dù sao chăng nữa tôi quyết định hỏi Moskva. Chúng tôi khi đó có một ấn tượng là ở khắp mọi nơi đều có kẻ thù nhân dân, đặc biệt trong hồng quân. Và tôi quyết định hỏi Moskva, xem có tài liệu nào về Vlasov, tính cách ông ta ra sao, có thể tin Vlasov được không và bổ nhiệm làm tư lệnh tập đoàn quân bảo vệ Kiev. Bộ đội - không có, phải gom nhặt họ, và tất cả phải làm ban chỉ huy mới. Tôi gọi điện cho Malenkov, gọi mãi mà không có ai. Bởi vì Malenkov làm về tổ chức cán bộ BCHTƯ, câu hỏi này cũng phải tới ông. Sự thật ông cũng chẳng biết gì về Vlasov, nhưng những người trong Bộ tổng tham mưu làm về tổ chức cán bộ cần phải nói cho ông suy nghĩ của mình. Tôi hỏi Malenkov:
- Có thể, nhận ra Vlasov có tính cách gì?
Malenkov trả lời:
- Anh đơn giản không giới thiệu cái gì ở đây được làm. Không thể biết ai và cái gì cả. Vì thế hãy nhận về mình hoàn toàn trách nhiệm và hãy làm nếu anh xem là cần thiết.
Ở tình thế công việc như thế, mặc dù tôi không có số liệu nào về Vlasov, chúng tôi biết rằng quân đội giới thiệu chính ông. Vì thế chúng tôi và Kirponos quyết định bổ nhiệm Vlasov chỉ huy tập đoàn quân №37. Ông bắt đầu tiếp nhận casc chiến sĩ từ các bộ phận rút lui hoặc thoát khỏi vòng vây. Sau đó nhận sự bổ xung nhận nào đấy. Chẳng bao lâu, có mặt một quân đoàn bộ binh nguyên vẹn dưới sự chỉ huy của tướng Kylesov. Quân đoàn này đến từ bắc Kavkaz. Quân đoàn là tốt, nhưng thiếu chuẩn bị. Về mặt tinh thần quân đoàn chưa được chuẩn bị, chưa từng trải, điều này đương nhiên, thì chiến tranh bắt đầu. Chúng tôi đưa nó vào vùng phòng thủ vững chắc Kiev và đặt vào vùng xung yếu nhất - bảo vệ rừng Goloseevski, đường tiến trực tiếp đến Kiev từ phía nam. Chúng tôi chờ đợi cuộc tấn công không phải từ phía bắc. Ở đó điều kiện thiên nhiên khó khăn, chúng tôi được che chở bởi Irpen. Sau đó ở đây có tập đoàn quân №5 trong trạng thái tương đối đầy đủ. Chỉ huy viên nó là tướng Potapop.
Láng giềng của ông tại tiền tuyến là tư lệnh Muzychenko. Trước chiến tranh, người ta nghi ngờ Muzychenko: phải chăng ông là kẻ phản bội trong hàng ngũ Hồng quân? Vì sao mà người ta nghĩ như thế? Trước chiến tranh ông vào bộ đội, để rèn luyện, hay thuần tuý kiểm tra ở biên giới. Ban tham mưu tập đoàn quân №6 đóng ở Lvov. Ở nhà, ông có một người vợ. Nhưng ông còn lại còn có một phụ nữ - nội trợ. Một thanh niên như thế này mà theo đuổi cô ta, và cũng chẳng có gì trái với quy luật tự nhiên. Hình như Muzychenko và vợ lại liên quan tới điều này. Nhưng, như được thấy, việc theo đuổi này không đơn giản chỉ là sự hào hứng. Ở đây sự theo đuổi lại vì mục đích chính trị, tình báo. “Người theo đuổi” này đã chọn thời điểm, khi Muzychenko đi bộ đội (trước đó ông có cho mình cái quyền vào nhà và làm quen những người trong gia đình liên quan tới sự xuất hiện của ông), và xuất hiện vào ban đêm. Vợ của Muzychenko đang ngủ. Bỗng nhiên cửa mở, ông đi vào giường ngủ và hỏi chìa khoá két sắt. Bà khiếp sợ. Sau đó bà nhớ lại thế này:
- Tôi đang ngủ. Không quần áo. Ông đến, láo xược ngồi lên giường và giọng khá lễ độ, bắt đầu nói chuyện. Ông không thể hiện một ý đồ đén danh dự của tôi và nói chuyện nhã nhặn nhưng đòi chìa khoá. Tôi nói với ông, rằng tôi không có chìa khoá. Người chỉ huy không bao giờ bỏ quên chìa khoá, nữa là tôi, ông luôn luôn mang chúng theo người hoặc gửi đâu, tôi không biết. Tôi cũng không có liên quan gì đến chìa khoá và chẳng thể nào thực hiện yêu cầu của ông. Ông vẫn kiên trì đòi chìa khoá, mặc dù ông đã pha trò để không doạ, có thể là, tôi bình tâm, để tôi trả ông chìa khoá. Sự việc kết thúc, ông ra đi.
Điều này được mô tả tương tự, hình như trong lưu trữ của cơ quan an ninh: vợ Muzychenko đưa chứng cớ. Cô gái ô-sin bỏ chạy. Lúc đó rõ ràng là cô gái này được bọn dân tộc chủ nghĩa Ukraina mật phái đến. Cô ta cũng dẫn dắt điệp viên này của tình báo Đức, kẻ muốn chiếm chùm chìa khoá nhưng không nhận được nó. Khi Stalin biết về trường hợp này, thì ông hỏi tôi về việc Muzychenko. Tôi trả lời rằng chúng tôi tuyệt đối không có dữ liệu nào để nghi ngờ vị tướng. Tôi đã dò hỏi nhiều người, và tất cả đều đánh giá ông ta có tư cách tốt ở vị trí quân nhân, vị trí con người và vị trí Đảng viên. Ở đây, hình như hiện diện một cách đơn giản sự trơ trẽn của tình báo nước ngoài. Vợ ông cũng không thể là điệp viên. Không có tư liệu gì cả về điều này. Những người biết bà, cũng nói rằng bà là một phụ nữ đứng đắn. Vấn đề Muzychenko đứng trước một con dao sắc: dùng ông hoặc cách chức chỉ huy tập đoàn quân? Người ta suy nghĩ khá lâu và dù sao chăng nữa quyết định giữ ông lại. Muzychenko tiếp tục chỉ huy tập đoàn quân №6. Ông có được sự tín nhiệm hoàn toàn, dù có sự cố này, hoàn toàn, bỏ lại dấu tích, nhưng trong công việc, tôi nghĩ, cũng chưa bị cắt hết. Sau vụ này tôi tin tưởng ông như trước kia.
Bây giờ tập đoàn quân của ông tác chiến ở nam Kiev. Nguy hiểm chủ yếu đối với Kiev chính là từ phía nam, từ phía Nhà thờ trắng. Việc xây dựng phòng thủ được triển khai cả ở đấy. Sau một thời gian quân Đức kéo quân và khởi đầu trực tiếp chiến dịch chiếm Kiev. Tôi nhớ rằng khi đó tình hình khó khăn theo hướng Nhà thờ trắng, chúng tôi và Kirponos quyết định đến chỗ bộ đội, đánh giá tình hình và áp dụng các biện pháp bộ đội chúng tôi không bỏ chạy. Trong thời gian này ban chỉ huy mặt trận nằm ở Brovar, bên bờ đông sông Dnepr, cách Kiev 25 km theo hướng Chernigov. chỉ huy sở bằng bê tông, được xây dựng cơ bản trong thời gian hoà bình dành cho ban tham mưu Quân khu đặc biệt Kiev trong Sviatosino, bây giờ là chỗ ban tham mưu tập đoàn quân №37. Tôi không nhớ tên tham mưu trưởng tập đoàn quân, nhưng ông cũng gây ấn tượng tốt với tôi.
Chúng tôi tới ban tham mưu tập đoàn quân cùng với Kirponos và trước tiên gặp tham mưu trưởng. Vì lý do gì không có mặt người chỉ huy tập đoàn quân. Sau đó ông cũng đến. Vlasov trình bày tình hình, nói tương đối bình tĩnh, và tôi thích. Giọng ông tự tin và ông nó với sự hiểu biết công việc. Chúng tôi đề nghị đi đến khu rừng Goloseevsk, nơi bố trí một quân đoàn bộ binh gồm 3 sư đoàn. Trước đó, chúng tôi đã đến quân đoàn Kylesov. Tại lần chạm trán đầu tiên với quân địch, các chiến sĩ của quân đoàn này thể hiện mình rất kém. Khi hoảng loạn, quân đoàn rút lui. Phát sinh sự nguy hiểm là mọi người chạy tán loạn. Lúc chúng tôi đến đó để vãn hồi trật tự. Một toà án quân sự được lập ra. Đội quân đánh chặn được mang ra. Tất cả các biện pháp được chấp nhận trong trường hợp như thế để phục hồi trật tưh và kỷ cương, kỷ luật đã được sử dụng. Biện pháp cứng rắn! Phiên toà diễn ra trên chiến trường. Lúc ấy những nghiệt ngã bản án được thi hành, những bản án đó là cần thiết chỉ trong những tình thế khó khăn như vậy. Chúng tôi nhận thấy Kylesov chỉ huy kém quân đoàn. Có thể khi đó chúng tôi nóng nảy, vì rằng ông không có kinh nghiệm, cũng như quân lính của ông. Ông cũng là một người chưa từng trải. Chúng tôi cách chức ông và bổ nhiệm người chỉ huy mới quân đoàn. Bây giờ tôi không nhớ họ tên của ông, về dân tộc ông là người Do Thái.
Khi chúng tôi đi đến đó lần thứ hai, thì chỉ huy quân đoàn là một chỉ huy mới. Vlasov cùng đi với chúng tôi. Tình hình thế này: quân Đức bắn pháo cối và dùng máy bay ném bom khu vực này. Khi chúng tôi đến gặp viên chỉ huy, ông ngồi trên một cái ghế dã chiến, còn chiếc bàn trước mặt ông phủ vải điều. Có một chiếc điện để trên. Có một chiếc hầm được đào. Có một số người ở đó với ông. Ông báo cáo tình hình cho chúng tôi. Trong thời gian này quân Đức bắn chúng tôi bằng súng cối và súng máy, nhưng không nhìn thấy chúng, chỉ nghe tiếng ầm ầm trong rừng. Vlasov giữ bình tĩnh (tôi nhìn quanh ông ta). Ông ta có một chiếc ba toong cắt ra gỗ cây phi tử. Ông dùng ba toong này gõ nhè nhẹ ủng. Sau đó ông đề nghị chui vào hầm để tránh những điều rủi ro. Một mảnh đạn bất kỳ có thể đâm vào chúng tôi. Chúng tôi nghe lời khuyên của ông, leo vào hầm. Ở đó chúng tôi nghe báo cáo. Người chỉ huy quân đoàn gây cho tôi một ấn tượng rất tốt bằng sự bình tĩnh, tự tin và hiểu biết tình hình. Chúng tôi ra đi, chúc ông thành công.
Budenyi đến gặp chúng tôi trong khi cuộc chiến đấu phòng thủ Kiev. Tôi hỏi:
- Cái gì đã được làm ở mặt trận khác? Tôi không biết một cái gì cả, không nhận được thông tin gì cả. Ông, Semen Mikhailovich, từ Moskva. Liệu ông biết chứ?
- Đúng, tôi biết và tôi sẽ kể cho anh.
Và ông từng chuyện một kể cho tôi rằng mặt trận phía tây đúng gục trong trận đọ súng đầu tiên và bị băm nhỏ ra. Ở đó không thể tổ chức những sự chống cự cần thiết đối với địch. Địch lợi dụng sự ngơ ngá của chúng ta và đã tiêu diệt không quân tiền tuyến của chúng ta bay ở nhiều, cũng còn gây ra những tổn thất lớn cho bộ đội mặt đất từ 22 tháng sáu, ngày tấn công đầu tiên. Mặt trận tan vỡ. Stalin cử Kulik đến đó để giúp bổ xung quân số. Nhưng tôi không có một tin tức gì cả về nguyên soái Kulik. Cái gì xảy ra với ông, tôi không biết.
Tôi thương xót:
- Tiếc quá, Kulik bị giết.
Budenyi nói:
- Nhưng anh đừng thương xót ông ta.
Và điều này được nói bằng giọng như thế để hiểu rằng ở Moskva người coi Kulik là kẻ phản bội, rằng ông, hình như bán mình cho kẻ địch. Tôi biết Kulik, coi ông là một người tự trọng và vì thế tôi nói rằng tôi thương ông ta.
- Này, anh đừng thương ông ta, đừng thương ông ta - Budenyi nhắc lại.
Tôi hiểu rằng, hình như ông có một cuộc nói chuyện nào đấy về điều này với Stalin.
Vì cái gì Budenyi đến, khó nói. Ông lưu trú ở chúng tôi ngắn ngủi. Nhưng một buổi chiều ông hỏi:
- Chúng ta sẽ nghỉ ngơi ở đâu nhỉ? Thôi chúng ta cùng nhau ngủ.
Tôi đồng ý.
- Nhưng ở đâu? Chỗ anh à? Anh nghỉ ở đâu?
Tôi nói:
- Chỗ đấy chỗ nọ tôi thường nghỉ.
Chúng tôi đi khỏi nhà. Nhìn bề ngoài đây là một cái lều dã chiến và bên trong chất cỏ khô.
- Ở đây tôi cũng hay ngủ trong lều.
- Anh ở thế này ư?
Tôi giải thích cho ông: ở đây, nơi đóng ban tham mưu của chúng tôi, bùn lầy, không thể đào hầm, vì có nước. Vì thế tôi ngủ trong một trong lều dưới hầm tránh bom. Budenyi nói:
- Thôi được. Nếu anh ở đây, tôi cũng ở cùng với anh.
Và chúng tôi ngủ một vài giờ, nghỉ ngơi. Sáng sớm, chúng tôi bị đánh thức bởi không quân Đức. Máy bay lượn trên làng mạc và ném bom. Phòng không chúng tôi bắn trả. Chẳng thấy trúng viên nào vào máy bay cả. Còn máy bay của chúng tôi không xuất hiện. Tôi giận và nổi khùng về điều này. Tôi hỏi Astakhov:
- Thế này là thế nào? Vì sao bọn chúng bay và ném bom mà không bị đánh trả, chúng ta không thể làm một cái gì được à?
Quân Đức ném bom xong và bay đi. Astakhov báo cáo:
- Chừng này máy bay bị bắn rơi.
Tôi hỏi:
- Rơi ở đâu? Tôi không thấy chúng bị rơi.
- Chúng rơi ngoài sông Dnepr.
- Hừ, nếu chúng rơi sau sông Dnepr, thì có thể báo cáo, chúng bị rơi thậm chí nhiều hơn.
Tôi nghĩ rằng Astakhov đã có lỗi. Có thể tiêu diệt được một cái gì đó, nhưng tôi rất thất vọng về lời nói của ông ta, và tôi nói:
- Các chiến sĩ nhìn thấy quân Đức bay mà không bị đánh trả như thế nào, còn chúng ta không gây cho địch tổn thất.
Chẳng bao lâu sau, Budenyi ra về. Ông không thăm bộ đội, mà quay về Moskva. Ông đến đây với nhiệm vụ gì (không thể đây là chuyến tham quan), tôi không biết, còn ông không nói gì với tôi về điều này. Đơn thuần người ta nói chuyện với ông. Ông nghe tình hình, nghe tư lệnh quân đoàn và trong ban tác chiến Bagramian. Cuộc nói chuyện của ông với Bagramian gây cho tôi ấn tượng nặng nề. Tôi nhớ rất rõ không thể nào quên. Việc xảy ra sau bữa ăn. Budenyi nghe Bagramian báo cáo tình hình. Bagramian - một người rất trung thực, trình bày tất cả, những gì về bộ đội chúng tôi khi đó: mối thiện cảm của họ, tình hình. Lúc ấy Budenyi ép Bagramian. Cớ gì, tôi không biết cụ thể. Tôi đặc biệt khi đó, không thêm ý nghĩa của cuộc nói chuyện này. Theo cách nói quân sự điều này có nghĩa là: am hiểu tình hình. Trưởng ban tác chiến báo cáo tình hình cho nguyên soái Liên Xô, được Moskva cử đến.
Tôi chỉ nhớ việc xem xét tình hình được kết thúc bằng những lời thế này:
- Các anh thế này ư? Các anh không biết bộ đội của mình.
- Tôi không biết trình bày với đồng chí như thế nào, đồng chí nguyên soái - Bagramian trả lời.
- Đấy, tôi nghe anh, tôi nhìn anh và tôi cho rằng - phải bắn anh. Phải bắn vì những việc như thế này - Semen Mikhailovich nói bằng cái giọng the thé như thế.
Bagramia nói:
- Vì cái gì ạ, thưa Semen Mikhailovich, bắn tôi? Nếu tôi không có khả năng làm trưởng ban tác chiến, ông cứ cho tôi một sư đoàn. Tôi là trung tá, tôi có thể chỉ huy sư đoàn. Nhưng vì cớ gì lại bắn tôi?
Budenyi vẫn theo cách thô lỗ thuyết phục Bagramian để người ông chấp nhận bị đem bắn. Tất nhiên, Bagramian không thể nào đồng ý. Tôi thậm chí ngạc nhiên, vì sao Semen Mikhailovich cứ khăng khăng như thế để đạt được “sự đồng ý” của Bagramian. Tất nhiên phải tính rằng cuộc nói chuyện “nhã nhặn” giữa nguyên soái Liên Xô và ông trung tá xảy ra sau rất bữa ăn sang trọng có rượu cô-nhắc. Và dù sao chăng nữa, dù tình tiết thế nào đi nữa, kiểu đàm phán không chấp nhận được. Ông là đại diện Tổng hành dinh và, tất nhiên, không phải chịu bài toán đang đứng trước và không thể giúp đỡ công việc và cả cho quân đội chúng tôi. Điều này cũng chứng minh rằng có một trạng thái nào đấy ở mọi người. Semen Mikhailovich khi đó hoàn toàn vượt qua giới hạn cho phép. Nhưng chúng tôi đơn giản và nhìn cuộc nói chuyện này một cách không nghiêm túc. Mặc dù ông cũng đụng chạm cuộc sống của một con người, tuy nhiên không gây hậu quả. Semen Mikhailovich đi khỏi, còn chúng tôi ở lại trong tình thế nặng nề như trước đây, sau khi ông đến, cũng chẳng xấu hơn mà cũng chẳng tốt hơn.