Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 16

Sáng hôm sau tôi dậy muộn, đó là một tật xấu của tôi. Trong một số tật xấu có thể kể ra được của tôi, có tật ngủ vùi. Người ta bảo càng già càng ít ngủ. Những người cùng tuổi với tôi, bốn năm giờ sáng đã dậy, họ đi bộ, tập thể dục, chăn lợn gà, đưa hàng ra chợ cho vợ con… Còn tôi vẫn đang ngủ, thường trở dậy vào khoảng tám giờ sáng! Cho nên khi tôi mở mắt ra đã thấy chị Nga đang lúi húi quét nhà. Tôi ra khỏi giường, nhìn đồng hồ thấy hơn bảy giờ, cười ngượng:
- Chị quét làm gì? Cứ để đấy, tí nữa trẻ con về chúng nó làm…
- Cậu hay nhỉ? Người đâu mà ngủ khiếp thế? Người ta chả bảo “Cuộc đời ngắn một gang tay; những kẻ ngủ ngày còn độ nửa gang”. Chị cười thật tự nhiên, cái hồn nhiên của tuổi sắp già, nó vừa buồn cười, lại vừa thương.
Tôi cũng cười:
- Chắc em chả sống lâu đâu, nửa gang tay cũng là tốt lắm rồi! Những người vô dụng sống dai chỉ tổ vướng bận thiên hạ…
- Phỉ thui cái miệng cậu! Mới sáng ra đã nói năng lăng nhăng cái gì thế? Hôm nay cậu không đi làm à?
Tôi không phải đến cơ quan, cái nghề của tôi nó thế. Không đến cơ quan là một sự sung sướng hay thiệt thòi tôi cũng chả biết. Có người sướng thì bảo khổ, và ngược lại. Cơ quan bây giờ sang lắm, ở đâu cũng thế. Máy lạnh sướng cả ngày, nước trà ngon, ai không thích thì có nước ngọt tinh khiết. Lương tháng lĩnh đủ, có phụ cấp, trợ cấp, ăn trưa… Nhưng mà khổ, vẫn bảo là khổ, cả nhày chết dí ở đây, chả đi được đến đâu. Thế thì ai sướng? Đấy, thích thì lên công ty, không thích thì ở nhà, mỗi tháng có định xuất, phải bán được mấy triệu tiền hàng. Cha ơi, đi bán hàng khuyến mãi, nhục còn hơn ăn mày. Vào nhà người ta gõ cửa, họ đuổi như đuổi ma… Tiền xăng xe, tiền gửi xe bãi, tiền nước nôi dọc đường, cộng vào cũng gần cạn túi. Lên công ty một tí thì lặn. Mà có lên cũng chả biết ngồi đâu, có ghế, có bàn, có chỗ cả đấy. Đừng có mà lớ xớ! Thế mà vẫn cứ hơn hớn ra. Khổ mà không biết khổ! Sướng cũng chả biết đằng sướng! Mà luận về sướng khổ nó vô cùng lắm. Tôi ngẫm ra, ở đời này cứ bon chen, tị nạnh, hiềm khích, đố kỵ… cũng mất đến hai phần ba gang tay rồi, chứ có ngủ như tôi, cùng lắm cũng mới mất có một nửa.
Vừa nghĩ thầm, vừa cười một mình trong nhà tắm, tôi nói vọng ra:
- Em ở nhà với chị! Kệ đời, làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn nhiều, lo gì!
- Cậu vẫn như trẻ con ấy. Chị lại cười. Làm ít mà ăn nhiều thì có mà… làm quan!
- Làm quan cũng khổ lắm chị ơi! Ăn miếng ăn cũng cứ phải trông trước trông sau…
Không thấy tiếng chị, có lẽ chị ra ngoài sân. Lúc tôi ra đã thấy chị đang nói gì với thằng Hận. Thấy tôi, thằng Hận ngửa mặt cười. Cái thằng?
Chị Nga bảo vợ tôi đi làm rồi, hai đứa cũng đi học sớm.
- Cô ấy dặn chị đủ thứ, nào là gạo ở đâu, muối mắm, bột ngọt… ở chỗ nào, cả từ dầu gội đầu, xà phòng cũng chỉ hết. Cậu lấy được cô vợ ngoan quá, tốt quá! Các cháu cũng ngoan!
Tôi không trả lời chị, mà chăm chú nhìn thằng Hận. Tôi đã biết nó là một con người không bình thường, bệnh hoạn. Nhưng cứ nhìn dáng bộ nó, không ai biết nó bị bại não. Nó đang ngồi chăm chú vẻ suy tư rất trầm lắng, hiền triết. Hai bàn tay thon dài đang cầm một cái que, gẩy gẩy những mảnh đất vụn và những con cuốn chiếu trong cái chậu cây mai. Đầu hơi cúi xuống, để lộ một tấm lưng dài, vạm vỡ, thỉnh thoảng lại ngẩng lên cười thản nhiên.
- Hận này, cậu hỏi nhá, đi tầu từ ngoài Bắc vào đây có thích không?
Nó ngẩng lên, trả lời tôi bằng mọt giọng ồm ồm, lễ phép:
- Dạ, thích lắm cậu ạ! Cháu bảo mẹ, sao không đi nữa, lại xuống đây?
Tôi lắc đầu:
- Xuống đây chơi với cậu chứ đi nữa chơi với ai?
Nó đứng lên, cao hơn tôi, nửa đầu, tôi chỉ đến vành tau nó:
- Khối gì người chơi? Bác Thức, bác Thức gái nữa, với cả bố Tĩnh. Cậu có biết bố Tĩnh không?
Tôi nhìn chị Nga, thấy chị khẽ gật đầu, tôi trả lời cốt để nó khỏi thất vọng:
- Cậu biết bố Tĩnh rồi! Bố có đi với cháu không?
Nó cười hì hì, rất nhạt.
- Bố Tĩnh bảo mẹ đưa cháu đi, bao giờ về, bố đón. Mẹ nhỉ!
Chị Nga để chúng tôi lại, vào nhà. Có tiếng lục cục dưới bếp. Tôi với thằng Hận còn trò chuyện một lúc nữa. Chuyện với một người không bình thường, nếu nhẫn tâm để làm vui thì được. Nhưng nếu nó là người thân của mình thì xa xót lắm.
- Cháu học lớp mấy rồi?
Nó xoè bàn tay ra, nhìn một lúc rồi giơ một bàn tay lên, cười:
- Lớp Năm!
- Đâu, cháu viết tên cháu ra đất cho cậu xem có đẹp không nào?
Thằng Hận nhìn quanh, nó tìm dược một mẩu gạch vỡ, cẩn thận, gò gẫm, viết hai chữ “Trần Hận” lên nền xi măng. Nhìn hai chữ viết bằng lối chữ in hoa, khẳng khiu, gãy khúc, rồi nhìn vào hai bàn tay thon dài, đẹp mẫu mực của nó, tôi lắc đầu:
- Ai dạy cháu học?
- Mẹ! Mẹ dạy…
- Thế cháu có đến trường không?
- Có! Cháu đến trường, nhưng người ta bảo cháu lớn quá, chỉ đến để thi xong rồi về.
Chị Nga gọi vọng ra:
- Hai cậu cháu vào ăn sáng nào!
Chị Nga dọn cơm ra, gần đúng với “gu” của vợ tôi: rau muống luộc, lạc rang muối. Đây là kiểu ăn sáng trường kỳ của gia đình tôi. Vợ và các con tôi đã ăn từ rất sớm để còn đi làm, đi học.
Xong bữa, thằng Hận loanh quanh rồi leo lên phản, còn hai chị em tôi ngồi ở bàn, uống nước. Cái thằng ngủ rất nhanh, đến nỗi, tôi phải ngạc nhiên hỏi chị Nga:
- Đêm qua đi tầu, chắc nó mệt lắm?
Chị lắc đầu:
- Nó vẫn thế đấy! Chị khổ với nó lắm!
- Chị xem thế nào, có điều kiện chạy chữa cho nó chứ? Chẳng lẽ cứ chịu mãi thế à? Ở trong này có nhiều thầy thuốc giỏi. Để hôm nào em thử nhờ một vài người quen, kiểm tra xem nó ở mức độ nào?
- Không ăn thua đâu… Chị Nga nói nhỏ như nói một mình.
- Chị cứ thế, chả trách! Để rồi em tính…!
Tôi có biết một ông thầy ở Bình Dương, nhà ngay thị xã. Gọi ông là thầy, thầy gì cũng không chắc, mà gọi là thầy gì cũng đúng, bởi ông có thể làm được nhiều chuyện gây ngạc nhiên. Ông là thầy lang, vì ông bốc thuốc nam rất hay, gãy chân, gãy tay, mụn nhọt nhiễm trùng hoá sâu quảng cho người và cả trâu bò, đều khỏi. Ông cũng là thầy địa lý, xem đất cát phong thuỷ, hướng nhà, hướng bếp, mồ mả… Ông lại có tài sờ tay vào điện nhà, hai trăm hai mươi vôn hẳn hoi, điện không giật, mà tay kia chạm vào người khác, mụn nhọt đầu đinh, máu bầm, máu tụ đều tan ra. Đặc biệt, ông có cái nhìn như có tia điện, hoặc tia gì đó, có đủ khả năng bắt mà nhâp vào người, hay bị bùa ngải ám, phải buông tha hoặc hoá giải vô nghiệm. Đấy là thầy pháp!
Thằng Hận thuộc loại nào? Căn của nó ra sao, chắc phải nhờ đến ông thầy Bình Dương, may ra có cơ chữa khỏi. Nhưng tôi chỉ nghĩ thế thôi, chứ chưa nói với chị, bởi cũng chẳng biết cơ sự thế nào. Người ta nói, phước thầy, may chủ kia mà. Tôi nghĩ sang chuyện khác, chợt nhớ ra mấy tên người thằng Hận nói: bác Thức, “bố” Tĩnh… tôi hỏi chị:
- Mấy người mà thằng Hận nhắc tên lúc nãy là ai thế? Có phải người làng ta không chị?
Chị Nga cũng như người chọt nhớ ra, cười buồn:
- Đó là những ân nhân của mẹ con chị. Có lẽ chị khó có thể bước qua những hoạn nạn mà không có những con người này. Suốt đời chị mang ơn vợ chồng ông Thức, bà Thắm, cô Nhuần ở Phú Thọ…
Câu chuyện như một dòng hồi ức mang đậm vẻ u hoài, nhưng cũng có lúc loé lên những ánh vàng nhân ái, mà chị đã trải qua hơn mười nă, kể tù khi mẹ con chị bước lên cái mảng nứa xuôi dòng sông Công. Tôi ngồi nghe chị kể, y hệt như ngày còn bé, lắng nghe chị kể chuyện cổ tích hay những câu chuyện chị đọc được trong những cuốn sách. Bên kia giường, thằng Hận vẫn nằm ngủ yên lành, thỉnh thoảng tiếng ngáy của nó rộ lên, cũng thật bình yên…
- Sau lần cháu Hận suýt bị bắt cóc, chị cũng đoán biết ra người bắt nó là ai rồi. May mà nhờ ông Thức, mẹ con chị mới lại được gặp nhau, nên chị đã quyết định kể hết mọi sự thất về đời chị cho vợ chồng ông Thắc nghe. Và chị cũng đồng ý để thằng Hận thỉnh thoảng về chơi với với vợ chồng ông ấy, chứ chị không muốn cho nó về ở hẳn. Em biết đấy, chị khổ vì nó, nhưng nếu không có nó, chắc chị cũng chẳng sống làm gì. Tất nhiên, sau chuyện này cũng có nhiều lời bàn ra, tiếng vào, nhỏ to quanh chuyện ông Thức và chị. Chị thấy lo ngại, nhưng ông Thức thì chẳng coi vào đâu những lời đàm tiếu ấy, lại được cả bà Thức phụ hoạ, chị cũng thấy hơi yên yên với đống than và căn phòn dột nát của mình.
Nhưng rồi, càng ngày, thằng Hận càng bộc lộ ra là một đứa trẻ không bình thường. Tệ hại nhất là nó không biết khóc, và cười thì không thành tiếng. Tiếng nói bình thường như mọi người nhưng ấp úng, ngắc ngứ, không đầu, không cuối! Chị thất vọng lắm, ông Thức cũng bối rối, nhưng bà Thức thì càng hy vọng rằng chị sẽ bỏ thằng Hận lại cho bà ấy. Là đàn bà, chị hiểu sự ích kỷ thường tình cuả người đàn bà, nên không giận. Chị chỉ cố dạy cho nó học, và cũng nhờ ông Thức xin cho nó đến trường. Cháu học vất vả lắm, phải đúp hai lớp. Đến năm lớp Năm thì nó lớn quá rồi, quá tuổi, đành phải thôi…
Cuộc đời chị Nga của tôi, có lẽ sẽ được chôn chặt ở cái thị xã nhỏ bé này với hai bàn tay suốt đời nắm than quả bàng, nếu như không có một biến cố xảy ra. Sau mười hai năm lưu lạc, biệt tích, lần đầu tiên chị Nga… nhận được thư! Chị không tin, nhưng trên phong bì ghi rõ họ tên chị và người gửi là… thầy Hoan! Chị bồi hồi nhìn nét chữ của bố mình rồi chạy về căn phòng vách lá của mình. Chị muốn mở lá thư nhưng rồi lại không dám. Chị không sợ những lời trách móc, nhưng chị hốt hoảng phải đọc được những dòng buồn tủi của người cha bị mất đứa con, sống vò võ một mình trong tuổi già cô độc. Mãi sau, chị rụt rè xé từng tí một chậm chạp, để lấy ra tờ giấy học trò gấp tư. Chị không cầm đước nước mắt, nhìn những dòng chữ chân phương, rõ nét và đều tăm tắp nhưng lộ rõ vẻ run rẩy của cha.
Nga, con gái của bố!
Nhận được thư này, nếu không có gì khó khăn, trở ngại cho con, con hãy về với bố. Bố biết con nhớ bố, cũng như bố nhớ con. Mọi chuyện ở quê nhà vẫn như cũ, chỉ có bố là già yếu nhiều. Con về được thì bố con gặp được nhau lần cuối. Nhưng, bố nhắc lại, nếu có trở ngại mà con không về được, thì con cũng đừng quá buồn, mà hãy coi đây là lời bố chào con, đứa con xấu phận của bố, và mẹ.
Bố Hoan.
Khóc và suy tính mãi, cuối cùng, chị Nga đưa bức thư của thầy Hoan cho ông Thức xem. Suy nghĩ một hồi, cũng chẳng hỏi ý chị, ông lạnh lùng bảo:
- Cô nên về! Không! Cô phải về, để ông cụ được gặp mặt! Tôi có cảm giác đây là lời trăng trối của thầy Hoan!
Chị Nga ngân ngấn nước mắt:
- Vâng! Em cũng đã nghĩ thế. Có lẽ bố em sắp chết…
Ông Thức nhìn chị Nga,như muốn dò xét:
- Còn thằng cháu Hận, cô có nên cho nó về cùng không?
Nhìn thằng bé đang nằm ngủ ngon lành dưới làn quạt phe phẩy của bà Thức, chị không nỡ nói thật. Bà Thức vẫn chưa biết chị Nga nhận được thư bố nhưng linh cảm cho bà thấy có chuyện gì đó không lành:
- Cô định về bên Thái à? Cứ đi đi, để thằng cháu cho tôi.
Cuối cùng, thì chính chị Nga cũng không nhớ, bằng cách nào mà cả hai mẹ con chị cùng lên tàu về quê. Bà Thức sụt sịt:
- Hai mẹ con về lo cho ông cụ rồi lại sang ngay nhé!
Ông Thức thì đứng lặng dưới sân ga, nhìn theo hai mẹ con vất vả len lên tầu. Ông kéo bà về, không đợi tàu chạy, vì nếu đứng thêm chút nữa ông sẽ khóc mất! Vì ông biết, chẳng bao giờ ông còn gặp lại hai mẹ con chị Nga nữa!
Nhưng cuộc đời chị Nga vốn có nhiều bước ngoặt. Nếu việc chị nhận được thư của thầy Hoan mà phải về là bước ngoặt thứ nhất, thì hãy còn một bước ngoặt nữa đang đợi chị. Nó không ở đâu xa, ngay trên chuyến tàu này thôi.
Chị Nga cũng không tin rằng mình sẽ còn trở lại mảnh đất này, mảnh đất đã mười hai năm che chở, cưu mang mẹ con chị. Cho đến lúc này, chị mới nhận thấy dù hơn mười năm qua, chị sống ở đây với biết bao cay cực, tủi buồn, và cũng có những lúc loé lên tia sáng của tình người, nhưng ngoài những người ở cửa hàng ăn uống, chị không hề quen biết một ai! Thậm chí chị vẫn còn bị lạc đường khi ra phố, dù cái thị xã nhỏ bé và hoang vắng này, người ta chỉ đi xe đạp trong một hai giờ là hết đất. Mà rồi chị cũng chẳng nhớ được tên phố, tên làng nào… Thế nhưng, khi con tầu chuyển bánh một cách lề mề, chậm chạp, nhà cửa, cây cối, trời mây… ở ngoài cửa toa đang lần lượt trôi qua, tự dưng trong lòng chị dâng lên một cảm giác bùi ngùi… Nhìn hai bàn tay đen xạm và những chiếc móng tay đen bóng lên của mình, chị Nga lại rưng rưng. Từ biệt nhé, dù rằng có một ngày nào ta sẽ trở lại nơi đây, hay dù mãi mãi không còn được thấy nhau nữa, thì mảnh đất và con người nơi này sẽ còn đọng mãi trong cuộc đời ta, trong ký ức của ta!
Khi con tàu đã ổn định vận tốc, chạy khá êm ái, gió ở hai bên đường lùa vào mang theo hơi hướng của những cánh đồng, những vạt rừng chẩu, sừng sở nhút ngàn, chị Nga mới trở lại với thực tế. Và bông nhiên trong lồng ngực chị hình thành một khoảng trống, cứ dần lơn mãi lên, phồng lên vặn xiết con tim, khiến chị như muốn nghẹt thở. Chị bắt đầu hình dung ra ngôi nhà tuổi thơ của mình. Ngôi nhà chị đã lớn lên rồi từ giã nó một cách âm thầm, vụng trộm. Ngôi nhà ấy giờ đây ra sao, khi không có chị? Hình bóng người cha sau mười hai năm chắc đã già lắm, lưng còng xuống chịu đựng muôn vàn tiếng tăm và cả thời gian xoay vần theo mỗi mùa gió bấc thổi. Và mỗi chiều về bóng cha ngả dài xuống mảnh sân côi cút. Rồi khi đêm xuống, cha lại lầm lũi một mình, không tiếng người, không hơi hướm người thân, chỉ có bóng cha in trên vách đất!
Chị lại hình dung ra từng ngõ nghách của làng xóm, những con đường ghập ghềnh những dấu chân trâu, nứt nẻ mùa đông và sụt sùi bùn lầy trong mùa mưa gió. Rồi chị nhớ đến những cô, những cậu học trò ngày xưa, tất nhiên trong đó có cả tôi, đứa em ngỗ ngược và yếu đuối của chị. Và cuối cùng, chị không sao dứt ra được ngôi nhà của anh Kỳ. Ở đó có tiếng lợn kêu, tiếng gà gáy, tiếng rên rẩm của bà mẹ chồng đau khớp quanh năm. Ở đó chị đã chôn vùi niềm hy vọng và cả cuộc sống bình thường, giản dị của chị. Những con mắt dò xét, nghi kỵ và những lời nói độc ác của những người chị chồng, khiến chị không thể nào đứng vững trên đời. Và giờ đây, thằng Hận đã lớn, nó đã rõ ràng là một bản sao của anh Kỳ với đôi lông mày xếch xiên trong vào tận sống mũi và cái miệng cởi mở thì chị sẽ ăn nói thế nào? Thằng Hận vẫn nghển cổ ngó ra ngoài cửa toa, với nét mặt lạnh lẽo, không thần sắc, chỉ có cái miệng là hình như lúc nào cũng sắp cười.
Chị cúi xuống chân, cầm cái túi vải đặt lên đùi, cảm giác ấm áp và đau nhói lại trở về. Trong này là những kỷ vật về cha, và đặc biệt về người mẹ mà chị chưa hề biết mặt. Chị thử hình dung ra lúc gặp lại cha mình, và cả hai cha con chị cùng lật giở những kỷ niệm. Đó là con dao oan nghiệt, là nắm tóc xânhcủ mẹ, là những mảnh áo màu xanh lá rừng… Chị Nga nhắm mắt lại, nhưng hình như trong cõi tối tăm mù mịt, chị cảm thấy yên lòng hơn, mặc dù chị biết cuộc trở về này, có thể lại mở đầu cho một cuộc hành trình lưu lạc mới…
Đoàn tàu dừng lại ở một ga, người xuống, kẻ lên lại rầm rập. Dường như mỗi người xuống, đem đi những nỗi niềm của họ, thì những người lên lại mang lên những câu chuyện và tâm sự mới. Cứ thế, đoàn tầu đi mãi để tiếp nhận những số phận và rồi lại bỏ lại những cuộc đời trên mỗi sân ga. Chị Nga lẩn thẩn nghĩ ngợi về bao chuyện trong lòng và cả những gì chị nhìn thấy trước mắt…
Bỗng chị vô cùng kinh ngạc thấy một người đàn ông đang đi tới chỗ chị với một khuôn mặt quen quen. Có phải chị đã gặp con người có khuôn mặt vuông chữ điền và cái miệng nở này? Với chiếc áo quân phục cũ sờn, loang trắng mồ hôi anh đang mặc gợi cho chị một cảm giác gần gũi và thân thiện. Chị cố nhớ, trong khi anh ta đang đi lại phía chị và đôi mắt đang kiếm tìm một người hay một cái gì đó. Chị mong anh hãy nhìn vào mắt mình. Nhanh lên, chị thầm giục mình, hãy nhớ nhanh lên, kẻo anh đi qua mất! Anh vẫn len lỏi trong đám đông, mải nhìn đi đâu đó. Anh là ai? Có phải là một người nào đó mà chị đã gặp? Một, hai bước chân và anh đã đi qua chỗ hai mẹ con chị đang ngồi, mà không nhìn vào chị. Như một tia chớp nhỏ, nhưng vô cùng sắc sảo, rõ nét hiện ra trong đầu, chị nhìn theo vội vã cất tiếng gọi thảng thốt:
- Anh Tĩnh…!
Người đàn ông quay lại như một phản xạ tự vệ. Đôi mắt anh sáng lên chứa chất đầy nỗi kinh ngạc:
- Nga? Nga phải không?
Chị Nga loạng choạng đứng dậy, một tay chị chới với hướng về phía anh, còn tay kia nắm vội vào thành ghế tầu.
Thế là hai con người này rồi cũng đã gặp được nhau sau mười năm!
Tĩnh len qua một người đàn bà đang lom khom chất xếp gồng gánh, đến bên chị. Bộ ngực vạm vỡ của anh áp sát vào đậu chị Nga:
- Trời ơi! Có đúng là Nga không?
- Đúng rồi, anh! Em, Nga đây…
- Ngồi xuống, em, kẻo tàu chạy giật ngã bây giờ. Anh đỡ chị Nga ngồi xuống ghế rồi tìm chỗ trống quỳ một chân ngước lên nhìn chị:
- Em trốn ở đâu mà để anh đi tìm suốt muời năm trời? Anh hỏi một câu đầy trách móc.
Chị nhìn anh đăm đắm, lắc đầu:
- Em có trốn anh đâu! Nhưng em phải trốn tránh cuộc đời. Em biết anh đi tìm em, và em cũng đọc được dòng chữ viết anh nhắn tìm em trên bức tường vôi của cửa hàng ăn uống.
Tĩnh gật đầu:
- Anh thất vọng và viết lên đó, nhưng không hy vọng gặp được em. Bây giờ… thật không ngờ! Tĩnh quay sang nhìn thằng Hận. Nó vẫn thản nhiên, trong bộ mặt sáng sủa của mình. Tĩnh hỏi chị Nga:
- Thằng Hận? À, không, thằng Pinôkiô của tôi đây phải không?
Chị Nga cười ngậm ngùi:
- Anh vẫn còn nhớ à? Nó đấy! Con, chào chú Tĩnh đi con! Chú Tĩnh là người đã cứu sống mẹ con ta đấy!
Thằng Hận còn đang nghĩ ngợi, nó muốn tìm một câu chào, nhưng Tĩnh lại cho là nó xấu hổ, bởi nó đã lớn lên thành một trang thiếu niên tuấn tú. Anh nhanh nhảu:
- Không phải chú Tĩnh, mà là bố! Bố Tĩnh, phải không con?
Nó cười:
- Cháu chào… bố!
Tĩnh phá ra cười vang cả một góc toa:
- Giỏi lắm! Thằng cu giỏi lắm! Lại đây với bố nào…
Thằng Hận còn đang lưỡng lự thì đoàn tầu giật mạnh một cái, khiến chị Nga xô hẳn người vào vòng tay đang vịn trên thành ghế của Tĩnh. Anh vội vàng đỡ chị, làm chị đỏ bừng mặt. Lần đầu tiên sau nhiều năm, chị Nga cảm thấy mình nóng mặt, chị mỉm cười một mình.
- Anh ngồi lên đây, quỳ thế mỏi chân chết! Chị âu yếm nói với anh.
Tĩnh đứng lên, vạch một chỗ giữa hai mẹ con chị, nhưng rồi anh nhấc bỗng thằng Hận đặt lên đùi. Thằng Hận có vẻ khoái chí lắm, nó cười. Hồi lâu, giữa hai người là một khoảng im lặng, dường như mỗi người đều đầy ắp những câu muốn hỏi, nhưng chưa ai nghĩ ra là hãy bắt đầu thế nào. Thế rồi anh Tĩnh lên tiếng trước:
- Bây giờ em đi đâu đây?
Như một đứa trẻ ngang bướng, chị Nga đặt tay mình chặn lên bàn tay Tĩnh mỉm cười:
- Em hỏi trước: thế anh đi đâu?
Không đắn đo, Tĩnh đáp ngay:
- Anh đi tìm hai mẹ con em!
Chị Nga cúi xuống và giật mình nhìn vào những cái móng tay đen nhẫy của mình. Chị cố giấu chúng vào sau vạt áo, nói nhỏ:
- Có thật không anh? Chẳng lẽ suốt mười năm qua…?
Một tay Tĩnh ôm lấy vai thằng Hận, bàn tay kia nắm lấy tay chị Nga, đầu cúi xuống như nhìn xuyên suốt sàn tàu:
- Nếu nói suốt mười năm qua anh chỉ đi tìm em thì anh là người không trung thực. Nhưng quả thật suốt mười năm, lúc nào anh cũng nghĩ về em, ngay cả khi anh đã cưới vợ, lập gia đình riêng…
Chị Nga thảng thốt:
- Anh đã lấy vợ? Nhưng như sực nhớ ra điều gì đó không phải, chị vội chữa. Em hiểu, cuộc đời con người ta được mấy đận “mười năm”. Mười năm là một thời gian quá dài của một cuộc đời…
- Anh không nói dối em, lúc nào anh cũng nhớ về em. Sau khi chia tay em ở nhà ga, anh về quê, cảm thấy mình trống trải vô cùng. Nhưng, nói thật nhé, anh không đủ sức lực và tự tin để đi tìm em, nhưng nhờ mẹ anh. Sau đó mấy tháng, biết rõ sự thật về anh với em, mẹ anh đã lấy hết số tiền cụ đã dành dụm đưa cho anh và nói với anh những lời thấm thía, cổ vũ thêm lòng tự tin cho anh. Em có biết mẹ anh đã nói thế nào không? Bà cụ bảo: “Con hãy giữ đúng lời hứa, dù rằng sau đó câu chuyện có như thế nào đi nữa thì làm thằng con trai, con không được thất hứa”. Thế rồi anh đã lên cái thị xã nhỏ bé, mà em đã đến. Nhưng anh đã không tìm thấy em…
Chị Nga cảm thấy như người có lỗi:
- Em ở ngay cái cửa hàng ăn uống mà anh đã viết lên đấy…
Tĩnh lắc đầu:
- Tệ quá! Hình như số phận cứ trêu ghẹo chúng ta? Thế rồi mỗi năm một lần, anh lấy lý do đi đảo sắn, rồi đi buôn quế, buôn sắn khô… cứ vào cái ngày chia tay em, anh lại lên… Sau ba năm, anh cưới vợ, một cô gái cùng quê. Ngay cả sau khi anh đã lấy vợ rồi, anh vẫn giữ nguyên tắc ấy, tất nhiên vợ anh không biết. Mà anh cũng không biết là nếu gặp được em, anh sẽ xử sự như thế nào, nhưng anh vẫn đi tìm. Đến bây giờ, quả thật lòng trời không phụ anh.
Cả hai cùng im lặng trong tiếng rập rình của toa tàu. Lúc sau, Tĩnh phá vỡ sự im lặng:
- Còn em, thế nào?
Chị Nga gỡ bàn tay mình ra khỏi tay Tĩnh, nói nhỏ:
- Em vẫn thế! Nghĩa là em trốn chạy và giấu biệt tăm tích của mình. Nếu không như thế, không phải chạy trốn, có lẽ anh đã tìm thấy em cũng không chừng!
- Nghĩa là em vẫn chỉ có mình thằng Hận?
- Vâng! Em chỉ có mỗi mình cháu, và có lẽ mãi mãi cũng chỉ có hai mẹ con với nhau!
Tàu lại dừng, rồi lại chạy, và rồi lại thay đổi những số phận trên mỗi toa. Tĩnh gỡ tay thằng Hận đang ngủ, để nó dựa vào chị Nga:
- Em ở đây, anh về chỗ anh bạn người cùng quê một tí rồi anh quay lại. Chị Nga đỡ vai con, không nói. Chị nghĩ mọi chuyện sẽ phải thế thôi, gặp nhau rồi, anh lại đi…
Nhưng một lúc sau, Tĩnh quay trở lại, với cái túi nhỏ đựng quần áo của mình. Chị Nga cố làm ra tự nhiên, nhưng chị thật không tin nổi. Đáng lẽ, sau những câu chuyện như thế, Tĩnh phải bỏ đi. Anh phải bỏ đi và tránh không gặp chị nữa mới hợp với lẽ thường. Nhưng anh đã trở lại, trở lại với lòng hăm hở khiến chị thật xúc động.
- Bây giờ mẹ con đi đâu?
Chị Nga kể lại cho anh Tĩnh nghe chuyến đi về quê này của mình. Tĩnh lắng nghe và mỗi lúc lại nở nụ cười trên miệng, khiến chị Nga phải hỏi:
- Sao em nói gì anh cũng cười thế?
- Anh cười anh! Vì anh là một tên nhát gan!
- Sao lại nhát gan? Chị Nga ngạc nhiên hỏi lại.
- Có lúc anh nhát gan, toan đầu hàng số phận. Nhưng bây giờ thì không! Anh đã “xác định lập trường” rồi!
Chị Nga cười:
- Nhưng mà anh chưa “nắm tình hình” thì xác định sao được?
- Em vẫn nhớ nhỉ? Thành tật mất rồi, nhưng có lẽ cũng không phải là xấu. Phải không nào?
- Không! Chị Nga lắc đầu. Sao lại xấu? Anh tốt lắm! Tốt hơn cả em nghĩ.
Tàu dừng, chị Nga lay thằng Hận dậy. Đây là lúc phải chia tay với Tĩnh, nhưng sao chị không thấy buồn. Có lẽ chị nghĩ rằng, cuộc đời cho chị một người bạn thế là quá đủ. Thậm chí chị còn cảm thấy xấu hổ vì chị đã dám yêu anh, dù đó là tình yêu chân thật, đầu đời, và cũng có thể là duy nhất.
- Đưa tất cả đây cho anh, hai mẹ con cứ đi ra cửa toa đi. Vừa nói, Tĩnh vừa giành lấy cái tay nải của chị Nga. Chị không cưỡng lại, mà nghĩ, thôi cứ để anh làm gì anh muốn. Chỉ một phút nữa thôi, mọi chuyện sẽ mãi mãi đi vào kỷ niệm.
Chị Nga bình thản rời khỏi toa tàu, khi chị đưa tay ra định nhận lại cái tay nải, thì Tĩnh đã kéo thằng Hận về phía cửa ga:
- Thôi, ta ra đi. Để anh xem mấy giờ có tàu Thái?
- Anh Tĩnh! Anh đưa mẹ con em đến đây là được rồi. Anh trở lại toa của mình đi, kẻo nhỡ tàu.
- Không sao! Anh đã hứa với chính mình rồi, anh không thể bỏ em giữa đường như thế này một lần nữa. Tất cả hàng hóa, anh đã gửi bạn rồi. Cậu ta sẽ làm thay anh…
- Thế anh…
- Anh sẽ lên tàu ngược Thái cùng với em! Được không?
Chị Nga kêu lên kinh ngạc:
- Trời ơi! Không được đâu, anh! Em van anh, anh còn vợ con anh…
- Chuyện đó tính sau! Tĩnh tỉnh bơ, như không. Bây giờ cả nhà ta hãy vào cái cửa hàng ăn của ga, ăn cái gì đã. Anh đang đói đây. Tám giờ tối mới có tầu Quán Triều cơ…
Không để chị Nga kịp nghĩ ngợi, anh cứ kéo thằng Hận đi, làm chị phải chạy gằn mới kịp. Bây giờ người ta đã cải tiến, không còn phải xếp hàng nữa mà cứ ngồi một chỗ, sẽ có người đến hỏi xem anh muốn ăn gì. Họ ghi vào giấy rồi bưng ra tận bàn. Sướng thật! Tĩnh rung đùi. Trong lúc chờ người ta bưng cơm, phỏ ra, Tĩnh nhìn chị Nga cười cười, khiến chị đỏ mặt:
- Anh muốn đùa em một tí, nhưng bây giờ thôi, anh sẽ nói thật hoàn cảnh của anh. Anh lấy vợ được một năm thì sinh cháu gái. Nhưng thật đáng buồn cho số phận anh. Nghèo túng quá, hai vợ chồng cãi nhau suốt. Khi con gái anh được bốn tuổi, thì anh phải ký vào đơn để ra tòa. Cháu bây giờ ở với bà nội và đang học lớp Một.
Chị Nga thẫn thờ nhìn anh và hỏi một câu vô tình:
- Thế chị ấy bây giờ ở đâu?
- Lấy một anh lái xe khách, ở Quảng Ninh. Anh không gặp lại, nhưng nghe mẹ anh nói, họ cũng đã có một đứa con…
Chị Nga cúi nhìn xuống chân bàn, cố giấu nỗi nghẹn ngào:
- Thật tội nghiệp cho cháu bé, không được sống bên mẹ…
- Không có mẹ cũng khổ, mà không được sống với cha cũng là bất hạnh, khổ đau. Ước gì đừng có đứa trẻ nào phải thiếu văng cha mẹ…
Ăn xong, họ ra ngồi ở một cái ghế xi măng đợi tàu. Chị Nga thấy mình như bơi trong sự bất ngờ. Sau cùng, chị nói với Tĩnh:
- Anh ạ, em biết anh thương mẹ con em, mà em cũng rất quý trọng anh. Nhưng, anh chưa biết gì nhiều về em, dù chúng ta gặp nhau đã mười năm. Chị cười mỉm. Nói như kiểu của anh: anh chưa hề nắm được tình hình của mẹ con em, liệu khi biết rõ sự thật, anh sẽ nghĩ về em ra sao? Ngay bây giờ đây, em sẽ kể cho anh nghe về em. Để rồi, tùy anh suy nghĩ, quyết định …
Tĩnh nhìn chị Nga lộ rõ vẻ thông cảm, xen lẫn lo lắng:
- Em nói đi. Đến một lúc nào đó, anh cũng sẽ yêu cầu em nói hết, nhưng chưa phải bây giờ…
- Không! Em phải nói ngay bây giờ, ở đây, khi tàu chưa đến ga! Để châm một tí nữa thôi nữa sợ sẽ muộn!
Tĩnh mỉm cười, khuyến khích, và chị Nga cũng sợ rằng chị sẽ không thể nói hết, nên chị nói ngay:
- Thằng Hận không phải con của chồng em, mà nó là con của… bố chồng em. Nó được sinh ra khi chồng em đã có giấy báo tử được gần hai năm! Và, hình như có cái gì đó trái đạo, nên trời phạt, để thằng Hận là một đứa trẻ không bình thường…
Tĩnh sững sờ, nhưng anh không tỏ thái độ ngạc nhiên, khiến chị Nga nghĩ hay là anh ấy đã rõ mọi chuyện…? Chị kể lại tất cả, chậm chạp, rõ ràng và tỉnh táo. Tĩnh im lặng, dường như để tôn trọng nỗi đau mà chị Nga phải gánh, trong khi đó, thằng Hận gối đầu lên đùi anh, ngủ ngon lành.
Chị Nga ngừng kể đã lâu, nhưng Tĩnh vẫ không lên tiếng, anh nhìn xa xăm vào đâu đó. Chị Nga lại thấy hoang mang, nhưng không dám hỏi. Chị đang hình dung ra khi Tĩnh đặt trả thằng Hận lại cho chị, lặng lẽ cầm cái túi hành lý của mình, đi về phía con tàu xuôi…
Bất thần, có tiếng loa ọc ạch của nhà ga thông báo có chuyến tàu ngược, và tiếng bánh sắt nghiến rầm rầm trên đường ray, Tĩnh lay lay thằng Hận:
- Đồng chí! Dậy thôi nào! Dậy về thăm ông ngoại nào!
Nó vẫn say ngủ oặt ẹo, Tĩnh đưa cái túi cho chị Nga, nói nhỏ:
- Em cầm cho anh, để anh cõng thằng con trai lên tầu. Đánh thức bây giờ tội nghiệp nó.
Chị Nga lặng lẽ đi theo, như một đứa trẻ ngoan!