Chương 30

Ngay đêm đó, trong khi gia đình Arashino đã đi ngủ, tôi viết thư cho Mẹ dưới ánh lửa than “taidon” nấu thuốc nhuộm ở nhà phụ. Tôi không biết có phải do bức thư của tôi mà Mẹ chuẩn bị mở cửa nhà kỹ nữ lại hay không. Nhưng một tuần sau có một bà già đến gõ cửa nhà Arashino, và khi tôi ra mở cửa, tôi thấy bà Dì đang đứng bên ngoài. Hai má bà hóp vào, vì răng đã rụng hết, và da dẻ xám ngắt như người bị sốt rét. Nhưng tôi thấy bà vẫn mạnh khỏe. Bà xách theo một bao than trên một tay, còn tay kia xách một bao thực phẩm, bà mang đến biếu gia đình Arashino để cám ơn họ đã cho tôi tá túc bấy lâu nay.
Ngày hôm sau, tôi chảy nước mắt từ giã gia đình Arashino về lại Gion để cùng Mẹ và Dì bắt tay vào việc dọn dẹp nhà cửa. Khi nhìn cảnh nhà kỹ nữ tôi nghĩ ngôi nhà đã trừng phạt chúng tôi vì tội bỏ bê bao nhiêu năm qua. Chúng tôi phải bỏ ra bốn năm ngày liền để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất: đó là lau chùi bụi bặm bám một lớp dầy trên các đồ gỗ, vớt chuột chết ở dưới giếng lên, lau chùi phòng của Mẹ ở trên lầu, ở đây chim đã phá rách chiếu rơm, lôi rơm để làm tổ ở hốc tường. Tôi ngạc nhiên thấy Mẹ làm việc rất cật lực, một phần vì chúng tôi chỉ còn giữ lại bà đầu bếp và một chị hầu lớn tuổi, nhưng chúng tôi có thêm một con bé tên là Etsuko. Cô bé là con gái ông chủ trại đã để bà Mẹ và Dì tá túc. Etsuko làm tôi nhớ lại những năm khi tôi mới đến Kyoto, vì cô bé cũng mới chín tuổi. Cô bé nhìn tôi cũng với ánh mắt sợ sệt như khi tôi nhìn Hatsumono, mặc dù tôi thường cười với cô ta. Cô bé cao, gầy như một cái chổi, khi đi trong nhà, mái tóc dài phất phơ phía sau. Khuôn mặt nhỏ xíu như hạt gạo, khiến tôi phải nghĩ rằng chắc đến một ngày nào đó cô ta cũng bị đem nấu như tôi để thành hạt cơm trắng toát ngon lành dọn giữa mâm cơm.
Khi nhà cửa đã yên ổn, tôi đi thăm viếng chào hỏi những nơi quen biết ở Gion. Tôi ghé thăm Mameha, bây giờ cô không có danna để có tiền thuê căn hộ rộng rãi được. Khi gặp tôi, cô ấy có vẻ kinh ngạc, vì cô nói mặt tôi trơ xương, nhưng phải nói là tôi kinh ngạc khi gặp cô ấy mới phải. Khuôn mặt trái xoan xinh đẹp của cô vẫn không thay đổi, nhưng cái cổ nổi gân và trông cô ấy quá già. Điều lạ nhất là thỉnh thoảng miệng cô ấy nhăn lại như bà già, vì răng của cô tuy không có gì thay đổi, nhưng đã bị long chân trong thời gian chiến tranh nên làm cho cô đau nhức.
Chúng tôi nói chuyện một hồi lâu, tôi quay qua hỏi cô không biết chúng tôi có tổ chức Vũ điệu Cố đô vào mùa xuân sắp đến không. Nhiều năm rồi không tổ chức trình diễn các vũ điệu này.
- Ỗ, sao lại không? – cô ấy đáp – Chủ đề của các màn trình diễn sẽ có tên “Vũ điệu trong suối”.
Nếu anh đã có lần đi thăm khu nghỉ mát có suối nước nóng hay chỗ nào đại loại như thế, anh sẽ thấy ở đấy có nhiều phụ nữ giả làm geisha để mua vui cho khách, họ đều là gái điếm cả, anh sẽ hiểu được lời nói có tính khôi hài này của Mameha. Người phụ nữ trình diễn màn Vũ điệu trong suối này có hành động như vũ thoát y. Chị ta giả vờ lội nước càng lúc càng lâu, nên chị vén vạt áo lên cho đến lúc khách thấy cái gì họ muốn thấy, rồi họ vui vẻ cụng ly với nhau.
- Với lượng lính Mỹ ở Gion như hiện nay – cô ấy nói tiếp – tiếng Anh của cô sẽ được việc cho cô nhiều hơn là múa. Tuy nhiên, nhà hát Kaburenjo đã biến thành một Kyabarei rồi đấy.
Tôi chưa bao giờ nghe nói đến từ này, nó do từ tiếng Anh Cabaret mà ra, tôi hỏi cô ấy mới biết nó có nghĩa là nơi múa hát vui chơi trong các hộp đêm. Trong thời gian còn ở với gia đình Arashino, tôi đã nghe nhiều chuyện về lính Mỹ với các buổi tiệc ồn ào của họ. Thế nhưng vào xế chiều hôm ấy, khi tôi đi vào một phòng trà, tôi quá đỗi ngạc nhiên thấy nhiều giày lính để lộn xộn trước cửa, chiếc nào chiếc nấy to như con chó Taku của Mẹ, chứ không phải một hàng giày đàn ông nằm ngay ngắn dưới tầng cấp như lúc trước nữa. Đi vào tiền sảnh, vật đầu tiên tôi thấy là một lính Mỹ mặc đồ lót đang co mình dưới kệ ở hốc tường, trong khi hai phụ nữ vừa cười vừa cố lôi anh ta ra. Khi tôi nhìn vào những đám lông đen trên tay, trên ngực, và ngay cả trên lưng anh ta, tôi cảm thấy chưa bao giờ tôi nhìn thấy một cảnh tượng không mấy đẹp như thế này. Rõ ràng anh ta đã mất cả áo quần trong trò thi uống rượu và cố đi trốn, nhưng sau đó anh ta để cho các cô nắm tay lôi ra khỏi hốc tường, dẫn ra hành lang và đẩy vào cửa. Tôi nghe tiếng reo hò, cười cợt khi anh ta vào phòng.
Khoảng một tuần sau ngày trở về, tôi chuẩn bị để xuất hiện lần đầu tiên làm geisha lại. Tôi bỏ trọn một ngày để đi từ tiệm làm tóc đến nhà người bói toán, ngâm tay để tẩy sạch vết dơ cuối cùng, và tìm khắp Gion để mua đồ hóa trang cần thiết. Khi ấy tôi đã gần ba mươi rồi, tôi không cần phải tô trắng mặt nữa, ngoại trừ vào những trường hợp đặc biệt. Nhưng ngày hôm ấy tôi cũng bỏ ra nửa giờ ngồi trước bàn trang điểm, dùng các thứ son phấn trang điểm theo kiểu Tây phương cho khuôn mặt của tôi bớt gầy ốm. Khi ông Bekku giúp tôi mặc áo, bé Etsuko đứng nhìn tôi như lúc trước tôi nhìn Hatsumono, và khi nhìn vào cặp mắt kinh ngạc của cô bé đang nhìn tôi trong gương, không nhìn gì khác nữa, tôi cũng biết tôi đã thực sự thành geisha trở lại.
Thế là tối đến tôi ra khỏi nhà, khắp Gion phủ một tấm màn tuyết thật đẹp, bụi tuyết phủ trắng các mái nhà. Tôi quàng khăn ra ngoài kimono, cầm dù sơn, tôi nghĩ người ta sẽ không nhận ra tôi như ngày tôi về Gion giống một cô gái quê. Tôi chỉ nhận ra khoảng một nửa các cô geisha tôi gặp ngòai đường. Rất dễ nhận ra cô nào sống ở Gion trước chiến tranh, và họ cúi chào tôi lịch sự khi gặp tôi, thậm chí có người có vẻ không nhận ra tôi. Còn những người khác chỉ gật đầu nhẹ thôi.
Thấy những lính ngoài đường, tôi sợ không biết khi đến phòng trà Ichiriki, tôi sẽ thấy cái gì. Nhưng khi đến nơi, cả một dãy giày sĩ quan đen bóng để ngoài cửa, và lạ thay, phòng trà im lặng hơn cả vào những ngày tôi còn làm tập sự. Nobu chưa đến – hay ít ra tôi chưa thấy dấu hiệu gì của ông ây – nhưng tôi được mời đến thẳng một căn phòng ở tầng dưới và được báo cho biết ông ta sắp đến. Thường khi tôi phải đợi ở khu gia nhân ở cuối hành lang, ở đây tôi được sưởi ấm tay và uống một tách trà nóng, không geisha nào muốn khách thấy mình ngồi nhàn rỗi. Nhưng tôi không nôn nóng vì phải đợi Nobu, mà tôi cảm thấy được ngồi đây vài phút quả là một đặc ân. Trong năm năm qua, tôi rất thèm được nhìn ngắm các đồ mỹ thuật, mà căn phòng này lại rất đẹp, khiến tôi say sưa chiêm ngưỡng. Tường phòng được phủ một lớp lụa màu vàng nhạt, cách sắp xếp rất mỹ thuật, tôi cảm thấy ấm cúng như được che chở an tòan, y như quả trứng được lớp vỏ bao bọc.
Tôi đợi Nobu đến, nhưng khi tôi nghe tiếng ông ta ngoài hành lang, tôi biết ông ta đã đưa ông Thứ trưởng Sato đến. Như tôi đã nói, tôi không quan tâm đến chuyện Nobu thấy tôi ngồi đợi, nhưng tôi nghĩ để cho ông Thứ trưởng thấy tôi ngồi đợi thì rất tai hại, vì có thể ông ta cho tôi là đồ tâm thường. Cho nên tôi vội lẻn nhanh qua phòng bên cạnh đấy. Phòng này không có ai hết. Nhờ thế mà tôi nghe được ông Nobu ba hoa chích chòe ở phòng bên kia.
- Phòng được không, thưa ông Thứ trưởng? – ông ta nói. Tôi nghe có tiếng trả lời nho nhỏ - tôi đã yêu cầu dành phòng này cho ông. Bức tranh vẽ theo kiểu trường phái Zen đẹp chứ, phải không thưa ông? – Rồi sau một hồi im lặng, Nobu nói thêm – phải đêm thật đẹp. Ồ, không biết ông đã nếm rượu sakê đặc biệt của phòng trà Ichiriki chưa nhỉ?
Chuyện tiếp diễn như thế đấy. Nobu có vẻ thoải mái khi giả vờ nhã nhặn hiền lành. Cuối cùng tôi đẩy cửa đi vào. Nobu mừng rỡ ra mặt khi trông thấy tôi.
Sau khi tự giới thiệu xong và quỳ xuống bên bàn, tôi mới ngước mắt nhìn ông Thứ trưởng. Mặc dù ông ta tuyên bố ông ta đã ngồi hàng giờ để nhìn tôi, nhưng tôi vẫn không nhận ra ông ta. Tôi không biết tại sao tôi lại có thể quên được ông ta, vì ông ta có một diện mạo rất dễ nhớ: tôi chưa bao giờ trông thấy có người nào quá lúng túng như thế, cứ cúi gầm mặt xuống mãi. Cằm của ông ta gần sát xương đòn gánh như là ông ta không thể ngẩng đầu lên được. còn hàm dưới thì bạnh ra trước, đến nỗi hơi thở có vẻ như bay ngược trở lại vào mũi. Sau khi gật nhẹ đầu chào tôi và xưng tên, tôi không nghe ông ta nói gì nữa ngòai những tiếng càu nhàu không ai hiểu ông ta muốn nói gì.
Tôi cố gợi chuyện một hồi lâu mới thấy cô hầu bưng khay sakê vào. Tôi rót rượu đầy tách cho ông ta, và tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta trút tách rượu vào hàm dưới như trút vào ống cống. Ông ta ngậm miệng một lát rồi lại mở ra và trút rượu vào, rượu chảy xuống họng, không có dấu hiệu gì lộ ra như mọi người làm mỗi khi họ nuốt rượu xuống họng. Tôi chỉ biết ông ta đã nuốt rượu xong khi ông ta đưa cái tách không ra.
Ông ta uống rượu như thế mười lăm phút liền, hay nhiều hơn nữa trong khi tôi cố sức làm cho ông Thứ trưởng thoải mái bằng cách kể chuyện và nói đùa cho ta nghe, rồi hỏi ông ta đôi ba câu. Nhưng rồi tôi nhận thấy không có gì có thể làm “cho ông Thứ trưởng thoải mái” được. Ông ta không trả lời tôi một tiếng. Tôi đề nghị chúng tôi chơi trò chơi thi uống rượu, thậm chí tôi còn hỏi ông ta có thích hát hay không. Nửa giờ đầu trôi qua như thế, ông Thứ trưởng mới hỏi tôi có phải là vũ công hay không.
- Phải, em là vũ công. Ông Thứ trưởng có muốn em múa một điệu ngắn không?
- Không – ông ta đáp. Và thế là hết.
Ông Thứ trưởng có thể không nhìn thẳng vào mắt ai, nhưng ông thích nhìn kỹ thức ăn, vì tôi nhận ra điều này sau khi người hầu mang bữa cơm tôi đến cho hai người đàn ông. Trước khi bỏ thức ăn vào miệng, ông ta dùng đũa trở qua trở lại để xem xét thật kỹ. Nếu ông ta không biết đấy là thức ăn gì, ông ta hỏi tôi.
- Thưa đấy là khoai mỡ rán chấm với nước tương đậu nành – tôi nói cho ông ta biết khi ông ta đưa miếng thức ăn có màu vàng cam lên.
Thực ra tôi không biết chắc đấy có phải là miếng khoai mỡ, hay là lát gan cá voi, hay là cái gì, nhưng tôi nghĩ là ông Thứ trưởng không muốn nghe những thứ ấy. Sau đó, khi ông ta gắp lên một miếng thịt bò chấm nước sốt và hỏi tôi, tôi bèn định trêu ông ta chơi.
- Ỗ, đây là da chấm nước sốt – tôi nói – Đây là món đặc sản ở đây. Món ấy là da voi.
- Da voi à?
- Thưa Thứ trưởng, chắc ông biết em nói đùa chứ! Đây là thịt bò. Tại sao ông nhìn thức ăn kỹ thế? Bộ ông nghĩ là ở đây dọn thịt chó hay thịt gì ba láp cho ông ăn à?
- Tôi ăn được thịt chó mà. – ông ta đáp.
- Thế thì tuyệt quá. Nhưng đêm nay ở đây không có thịt chó. Ông đừng nhìn kỹ vào đũa như thế nữa.
Sau đó chúng tôi chơi trò thi uống rượu. Nobu rất ghét chơi trò này, nhưng ông ta giữ bình tĩnh sau khi tôi nhăn mặt với ông ta. Chắc chúng tôi đã để cho ông Thứ trưởng thua nhiều, vì sau đó, khi chúng tôi giải thích luật lệ chơi trò thi uống rượu mà chưa bao giờ ông ta chơi này, thì cặp mắt ông ta đã lờ đờ thất thần rồi. Ông ta đứng dậy đi đến phía góc phòng.
- Kìa ông Thứ trưởng – Nobu nói – ông đi đâu thế?
Câu trả lời của ông Thứ trưởng là một tiếng ợ, tôi nghĩ đây là câu trả lời quá rõ ràng rồi, nghĩa là ông ta sắp sửa mửa ra. Nobu và tôi chạy đến phía ông ta, nhưng ông ta đã lấy tay bịt lấy miệng. Nếu ông ta là ngọn núi lửa, thì bây giờ là lúc đang phun khói, cho nên chúng tôi phải mở nhanh cánh cửa thông ra vườn để cho ông ta mửa lên trên tuyết. Chắc anh kinh hòang khi nghĩ đến chuyện một người mửa trên một mảnh vườn trồng cây cảnh đẹp như thế, nhưng ông Thứ trưởng không phải là người đầu tiên. Giới geisha chúng tôi giúp ông ta đi đến nhà vệ sinh, nhưng thỉnh thỏang chúng tôi làm không được. Nếu chúng tôi nói cho cô hầu biết có một ông ra viếng vườn hoa, họ sẽ vội vàng mang dụng cụ làm vệ sinh chạy đến ngay.
Nobu và tôi cố giữ cho ông Thứ trưởng quì trên ngưỡng cửa để đầu chồm ra ngoài trên mặt tuyết. Nhưng mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức, ông ta vẫn ngã nhào về phía trước. Tôi cố đẩy ông ta sang một bên để cho ông ta khỏi ngã lên chỗ mửa. Nhưng ông Thứ trưởng to như con bò mộng, cho nên tôi chỉ làm được công việc là đẩy ông ta nằm nghiêng một bên.
Nobu và tôi không làm gì được ngoài việc thất vọng nhìn cảnh ông Thứ trưởng nằm bất động trên tuyết, như một cành cây rơi xuống đất.
- Kìa ông Nobu – tôi nói – tôi không hiểu tại sao khách của ông lại tức cười như thế này.
- Theo tôi thì chúng ta đã giết ông ấy. Nếu cô hỏi tôi thì tôi xin đáp là ông ta đáng đời. Con người gì thật đáng giận!
- Ông cư xử với khách như thế này sao? Ông phải đưa ông ta ra ngoài đường, dẫn ông ta đi một vòng cho tỉnh táo. Hơi lạnh sẽ làm cho ông ta chóng tỉnh.
- Ông ta đang nằm trong tuyết không lạnh sao?
- Ông Nobu! – tôi nói.
Tôi nghĩ lời tôi nói ra có vẻ như lời khiển trách, vì Nobu thở dài, rồi ông ta bước ra ngoài vườn, chân chỉ mang vớ, cố làm cho ông Thứ trưởng tỉnh dậy. Trong lúc ông ta làm công việc này, tôi đi tìm một cô hầu đến giúp, vì tôi thấy ông Nbbu chỉ với một tay thật rất khó khăn đưa được ông Thứ trưởng vào lại trong nhà. Sau đó tôi đi tìm vớ khô cho hai người rồi báo cho cô hầu biết để cô ta ra dọn sạch sau vườn. Khi tôi trở vào phòng, ông Nobu và ông Thứ trưởng đã ngồi lại vào bàn. Chắc anh có thể tưởng tượng ra ông Thứ trưởng trông như thế nào, và có mùi như thế nào. Tôi phải đích thân cởi vớ của ông ta ra, nhưng tôi phải nhích người ra xa khi làm việc này. Khi tôi tháo vớ xong, ông ta gục xuống nằm dài trên chiếu một lát.
- Ông ấy có nghe chúng ta nói không? – tôi hỏi nhỏ Nobu.
- Ngay cả khi còn tỉnh, ông ấy cũng đã không nghe chúng ta nói. Có bao giờ cô gặp thằng cha nào điên hơn ông ta chưa?
- Ông Nobu, nói nhỏ nhỏ thôi chứ. Ông có tin ông ta vui thích đêm nay không? Có phải là ông có dự định làm như thế này không?
- Không phải tôi dự định, mà chính ông ta có dự định ấy.
- Em không tin chúng ta sẽ làm như thế này nữa vào tuần sau.
- Nếu ông Thứ trưởng đêm nay mà hài lòng, tôi cũng hài lòng.
- Thật sao ông Nobu? Chắc ông không hài lòng đâu! Trông ông có vẻ quá khổ sở. Nhìn tình trạng của ông Thứ trưởng như thế này, em nghĩ chúng ta phải xác nhận là ông ấy không được hưởng một đêm tốt lành.
- Cô đừng xác nhận gì hết khi thấy chuyện này xảy đến cho ông ta.
- Em nghĩ nếu chúng ta tạo được không khí vui nhộn thì chắc ông ấy sẽ được vui. Ông không nghĩ như thế sao?
- Nếu cô nghĩ làm thế sẽ tốt hơn, thì lần sau cô mời đến ít cô geisha nữa. Cuối tuần sau chúng tôi sẽ quay lại, cô mời cô chị cả của cô đến.
- Mameha thông minh thật đấy, nhưng chắc ông Thứ trưởng sẽ không vui với chị ấy đâu. Chúng ta cần một geisha thật vui nhộn mới được! một người làm cho ai nấy đều thấy vui. Mà này, theo em nghĩ thì..chúng ta cần thêm một người khách nữa, chứ không cần thêm geisha.
- Tôi thấy chẳng có lý do gì để làm như thế.
- Nếu ông Thứ trưởng bận uống và nhìn em, còn ông thì càng lúc càng chán mứa ông ấy, chúng ta sẽ trải qua một buổi tối chẳng vui chút nào hết. Ông Nobu này, thật sự mà nói, có lẽ ông nên mời ông Chủ tịch đến vào lần sau.
Có lẽ anh tự hỏi phải chăng tôi đã thu xếp buổi tối sao cho có được giây phút như thế. Dĩ nhiên, khi về lại Gion, tôi hy vọng sẽ tìm ra cách để được gần gũi ông Chủ tịch. Tôi ao ước sao có cơ hội để được ngồi gần một bên ông ấy, thì thào nói chuyện với ông, hít ngửi mùi da thịt của ông. Mặc dù cuộc đời của tôi đang bị ràng buộc vào cuộc đời của ông Nobu, nhưng tôi vẫn không từ bỏ sẽ có cơ hội gặp ông Chủ tịch.
- Tôi đã nghĩ đến chuyện dẫn ông Chủ tịch đi – Nobu trả lời – ông Thứ trưởng cũng rất thích ông Chủ tịch. Nhưng như tôi đã nói, ông ấy rất bận việc.
Ông Thứ trưởng vùng vằng trên chiếu như thể có ai đang thọc lét ông, rồi ông ta cố gắng lồm cồm ngồi dậy. Nobu có vẻ ghê tởm khi thấy quần áo dơ bẩn của ông ta, bèn bảo tôi đi tìm người hầu để đem khăn đến lau áo quần của ông ấy. Lua xong, cô hầu rút lui. Nobu nói:
- Có lẽ đêm nay là đêm tuyệt vời của ông, ông Thứ trưởng à. Lần sau chắc chúng ta sẽ vui hơn, bởi vì thay vì ông mửa vào tôi, ông sẽ được mửa vào ông Chủ tịch và có lẽ mửa vào vài cô geisha khác nữa.
Tôi rất vui mừng khi nghe Nobu nhắc đến ông Chủ tịch, nhưng tôi không dám để lộ vẻ gì.
- Tôi thích cô geisha này – ông Thứ trưởng nói – tôi không thích cô geisha khác.
- Cô ấy tên là Sayuri, ông nên gọi như thế, nếu không, cô ta sẽ không đến nữa đâu. Thôi bây giờ xin mời ông đứng dậy, thưa ông Thứ trưởng. Đến lúc ta về nhà rồi.
Tôi tiễn hai người ra cửa, giúp họ mặc áo khoác và mang giày, rồi đứng nhìn họ đi ra trong tuyết. Ông Thứ trưởng đã say mèm, nếu không có ông Nobu nắm tay dẫn đi, chắc thế nào ông ta cũng té nhào đầu vào cổng.
Cũng vào đêm đó, sau khi ra về, tôi đã cùng Mameha đến dự một buổi tiệc có nhiều sĩ quan Mỹ. Lúc chúng tôi đến, người thông ngông không giúp gì cho ai được, vì họ đã cho anh ta uống say mèm, nhưng các sĩ quan nhận ra được Mameha. Tôi ngạc nhiên khi thấy họ vẫy tay hò hét ra dấu yêu cầu cô ấy múa. Tôi cứ tưởng chúng tôi ngồi yên để xem cô ấy múa, nhưng không, các sĩ quan đứng dậy nhảy múa theo. Thấy thế, tôi bật cười thoải mái. Sau đó chúng tôi bày ra một trò chơi khác, Mameha và tôi thay phiên nhau đàn, còn các sĩ quan nhảy múa quanh bàn. Bất cứ khi nào chúng tôi ngưng bàn, họ phải chạy về chỗ ngồi, kẻ nào về chỗ ngồi sau cùng sẽ bị phạt uống rượu sakê.
Đến giữa chừng buổi tiệc, tôi nói với Mameha rằng bữa tiệc rất vui mặc dù ngôn ngữ bất đồng, trong khi mới trước đó một buổi tiệc chỉ có ba người mà lại rất buồn. Cô ấy bảo tôi miêu tả bữa tiệc cho cô ấy nghe rồi nói:
- Ba người thì quá ít, mà một người là Nobu rồi, người tính tình thường cau có.
- Em đề nghị lần sau mời ông Chủ tịch đến. Và chúng tôi cũng cần thêm geisha nữa, chị nghĩ sao? Cần cô nào cho ồn ào vui nhộn.
- Phải, có lẽ tôi sẽ đến.
Tôi hoảng hốt khi nghe cô ấy nói như thế. Vì không ai cho Mameha là “người ồn ào vui nhộn”. Tôi định nói cho cô ấy biết ý của tôi thì cô ấy bỗng nói:
- Phải, tôi muốn ghé đến …nhưng tôi nghĩ nếu cô muốn có người ồn ào vui nhộn, thì cô nên mời cô bạn Bí Ngô của cô.
Từ khi trở lại Gion, tôi thấy khắp nơi trong nhà đều có những kỷniệm về Bí Ngô. Thật vậy, khi tôi vừa mới bước vào nhà lần đầu, tôi liền nhớ cảnh cô ấy đứng trong tiền sảnh vào ngày Gion đóng cửa, cô ta buồn rầu cúi chào giã biệt tôi, thái độ cúi chào của người có bổn phận phải chào cô gái được nhận làm con nuôi trong nhà. Suốt cả tuần làm vệ sinh nhà cửa, tôi cứ nghĩ đến cô ta mãi. Trong lúc giúp chị hầu chùi bụi các đồ gỗ, tôi hình dung ra cảnh Bí Ngô ngồi trên hành lang gỗ đang tập đàn Shamisen. Chiếc hành lang nhỏ gợi lại cho tôi bao nhiêu kỷ niệm buồn. Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi nhỉ? Không bao giờ tôi quên được những ngày đau buồn ấy. Tôi trách Hatsumono đã làm cho tình bạn của chúng tôi bị sứt mẻ. Việc tôi được nhận làm con nuôi là nhát cắt cuối cùng làm đứt hẳn tình bạn của chúng tôi, nhưng tôi không thể nào quên được nó. Bí Ngô đã cư xử tốt với tôi. Tôi phải tìm cách để cám ơn cô ấy mới được.
Lạ thay, tôi phải đợi cho tới khi Mameha nhắc đến cô ta, tôi mới nghĩ đến cô, tôi nghĩ tiếp xúc lại với cô ấy thế nào cũng ngượng ngùng khó chịu, nhưng tôi đã suy nghĩ cả đêm và đi đến quyết định phải giới thiệu cho Bí Ngô trở lại các buổi tiệc, bây giờ là các buổi tiệc của lính. Thế là sau nhiều năm, có lẽ bây giờ chúng tôi bắt đầu hàn gắn lại tình bạn với nhau.
Tôi không biết gì về tình trạng của Bí Ngô hết, ngoại trừ chuyện tôi biết cô ta đã về lại Gion rồi. Tôi đến nói chuyện với bà Dì, mới biết mấy năm về trước, bà có nhận được một bức thư của cô ấy. Trong thư, Bí Ngô xin được trở về lại nhà kỹ nữ khi nào mở cửa lại, vì cô ta cho biết cô ta không biết đi đâu. Bà Dì thì bằng lòng để cho cô ta trở về, nhưng bà Mẹ không muốn, bà cho rằng đầu tư vào Bí Ngô không có lợi. Bà Dì nói với tôi:
- Nó đang ở trong một nhà kỹ nữ nhỏ nghèo khổ ở khu vực Hanami. Nhưng đừng thương hại mà đem nó về đây. Mẹ không muốn thấy nó. Tôi nghĩ nếu cô đem chuyện này mà nói với Mẹ là điên đấy.
- Tôi xin thú thực rằng những chuyện xảy ra giữa tôi và Bí Ngô trước đây là bất công…
- Không có gì xảy ra giữa cô và Bí Ngô hết. Bí Ngô thất bại, còn cô thành công. Dù sao, bây giờ cô ấy cũng đã có nơi ăn chốn ở rồi. Tôi nghe lính Mỹ không mấy ưa cô ấy. Chắc cô biết rồi, cô ấy cục cằn, không thích hợp cho ta.
Ngay chiều hôm đó tôi qua đại lộ Shijo đến khu vực Hanami, tìm nhà kỹ nữ nhỏ mà bà Dì nói cho tôi biết. Nếu anh còn nhớ cô bạn Korin của Hatsumono, và nhớ chuyện nhà kỹ nữ của cô ta bị cháy rụi vào những năm chiến tranh khốc liệt…thì ngọn lửa đã gây thiệt hại nặng cho nhà kỹ nữ bên cạnh, chính Bí Ngô đang ở trong nhà này. Ở phía ngoài một bức vách cháy đen thui, và một phần của mái ngói đã bị cháy, nay được chắp vá thay bằng những tấm ván.
Một cô hầu dẫn tôi vào phòng khách, phòng hôi mùi tro ẩm, rồi một lát sau quay lại mời tôi một tách trà thật loãng. Tôi ngồi đợi một hồi lâu Bí Ngô mới đẩy cửa bước vào. Căn phòng tối, cho nên tôi không thấy rõ mặt cô ta, nhưng thấy cô ta, bỗng tôi cảm thấy ấm lòng, tôi bèn đứng dậy bước tới ôm lấy cô ta. Cô ta bước lui vài bước rồi quỳ xuống cúi đầu chào tôi như thể tôi là bà Mẹ. Tôi kinh ngạc đứng sững một chỗ.
- Bí Ngô! Mình đây mà…- tôi nói.
Cô ta không nhìn tôi mà cứ nhìn xuống chiếu như một cô hầu đang đợi lệnh. Tôi cảm thấy rất chán nản, bèn quay về ngồi lại bên bàn.
Trong những lần gặp nhau vào những năm cuối cùng của chiến tranh, mặt của Bí Ngô vẫn còn tròn trịa, đầy đặn như thời còn nhỏ, mặc dù trông có vẻ buồn rầu. Bây giờ trông cô ta thay đổi nhiều. Sau khi các nhà máy làm thấu kính đóng cửa, Bí Ngô phải làm gái điếm để sống hai năm ở Osaka. Miệng cô ta có vẻ như co lại, không biết có phải vì cô ta mím lại như thế hay không, nhờ cái mặt to và hai má nay gầy đi, nên trông cô ta có nét mặt xương xương trông rất có nét, khiến tôi phải ngạc nhiên. Tôi không nói Bí Ngô đẹp bằng Hatsumono, nhưng bây giờ khuôn mặt cô ta trông sắc sảo hơn trước nhiều.
- Bí Ngô này – tôi nói – chúng ta đã trải qua những năm khó khăn gian khổ, nhưng mình lại thấy bạn xinh đẹp ra.
Bí Ngô không trả lời. Cô ta chỉ nghiêng cái đầu một chút cho biết cô ta đã nghe tôi nói. Tôi khen ngợi cô ta và hỏi han về cuộc sống sau chiến tranh, nhưng cô ta vẫn ngồi yên không đáp một tiếng, khiến tôi cảm thấy hối tiếc vì đã đến đây.
Cuối cùng sau một hồi im lặng nặng nề, cô ta nói:
- Cô đến đây chỉ để nói chuyện với tôi thôi phải không Sayuri? Tôi không có gì để nói cho cô vừa lòng đâu.
- Chuyện như thế này nhé – tôi đáp – tôi vừa mới gặp Nobu Toshikazu và…Bí Ngô này, thỉnh thoảng ông ta có đưa một người đến Gion. Tôi nghĩ chắc bạn bằng lòng đến giúp chúng tôi mua vui cho ông ta.
- Nhưng chắc khi cô thấy tôi, cô sẽ đổi ý.
- Không – tôi đáp – không biết tại sao bạn lại nói thế. Ông Nobu Toshikazu và ông Chủ tịch, Iwamura Ken, tôi muốn nói… ông Chủ tịch Iwamura – sẽ rất muốn có bạn giúp họ mua vui. Chuyện chỉ đơn giản như thế thôi.
Bí Ngô cứ quỳ yên lặng một lát, nhìn xuống chiếu. Cuối cùng cô ta nói:
- Tôi không còn tin mọi việc trên đời chỉ đơn giản như thế. Tôi biết cô cho tôi là đồ ngốc…
- Bí Ngô!
- Nhưng tôi nghĩ cô có lý do gì đấy mà cô không muốn nói ra…
Bí Ngô nhẹ cúi chào, tôi thấy thái độ cô ta có vẻ khó hiểu. Hoặc là Bí Ngô xin lỗi về những lời cô ta vừa nói, hay có lẽ cô ta sắp xin cáo từ.
- Mình thực có lý do khác – tôi đáp – thú thật với bạn là mình hy vọng sau bao nhiêu năm qua, chúng ta nối lại sợi dây tình bạn như thưở xưa. Chúng ta đã vượt qua được rất nhiều khó khăn, kể cả Hatsumono. Mình thấy chuyện chúng mình nối lại tình bạn là tự nhiên thôi.
Bí Ngô không nói gì.
- Ông Chủ tịch Iwamura và ông Nobu sẽ chiêu đãi ông Thứ trưởng mua vui vào thứ bảy tuần tới tại phòng trà Ichirki – tôi nói – nếu bạn đến tham dự với chúng mình, mình sẽ rất sung sướng.
Tôi có mang theo cho cô ta gói trà, tôi mở tấm khăn lụa, lấy gói trà để lên bàn. Khi đứng lên, tôi nghĩ nên nói đôi lời thân ái với cô ta trước khi chia tay, nhưng cô ta có vẻ rất bối rối kinh ngạc, nên tôi nghĩ tốt hơn là nên ra về, không nói thêm gì nữa.