Tập 2- L

Hai tháng tôi dạy học trường tư ở Vinh
Sau khi đậu tú tài toàn phần, tôi có ý định ra Hà Nội đi dạy học tư, và viết văn, làm thơ, làm báo mặc dù tôi vẫn đâm đơn xin học bổng đi học triết lý và văn khoa bên Pháp. Như một đoạn trên tôi đã kể, ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì tôi quyết định ở lại nhà, vì cảm thấy sẽ có những biến cố lớn lao xảy ra với đất nước. Trong lúc chờ đợi, được lời mời của ông Hà Thúc Chính, tôi nhận lời dạy văn ở trường “Chính hoá” tại Vinh.
Ông Hà Thúc Chính và người anh của ông là Hà Thúc Kính (và vợ ông là bà Kiệm) được tôi nhận lời dạy thì rất mừng, rất hoan hỉ vì lúc đó tôi đã bắt đầu nổi tiếng về mặt thơ văn, mà học sinh dạo ấy rất “mê tín” các nhà thơ mới dạy văn chương. Tôi dạy môn văn cho cả 3 lớp đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (ban thành chung). Trong số học sinh học năm thứ nhất với tôi lúc đó có anh Chính Hữu, anh Đào Văn Lan (hiện là đại tá) và một số khác nữa mà về sau tôi thường gặp lại trong kháng chiến chống Pháp.
Anh Chính Hữu trong một bài hồi ký đăng ở tạp chí văn học Hà Nội có nhắc đến “thầy Huy Cận” khi anh học ở trường Chính Hoá. Tôi dạy văn đương nhiên là dựa theo chương trình, nhưng cách chọn bài để giảng, và cách giảng thì cũng khá tài tử.
Tôi đã để cả hai buổi liền để giảng một đoạn ngắn trong Truyện Kiều. Đó là đoạn nói Kim Trọng trở lại thăm vườn Thuý sau khi chịu tang chú ở Liêu Dương trở về:
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song giăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời...
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Sập sè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy
Đi về này những lối này năm xưa...
Riêng hai câu cuối của đoạn thơ trích trên đây, tôi đã để cả tiếng đồng hồ để phân tích cái hay, cái bề sâu của tình cảm của Nguyễn Du đối với nhân vật.
Cái câu Đi về này những lối này năm xưa, tôi hỏi học sinh rằng đó là lời của ai? Tất nhiên là các bạn học trò của tôi đều trả lời là lời của tác giả dẫn truyện. Tôi lại hỏi có thể là lời của ai nữa không, thì có một cô học sinh (nếu tôi nhớ không sai là chị Đính, con của bà Kiệm) đứng lên nói ngập ngừng: “Cũng có thể là lời nói thầm của Kim Trọng... Vì trong bản Kiều ngày xưa cũng như ngày nay không có dấu ngoặc kép trên câu thơ này nên có thể hiểu là lời của tác giả hay lời của nhân vật cũng được.... Cô Đính nói xong, mà như chưa tin ở sự phân tích của mình cho nên có vẻ ngượng ngùng và xin lỗi thầy và các bạn học là đã mạo muội đưa ra một ý nghĩ ngớ ngẩn. Tôi nói: “Chị Đính được 20 điểm, vì chị đã hiểu sâu tâm lý của câu thơ”. Tôi lại hỏi có thể là lời của ai nữa không thì cả lớp ngồi im. Tôi nói với các em: “đó còn có thể là lời của cảnh vật, của tạo hoá thông cảm với nỗi nhớ nhung bùi ngùi của Kim Trọng mà thốt lên, mà nói to lên cái điều mà Kim Trọng đang cảm nghĩ thầm. Khác nào như ta thấy cảnh vật của vườn Thuý đang nhìn vào Kim Trọng, đang chỉ tay vào Kim Trọng mà nói anh trở lại thăm vườn, những bước chân anh đang đi trên con đường ngày trước đó, những lối đường mà anh và chị Thuý Kiều đã cùng dạo ban đêm....
Các học sinh của tôi đều thiết tha cho rằng sự phân tích của thầy là đi vào tận cùng tình cảm của tác giả, của nhân vật, và thấu được cả ý thầm của tạo hoá thông cảm với con người. Cho đến nay tôi vẫn nghĩ rằng lời giảng văn trên đây của “thầy Huy Cận” là chấp nhận được, là chính xác. Tôi lại yêu cầu học sinh của tôi sưu tầm ca dao, đặc biệt là ca dao Nghệ Tĩnh, mỗi học sinh phải nộp cho tôi ít nhất là 100 câu ca dao, hễ trò nào chép được nhiều câu hay thì được điểm cao. Tôi lại nhớ chính cô Đính đã cung cấp nhiều câu hay nhất và được 18 điểm. Tôi hỏi cô làm sao sưu tầm được nhiều câu hay như thế, thì cô thưa là mẹ cô (bà Kiệm) đọc cho cô chép mà cũng chưa đọc hết kho của bà.
Đầu tháng 10-1939, tôi nhận được điện của anh Diệu gọi ra đi học trường cao đẳng Nông lâm, vì tôi đã trúng tuyển. Thầy trò trường “Chính hoá” làm một bữa cơm tiễn tôi với tình cảm hết sức lưu luyến. Bà Kiệm cũng có mặt trong bữa cơm, và ra về, và nói nhỏ với tôi: “Nhà thơ còn bay nhảy nhiều, còn rong ruổi trên con đường danh vọng chứ đâu thiết gì đến cái đất Vinh và trường “Chính hoá” nhỏ bé này... Ở đây chắc chẳng có gì đáng níu chân nhà thơ lại....
Tôi cũng không hiểu hết ý “ngôn ngoại” của bà, tôi chỉ biết bà rất đẹp với hàm răng đen nháy như hạt na, với đôi mắt nhìn rất quyến rũ. Bà hơn tôi 10 tuổi và tôi cũng đã nghe nói qua về những mối tình lãng mạn rất đẹp của bà... Hôm tôi đáp tầu hoả ra Hà Nội, học sinh ra tiễn rất đông, và bà Kiệm cũng có ra ga chào tôi, cùng đi với cô con gái... Hai tháng ở trường “Chính hoá” là đoạn đời đi dạy học duy nhất của tôi cộng thêm với 1 năm làm gia sư ở nhà bác sĩ B.D. Hồi tôi còn học ở ban thành chung, tại trường Quốc học, tôi vẫn mơ ước một ngày kia làm giáo sư dạy trường trung học để được giảng văn thơ Việt Nam và văn thơ Pháp cho học sinh, thủ thỉ với họ truyền cảm cho họ cái hay mà tôi thu nhận được vào tâm trí mình, vào lòng mình nữa. Nhưng cuộc đời đã không chiều mơ ước tuổi nhỏ của tôi, cho nên nếu tôi kể hơi dài dòng về mấy tuần dạy tư ở Vinh thì bạn đọc cũng phải thông cảm cho chút nuối tiếc của tôi đối với hoài bão muốn làm giáo sư dạy văn c lướt trên đường, không nghe tiếng chân ấn xuống đất. Chúng tôi chào Thế Lữ, không nói được gì nhiều, một phần vì chúng tôi cảm động, một phần vì anh cũng có vẻ phải đi vội. Nhưng anh cười với chúng tôi một cách rất bè bạn, tỏ ý thông cảm lòng yêu văn thơ của chúng tôi. Sau này gặp lại Thế Lữ ở Hà Nội, tôi có nhắc việc chúng tôi đi lùng tìm anh ở hội chợ Huế thì anh nói có nhớ mang máng hai chàng học sinh đến đón anh, và nhớ mãi cái ấn tượng lòng say văn thơ của thanh niên, học sinh ở Huế. Trong chuyến đi thăm Huế lần này, anh đã nảy cái tứ làm bài thơ Nghe đàn nguyệt trên sông Hương, một trong những bài thơ hay của anh, xin nhắc qua đây mấy câu:
Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng
Tiếng bi ai như vẽ hình cay đắng
Của những chia phôi, thương tiếc, đợi chờ
Trong bao thiên tình sử não nùng xưa...
Thuốc độc êm đềm, ôi! Giọng đàn kiều mị,
Bời vì đâu gieo mãi xuống lòng ta
Những giọt nồng cay, tê tái, say sưa...
Quen Tế Hanh
Tế Hanh cũng học ở trường Quốc học, nhưng sau tôi ba lớp, (tôi ở đệ nhất niên ban tú tài, thì Tế Hanh mới ở đệ nhị niên ban thành chung). Tế Hanh cũng bắt đầu làm thơ từ đó, và biết tôi có làm thơ nên tìm gặp tôi, ở trong trường, và nhất là ở nhà trọ của tôi năm tôi học đệ nhị tú tài, phải đi làm gia sư, sau khi bị cắt học bổng (vì đi đón Gô-đa). Thường buổi chiều đi học về, chúng tôi hay đi dạo trên con đường Khải Định, hai bên đường trồng cây hoa phượng, lúc gần hè hoa phượng nở từng chùm đỏ rực, cả một lùm cây đỏ rực, hoa phượng hồn của mùa hè xứ Huế, náo nức mà nhớ nhung: Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ, và Tưng bừng lựu đỏ trà non nớt, - Chắc nắng chiều qua phượng nở rồi.
Tế Hanh làm được bài thơ nào thường có đem cho tôi xem và nhờ tôi góp ý kiến. Tôi cũng đã góp ý cho Tế Hanh sửa chữa một số câu thơ, một số bài thơ. Tất nhiên là tôi chỉ gợi ý, và Tế Hanh tự sửa chữa lấy. Tôi nhớ những gợi ý chủ yếu của tôi là làm sao cho bài thơ gọn lại, làm sao tăng sức khêu gợi của những câu thơ, do đó nên chọn những từ có nhiều âm hưởng trong tâm tình người đọc, những từ có mang sức vang động bên trong tâm hồn. Chúng tôi bàn với nhau nhiều về cách biểu hiện mới trong thơ, biểu hiện mới để nói được tứ mới, nhưng lại phải được biểu hiện thế nào để dính với truyền thống cảm xúc của dân tộc. Chúng tôi say sưa bàn cái hay của những câu thơ Kiều, cái sức khêu gợi của câu thơ lục bát Nguyễn Du. Chúng tôi ngạc nhiên tại sao câu thơ của Nguyễn Du cứ mới thế, cứ trẻ thế, dường như Nguyễn Du sáng tác ở thời đại chúng' ta, như cảm xúc ở thời đại chúng ta. Chúng tôi cũng thán phục cái tài dùng chữ của bà Đoàn Thị Điểm trong bản dịch Chinh phụ ngâm. Những câu như: Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non và câu: Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi câu Vị ào ào gió thu cứ làm chúng tôi tấm tắc mãi. Bài học nghệ thuật của cha ông gắn bó chúng tôi.
Kỷ niệm về nhà thơ Phạm Hầu
Phạm Hầu là con vị thượng thư Phạm Liệu của triều đình Huế. Phạm Hầu cũng học ở trường Quốc học, sau tôi 2 lớp. Lúc học đệ tứ niên thành chung Phạm Hầu đã làm thơ, và đã có đăng một số bài ở tạp chí Tao đàn hồi đó. Phạm Hầu thường hay trao đổi bàn chuyện thơ với tôi ở trong trường, sau giờ học buổi chiều, trước giờ ăn cơm. Anh người mảnh dẻ, giọng nói rất nhẹ, gần như nói thầm, nhưng thỉnh thoảng cũng cười to lên, khi gặp một ý thích thú tâm đắc. Mắt Phạm Hầu như nhìn xa đi đâu, không phải là khóe mắt mơ mộng thường gặp ở các thiếu nữ mới lớn lên, mà là nét nhìn xa vắng, xa trong tưởng tượng của anh, và vắng với cảnh vật trước mắt. Tôi rất mến anh, quí anh. Hồi tôi ra Hà Nội học Trường cao đẳng Nông lâm, anh cũng ra học Trường cao đẳng Mỹ thuật. Anh ở phố Bôvet (nay là phố Yết Kiêu), số nhà 32, trên gác. Tôi thường đến thăm và đàm đạo thơ ca với anh. Chúng tôi rủ nhau đi thăm cảnh chùa Hương, đi lễ đền Hùng. Và khi tôi thực tập kỹ sư canh nông ở đồn điền Tuyên Quang (1941), thì anh lên chơi với tôi 1 tuần và dịp ấy anh làm được hai bài thơ mà hiện nay tôi còn giữ bản chép tay nguyên bản của anh. Phạm Hầu thường tâm sự với tôi: “Cận đã có tập thơ Lửa thiêng và đang có đà làm thơ, đáng mừng cho Cận. Còn mình thì chưa biết sao đây? Phải có sự nghiệp gì trước tuổi 30, nếu không thì chả sống làm gì?” Rồi anh say sưa vẽ, thỉnh thoảng làm thơ, trong vẽ, trong thơ anh cốt tìm lý tưởng. Dạo ấy anh có vẽ một bức tranh tặng tôi, tranh theo lối lập thể. Trung tâm bức tranh là một cái quạt mở rộng (lấy ý “lòng anh mở với quạt này” trong bài Ngậm ngùi của tôi), và xung quanh chiếc quạt là chim, bướm, cây cỏ, mây cuốn ráng chiều, có cả thấp thoáng, ẩn hiện những hình thiếu nữ lẫn với hoa lá, như từ hoa lá mà nở ra. Rồi dần dần tôi thấy anh hao gầy đi, mắt đôi khi như lạc đi, có nét ngơ ngác. Đầu năm 1942 tôi vào Sài Gòn học nốt học kỳ chót của trường Kỹ sư canh nông, thì được tin anh đã bị điên, và người ta đã đem anh vào nhà thương Vội ở Bắc Giang (nhà thương điều trị những người điên). Mặc dù người anh ruột hết sức chăm sóc anh, bệnh tâm thần của anh không khỏi và anh đã mất tại nhà thương năm 1942, vào tháng nào tôi không nhớ rõ, và gia đình đã đem thi hài anh về chôn ở Huế, gần chùa Từ Đàm. Người yêu của anh là một nghệ sĩ đánh đàn tranh rất hay nhưng tiếng đàn yêu thương ấy cũng không đủ sức bồi lại sức sống cho anh, không đủ sức lập lại sự cân bằng trí não cho anh. Phạm Hầu đã điên, nhưng không phải cái điên thường, mà là điên vì đi tìm lý tưởng mà tìm không ra, rồi tắc nghẹn tâm tư, loạn cuồng trí tuệ. Phạm Hầu si tình thì được người yêu yêu lại thắm thiết. Nhưng Phạm Hầu si lý tưởng thì khổ cho anh. Anh đã bị cái chất điên nó ngấm vào anh năm này qua năm khác, còn hơn là bệnh ung thư gặm nhấm tế bào.
Nhớ thương Phạm Hầu, tôi đã tạc anh thành người “thanh niên điên vì lý tưởng” trong bài thơ sân khấu Người thợ ảnh (trong tập Bài thơ cuộc đời), xin trích ra đây đoạn thơ nói về anh:
Người điên (nói với bác thợ ảnh già):
Văn của anh Thiếu Sơn chưa thật mới, còn pha biền ngẫu nhiều, nhưng tôi đọc vẫn rung động vì lối văn nửa cổ nửa kim ấy vẫn chứa đựng được những cảm thụ tinh tế, sâu sắc của anh, có thể nói là cảm xúc rung động của mình trước những tác phẩm, hay trước những con người mà anh cảm mến. Hãy kể một ví dụ: kết thúc bài phê bình Huỳnh Thúc Kháng, anh viết: “Nhà chí sĩ cũng như khách đa tình bao giờ cũng có cái tâm lý thiên lệch: khách đa tình thì thiên lệch về tình, nhà chí sĩ thì thiên lệch về nước”. Lại một ví dụ khác: viết về Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), anh có đoạn: “Trong cõi lòng đó (cõi lòng nhân loại), từ thượng cổ đến nay, những sự bi thương oán cảm, những điều khoái lạc ham vui, không bao giờ là không có, mà cũng không bao giờ là không sanh. Thương ai mà ngậm ngùi? Nhớ ai mà thơ thẩn? Mất ai mà đau lòng? Cùng ai mà vui sướng? Ta không có văn tài mà tả diễn được ra, thì nhà thi sĩ chính là để giúp ta mà cho ta coi được tới cái cõi lòng của ta vậy...
Cuốn sách của anh Thiếu Sơn cũng chứa chan một tinh thần yêu trọng quốc văn, cùng một hoài bão xây dựng nền văn học, nền văn hoá dân tộc cho có bản sắc. Tất nhiên tôi không đồng ý hết những điều nhận xét của anh về nhân vật hay về tác phẩm được anh phân tích, nhưng cái điều tôi quí ở anh là tấm lòng đối với tiếng nước nhà. Sau này tôi muốn tìm gặp anh để nói chuyện văn thơ, nhưng không có dịp gặp vì anh làm sở bưu điện ở trong Nam. Mãi năm 1974, lúc anh ra Hà Nội dự Hội nghị MTTQ, anh em mới gặp nhau sau bao nhiêu năm biết nhau qua tác phẩm. Anh đề tặng tôi và anh Xuân Diệu quyển Phê bình và cảo luận mà tôi đã mua được ở một hiệu sách cũ.
Xuân Sanh và tôi gởi tập thơ cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng
Hè năm 1935, Xuân Sanh, tôi và bạn Nguyễn Xuân Tám cùng ở lại Huế như tôi đã kể ở một đoạn trên.
Xuân Sanh và tôi thấy đăng trên các báo có Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng xuất bản thơ và tiểu thuyết bèn nảy ra cái ý là gởi thơ cho nhà này. Hai anh em tập hợp được một tập thơ chung khoảng 50 bài, lấy nhan đề gì tôi cũng quên mất, chép rất cẩn thận và ra bưu điện gởi tập thơ theo lối bưu kiện bảo đảm. Kèm tập thơ chúng tôi có thư dặn nhà xuất bản là tiếp được tác phẩm của chúng tôi có định xuất bản hay không, thì cũng trả lời cho chúng tôi biết. Chúng tôi chờ cho đến hết hè cũng không thấy thư trả lời, rồi tựu trường vào vẫn mong ngóng chờ thư từ Hải Phòng gởi đến... Vậy là nhà xuất bản Mai Lĩnh không xuất bản tập thơ của hai chúng tôi, mà cũng không thèm trả lời. Nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi nản làm thơ. Sau này, nhà xuất bản Mai Lĩnh phải đóng cửa, vì thua lỗ, nhưng chắc chắn Xuân Sanh và tôi không chịu một chút nào trách nhiệm trong sự thua lỗ ấy. Biết đâu, nếu xuất bản tập thơ của chúng tôi thì nhà xuất bản còn có thể kéo dài tuổi thọ thêm vài tháng!... Có một người ở Hải Phòng, có biết nhà xuất bản này, về sau gặp tôi có cho tôi biết là quảng cáo thì trưng cái tên nhà xuất bản cho nó oai, chứ sự thực thì cũng chả in được bao nhiêu sách, và chủ yếu là ông chủ làm nghề khác, buôn bán hàng xuất khẩu là chính. Nhưng dạo ấy cũng có cái mốt là một số nhà buôn cứ muốn kiêm cái tên giám đốc nhà xuất bản này nọ...
Những tháng tôi thực tập kỹ sư ở đồn điền Canh nông
Cuối năm 1941, tôi được cử lên thực tập kỹ sư ở đồn điền thí nghiệm Canh nông Tuyên Quang (đồn điền của nhà nước) cùng với anh Hoàng Văn Đức, bạn cùng lớp với tôi ở trường cao đẳng nông lâm. Tôi đã xin làm việc ở sở nghiên cứu tằm tang trong Viện nghiên cứu nông lâm toàn Đông Dương, tại Hà Nội. Và do đó, trong năm học cuối cùng, tôi đi sâu vào môn học về sâu bọ, và chuyên khoa là nghiên cứu về tằm và ong. Yêu cầu của tôi được giám đốc nhà trường và Viện nghiên cứu nông lâm chấp nhận dễ dàng, là vì không ai trong lớp tôi và cả những lớp trước đâm đơn vào Viện nghiên cứu. Còn tôi, sở dĩ xin vào Sở nghiên cứu tầm tang, là cốt có một chân làm tịnh tại Hà Nội, để còn làm thơ, viết văn. Nói một cách khác là tôi chọn Hà Nội, chứ cũng chả phải chọn cái nghề mổ xẻ con tằm, soi kính hiển vi các bệnh gai của tằm, hay là ngồi hàng giờ bên tổ ong theo dõi con ong chúa đẻ trứng, và các con ong thợ tha phấn về tổ. Tuy vậy cái chuyên môn tằm tang và ong mật cũng phù hợp với cái thú thôn dã của tôi đã có từ bé. Trong lúc chờ đợi để nghiên cứu tại Sở ở Hà Nội, thì tôi phải thực tập ba tháng ở đồn điền, để biết công việc chung của một kỹ sư canh nông, từ trồng trọt cho đến chăn nuôi. Anh Đức thì sẽ về làm việc ở Sở canh nông Bắc Bộ. Anh đi sâu nghiên cứu môn trồng trọt các cây công nghiệp ở đồn điền: mía, cà phê, chè, trầu,... và anh cũng xem xét việc chăn nuôi bò, lợn, gà ở đồn điền. Tất nhiên tôi cũng theo dõi, tìm hiểu các môn trên, và được anh Đức giúp đỡ rất nhiều, gần như là phụ đạo cho tôi trong chuyến thực tập này. Đồn điền có một ông giám đốc và một anh phó giám đốc người Pháp. Tay giám đốc mà tôi quên mất tên thì suốt ngày uống rượu, và cứ chiều thứ năm, thứ bảy và chủ nhật là sang thị xã Tuyên Quang vào câu lạc bộ Tây để uống rượu và chơi bài. Bà vợ không đẹp lắm, nhưng cũng có duyên, và luôn luôn đi cặp kè chồng, cả những khi tay giám đốc đi thăm các vườn chè, vườn cà phê hay ruộng mía. Mỗi lúc tôi gặp lão giám đốc, thường là gặp ở bến đò đi sang thị xã, thì tôi nói chuyện với lão về văn thơ, nhất là văn thơ Pháp nhiều hơn là về trồng trọt chăn nuôi. Hai vợ chồng nghe tôi nói chuyện cũng tỏ ra thích thú, và hình như câu chuyện của tôi cũng gợi lại sự nhớ nhà nhớ nước của hai vợ chồng, gợi lại những kỷ niệm tuổi nhỏ của họ qua những liên tưởng mà câu chuyện văn thơ Pháp của tôi dẫn đến. Còn tay phó giám đốc, trẻ hơn, thì không biết gì về chuyên môn, đại khái anh ta như là một người cai đồn điền ở bên Pháp được cử về đây để “quản lý” công việc làm của công nhân đồn điền ở đây. Thế nhưng thỉnh thoảng anh ta cũng tỏ ra có lắm chuyên môn, cũng có nhận xét này nọ trước các vườn thí nghiệm, bằng cách học lỏm các thầy tham biện canh nông ở đồn điền như ông Tri, ông Điền... Nhưng anh ta làm ra điều có hiểu biết thế thôi để ra oai với đám công nhân, chứ không dám lên mặt với chúng tôi, nhất là với các ông ở lâu năm trong đồn điền như ông Tri, ông Điền, ông Tuy.
Anh phó giám đốc này tên là Mulra, có một cô vợ trẻ và khá đẹp Mụ vợ này chiều thứ bảy nào cũng đi về Hà Nội, và chiều tối chủ nhật mới trở về đồn điền. Thỉnh thoảng lắm tay phó giám đốc Mulra mới cùng vợ đi về Hà Nội. Người ta kể nhiều chuyện lắm xung quanh những chuyến đi thăm Hà Nội mỗi cuối tuần của bà phó giám đốc, hình như tay Mulra cũng đoán biết đường đi lối về của vợ, nhưng cũng lờ đi, và chấp nhận những sự bất thường trong cuộc sống, miễn là nó không xáo động quá mức cuộc sống yên phận của anh... Những nhân vật có bản lĩnh độc đáo, có cá tính hay ở đồn điền lại là những ông tham biện canh nông mà tôi đã kể tên ở trên. Ông Điền là một nhà chuyên môn giỏi, đặc biệt giỏi về sự lai giống của cây cà phê, và trong các cách lai giống thì ông là bậc thầy trong việc ghép giống “gteffage”. Có thể nói ông ghép một trăm cành thì sống một trăm phần trăm.
Anh Đức và tôi học được ở ông nhiều lắm. Khi nào ông nói đến lão giám đốc và phó giám đốc đồn điền, thì có khi ông văng tục, vì ông cho họ dốt, nhưng vì có quyền cho nên làm oai. Nhưng điều mà tôi nhớ người về ông Điền là mối tình dai dẳng của ông với chị T. Chị T. là một công nhân làm ở đồn điền đã lâu năm, có nhan sắc tính tình rất thuỳ mị. Ở hoàn cảnh khác có thể chị đã có một cuộc đời nếu không lộng lẫy thì cũng êm đẹp. Nhưng vì hoàn cảnh nghèo, và vì nhiều sự không may khác nữa chị phải buộc chân vào cái nghề làm cỏ, hái cà phê, bón phân các đồi chè, ruộng mía. Trong sự buộc chân chị lại đồn điền cũng có phần trách nhiệm của ông Điền, vì mối tình của ông đối với chị đằm thắm, bền chặt, nhưng sự bền chặt này cũng là một sự khống chế. Các chị em công nhân đều thông cảm với chị T., và thường tránh đi để cho chị T. và ông Điền được thoải mái tâm sự trong các vườn thí nghiệm, hoặc ở trong kho phân phát các thứ phân hoá học... Lúc anh Đức và tôi thực tập ở đó, chị T. đã hơi đứng tuổi, nhưng còn đẹp, và dáng đi của chị có một vẻ gì âm thầm, gần như ngượng ngùng; và chị rất ít nói, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười, mà sao cái mỉm cười của chị nó buồn và héo thế! Chị T. không có con, sống cuộc đời âm thầm, “bên cạnh” ông Điền, chắc là an phận trong sự héo mòn. Ở đồn điền Tuyên Quang rất nhiều nắng, rất nhiều gió nhất là những ngày cuối năm, hoặc đầu xuân, nhưng tâm tình của chị T. thì gợi lên trong tâm trí tôi một buổi chiều mù sương se lạnh...
Ông Tri cũng là một nhà chuyên môn giỏi của đồn điền, nhưng tính tình ông chất phác, không tài ba như ông Điền. Suốt ngày ông chỉ chăm lo làm việc trong các vườn thí nghiệm, tham gia mọi công việc trồng trọt hay chăn nuôi với công nhân, không nề hà chân lấm tay bùn... Ngày chủ nhật thì ông cặm cụi làm việc gia đình cùng vợ con, ít khi đi chơi, ngay thị xã trước mặt đồn điền ông cũng ít sang.
Còn ông Tuy là một chuyên gia về cơ khí của đồn điền, các máy móc của đồn điền hư hỏng đều qua tay ông chữa, kể cả hệ thống điện nước. Mắt ông hơi kèm nhèm, nhưng vẫn rất tinh để xem xét và điều chỉnh các chi tiết trong các ổ máy. Anh Đức và tôi được phân công ở một cái phòng bên cạnh mấy gian gia đình ông ở nên rất rõ tính nết của ông. Ông cũng chăm làm, và được giám đốc và phó giám đốc đồn điền rất nể. Bà Tuy buôn bán ở bên chợ Tuyên Quang, và thu hoạch cũng khá, nên gia đình ông bà sống khá sung túc, nuôi một cô con gái và cậu con trai ăn học đến nơi đến chốn. Không may cho các gia đình, bom Mỹ thả xuống hồi Mỹ Nhật đánh nhau đã sát hại cả ông bà. Trong kháng chiến chống Pháp tôi có gặp lại cô con gái và cô kể lại thảm hoạ xảy đến với gia đình cô; cô và người em giai phải tự lập, và đã can đảm xây dựng cuộc sống rất có phẩm chất trong kháng chiến.
Một ông bạn nữa ở đồn điền là ông Q. Ông này không giỏi chuyên môn lắm nặng về việc hành chính, nhưng có được học ít nhiều ở cấp thành chung nên sự giao dịch của ông cũng gây được cảm tình với mọi người, kể cả với lão giám đốc và tay phó giám đốc. Chỉ có một cái tội là ông nghiện thuốc phiện và làm khổ vợ con về cái nghiện ngập của ông. Nhiều lần ông định bỏ hút, nhưng rồi tính nào lại tật ấy cơn nghiện lên nó vật vã ông, ông như người sắp chết, thì bà vợ lại tất tưởi đi tìm xái về cho chồng ngậm cho đỡ cơn...
Kỷ niệm tốt đẹp nhất mà các nhân vật ở đồn điền để lại cho chúng tôi là ông giáo Tr. Ông Tr. là một vị giáo học có trình độ văn hoá, được bổ nhiệm về đồn điền để dạy văn hoá cho học sinh trường trung cấp canh nông đặt tại đồn điền. Ông rất nho nhã, và ham đọc sách báo. Chính anh Đức và tôi đã đến nhà ông để mượn các số tạp chí Nam phong và một số sách quốc văn khác để đọc trong những tháng chúng tôi ở đó... Những tháng anh Đức và tôi thực tập ở đồn điền canh nông, là những tháng đẹp trong đời sinh viên. Ngoài việc nghiên cứu tại ruộng và vườn thí nghiệm, chúng tôi còn giao du với nhiều bạn quanh vùng, với các thầy giáo, với các thầy ở bên cái mỏ than nhỏ gần thị xã nữa. Riêng tôi những ngày chủ nhật, hay đi chơi những cảnh đẹp gần đó, như có lần tôi đã ở suối Yên Lĩnh suốt một ngày, anh Đức sợ tôi lạc đi đâu phải mang súng săn đi tìm. Nhưng chính ở suối Yên Lĩnh tôi đã có dịp viết mấy câu thơ tình: “Trưa nay suối biết nỗi niềm - Vui này đã nguyện đến tìm nước đưa - Lòng vui lừng suối ban trưa - Nghìn năm rồi lại mơ hồ chiêm bao... Đã 45 năm qua từ buổi trưa Yên Lĩnh ấy. “Nghìn năm rồi lại mơ hồ chiêm bao!”...
Xuân Diệu với hai nữ thi sĩ Amrita Pritam và Blaga Dimitrova
Anh Xuân Diệu thường nói đùa: “Không biết tôi sinh dưới dấu hiệu của ngôi sao nào, mà thường tôi được sự che chở của phụ nữ. Đó cũng là lời đoán bói bài của anh Nguyễn Xuân Khoát cho tôi năm 1939”.
Quả thế, trong đời Xuân Diệu đã gặp rất nhiều phụ nữ tốt bụng giúp đỡ anh một cách tận tình, mà cũng có thể nói là đã che chở anh, che chở cái vận mệnh của anh trên đường đời. Có những trường hợp không phải là che chở, cũng không phải là giúp đỡ, mà là một mối tình cảm bền chặt qua bao nhiêu năm tháng nó cũng là một nỗi an ủi lớn cho tấm lòng dễ cảm thấy cô đơn của anh.
Năm 1956 anh đi họp Ban chấp hành Hội nhà văn Á Phi (cùng đi với Nguyễn Công Hoan), tại Niu Đê li, Ấn Độ. Sau cuộc họp anh còn đi tham quan một số nơi, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước Ấn Độ mấy nghìn năm văn hiến. Trong chuyến đi này anh đã gặp và làm quen với nữ thi sĩ Ấn Độ Amrita Pritam, một nữ thi sĩ khá nổi tiếng. Hai người trao đổi câu chuyện thơ văn, và sau đó dịch thơ của nhau in trên báo mỗi nước. Bà Amrita Pritam có lẽ cũng trạc tuổi anh Xuân Diệu (tôi đoán thế vì còn giữ bức ảnh hai người chụp tại Hội nghị) có một cảm tình nồng thắm với nhà thơ Việt Nam, và bà rất thích mấy bài thơ của anh Diệu trao tay cho bà (Bản dịch ra tiếng Anh): Xuân không mùa, Lời kỹ nữ, Chỉ ở lòng ta, Thơ duyên... Bà Pritam đã sửa sang lại chút ít bản dịch mà anh Diệu đưa và đã cho đăng mấy bài thơ ấy ở trên báo Văn học Ấn Độ. Sau đó bà thỉnh thoảng gửi thư cho anh Diệu, và có dịp ai sang Việt Nam là bà gửi các tập thơ của bà tặng người bạn thơ Việt Nam. Mối duyên văn tự ấy kéo dài cho đến ngày anh Diệu mất. Tôi không biết bà Pritam có nhận kịp thời cái tin người bạn thơ Việt Nam từ trần không. Tôi đang định sẽ nhờ Sứ quán ta tìm địa chỉ muộn. Đây là một mối duyên thơ đẹp nồng thắm giữa hai nhà thơ trữ tình bên bờ Ấn Độ Dương nước trong xanh và sâu thẳm.
Nữ thi sĩ Blaga Dimitrova
Là người Bungari, đã đến Việt Nam những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965 nếu tôi không nhớ nhầm). Chị sinh năm 1923, lúc sang Việt Nam chị đang ở cái tuổi thanh niên thứ hai của chị, còn giữ cái đẹp lộng lẫy của tuổi thứ nhất.
Gặp chị lần đầu chúng tôi cứ ngỡ là chị mới ngoài ba mươi. Nhưng cái đẹp Blaga là một cái đẹp có thể nói là một cái đẹp lắng đọng mặc dầu lộng lẫy, vẫn có nhiều nét thuỳ mị bên cạnh những làn sắc sảo, cái đẹp vừa của phương Bắc, vừa của phương Nam, có chút gì như pha mầu Tiểu Á. Bởi vì chị đẹp nên tôi không thể không nhắc đến điều đó, nếu tôi làm lơ không giới thiệu chân dung hình thể của chị thì cảm thấy như thiếu lễ độ với một giai nhân. Nhưng điều làm chúng tôi ngay phút đầu cảm mến sâu sắc người bạn thơ của xứ “hoa hồng” là tình cảm sâu xoáy của chị đối với Việt Nam, đối với cuộc chiến đấu anh dũng và đầy hy sinh của nhân dân ta. Trong cuộc tiếp xúc chị không nói nhiều, chị đặt những câu hỏi để nghe những câu trả lời của chúng tôi, của những người chị gặp dọc đường, của những bộ đội, dân quân chị gặp trên đường hay trong địa đạo. Blaga cũng như Monica Varnenska, đã sống hết lòng mình cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, hai chị cũng đau xót tận đáy lòng mình những hy sinh mà các chị đã chứng kiến. Có thể nói thật sự các chị đã vận vào mình cái số mệnh đau thương và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Hai chị và Sara Lidman (nữ sĩ Thuỵ Điển) tự nhiên đã có một cảm tường gần giống hệt nhau về những ngày sống ở Việt Nam. Các chị nói: “Ở đây tôi ngủ giấc ngủ dưới một bầu trời đầy bom đạn, một giấc ngủ thật sự là dưới bom đạn. Nhưng chưa bao giờ tôi lại thấy yên với lòng mình đến thế, yên với lương tâm đến thế. Đây thật là mảnh đất của lương tâm loài người”.
Riêng Blaga Dimitrova đã viết hơn 100 bài thơ ca ngợi cuộc chiến đấu đầy hy sinh và anh dũng của nhân dân Việt Nam. Tập thơ này anh Xuân Diệu đã dịch ra tiếng Việt và xuất bản với nhan đề Vây giữa tình yêu. Tôi xin nhắc ra đây vài ý thơ trong tập thơ nặng tình nghĩa ấy:
Người đàn bà mang thai: Chị nông dân ơi, chị đang đi trên đường đê kia, cái bụng to tròn đi trước chị. Việt Nam ơi, người sắp sinh thành một thế giới mới nào đây!...
Chiếc đàn bầu: đàn bầu một dây, dây đàn căng căng mãi, căng đến lúc gần như sắp đứt. Và trên dây căng thẳng ấy dội lên những âm thanh thiết tha huyền diệu. Việt Nam ơi, trên dây đàn của Việt Nam đang nổi lên những giai điệu thiết tha tân kỳ, huyền diệu làm giàu cho giai điệu của loài người.
Hương biệt ly: ở thị xã Phủ Lý, trong bóng tối đầu hôm, anh chị nhìn nhau, không nói một lời. Chị hít thở mái tóc của anh, hít tận sâu đáy phổi cái mùi hương tóc đẫm mồ hôi và bụi đường. Hít thật sâu để rồi mai đây xa nhau chị thở cái hương biệt ly ấy để mà sống, để mà chờ cho đến ngày gặp lại...
Anh Xuân Diệu và tôi đã hết sức xúc động khi được đọc những bản thảo đầu các bài thơ mà chị dịch cho chúng tôi nghe qua tiếng Pháp. Có cái gì đau xé xoét đắng trong giọng thơ của chị, mà chan chứa lòng tin tường, cháy bỏng lửa căm thù. Cứ ngày ngày, chị tâm sự với Xuân Diệu về những nỗi đau của chị, về những phấn chấn của chị và thế là hai người bạn thơ như cùng nhau sáng tạo lại những bài thơ đầy tâm huyết kia ra tiếng Việt.
Có hôm chúng tôi đang ngồi nói chuyện với nhau ở khách sạn Thống Nhất (Hà Nội), thì máy bay Mỹ ập tới và ba chúng tôi chạy gấp xuống hầm. Chị Blaga hồi hộp, nhưng không chút sợ hãi nói với chúng tôi:
“Chắc chắn là không chết, nhưng nếu có sập hầm mà cùng nhau chết trong niềm tin thì cũng là sống mãi....
Tất nhiên là chúng tôi đã không chết, và tối hôm đó Blaga đã viết một trang nhật ký dài. Nhớ lại những ngày kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sống với đồng bào, sống
  • Tập 1-Q
  • Tập 2
  • Tập 2-B
  • Tập 2- C
  • Tập 2- D
  • Tập 2- E
  • Tập 2- F
  • Tập 2- G
  • Tập 2-H
  • Tập 2- I
  • Tập 2- J
  • Tập 2-K
  • Tập 2- L
  • Tập 2- M
  • Tập 2 - N
  • Tập 2-O
  • Tập 2-P
  • Tập 2- Q
  • Tập 2- R
  • Tập 2- S
  • BÌNH LUẬN
  • Bình luận 2
  • Bình Luận 3
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!7898_28.htm!!!của các nước là hiện thực, là rút từ trong đời chứ không phải là một ước lệ của các thầy tuồng. Sống với những người bình thường, có trí não lành mạnh tôi hiểu được nhiều về cuộc đời, nhưng tiếp xúc với những người điên, người si, dường như tôi được hiểu bổ sung về cuộc đời, về sự sống, vì đây là một thứ toán ảo giác, làm bằng những ảo số.
    Một năm làm gia sư cho tôi được hiểu nhiều về tính cách của nhiều con người, của ông bác sĩ quá thực tế, cứ muốn dạy con sống theo các nhân vật của Marcel Pagnol, những nhân vật rất “thực dụng chủ nghĩa”, cố vụ lợi vật chất, xem đời sống tinh thần, văn hoá là một thứ xa xỉ thậm chí là không tường... Được biết tính tình bà chủ nhà thương con, lo sắm đủ thứ cho con, nhưng không dám tiêu pha gì cho mình, và chắt bóp từng xu đối với bà con thân thích. Hai vợ chồng sống rất tương đắc trong cách quản lý gia đình, trong cách đối xử với họ hàng nhưng dường như đời sống nội tâm của họ có một khoảng trống, đó là điều tôi đoán hiểu nhưng cũng được xác định qua câu chuyện của bà chị thất tình và của cô em gái... Còn tâm lý của ba đứa học sinh của tôi thì chưa có gì đáng nói, mà tôi cũng không thèm để ý. À, mà cũng đáng nhắc điều này: cái cậu con trai học dốt cứ cười tôi là thầy quá mơ mộng quá ảo tưởng... “cuộc đời nó không đẹp như thầy tưởng đâu? Cuộc đời nó như trong các vở kịch của Pagnol ấy!”. Ông bố đã đúc cậu con theo cái khuôn của ông không sai một ly. Có điều nói thế thì nói, chứ trò vẫn trọng thầy và nể thầy. Xã hội vẫn còn cho phép có những người mơ mộng, có những người không tưởng cậu học trò quá thực dụng của tôi cũng dần dần hiểu ra điều đó.
    Sau này, trong thời gian chống Mỹ cứu nước, tôi có hỏi thăm tin tức về gia đình ông B. D. thì được biết hai cậu con học trường Tây Hà Nội đã làm công chức cho chế độ Mỹ nguỵ, nhưng cũng không phạm tội ác gì. Còn cậu học trò dốt thì nghe đâu đi buôn cốt kiếm tiền, không tham gia hoạt động chính trị, đúng với tính cách của anh hồi nhỏ.

    Truyện HỒI KÝ SONG ĐÔI ---~~~cungtacgia~~~---
    --!!tach_noi_dung!!--

    Đánh máy: Nguyễn Học
    Nguồn: Nguyễn Học
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 9 tháng 7 năm 2006

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--