Dịch giả: Bố giang
Chương 10

Chưa kịp cạo râu, tôi mặc một cái áo ấm bên trong và khoác chiếc áo choàng len bên ngoài để có thể chịu đựng được không khí buổi sáng giá lạnh của Cobh. Trước khi rời khỏi phòng, tôi đứng uống cạn tách trà, lấy chiếc áo ngủ tôi đã vắt lên thành ghế và định treo vào trong tủ kiếng. Tôi thọc tay vào túi tìm bức điện tín tôi đã cất trong đó.
Nó đã rơi đâu mất. Tôi tìm trên sàn dưới ghế. Tôi tìm khắp mọi nơi trong phòng, nhưng không thấy ở đâu cả. Tôi nhớ rõ đã nhét nó vào trong túi. Tôi không nhớ sau đó tôi có lấy ra, nhưng tôi vẫn xem lại trong hộp đựng máy đánh chữ để chắc chắn tôi không cất nó cùng với các thứ giấy tờ khác trong cái đáy giả. Tất cả đều còn đủ ngoại trừ bức điện tín. Tôi đi lên boong hóng mát với một đầu óc đen kịt. Monique đã rời khỏi phòng hồi trời mới chớm sáng lúc tôi đang ngủ. Tôi cố nhớ lại những giây phút cuối cùng trong tình trạng mơ màng, nhớ lại chiếc hôn từ giã luyến tiếc của nàng và tiếng xột soạt êm dịu của chiếc áo lụa trong lúc nàng mặc vào người. Rồi hết. Tôi đã ngủ thiếp trước khi nàng ra tới cửa.
hải cảng Cobh sáng chói lên trong nắng sớm, ánh sáng lấp lánh trên những gợn sóng lăn tăn trên mặt nước, không khí xao động với hàng trăm con Hải âu vừa bay tròn vừa phóng xuống chung quanh chiếc tàu đang chạy một cách gan dạ sát cầu nổi, những ngọn đồi xanh của Ái-nhĩ-lan dù ở giữa mùa đông mà vẫn rất tươi tốt, những ngôi nhà bé nhỏ đứng sừng sững trên mũi đất. Khu vực của hải-cảng Cobh trải dài khắp vịnh dưới một bè mây nặng trĩu. Trong lúc tôi đang nhìn ngắm, một cơn gió chợt xé rách một lỗ trên nền mây xám và ánh nắng theo đó tuôn xuống đô thị trông giống hệt một mũi lao từ trên trời phóng xuống.
Ngay về phía dưới chỗ tôi đứng, chiếc xà-lan đã cặp sát tàu và các hành khách xuống bến Cobh đang thận trọng tìm đường bước xuống cầu phao dựng lên từ một boong hàng hóa về phía dưới xa. Một số người đã chen chúc nhau trên boong sau của chiếc xà-lan, đứng run rẩy trong ngọn gió lạnh buốt trong lúc họ nhìn hành lý của họ đang được đưa lên boong trước. Một trong số hành khách này là Van Layden với mái tóc vàng tro che dưới chiếc mũ đen.
Van Layden chợt nhìn lên boong hóng mát phía lái tàu và vẫy tay với một người. Tôi nghiêng mình ra ngoài xa khỏi chiếc cột mà tôi đang đứng bên cạnh và nhìn theo hướng mắt của ông ta. Anson cũng đang nghiêng mình ra khỏi một chiếc cột cách xa tôi chừng mười lăm thước.
Van Layden khum hai bàn tay đặt lên miệng và hét lớn mấy tiếng với Anson. Một ngọn gió bất thần đánh bạt tiếng nói về phía mũi đất. Tôi chỉ nghe được một vài tiếng:
- Khách sạn Lace! Berkeley?
Nhưng tôi có thể nghe Anson trả lời một cách rõ ràng bởi vì tôi đang đứng khá gần ông ta và ở về phía dưới gió:
- Phải! Thứ Hai!
Cái gì Thứ Hai? Hôm nay là ngày cuối cùng của Tháng Hai. Mấy tiếng đó nghe tựa hồ tóm tắt những chỉ thị về một cuộc hội họp. Khách sạn Lace. Tôi biết chỉ có một nơi thích hợp với lời nói của Van Layden: Khách sạn Lovelace ở đường Berkeley tại Luân Đôn.
Khi chiếc xà lan đã nhỏ dần ở cuối đoạn đường đến Cobh và chiếc Victoria đã nhổ neo, bắt đầu quay mũi về phía hải khẩu, tôi gõ ống điếu vào cái gạt tàn thuốc bằng sắt ở bên cạnh tôi và đi xuống để cạo râu. Vừa lướt lưỡi dao cạo trên mặt, tôi vừa nghĩ đã tới lúc vạch mặt nhân viên của Dillingham trên tàu. Theo tôi được biết thì hiện giờ tôi không gặp một chuyện rắc rối nào nhưng Đảng của Anson - tức Đảng Oui-Dire, bây giờ tôi đã rõ - đang bắt đầu ly tán, và tôi không thể nào một mình theo dõi hết bọn họ. Tôi cũng nhớ rằng người của Dillingham đang ở trên tàu để biết chắc Ted không thể đi tới bất cứ một nơi đâu. Tôi không có cách gì biết được nhân viên đó sẽ dùng những phương tiện nào. Nhưng tôi muốn anh ta xuất hiện rõ để cho ít nhất tôi có thể nhìn thấy anh ta.
Tiềm thức của tôi chắc hẳn đã nhìn nhận trước khi tôi biết rõ rằng Ted chưa chết, rằng Dillingham có lý, và Ted đang muốn đi đến một nơi nào đó mà không được. Điều này không có vẻ mới lạ đối với tôi trong khi tôi vừa cạo râu trước gương vừa suy xét lại, cố gạt bỏ tính ương ngạnh thường lệ. Tôi không phải là một kẻ có nhiều tình cảm, và tôi tin mình có thể kiềm chế những xúc động, nhưng nghĩ đến điều này tôi vẫn cảm thấy cổ họng nghẹn ngào, hơn cả khi tôi nghĩ rằng Ted đã chết.
Trước khi tôi mặc một cái sơ-mi và áo choàng, tôi lục trong hộp đựng khuy áo và lấy tấm Hải Quân Bội Tinh mà Dillingham đã đưa cho tôi để dùng làm dấu hiệu. Tôi gắn vào lỗ nút của chiếc áo choàng và sửa lại cho ngay ngắn. Màu kim lọai lóng lánh nổi bật trên lớp vải sậm. Nhưng gan dạ tôi không vững như thế.
Martin Allen vừa ăn điểm tâm xong thì tôi ngồi xuống. Ông ta hỏi tôi:
- Ông vừa lên xem Queenstown?
Tôi đáp:
- Vâng. Tôi thích ngắm Hải âu bay.
- Hôm nay cũng là một ngày tốt cho lũ vịt trời, nếu ông muốn ngắm loài này. Nhưng tôi không biết hiện giờ có phải là mùa vịt hay không.
Ông ta mỉm cười với tôi và bỏ đi. Lúc bước qua cửa phòng ăn, ông ta dừng lại để nói chuyện với MacInnes. Tôi sững sờ đến nỗi không nghe MacInnes nói với tôi trong khi ông ta ngồi xuống bàn.
- Dunbar, tôi vừa chào ông, ông không nghe hay sao?
- Xin chào ông. Tôi xin lỗi vì đang suy nghĩ vẩn vơ.
- Tôi cũng nhận thấy thế. Ông đã lên xem Ái-nhĩ-lan?
- Vâng, đó là một xứ sở tuyệt đẹp. Tôi không hiểu vì sao người Ái-nhĩ-lan đã rời bỏ miền này.
- Theo ý tôi, chắc cũng chỉ vì vấn đề cơm áo. Chào ông Mackintosh, sáng hôm nay có gì đặc biệt không?
Nói đoạn ông ta gọi thức điểm tâm trong lúc tôi ngỡ ngàng ngồi im. Martin Allen là người cuối cùng trên tàu mà tôi có thể nghi ngờ. Tôi đang mất xúc giác, mất cả khả năng phỏng đoán.
Tôi đến gặp Allen trong phòng ông ta, trong lúc ông ta đứng ở khung cửa sổ và chăm chú nhìn quang cảnh cuối cùng của Ái-nhĩ-lan đang biến dạng vào chân trời. Ông ta quay người lại khi tôi lặng lẽ mở cánh cửa không khóa.
- Chào ông Dunbar. Vụ săn vịt trời của ông ra sao?
- Lúc này đâu phải mùa vịt. Ngay ở Ái-nhĩ-lan.
- Chắc tôi đã làm cho ông ngạc nhiên nhiều lắm thì phải?
Tôi đáp:
- Phải.
- Kỳ lạ. Có nhiều lúc tôi tin chắc ông đã nhận ra tôi. Nhất là khi ông nói chuyện về cô De Ménard.
- Thì ra chính ông đã cố lẻn vào phòng của cô ấy.
Ông ta bảo:
- Mời ông ngồi. Không, tôi đã nói thật với ông về vụ đó. Theo tôi nghĩ, có lẽ là Anson, mặc dầu chuyện này khiến tôi hơi bối rối. Tôi đã cố tìm cách vào phòng anh cô ấy mà không được. Chứ không phải phòng cô ấy.
- Tôi có thể cho ông hay em tôi không ở trong phòng của Ménard. Tôi đã đích thân vào trong đó. Thật ra, tôi không tin em tôi có mặt trên tàu.
- Ông có muốn cá với tôi em ông ở trong phòng của cô De Ménard?
Lần này cơn giận của tôi bất thần bùng nổ. Tôi phải cố gắng lắm mới xòe được bàn tay ra và ngừng nghiến răng.
- Vô lý.
Nhưng vừa nói xong hai tiếng đó, tôi chợt nhớ lại cử chỉ kỳ lạ của Monique những khi nàng ra vào buồng ngủ mà không chịu mở rộng cửa trong lúc tôi ngồi trong phòng khách của nàng. Và tôi cũng nhớ lại lời từ chối đầy lo âu của nàng lúc nàng không chịu để cho tôi lục soát phòng nàng giữa đêm khuya.
Tuy vậy, tôi vẫn cố nói:
- Vô lý. Nếu thế thì cô bồi phòng đã trông thấy.
- Làm sao ông biết được cô ta không trông thấy? Chỉ cần một món tiền thưởng đặc biệt là thu xếp ổn thỏa. Dù thế nào đi nữa, mong ông vui lòng giúp tôi một dịp lục soát phòng cô ấy đêm nay. Ông hãy tìm cách làm cho cô ấy bận rộn sau bữa cơm tối. Ông có thể đưa cô ấy đi khiêu vũ hoặc đi dạo mát trên boong. Trong lúc đó tôi sẽ lẻn vào phòng và cố tìm xem.
- Làm sao ông vào được?
Ông ta lấy xâu chìa khóa trong túi ra và đưa cho tôi xem một chiếc.
- Tôi có dụng cụ đặc biệt này để mở bất cứ ổ khóa nào.
- Ông không nghĩ rằng nếu có em tôi trong đó, bọn họ sẽ cho người canh chừng cẩn mật?
- Đâu cần. Ông ấy chắc đã bị tiêm thuốc mê - tôi dám cá như thế. Dù sao, tôi cũng phải chịu liều một phen. Trong nghề của tôi, tôi vẫn thường phải tùy cơ ứng biến.
Ông ta nói bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng không có vẻ vui.
Khó mà giải thích được cơn giận đang ngấm ngầm sôi trong lòng tôi hay đây là một mặc cảm phản bội. Ông ta chỉ nói lên những điều mà tôi ngần ngại không muốn nói với chính mình, hoặc với cõi tiềm thức luôn luôn hướng dẫn cho lề lối làm việc trong tâm trí của tôi. Nhưng tôi vẫn cảm thấy không thích nghe những lời đó.
Tôi bảo:
- Được rồi. Tôi sẽ làm theo lời ông. Ông hãy đến phòng tôi sau khi xong việc và kể lại cho tôi nghe.
Suốt ngày hôm ấy tôi không gặp Monique. Nàng không xuống ăn trưa cũng như ăn tối. Sau bữa ăn tối, tôi lên phòng nàng và gõ cửa. Tôi nghe ngay tiếng nàng hỏi ở sát cánh cửa:
- Ai đó?
Tôi đáp:
- Ein Freund (1). Stuart.
Nàng chỉ mở cửa một chút xíu. Nàng đang mặc một chiếc áo lụa đen, tóc buộc lại ở phía sau bằng một dây băng màu xanh thẫm như lần đầu tiên tôi đã trông thấy nàng đêm nàng đến phòng tôi. Trái tim của tôi đập thình thịch trong lồng ngực.
Nàng chào tôi với một nụ cười thoáng qua:
- À, Stuart.
- Suốt ngày hôm nay anh không trông thấy em. Anh lo ngại không biết có phải em bị bệnh.
- Em bị nhức đầu ác liệt, nên phải nằm miết trong phòng.
Tôi liền đề nghị:
- Em cố lên khiêu vũ và uống một ly với anh rồi hãy đi ngủ. Chắc chắn em sẽ cảm thấy khỏe hơn.
Nàng do dự một lát mới nhận lời:
- Được rồi. Nhưng đi chơi với em tối nay, e anh sẽ không vui đâu. Anh cho em mười phút để em thay áo quần. Em sẽ gặp anh trên phòng khiêu vũ.
Tôi có cảm tưởng như một kẻ phản bội. Nhưng tôi cần phải biết.
Chúng tôi cùng khiêu vũ trong một tiếng đồng hồ và kết thúc buổi tối bên nhau bằng một cuộc dạo bộ trên boong hóng mát. Monique có vẻ nghiêm trang và gần như im lặng suốt thời gian ở bên tôi. Tôi có cảm giác tựa hồ vừa nuốt một khối chì và lúc này nó đang nằm trì xuống trong đáy bụng của tôi. Ngay cả cảm giác êm dịu của bàn tay tôi đang đặt trên lưng nàng và thân hình đàn bà đầy quyến rũ của nàng trong vòng tay của tôi, vẫn không khiến cho tâm trí tôi nhẹ nhàng khoan khoái được.
Tôi có cái cảm tưởng thường gây ra do những vụ kết thúc. Frost (2) đã nói:
Ah, when to the heart of man,
Seemed it ever less than a treason,
To bow to accept the end
Of a love or a season.
(Ôi, trái tim người chỉ bấy nhiêu,
Dù chưa mưu phản, dối gian nhiều.
Cũng đành chấp nhận cho phần cuối
Của cuộc tình hay một thoáng yêu.
Đan Chinh phỏng dịch)
Đó là tất cả cảm nghĩ của tôi. Tôi không thể giải thích rõ vì sao tôi có ý tưởng đã tới lúc phải chấm dứt. Nhưng cảm nghĩ vẫn đến, đau buồn và không che đậy.
Đang bước đi trên boong hóng mát, chúng tôi cùng dừng lại ở một khung cửa mở đểt lúc thật lâu sau tôi mới trông thấy cái hình do Martin Allen vẽ một cách vụng về trên mặt gỗ màu vàng của chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Trong phút chốc, tôi quên hết nỗi phiền muộn. Cái hình được vẽ bằng chính máu của ông ta, gồm một hình chữ nhật với hai hình chữ nhật nhỏ hơn nằm bên trong, đối xứng nhau qua đường chéo và góc dính vào nhau. Dần dần tôi mới hiểu được ý nghĩa của nó: một trong những mẫu cờ dùng làm ám hiệu cho các lọai tàu bè, có ngụ ý: " Bạn đang đứng giữa vùng nguy hiểm". Tôi dí một ngón tay lên đó và nhận thấy máu đã bắt đầu đông đặc và đen bầm. Nhưng Allen đã để lại cho tôi một bức thông điệp.
Họa chăng chỉ có Chúa mới hiểu được tôi cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cái chết của Allen trong suốt mười lăm phút ngồi xuống bên cạnh xác của ông ta, nhìn nó lạnh dần. Nhất định bọn chúng đã bắt được ông ta và giam giữ kín ở một nơi nào đó cho tới lúc giết ông ta và bỏ xác trong phòng tôi. Nhưng tôi phải thoát ra khỏi cảnh ngộ này, và tôi bắt đầu nghĩ đến vần đề của chính mình.
Tôi khó lòng mang xác Allen trở về phòng ông ta qua dãy hành lang chật hẹp trên tàu. Còn để lại đây, chắc chắn người ta sẽ phát giác trước khi tôi kịp qua khỏi phòng kiểm nhận thông hành ở Southampton. Trừ phi tôi có thể giấu kỹ ông ta.
Tôi chỉ nghĩ ra được mỗi một chỗ, và ngay cả chỗ này cũng rất nguy hiểm. Không biết bao lâu sau thì người ta lau chùi căn phòng này? Có lẽ không trước cuộc lau chùi toàn diện chiếc tàu để chuẩn bị chạy trở qua Đại-tây-dương. Ít nhất tôi cũng thừa sức lừa phỉnh được Err. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Tôi phải duy trì tự do để dễ dàng hành động. Thật là may mắn vì tôi đã bảo Err đừng mang trà cho tôi trong buổi sáng cuối cùng này.
Cố quên chiếc đầu nhức nhối và mùi vị đắng chát trong cổ họng vì buồn nôn, tôi xoắn mấy ngón tay vào phía sau cổ áo của Allen và kéo lê ông ta cùng tấm thảm nhỏ mà ông ta đang nằm lên băng ngang sàn tới cửa buồng tắm. Tôi không dám nâng ông ta lên cao vì sợ làm tràn vũng máu còn chưa thấm qua lớp thảm. Ông ta nặng một cách không ngờ. Chiếc đầu võ sĩ của ông ta lắc lư yếu xịu. Tôi suýt nôn mửa mấy lần trong lúc kéo ông ta tới cửa và vật lộn với ông ta cùng tấm thảm để đưa tất cả lên bậc cửa cao hơn nền phòng rồi sau đó lên cạnh bồn tắm lại còn cao hơn nữa. Cuối cùng tôi phải rút lưỡi dao ra để cho khỏi bị vướng lúc lăn ông ta vào bồn. Tôi ngạc nhiên thấy chỉ có một chút máu chảy khi tôi rút dao ra.
Tới đây thì tôi không sao nín thêm được nữa. Tôi quay lại bồn rửa mặt và nôn tháo suốt một phút. Nhưng lẽ tất nhiên trong ruột tôi không có gì nhiều. Ngay cả bữa điểm tâm tôi còn chưa ăn. Yếu đuối và run rẩy, tôi lấy tấm màn cuốn quanh xác Allen và nhét vào hai bên bồn tắm.
Sau khi đã cạo râu qua loa rồi, tôi mới chợt trông thấy phong thư lớn nằm trên mặt gối của giường tôi, với dấu hiệu riêng của bến tàu Cunard ở trên góc. Bức thư đề tên tôi, "Stuart", với nét chữ ngay ngắn của Monique.
Tôi nhìn chăm chú một hồi lâu mới mở ra. Đoạn tôi đem thư tới bàn, nặng nề ngồi xuống, và bắt đầu đọc:
Stuart, Stuart yêu quý:
Ai oán: em phải thay đổi tất cả chương trình. Im lặng, sáng nay em phải rời khỏi tàu ở LeHavre. Ngày nay em biết em phải đi Ba-lê với Jacques. Thế có nghĩa là em sẽ không còn gặp lại anh nữa. Stuart, em rất buồn. Nhưng thế này là tốt nhất. U buồn thay, mình sẽ không bao giờ hạnh phúc, vì đời em không bao giờ đem an vui đến cho anh. Rồi đây em sẽ nhớ mãi chuyện này đến suốt đời, anh khiến em không sao quên được kỷ niệm. Nhưng bây giờ anh quên em đi. Đây là món quà cuối cùng em tặng anh, dù em đã cho anh quá ít, nhưng lại bảo đảm cho Ted vẫn còn sống và bình an. Điều này em phải bí mật cho anh hay. Stuart yêu quý, hãy tha thứ cho em, liebe Brust (1), vĩnh biệt anh.
Monique.
Phía dưới chữ ký, nàng đã viết bốn dòng cuối cùng của một ca khúc trong tập Welheím Meister, mà nàng đã hát theo nhạc của Hugo Wolf:
Darum an dem langen Tagie
Merke die es, liebe Brust,
Jeder Tag hat seine Plage
Und die Nacht hat ihre Lust.
Tôi lấy cây bút chì, cảm thấy lỗ trống trong dạ dày đang lan rộng dần, và dịch lại trên mặt giấy ngay dưới mấy câu thơ bằng tiếng Đức:
Rồi tháng ngày trôi chảy êm đềm,
Anh yêu xin nhớ mãi dùm em,
Ngày qua ngày vẫn thêm lầm lỗi.
Cứu vãn bằng niềm vui mỗi đêm.
(Đan Chinh phỏng dịch)
Tôi gạch bỏ đoạn thơ vừa dịch bằng hai lằn bút chì khắc nghiệt và xem lại phần chính của bức thư. Tôi đọc đi đọc lại tới bốn lần cho tới khi quả quyết lời thư không giống Monique. Những mẫu tự đầu mỗi chữ hoa viết bằng kiểu chữ in, đúng là lối viết của nàng không sao lầm được. Nhưng chữ đầu tiên, đứng riêng ra, thì lại hoàn toàn không giống của nàng. Tất cả chỉ là những câu ghi chú lộn xộn của một nữ sinh. Lời thư rời rạc và vụng về, không sao giống câu văn tiếng Anh của Monique thường không bao giờ vụng về.
Tôi tạm gác lại. Cất phong thư vào trong đáy giả của hộp đựng máy đánh chữ xong, tôi gọi Err mang thức điểm tâm vào phòng. Tôi không thể chường mặt ngòai bàn ăn. Vả lại tôi không dám bỏ liều để Err vào lau chùi trong lúc tôi đi vắng.
Anh ta nói khi đem thức ăn vào:
- Ông sắp về tới nhà rồi.
Tôi bảo:
- Phải.
Nhưng tiếng đó làm tôi giật nảy mình. Tôi không thể về nhà được nữa. Tôi sẽ bị truy nã khi người ta tìm thấy tử thi của Allen trong bồn tắm của tôi. Trong giây lát tôi chợt có ý định sẽ ở lại để cho nhà chức trách thẩm vấn. Nhưng tôi hiểu như thế sẽ làm hư hỏng cuộc tìm kiếm mà tôi cương quyết thực hiện, và tôi không thể kéo dài thời gian.
Tôi liền hỏi Err:
- Bao giờ thì anh lau dọn căn phòng này?
- Thưa ông, chắc cũng phải sáng mai.
- Tốt. Tôi có việc phải làm. Anh chỉ cần trải giường xong đặt cho tôi tấm bảng "Miễn quấy rầy" ở ngòai cửa.
Tôi ngốn ngấu cho xong bữa điểm tâm và đi lên phòng vô tuyến để cố gượng tạo ra một dấu vết giả mạo. Tôi đưa cho cô gái trong phòng này số điện thọai của Khách sạn Savoy ở Luân-đôn. Cô ta bắt liên lạc với Khách sạn sau mấy giây. Tôi liền hỏi thăm George Renata. Tôi quen biết nhiều anh ta nhưng tôi không muốn anh ta nhận ra tôi lần này. Tôi cố giả giọng miền đông tiểu bang Virginia trong lúc nói:
- Ông Renata, tôi là Angus Mackenzie ở Virginia, đang đi trên tàu Queen Victoria sắp cặp bến Southampton, và tôi đã vô ý không đặt phòng trước. Tôi muốn ngụ tại khách sạn Lovelace của ông nếu ông còn phòng trống. Stuart Dunbar đã dặn tôi có thể nói chuyện với ông nếu tôi gặp khó khăn.
- Nhưng thưa ông Mackenzie, đây là Khách sạn Savoy.
Tôi kêu lên:
- Ôi, trời! Tôi đã gọi lầm số.
- Thưa ông, không hề gì. Nếu ông có thể giữ máy một lát, tôi có thể gọi tới Lovelace và thu xếp giúp ông.
- Thế thì tốt quá.
Anh ta bỏ đi chưa tới một phút và trở lại cho tôi hay:
- Ông Mackenzie, ông thật may mắn. Ở đó còn một phòng trống loại hai giường, có buồng tắm riêng, nếu ông bằng lòng.
- Vậy là nhất. Ông vui lòng giữ phòng đó cho tôi?
- Thưa ông, tôi đã giữ rồi. Chúng tôi sẽ cho người ra tận bến tàu Southampton để đón ông.
Tôi biết chuyện này sẽ không thể che chở cho tôi được lâu. Hy vọng độc nhất của tôi là cô gái trong phòng vô tuyến sẽ nhớ tôi đã gọi số điện thoại của Savoy, và sẽ không biết mặt tôi. Tôi trả tiền mặt cho cô ta. Nhưng tôi vẫn mất khá nhiều thì giờ, nhiều hơn thì giờ cần thiết khi cần phải mạo hiểm trong một trường hợp như thế này.
Nhân viên sở di trú trên tàu chỉ liếc mắt xem qua sổ thông hành của tôi khi chúng tôi đến hải cảng. Tôi toát mồ hôi khắp người trong lúc ông ta nhìn hình tôi rồi quay sang tôi, và khoan thai đóng khuôn dấu vào sổ. Tôi phải vờ trông ra ngoài, phía mũi đất và tòa lâu đài cổ, qua mấy khung cửa sổ bên hông tàu. Hệ thống điều hòa không khí đã tắt nên không khí trở nên ngột ngạt. Tôi lại còn toát mồ hôi nhiều hơn nữa khi tôi xách hộp đựng máy đánh chữ trước phòng của viên trưởng kho và cố bước thật chậm xuống cầu phao. Tôi chờ đợi nghe một tiếng gọi lớn tên tôi ở bất cứ lúc nào. Tôi chỉ thở được một hơi dài lúc tôi cảm thấy mặt bê-tông ở cuối cầu phao dưới chân tôi, và bắt đầu băng đường rầy xe lửa chở hàng hóa, tiến về phía dãy nhà quan thuế.
Thế rồi trong lúc bước vào đây, tôi lại gặp một chuyện rắc rối khác. Tôi đã quên phứt chuyện Geogre Renata bảo sẽ cho người đến đón tôi tại Southampton, mãi tới khi chợt trông thấy một người bồi sang trọng của Khách sạn Savoy đang lăng xăng ở cổng ra.
Anh ta lên tiếng hỏi:
- Thưa, ông Mackenzie?
Tôi không bao giờ biết được bọn họ làm cách nào để nhìn ra người mà họ đi đón, nhưng không bao giờ họ đón hụt.
Anh ta nói tiếp với tôi:
- Thưa ông, tôi sẽ lấy hành lý cho ông, nếu ông vui lòng giao giấy khai báo cho tôi.
Lưỡi tôi líu lại trong mấy giây. Anh ta nhìn tôi một cách kỳ lạ, tay vẫn đưa về phía chiếc phong bì tôi đang cầm. Tôi liền giao cho anh ta, và bảo bằng một giọng hơi luống cuống:
- Tờ khai mang tên Dunbar. Stuart Dunbar.
Vừa nói, tôi vừa đưa cho anh ta một tờ giấy bạc một Anh-kim. Mắt anh ta không hề nhấp nháy trong lúc tay cầm tờ bạc.
- Thưa ông, tôi hiểu. Ông cần giữ kín không cho ai hay biết. Tôi sẽ đưa mọi thứ của ông lên xe lửa cấp kỳ. Ông chỉ việc đi theo tôi và bước một mình lên toa xe.
Anh ta đã có mặt ngay vừa lúc tôi đi qua khoảng đưởng chừng một trăm thước tới nơi xe lửa đậu. Anh ta bỏ hành lý lên giá cho tôi và chào:
- Xin chúc ông đi đường vui vẻ.
Rồi anh ta từ giã bỏ tôi ngồi run một mình.
Mồ hôi vẫn tháo ra như tắm, tôi nhìn ra khung cửa về phía dãy nhà quan thuế cho tới khi đoàn xe lửa chuyển mình bắt đầu lăn bánh. Trong lúc con tàu khởi sự chạy nhanh, tôi bỗng trông thấy ba người đàn ông phóng ra khỏi ngưỡng cửa chính của dãy nhà quan thuế. Hai người trong bọn họ là hai viên sĩ quan hàng hải. Người thứ ba là một người mặc áo choàng dài màu trắng. Có lẽ Err. Bọn họ nhìn một lúc tựa hồ muốn chạy theo xe lửa. Nhưng đoàn tàu đã ra khỏi sân. Cuối cùng tôi trông thấy họ chạy trở vào nhà. Nhưng tôi biết giai đoạn tiếp theo là cảnh sát. Sau đó cảnh sát Luân-đôn sẽ truy tầm tôi. Hay là sở Scotland Yard? Tôi không đoán biết được.
Nhưng tôi hiểu tôi phải lánh mặt cảnh sát trong một thời gian. Vấn đề khó khăn là tôi không biết tôi cần lẩn tránh họ trong bao lâu, bởi vì tôi không có một ý kiến nhỏ nào về những gì mình sắp làm.
Tôi ngắm phong cảnh tươi đẹp chốn đồng quê miền Nam nước Anh qua vùng Winchester và Farnborough cùng những vùng khác nằm dọc theo con đường sắt quen thuộc này, cố lên tinh thần bằng một ly gin-tonic ở toa giải khát, nhưng tôi không thấy được bao nhiêu. Tôi đang thử suy nghĩ như một gã tội phạm. Tôi biết tôi không dám đi vào Luân-đôn bằng xe lửa. Nhất định người ta đang chờ tôi ở nhà ga Waterloo.
Mãi tới lúc tôi trông thấy một dấu hiệu đèn về phía bên trái, tôi mới sực nhớ tàu sắp sửa đến ga Vauxhall Bridge, và ga kế là Waterloo. Tôi đành phải đánh liều nhân lúc đoàn tàu giảm tốc độ trong khi chạy qua nhà ga.
Tôi kéo mấy túi đồ của tôi xuống khỏi giá và liệng tất cả ra ngoài cửa sổ ngoại trừ hộp máy đánh chữ trong lúc tàu lướt qua sân ga. Đúng lúc tàu chạy chậm như đi bộ, tôi đã chực sẵn ở cửa, liền mở ra và nhảy xuống khi tàu bắt đầu gia tăng tốc độ. Dù ở tốc độ đó, tôi vẫn bị té và trầy đầu gối.
Chú thích:
- (1) Liebe Brust: tiếng Đức, có nghĩa: lạc thú yêu quý (chú thích của dịch giả).
n của tầm vải phủ đã được lật ra. Chiếc gối có vẻ như đã được ném lên trên đầu giường. Tôi cầm lên mà không hiểu vì sao mình làm như vậy. Mùi nước hoa của Monique phả vào mặt tôi. Tôi biết ngay đó là Bellodgia, thứ nước hoa nàng thường dùng ban đêm.
Chiếc giường kia thì rõ ràng đã có người nằm lên. Tôi nhặt cái gối ở đây và đưa lên mũi. Không có mùi nước hoa. Thay vào đó là một mùi thoang thoảng mà tôi không sao xác nhận rõ pha trộn với một mùi khác nhẹ hơn làm tôi liên tưởng đến không khí trong các bệnh viện.
Tôi đặt chiếc gối trở xuống giường và lần bước về phía cửa buồng ngủ, tâm trí quay cuồng trong suy tư. Monique hiện đang ở đâu? Đúng lúc tôi vừa tới cửa, tôi bỗng biết thật chắc chắn có một kẻ nào ở trong phòng ngay sau lưng tôi. Tôi liền quay vụt người lại, nhưng không kịp. Bị đánh một cú vào gáy, đúng phía sau tai, tôi té nhào tới trước. Tôi ngã người qua cửa ra tới phòng khách, nằm dài trên tấm thảm. Đó là ký ức cuối cùng của tôi. Tôi bất tỉnh trước khi lăn ngửa ra và nằm yên.
Chú thích:
- (1) Ein Freund (tiếng Đức): một người bạn (chú thích của dịch giả).
- (2) Robert Lee Frost (1874 -?): Thi sĩ Hoa-kỳ (c.t.c.d.g.).