Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 4

Anh Kỳ kể:
-Sau khi cưới nhau được già nửa năm, chính xác là sáu tháng với mười sáu ngày, tôi nhập ngũ. Lần này do chính tôi xung phong, có người can ở lại chờ vợ có mang rồi hẵng đi cho chắc chắn có người nối dõi. Nhưng tôi không nghe, bởi thấy nó cứ thế nào ấy. Cậu thấy không? Tất cả dù lý do chính đáng thế nào đi nữa, có hợp lý đến đâu, trong hoàn cảnh ấy đều không hợp tình. Ba tháng huấn luyện ở Phú Bình, vợ tôi có sang thăm hai lần, tôi tranh thủ xin về nhà được một đêm. Sau đó là đi B...
Cậu hỏi chúng tôi có yêu nhau không ư? Về phần tôi thì không cần nói cậu cũng hiểu. Một người con gái như Nga, theo tôi nghĩ, một của hiếm. Không phải tôi tự khen đâu, mà tôi là người hiểu được Nga, yêu Nga. Còn về phần Nga, tôi cũng không biết cô ấy có yêu tôi không? Yêu vì cái gì? Chắc cậu cho rằng đã là vợ chồng rồi, cái tình, còn thêm cái nghĩa, lại còn lục vấn nhau làm gì nữa? Nhưng những lúc gian khổ ác liệt như thế này, bên cạnh nỗi nhớ da diết, tôi cứ hay tự hỏi mình, rồi lại nhủ rằng nếu may mà còn sống trở về, thể nào tôi cũng hỏi Nga câu ấy.
Học hết lớp bảy tôi vào học trường trung cấp nông nghiệp tỉnh. Trường tôi sơ tán gần trường sư phạm chỗ Nga học, chắc cậu biết? Hồi bé tôi cũng là học trò của thầy Hoan, nhưng tôi không biết thầy có cô con gái là Nga. Một lần đi lên trường, tình cờ chúng tôi lại cùng đạp xe trên quãng đường dài và cùng ngồi nghỉ tại cái quán anh Gù ở Lương Sơn, vừa bán nước vừa bán vé xổ số. Hỏi ra mới biết người làng, Nga học năm thứ nhất, còn tôi sắp sửa ra trường. Thế rồi thỉnh thoảng, chúng tôi có gặp nhau, nhưng không hề có tình ý gì.
Sau khi tốt nghiệp khóa trung cấp cơ khí nông nghiệp, tôi được điều về xã nhà. Rồi Nga cũng về dạy ở xã. Tôi tiến bộ khá nhanh, vào Đảng, vào cấp uỷ rồi phó chủ nhiệm. Mấy lần tuyển quân, tôi đều được đảng uỷ xin hoãn cho ở lại vì lý do công tác và cha mẹ già không ai trông nom. Tôi say mê công tác, trước mắt là cái ghế bí thư xã đoàn đang chờ, cho nên cũng chưa muốn dính vào chuyện vợ con, mặc dù ông bà cụ tôi mong lắm, giục tôi bao lần. Và rồi tôi gặp lại Nga khi đến làm việc với ban lãnh đạo trường cấp II. Nga cũng nhận ra tôi ngày giữa đám đông các vị quan quyền hai bên, chúng tôi cứ như là hai kẻ tri kỷ lâu ngày gặp lại. Tôi đến thăm Nga, khi thì ở trường, khi thì ở nhà. Mỗi lần tôi đến nhà, thầy Hoan tìm cớ ra vườn không rõ là thầy muốn cho chúng tôi được tự do trò chuyện hay thày không thích nói chuyện với tôi? Cứ thế, nửa năm sau tôi đặt vấn đề với Nga:
-Nếu em không chờ đợi ai, anh muốn ngỏ lời lấy em làm vợ?
Tôi nghĩ thế nào Nga cúng phản ứng, hoặc là bùng nổ chối từ, hoặc là e lệ chấp thuận. Nhưng không, Nga thản nhiên cười với tôi:
-Em không chờ ai, không hẹn ai, từ trước đến giờ, và kể cả từ giờ về sau!
Lồng ngực tôi bỗng trống trải và lạnh toát. Rồi sau đó lập tức cơn tự ái bùng lên. Trong một cái làng bé nhỏ như cái làng Sơn Cốt của chúng ta, có biết bao cô gái trông ngóng hy vọng vào tôi, vào một con người vừa khỏe mạnh, sáng sủa, lại có chút ít chúc vụ. Vậy mà một cô giáo cấp hai, đẹp nhưng không sắc nước hương trời, lại không có mẹ, không biết mẹ là ai, dám từ chối lời cầu hôn của tôi? Vậy ra tôi không xứng đáng với cô ấy ư?
Anh Kỳ ngồi dậy, châm một điếu thuốc, rồi im lặng. Tôi dè dặt:
-Em biết!
-Cậu biết gì? Anh ngạc nhiên hỏi tôi.
Tôi định nói: "Em biết chị Nga có một lời nguyền!" nhưng không hiểu sao tôi lại nói lảng:
-Em biết tính chị Nga, ngang bướng từ bé, có lẽ tại được thầy Hoan chiều!
-Không phải! Nga không được chiều chuộng, mà trái lại, cuộc sống của cô ấy khắc khổ từ tuổi thơ, bên cạnh một người cha khắc khổ. May mà cơn tự ái của tôi không bung ra thành lời nói. Tôi cố gắng nghĩ về điều mà Nga vừa nói. Không chờ đợi ai, cũng có thể hiểu rằng không có ai mà chờ! Theo cách hiểu ấy, tôi tự tin hơn:
-Thế nhưng từ hôm nay, em sẽ có người để chờ đợi!
-Anh tự tin quá đấy!
-Anh có được sự tự tin ấy chính là nhờ ở đôi mắt em khuyến khích! Tôi tranh thủ giành thế chủ động. Có thể lý trí bảo em không nên lấy anh, vì anh là người có chức trong xã, sợ mang tiếng là người hám lợi. Nhưng trái tim em, đôi mắt em lại nói điều ngược lại...
Tôi thật sự ngạc nhiên là tại sao lúc đó mình lại nói được những lời có cánh như thế? Có thể là tôi đã đọc được ở đâu đó, để rồi trong phút hoang mang, nó chợt kéo về cứu giúp mình. Quả nhiên Nga im lặng. Tôi liều lĩnh ôm choàng lấy Nga, trong góc khuất của ngọn đèn dầu phòng không, tôi hôn tới tấp vào mặt, vào môi, vào bất kỳ chỗ nào mà tôi đặt môi tới được. Nga vùng vẫy, giẫy giụa một cách tuyệt vọng. Và rồi sau đó, cuối cùng cả hai đứa cùng thở dốc mệt nhoài...
Sau lần ấy, Nga tiếp tục không giữ được mình nữa, cô nói thật với bố. Thầy Hoan im lặng, chỉ đến khi Nga thật sự tuyệt vọng ông mới nói:
-Vợ chồng là cái duyên, cái phận, không ai cản được, và cũng không thể gán ghép, ép buộc. Con đã chọn anh ta thì bố biết nói sao. Chỉ có điều từ nay, coi như bố không còn con, mà con cũng không trông cậy được vào bố. Làm dâu cái đất này là khổ nhục lắm. Vì thế bố thương con...
Cũng may cho Nga là cô ấy là người nhà nước, có gạo, có lương. Lấy nhau rồi, tôi mới biết là Nga cũng yêu tôi...
Anh Kỳ còn nói nhiều chuyện, nhưng tôi không còn nghe được gì nữa. Nỗi buồn cứ chà qua xát lại ở mãi tận đâu đâu trong ngóc ngách tim tôi. May mà anh Kỳ là người tử tế, nhưng vô tâm nên không đem lại hạnh phúc cho chị Nga cuả tôi. Sao anh không biết rằng chị Nga của tôi, nàng Nga yêu dấu của anh, không còn là cô giáo nữa, mà trở thành một nông dân, cái bóng mập mờ trên cánh đồng Lưu Lạc?
Những hạt mưa cuối cùng của mùa mua miền Đông Nam Bộ, làm cho hơi rừng dịu lại. Tôi nhắm mắt thật chặt để tìm giấc ngủ nhưng khó quá. Võng bên kia, anh Kỳ đã ngáy.
Sáng hôm sau, tôi và anh Kỳ, chúng tôi chia tay nhau, hẹn ngày gặp lại ở quê nhà. Nhưng, ngày trở lại làng quê, chỉ còn tôi, mà không có anh Kỳ. Anh đã vĩnh viễn nằm lại ở một góc khuất nào đó trong một khu rừng nguyên sơ của đất nước.
Trong cái đêm hãi hùng ấy, chị Nga đã vật vờ như một bóng ma đẫm người sương lạnh. Chị hầu như không biết mình đang ở đâu, và không nhớ những gì đã xảy ra đêm qua với mình. Mãi gần sáng, có tiếng người giục trâu đâu đó ở phía đồng bãi, chị mới dần dần tỉnh trí lại. Trong bộ quần áo trắng mong manh, đầu tóc rũ rượi, chị lần men theo rìa làng như một kẻ tà gian về nhà. Ở khúc đường ngoặt, một vài người đàn bà đi chợ sớm trông thấy chị đã vội vã nép mình vào bờ rào sợ sệt. Khi chị Nga lướt qua trước mặt họ, chị nghe thấy tiếng các bà hoảng hốt hỏi nhau:
-Ai như cô giáo Nga, con dâu cụ Tuân Kỳ ấy các bà ạ!
-Chắc là phải rồi. Nhưng mà cô ấy đi đâu về sớm thế nhỉ? Lại có vẻ vụng vụng, trộm trộm thế nào ấy!
-Dễ thường cũng mèo mả gà đồng...
-Chớ có nói thế, các bà ạ. Cô giáo Nga là người đứng đắn, nói thế mà phải tội!
-Ối dào, thời buổi loạn lạc, có chính chuyên đứng đắn mãi cũng bằng hoài công. Chứ còn gì nữa, anh con trai cụ Tuân báo tử hồi đầu năm. Rồi cô ấy cũng phải cắp nón mà về nhà mình, may ra còn kiếm được đám nào...
-Tội thân thật đấy! Đang làm cô giáo ăn lương nhà nước mà phải bỏ về cắm mặt xuống bùn, song sóc hai cái thân già nhà chồng. Bây giờ lại góa bụa...
Tiếng kẽo kẹt của đòn gánh, tiếng lộc cộc của thúng mủng cứ nhịp nhàng cùng với nhũng lời bàn tán giăng ca của các bà chợ búa lọt hết vào tai chị Nga. Chị chạy tắt qua dõng ngô vào vườn bằng một đạng rào sau nhà, hụt hơi ngã vật vào cây rơm trong vườn. Hơi ấm từ cây rơm tỏa ra làm chị nóng dần lên và bình tâm trở lại. Chị Nga cứ ngồi như thế và chợp mắt đi một chốc, cho đến khi có tiếng lợn kêu đòi ăn và đám gà trống, gà mái đuổi nhau tứ tán xung quanh cây rơm, chị bừng tỉnh. Phải làm gì bây giờ? Chị uể oải đứng dậy rón rén vào buồng. Căn nhà tối om, không biết ông lão Tuân đang ở đâu? Chị lặng lẽ thay quần áo, cuốn sơ đầu tóc rồi vội vàng xuống bếp bắc nồi cháo cho bà mẹ chồng. Thấy động, bà lão lồm ngồm ngồi dậy, chăn màn vung vãi xuống cả đất:
-Vợ Kỳ đấy à? Sao hôm nay dậy muộn thế?
-Dạ, con hơi mệt! U ăn cháo muối hay cháo đường?
-Cháo muối mãi cũng chán. Nhưng tiền đâu ra mà mua đường hả con?
-Hôm qua anh Sửu ở uỷ ban mới đưa tiền "tử sĩ". Được sáu chục đồng, thày con đang giữ. Nghe thấy hai tiếng "tử sĩ" bà lão lại mếu máo:
-Khổ tôi không hả giời! Tôi bán con tôi được sáu chục bạc thế này à?
-Thôi, u đừng làm ầm lên nữa. Chị Nga hơi gắt, và chính chị cũng ngạc nhiên là sao hôm nay mình lại gắt với mẹ chồng. Chị dịu dọng lại. Con định xin tiền thày mua cho u hai cân đường, còn thì xem may cho u bộ quần áo mới...
Bà mẹ chồng giãy nảy:
-Thôi đi chị ơi! Tôi không ăn đường cát đâu, có mua thì mua cho tôi hai miếng đường phên được rồi. Còn quần áo thì may làm gì, tôi đi đâu mà mặc. Hay là các người định may cho tôi mặc xuống lỗ đấy. Ừ, khéo thường thế thật! Tôi cũng chả muốn sống nữa. Kỳ ơi! Con ơi...
Thực lòng, bà cụ Tuân rất thương chị Nga. Thử hỏi rằng, có ai thương người đàn bà, bằng một người đàn bà. Thuở xưa, chính bà cụ Tuân, lúc còn trẻ, lấy ông lão Tuân cũng là người phải làm dâu gia đình nhà chồng. Lúc ấy, cả bố mẹ chồng bà còn sống. Có ai hiểu được nỗi lòng người con gái làm dâu hơn bà mẹ chồng. Từ tơ mơ sáng bà đã phải dậy băm bèo, đặt nồi cám lợn. Rồi còn phải luộc một nồi khoai lang để cho chồng, anh Tuân ấy, bỏ vài củ vào túi đánh trâu ra đồng. Mà phải làm thật chính xác, thât nhẹ nhàng, bởi vì chỉ cần một tiếng động nhỏ là bị chửi. Không chửi té tát thẳng vào mặt đâu, nhưng bằng những câu nói mát, xỉa xói rất dễ làm người ta bực mình. Cả hai ông bà đều không ngủ được, họ già rồi, họ ngủ chán ra rồi, chính họ cũng biết thế nhưng lại cứ kiếm cớ, đổ cho con dâu "đá thúng, đụng nia", là kẻ gây hấn. Con lợn trong chuồng, nghe động xoong nồi là gầm rít lên, cái giống súc vật là thế. Bà mẹ chồng cũng biết thế, nhưng nào bà có chịu là thế đâu. Trong lúc quờ quạng với cặp mắt nhập nhèm, bà đứng trên hè, giống giả bằng cái giọng khê khê:
-Chị nhiêu ơi, chị nạt cái con lợn toi vật ấy một tiếng cho nó câm mõm nó lại cho tôi nhờ cái nào!
Ấy thế mà một lần, chị nhiêu Tuân cầm cái cặp đùa bếp đập vào cọc chuồng lợn mắng nó:
-Toi vật! Có câm cái mõm lại không nào! Ăn gì vào lúc này mà gầm rít lên thế...
Nào ngờ lúc ấy, bà cụ đang mải miết "tồ tồ" sau gốc chuối, cạnh chuồng lợn. Nghe nàng dâu mắng con lợn, bà cụ đã "mát mẻ":
-Ấy, chị ơi! Cả cửa cả nhà nhà tôi cóp nhặt mới nuôi được nó bằng tưng ấy đấy! Toi mà vật mất nó thì biết trông vào đâu...
Sau này, khi có con, chị Thông, chị Diệu, rồi anh Kỳ lần lượt ra đời, bà Tuân đỡ khổ được đôi phần. Không, bà vẫn khổ, nhưng cái cực khổ có phần "dễ chịu" hơn. Có con, bà bấu víu vào con, không còn chịu cảnh xỉa xói, mát mẻ như trước. Nhưng một nách mấy đứa con thơ, chả bao giờ bà được ăn miếng cơm cho ra miếng. Đến bữa, hai chân cặp con, để cho nó ngồi trước mặt, bà nhắm mắt, nhắm mũi vào mà và lấy, và để, mặc kệ, sắn, khoai, cơm, củ... lộn nhộn, lạo nhạo, miễn là lưng lửng bụng. Để rồi lại quẳng con đấy, lao ra đồng... Gia đình nhà chồng, bà mẹ chồng, "vuốt mặt còn nể mũi", có hành hạ hay dè bỉu con dâu, cũng phải kiêng những đứa cháu nội...
Gia đình ông Tuân là nhà gia giáo, có của, có danh... Một thời xa xưa, chính ông Tuân cũng đã từng giang hồ lưu lạc, theo một bà cô đi buôn bán khắp mấy tỉnh thành. Sau ngày vỡ đồn Tây (tháng Tám năm 1945) ông mới trở về làng. Lúc lấy ông Tuân, người ta đã bảo bà sẽ sướng, và sướng là thế! Nhưng ở cái làng Sơn Cốt của chúng tôi, cái truyền thống đáng nguyền rủa hàng đời, hàng đời nay về sự đầy ải con dâu và sự ăn miếng, trả miếng giữa nàng dâu mẹ chồng đã ăn sâu vào trong tận xương trắng, tủy đỏ rồi, biết đến bao giờ mới gột đi được? Người ta gia giáo ở tận đẩu, tận đâu ấy chứ người đàn bà, nhất là thân phận người đàn bà làm dâu có khi nào được hưởng. Những tưởng là những người đã đau khổ chất chồng bởi cảnh làm dâu rồi thì sau này họ ngồi ghế mẹ chồng, thì "lòng vả cũng như lòng sung", họ phải thương lấy con dâu, nhưng ngờ đâu, họ lại dẫm vào cái dấu chân tai ác ấy như con trâu trên đường lầy, họ cứ nhè những bước của "tiền nhân" mà xử với những người đàn bà có chung số phận. Cứ như thể là trả thù vậy! Không phải ngẫu nhiên mà người ta còn truyền nhau cái câu: mất tiên mua mâm thì đâm cho thủng! Không muốn, họ cũng phải là "kẻ thù truyền kiếp" của nhau!
Thế hóa nên, bà lão Tuân có thương chị Nga thật đấy, nhưng cái miệng bà lúc nào cũng oai oái, làm như mọi tội lỗi bà phải mang, mọi tai ương bà phải gánh đều do chị Nga của tôi đem lại.
Chị Nga đặt nồi cháo xong, múc cám chăn lợn. Chị đứng hồi lâu ở chuồng lợn, vừa cho nó ăn vừa gãi gãi trên cái bờ gáy rậm rịt những sợi lông cứng của nó. Con lợn im lặng, thỉnh thoảng nó lại hặc mõm về một bên như đứa trẻ hờn. Trong nhà này nó cho chị là người chủ thân thiết, và rồi chị Nga cũng coi nó như người bạn. Đôi khi công việc ngập chân tay, nhưng chị vẫn dành cho nó vài phút. Những lúc ấy, chị cảm thấy chính nó mới là nguồn an ủi của chị.
Phục vụ bà mẹ chồng xong, chị Nga lên nhà trên, không thấy ông lão Tuân đâu, chị vào buồng chải đầu và cẩn thận chít vành khăn trắng lên mái tóc đã bắt đầu cứng, có rất nhiều sợi chẻ ra làm hai, làm ba... dắt xe đạp ra cổng. Chị lưỡng lự giây lát rồi dựa xe vào bờ rào, quay vào nói với mẹ chồng:
-Thầy con không có nhà, con về bên bố con một chốc, u ạ!
-Ừ. Liệu mà về sơm sớm cơm nước con nhá. Giọng bà lão ngọt ngào một cách lạ thường, khiến chị Nga lấy làm ngạc nhiên.
Ra đường, tiếng lách tách của chiếc líp xe làm chị thấy vui vui. Ừ, chiếc xe đạp hiệu Thống Nhất, món kỉ vật mà người ta dành cho thầy Hoan, trước khi thầy nghỉ hưu, là quà tặng của thầy cho chị Nga, và đến khi chị lấy chồng, thì nó là của hồi môn rất đáng giá của thầy dành cho con gái. Chị vừa nghĩ ngợi lung tung, vừa phải tránh những vũng nước ổ gà và những hòn đá cuội "nhẵn như đầu ông sư" rải rác trên mạt đường. Một toán học sinh đi học về, đứng nép vào một bên, chúng thay nhau nhao nhao "Em chào cô ạ!". Chị Nga cười với chúng bằng nụ cười thật chua chát. Em chào cô ạ! Cô nào? Chị đã bao nhiêu lần nói với chúng rằng, chúng không phải chào chị nữa, và nhất là đừng "chào cô giáo" nữa, nhưng chúng không nghe! Liệu chúng có thật lòng không hay là chúng cố tình châm vào nỗi đau của chị? Và cũng rất có thể là chúng làm theo lời xui bẩy của một ai đó? Chao ơi, nếu thế thì thật là độc ác!
Chị Nga đạp xe về, không thấy bố trong nhà, chị gọi to:
-Bố ơi!
Có tiếng động phía bờ ao, thầy Hoan xắn quần quá đầu gối, tay cầm con dao đi lên:
-Nga đã về đấy hả con?
Chị Nga chỉ chờ có thế, gục đầu vào vai bố khóc nức nở. Thầy Hoan dìu con vào nhà, đặt chị xuống mép ghế rồi vỗ vỗ vào mái tóc có chít vành khăn trắng. Hai bố con chị Nga cứ ngồi như thế bên nhau có tới hàng giờ lâu. Thầy Hoan gỡ tay con gái ra khỏi vai áo mình, nói nhỏ:
-Nín đi con! Chiến tranh...
-Con khổ quá, bố ơi!
-Bố hiểu! Bố hiểu con gái. Mọi sự đã được sắp bày cả rồi, biết phải làm sao!
Chị Nga gạt những sợi tóc mai nhòe đẫm nước mắt, nhìn bố cầu khẩn:
-Bố hãy cho con một lời khuyên!
Thầy Hoan vân vê que đóm châm thuốc trong tay, ngẩn ngơ nhìn vào khoảng nắng ngoài vườn. Que đóm cháy leo đến đầu ngón tay khiến thầy giật mình, dụi nó vào bát điếu. Ngoài kia, xa xôi lắm ở tận nơi nào đó của làng quê, tiếng người gọi nhau nghe thật hối hả. Xa nữa là tiếng ầm ì của máy bay, không biết của ta hay của địch mà sao thanh bình làm vậy?
-Bố chỉ có mình con, nhưng bố đã không giữ được con bên mình. Điều này làm bố ân hận quá. Lại càng đau lòng hơn khi nhìn thấy con rơi vào hoàn cảnh éo le mà bất lực. Con hãy tha tội cho bố. Thầy Hoan khóc. Và mẹ con nữa, hãy tha tội cho ta... Lời khuyên của bố ư? Bố chỉ biết nói với con rằng: nếu con nhận thấy điều gì đúng thì con cứ làm!
Chị Nga nắm chặt những ngón tay gầy guộc của bố, ngước lên:
-Con biết bố muốn con phải làm gì rồi. Nhưng...
-Nhưng sao hả con gái?
-Thôi, bố cứ yên tâm. Bố hãy kể về mẹ cho con nghe đi!
Thầy Hoan nhìn con gái, ngạc nhiên:
-Bố đã kể rồi mà!
-Bố cứ kể lại cho con nghe, xin bố hãy kể hết, và đừng giấu con điều gì. Nhất là về cái chết của mẹ...
Thầy Hoan thở dài nhượng bộ:
-Thôi được, bố sẽ nói cho con biết. Sau khi sinh con ra được hai mươi ba ngày, mẹ con qua đời. Đúng là không phải mẹ con chết vì bệnh hậu sản như bố đã nói với con...
-Vậy thì vì cái gì hả bố?
-Chính vì lưỡi dao của ông ngoại con, cha của mẹ con!
Chị Nga rùng mình ôm chặt lấy đầu gối bố, đôi mắt nhắm nghiền, giọng thoang thoảng:
-Kinh khủng quá! Thầy Hoan tiếp tục nói như nói cho chính mình nghe. Ngày ấy bố và mẹ con phải lòng nhau, nhưng không được ông ngoại con đồng ý. Vì bố là người xa lạ, tứ cố vô thân, hơn nữa lại là người lính, rày đây mai đó, sống chết khôn lường. Nhưng tình yêu đã làm hai người mù quáng, mẹ con đã mang hình hài của con trong bụng. Gần đến ngày sinh con, mẹ con đã tìm bố. Rồi chúng ta đưa nhau vào một cánh rừng, bố dựng lên một cái lán nhỏ. Ở nơi ấy con đã cất tiếng khóc chào đời. Hai mươi ba ngày sau, khi bố đi vắng, lúc trở về, thấy mẹ con đã nằm bên vũng máu còn con thì giãy đạp bên cạnh, người cũng đỏ lòe máu tươi. Lúc ấy mẹ con chỉ còn thều thào:
-Hãy đưa con đi khỏi nơi này! Đừng oán giận cha em, ông đã tuyệt vọng vì đứa con duy nhất!
Sau khi chôn mẹ con, bố nghe tin ông ngoại cũng đã tự tử. Bố bồng con đến trước mộ ông ngoại, nói lời vĩnh biệt rồi ôm con ra đi.
Hai bố con chị Nga cùng ngồi bất động hồi lâu. Nắng đã lùi xa khỏi thềm nhà, mùi ngải cứu trên đầu giường thầy Hoan tỏa ra hăng hăng. cho đến lúc chị Nga lay bố:
-Bố ơi! sao bố không xử con như ông ngoại đã xử với mẹ?
-Không! Không bao giờ rồ dại lặp lại những điều bi đát!
-Nhưng lại có những bi đát khác?
Thầy Hoan xoa đầu con gái:
-Đúng là có những cái bi kịch khác nhau mà chúng ta khó tránh khỏi. Nhưng bố tin rằng rồi thế nào cũng phải có một lối thoát. Thôi trưa rồi, con có ở lại ăn cơm với bố không?
-Con phải đi thôi bố ạ!
Khi chị Nga sắp nón dẫn xe ra cổng, thầy Hoan đưa cho chị cái gói nhỏ, buộc lỏng lẻo:
-Bố có cân đường, tiêu chuẩn hưu, con cầm lấy mà uống nước...
-Con xin bố! Con thương bố quá! Thôi, con đi đây!
Chị Nga dựa xe đạp, khẽ đẩy dịch bức liếp, lách người vào nhà. Từ ngoài nắng vào trong mát, mắt chị hoa lên, chưa nhìn rõ mọi vật trong nhàvừa trống trải vừa ẩm thấp. Chợt chị nghe có tiếng động mạnh như người giãy đạp và tiếng người nghẹt thở. Thoạt đầu chị tưởng tiếng con lợn đánh hơi thấy chị về, nhưng không phải. Chị hốt hoảng nhận thấy cả mấy cái duổi nhà cùng rung lên. Có chuyện không lành rồi! Chị Nga lao vào buồng, nơi vẫn để thóc, sắn khô, nồi thau đồng, và một cảnh tượng kinh hoàng đã hiện ra trước mắt chị: một thây người gầy rạc đang treo lủng lẳng trên quá giang nhà. Chị Nga vội quay ra giật phắt cái liềm cắt lúa vẫn gài trên mái gianh từ sau vụ gặt, nhảy vào trèo lên bồ thóc, một tay đu người trên mái nhà, tay kia chị ngoặc cái liềm vào sợi dây ra sức cứa. Sợi dây đứt, cái thân người đổ uỵch xuống nền buồng. Đó là ông lão Tuân! Chị Nga cởi mạnh cái nút dây thừng rồi bế thốc ông lão đặt lên giường. Toàn thân ông lão hãy còn nóng, chị Nga nghiêng người ghé tai lên ngực nạn nhân. Chị im lặng đứng dậy: tim hãy còn đập! Chị Nga tìm cái quạt nan quạt mạnh lên mặt ông lão Tuân, rồi chị lấy hai đầu ngón tay cái day mạnh hai bên thái dương. Được một lúc, có tiếng thở khò khè của ông. Như sực nhớ ra, chị đứng dậy lấy trong cái túi của mình ra gói đường bọc trong giấy báo mà ông bố mới cho, tìm cái cốc thủy tinh sứt sẹo, pha một cốc nước đường, nâng đầu bố chồng dậy, kề cốc nước vào miệng. Tất cả những động tác, những việc làm của chị Nga chính xác, khéo léo diễn ra dưới vẻ mặt lạnh lùng, bình thản, tựa như một bác sĩ đang làm chức trách của mình. Và khi thấy sức lực ông lão Tuân dần dần lấy lại, chị ánh lên một nét cười trên vành môi của người vừa hoàn thành một công trình sáng tạo.
Ông lão Tuân mấp máy môi, uống từng ngụm nhỏ. Bỗng, lão nấc một tiếng dựng người lên, rồi nôn thốc tháo ra tay chị Nga. Một dòng nước đỏ lòm trào ra miệng lão, nghiêng xuống cái ngấn cổ nhăn nheo đang bắt đầu sưng vù lên.
Nghe tin ông lão Tuân ốm, bà con đến thăm chật nhà, không kém gì cái ngày báo tử anh Kỳ. Ông Tuân ngồi dựa vào thành giường, chùm chăn kín đôi chân đến ngang bụng, cổ quấn cái khăn phu-la màu gụ, thở khò khè, không nói được hỉ gật đầu đáp lễ những người đến thăm. Chị Nga tất tưởi chạy lên nhà trên xuống nhà ngang, nơi hai ông bà bố mẹ chồng đang cùng nằm liệt chiếu. Đun nước, chào đón khách, một tiếng rên nho nhỏ ở phía nào chị cũng phải có mặt.
-Chị Kỳ này, chết thật, làm sao mà để cụ đêm hôm một mình không trông nom, đến nỗi này? Một bà thím họ xa, ăn trầu cắn chỉ, trề đôi môi mỏng ra chành chẻ.
Chị Nga cúi nhìn vạt áo, rơm rớm nước mắt:
-Thưa thím, tại cháu sơ ý!
-Ừ, lần sau nhớ cẩn thận đấy, các cụ già yếu, lại cô đơn một mình một bóng, con cái đứa lấy chồng thiên hạ, đứa hy sinh ngoài mặt trận. Tất cả đều trông vào chị thôi đấy!
-Vâng ạ!
Rồi chị tất bật đi ra, từ non trưa đến chiều tối, mãi đến quá khuya, chị mới được ngả lưng. Đặt mình nằm xuống cái giường chị lại giật thót người, chỉ muốn vùng dậy phóng ra ngoài. Có đêm, chị như người lẩn thẩn, vùng dậy chạy vào bếp vục cám cho lợn ăn. Con lợn bị đánh thức ngái ngủ dụi dụi cái mõm vào tay chị, rồi uể oải xốc cám. Nó hình như cũng muốn chiều chị mà ăn, còn chị, hàng giờ liền ngồi vừa vun cám cho nó ăn, vừa gãi gãi trên cái bờm có những sợi lông thưa và cứng của nó. Hai hôm sau ngày ông lão Tuân ốm, một vị đại diện thường trực uỷ ban xã đến thăm. Tiếng ông ta oang oang, rõ ra là tiếng cười nói của người đắc chí từ ngoài đầu ngõ:
-Thế nào? Cô giáo Nga đâu? Cụ nhà mỏi thế nào?
Chị Nga lật đật chạy ra, tay cầm cành rong đuổi chó:
-Bác lại chơi!Ấy chết bác đừng gọi em là "cô giáo" nữa. Em có còn dạy dỗ gì nữa đâu ạ...
-Ừ hừ! Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, cô là cô giáo thì chúng tôi mới dám gọi. Như ông Bếp Hồng ở ta đấy, cô có biết không? Ông ấy đi lính cho Pháp làm đến chức "bếp", về làng đã lâu, mà ai cũng gọi là ông Bếp Hồng đấy thây!
-Người ta khác, em khác. Xin bác cứ gọi em là Nga thôi ạ!
-Ừ, thế cũng được. Cụ nhà nằm đâu?
-Mời bác vào, ông cụ nhà em ở trên nhà trên.
Ông thường trực uỷ ban gạt cái chân trống xe đạp phượng hoàng đứng giữa sân, úp cái mũ cối bộ đội lên ghi- đông rồi vào nhà:
-Chào cụ! Nghe tin cụ mỏi, anh em trên uỷ ban cử tôi đến thăm cụ đây!
Ông lão dọ dạy ngồi nhớm lên, hướng đôi mắt lo âu về phía khách, môi mấp máy không thành tiếng.
-Cụ cứ nằm nghỉ, không sao! Ông khách ghé ngồi vào một bên thành giường. Chết thật, bệnh tình thế này mà không chạy chữa là khốn. Hay để tôi bảo cô Sáu trên trạm xá xuống khám cho cụ nhá?
Ông Tuân bất ngờ rút tay ra gỏi chăn, huơ huơ ra chiều không đồng ý. Thình lình cái khăn phu-la trên cổ tụt xuống, làm lão hoảng hốt, kéo vội nó lên. Vừa lúc ấy chị Nga cũng từ nhà ngang đi lên:
-Thày! Thày làm sao thế?
-Cổ cụ làm sao mà tím bầm lên thế, hả cô giáo?
Ông lão Tuân cố hết sức bình sinh:
-Đá...nh gio... ó...!
-Gió à? Ông khách cười. Ừ, dạo này gió lạnh về đêm, đi ra ngoài lại có tuổi như cụ, hay bị cảm lắm đấy. Phải không cô giáo?
-Dạ, bác nói phải ạ!
-Thôi thế này, uỷ ban có cân đường gọi là chút quà thăm nom, gửi cụ uống nước. Ông lục túi áo đại cán lấy ra cái gói nhỏ. Còn đây là của tôi, lạng mỹ chính Việt Trì hôm đi tập huấn nông nghiệp ngoài huyện được mua. Cô giáo cầm lấy, thỉnh thoảng cho vào cháo cho cụ ăn...
-Vâng, em xin bác, cám ơn bác và các bác"ngoài" uỷ ban!
-Cụ nằm nghỉ, chịu khó ăn vào cho khoẻ. Tôi phải đi sang Thống Hạ xem mạ mon thế nào đây. Đấy, lại còn phải liên hệ cho nhà trường Đại học gì ấy, ở Hà Nội về sơ tán. Gớm, sau cái thằng Giôn-xơn, đến cái thằng Ních-sơn này nó còn ác liệt lắm đây! Mẹ cha chúng nó! Nhà ta còn hầm chứ?
-Dạ còn ạ!
-Ừ. Thôi chào cụ, chào cô giáo, à tôi cứ hay quen mồm, chào chị Kỳ!
-Vâng, bác lại nhà!
Rồi khách khứa cũng thưa dần, nhưng cái dấu dây thừng trên cổ ông lão vẫn còn bầm tím khá lâu. Cho đến khi ông lão Tuân đã đứng dậy đi lại được trong nhà, trên cổ ông vẫn xù xù cái khăn phu-la. May mắn cho ông lão Tuân, cho cả mình nữa, chị Nga thầm nhủ, nó là cái sợi chạc trâu bằng dây nâu đã ải lại cứng chứ mềm như sợi vải thì chắc chả kịp. Phải tay mình, chị Nga cười, mình sẽ tìm một sợi lụa trắng, phải rồi, sợi lụa bạch để ra đi cho thanh sạch!
Khi ông lão khỏi hẳn, trong lúc chỉ còn hai người cần phải nói với nhau điều gì, chỉ có chị Nga lên tiếng trước.

Dòng tin thời sự nóng hổi và cực kỳ hấp dẫn lan truyền như một làn vi ba âm ỉ xuyên suốt từ nhà này sang nhà kia, qua những bức tường đất, qua những mái rạ đến từng người dân, đàn ông, đàn bà và cả người già, trẻ con. Tất nhiên là chị Nga không nghe thấy, nhưng có lẽ vì không nghe được những lời đồn đại ấy nên chị càng đau đớn quằn quại. Trong ngôi nhà lợp lá cọ dặm lá mía ướt sũng nước mưa, thầy Hoan âm thầm phục vụ con gái. Thầy vui hay buồn, đau khổ hay hạnh phúc? Có lẽ cả hai, bởi cho nên thầy không nói nhiều, nhưng nhìn con gái ôm con, thầy ánh lên một nét cười trong bóng tối.
Có một người, đó là bà Phán Lan, người đã đón tiếng khóc của cậu con trai đem đặt vào tay chị Nga, không, bà đặt vào tay thầy Hoan trước đã:
-Ông bế cháu tý nào! Thằng chó mới hay làm sao!
Cứ thế bà suýt soa, đến nỗi thầy Hoan cũng cảm thấy "thằng chó" mới hay làm sao. Một ngày hai buổi, bà Phán chạy vào giặt giũ, cơm nước cho chị Nga. Thầy Hoan phải chắp hai tay vào nói với bà:
-Bà để tôi làm, tôi làm được. Ba làm tôi áy náy quá!
-Giời đất ơi! Ông giáo mới là người hay! Chuyện váy máu, đàn ông đàn ang, ai lại dúng tay vào. Ông giáo khỏi phải lo, tôi làm là làm phúc cho con cháu tôi, chứ ân với huệ gì. Nói để ông giáo yên lòng, đời tôi còn chua chát bằng vạn ấy chứ, mà nào có thằng nào con nào cắn gấu váy tôi đâu... Nào! xem thằng chó của bà thức hay ngủ nào?
Cứ thế bà Phán Lan xăng xái với những công việc khá là vất vả và phức tạp. Bà bê chậu quần áo tã lót ra ao Sen ngồi dạng hai chân lên cái cầu đá ngay sát đường đi mà vò, mà vỗ. Bà vỗ rõ to, cứ bồm bộp, bồm bôp... Đó là bà tự hào với việc làm phúc đức, nhưng lại thành ra trêu ngươi thiên hạ. Bà Th., cái bà đàn bà giàu có, có tiếng là hay thóc mách, khích bác, đi qua dĩ nhiên là phải ngứa mồm rồi:
-Ôi giời! Bà Phán đấy à, cứ tưởng ai người thiên hạ! Bà giặt giũ gì mà cứ quần quật thế? Lại có cả tã lót nữa. Con gái hay con dâu "vỡ chum" đấy?
-A à! Bà Th. đấy à? Con cháu gái tôi nó đẻ đấy bà ạ.
-Thế trai hay gái đấy?
-Trai! Trai mới quý chứ lị. Nó lớn lên nó lại vào Nam đánh nhau, chứ nó lại thèm trốn chui trốn nhủi như khối thằng sợ chết ở cái làng ta bà nhỉ...
Bà Phán Lan cười, tiếng cười cứ lanh lảnh, tự nhiên, một mình, đến nỗi chỉ nghe bà cười, người ta cũng phải cười dù chả biết bà cười gì.
Cuộc đời chị Nga của tôi lại tiếp tục rẽ vào một ngõ ngoặt nữa trên con đường đời gập ghềnh đầy những bất trắc. Những ngày đầu tiên nhìn đứa con trai đỏ hỏn, ngọ ngoạy trong đám tã lót, chị không còn biết mình có còn tồn tại trên cõi đời này nữa. Cứ y như thể một cơn chiêm bao trong giấc ngủ ngày, muốn tránh đi nhưng cứ phải nhìn, muốn mở mắt ra thì lại chói loà, díu lại, muốn vùng dậy chạy đi mà chân tay cứ khòng khoeo, cuốn chặt. Nhưng rồi cái cảm giác ấy cũng dần dần qua đi. Từng tí một, chị Nga nhận thức được đây là sự thật chứ không phải chiêm bao, mộng mị. Chị ngồi dậy ngắm nhìn đứa con như ngắm nhìn một con thú nhỏ, lạ lẫm. Trên vầng trán xanh xao, thoáng hiện lên những nếp nhăn nghi hoặc ngờ vực... Cái sinh linh nhỏ bé kia nó động đậy, nó mở mắt ra rồi lại nhắm mắt vào, đùn những hạt nhử nhỏ tí màu vang ởn lên bờ đôi mí mắt không lông mày, lông mi và lớp da mỏng tang màu đỏ thẫm của máu. Và, không biết được rằng một giây, một khoảnh khắc vụt đến nào đó, chị Nga nhận ra rằng đó chính là đứa con của mình, nó chính là máu thịt của chị vừa trải qua một cơn đau đớn quằn quại, đau như cắt, như xé, như dứt. Phải rồi, đó chính là cơn đau vặt ngắt một mảng thịt xương đâu đó của con người chị để tạo ra nó. Ôi! Con tôi! Đúng rồi, con của tôi! Chị Nga đờ đẫn nghĩ ra điều đó rồi chị bồng nó lên tay, đưa nhè nhẹ và nước mắt trào ra, lã chã... Khi chị vạch áo tìm vú đưa vào miệng thằng bé, nó vội vàng hau háu cái miệng làm như đói khát lắm, nhưng chỉ vài cái mút nó vội vàng nhè ra để há cái miệng nhỏ xíu toàn lợi ra mà khóc. Chị rất kinh ngạc khi con mình khóc không ra tiếng. Chị cảm thấy nhức dữ dội hai bầu vú căng sữa. Chị đặt thằng con xuống góc chiếu rồi vạch vú quay vào tường vắt mạnh. Những tia sữa màu trắng đục bắn lên vách đất tạo ra hình thù kỳ quái, ngả dần sang màu đen.
Ba ngày sau chị Nga không về nhà, ông Tuân sốt ruột chống gậy ra ngõ ngóng. Một người nào đó ghé vào cho ông biết tin con d6u ông bị ngã xe ngoài đường, được đưa vào nhà bà Phán Lan. Ngày hôm sau, lại có tin cô giáo Nga băng huyết nặng lắm nằng nặc đòi về nhà bố đẻ là ông giáo Hoan. Ông lão Tuân sốt ruột quá, lo lắng quá. Căn nhà vốn đã vắng lặng, giờ càng trở nên đìu hiu. Ở dưới nhà ngang bà Tuân vẫn rên và gọi chị Nga. Khi được ông chồng báo cho biết chịNga bị ngã xe ngoài Ba Hàng, thì bà cắm cảu:
-Dửng mãi mỡ lên, đi đâu ra ngoài ấy để cho nó ngã?
Ông Tuân điên tiết:
-Có câm cái mồm đi không? Đã liệt giường liệt chiếu lại còn hay ác khẩu. Đi đâu à? "Người ta" đi cắt thuốc cho bà đấy! "Người ta" mà có làm sao thì bà cứ liệu cái thần hồn...
-Gớm nhỉ! Ông gọi "người ta" là ai thế? Không khéo lại đội nó lên mà thờ...
-Nằm im đấy! Có đói thì bảo, chứ đừng có mà rống lên như thế. Hai con lợn kêu cũng đủ rồi...
Ông Tuân quay ngoắt lên nhà trên vê thuốc lào. Mấy con gà con bị mẹ bỏ sớm đang tranh nhau nhảy nháo nhác lên vành cối xay, hy vọng vào những hạt thóc lép còn kẹt trong nan cối. Ông vung cánh tay yếu ớt lên xua chúng một cách chiếu lệ rồi móc cái đóm cài trên cánh rại, châm vào ngọn lửa yếu ớt của ngọn đèn con để cả ngày. Thuốc lào bắt lửa, lại được kéo gió mạnh, từ hai lá phổi còn khá tốt của ông lão, rực lên rồi từ đỏ chuyên sang màu trắng của tàn thuốc. Ông lão ngưng lại lấy hơi, rồi đưa cái điếu lên cao ngang mặt, rít một hơi cực mạnh, quyết định của một mồi thuốc. Khói tràn vào ngập ngụa buồng phổi, ở đó chừng một giây rồi lại kéo nhau ra cuồn cuộn, ở cả cái miệng rộng và hai lỗ mũi khoằm. Say! Thuốc lào bao giờ cũng say. Phải say mới là thuốc lào, say đến quên xung quanh, quên cả mình, cả điếu. Rồi tỉnh lại một cách nhanh chóng, nhưng sau say là một tâm trạng tỉnh khác hẳn, mới hẳn, không thật rõ ràng với trước đó, trước khi hút. Ai đã từng hút thuốc lào, chắc hẳn phải có cảm giác như thế.
Đang lơ mơ với khói thuốc, có tiếng con chó hực lên mấy tiếng rồi nhảy cẫng lên rên ư ử. Khách nào nhỉ? Con chó nó cong đuôi lên thế kia, đích thị người quen. Ông vùa tìm chỗ dựa cái điếu vừa ngẩng lên thì đã thấy người đàn bà bước vào. À, con mẹ Diệu.
Chị Diệu mặc quần phíp, áo sơ mi kiểu Hồng Kông, từ ngực trở xuống thẳng đuỗn, tóc rẽ ngôi lệch lưỡi trai. Trông chị đúng là mẫu người cán bộ thời ấy. Chị cũng làm chức gì đấy có chân trong ban lãnh đạo xã bên cạnh. Vừa dựa cái xe đạp vào thành bể nước, giọng chị oang oang:
-Sao bảo thày ốm đau thế nào? Gớm, con cũng bấn quá, nghe tin thấy vậy mà mãi hôm nay mới sang được.
-Vâng! Ông Tuân nói mát. Cả năm nay rồi mà chị mới vác cái mặt sang, giang sơn nhà chồng có bị làm sao không?
Chị Diệu đánh phệt xuống cái chổi rơm, cầm nón ve vẩy:
-Ối dào! Ốm, ốm như u con thì có mà chết người ta. Thế vợ Kỳ nó đi đâu rồi thày?
-Thấy bảo ngã xe đã vài hôm nay nằm bên nhà ông giáo Hoan...
-Khốn khổ, khốn nạn! Đi đâu mà tí tởn thế chả biết. Dễ thường lại tính đi bước nữa chắc?
Ông Tuân ngồi im, toan hút điếu thuốc nữa, nhưng thấy người vẫn còn say say lại thôi. Thấy bố không nói gì, chị Diệu tiếp:
-Ở bên ấy, con nghe người ta đồn về thím ấy nghe rác cả tai ra.
-Đồn thế nào?
-Còn thế nào nữa. Làm đỏm lắm cơ. Mà cái này mới ác mồm, chả biết có thật không?
-Cái gì thật với không thật?
Chị con gái nhỏm dậy ghé sát tai bố:
-Nghe bảo thím ấy... cô ấy chim cả... thày, có không?
Ông Tuân giương cặp mắt khói thuốc lên đờ đẫn nhìn con gái. Mãi sau ông mới buông một câu:
-La...áo...!
Non trưa, ông lão Tuân lọc cọc đẩy cánh cổng tre rệu rạo bước vào sân nhà thầy Hoan. Lúc ấy, đang bấy lại cái bu gà đã bị bung ra một góc, nghe động thầy Hoan ngẩng lên và cảm thấy máu trong người như dồn cục lại đâu đó trên thái dương. Tay vẫn cầm con dao cùn, thầy Hoan đứng dậy chào thông gia:
-Cụ sang chơi?
-Không dám, chào ông giáo!
Nhìn ông Tuân sọm xuống dựa cây gậy sắn vào cột hiên, thầy Hoan chưa nghĩ ra được một câu nào để khả dĩ đánh loãng cái không khí u uất, nặng nề đang đè nặng lên căn nhà ốm yếu, đè lên đôi vai mòn mỏi của thầy. Đến khi ngồi vào cái ghế khập khễnh, thở mấy nhịp ông Tuân lên tiếng:
-Cô Nga làm sao hả ông giáo?
Thầy Hoan bỗng rùng mình một cái như một thầy pháp, nhổm lên nắm tay ông Tuân lôi xồng xộc dậy:
-Mời cụ vào đây...
Ông Tuân không hiểu chuyện gì, định cưỡng lại nhưng vì ông thông gia kéo mạnh quá nên ông cũng phải theo. Hai ông già, lôi kéo nhau lò mò gò lưng chui vào cái cửa buồng tối om. Từ ngoài nắng, ông Tuân đang còn hoa mắt chưa nhìn thấy gì thì thầy Hoan đã vén tấm vải mục che vuông cửa sổ để một luồng sáng vàng bửng rọi vào đống tã lót đang ngọ ngoạy.
-Cái gì thế? Ông Tuân thì thào.
-Cụ vẫn chưa nhìn thấy gì à? Cháu tôi đấy! Thầy Hoan đĩnh đạc.
Ông lão Tuân giương hai mí mắt lên nhìn mà không tin vào mắt mình. Chị Nga giật mình ngồi thu mình vào một gốc chiếu như con mèo thủ thế. Im lặng trôi đi nặng nề.
-Cháu tôi đấy, cụ ạ! Thầy Hoan dõng dạc nhắc lại một lần nữa, tưởng ông Tuân thế nào cũng gầm lên. Nhưng không, ông Tuân cúi xuống nhìn sát vào mặt đứa bé rồi nhìn thẳng vào mặt chị Nga mà hỏi một câu thảng thốt:
-Trai hay gái?
-Trai! Chị Nga buột mồm, còn thầy Hoan thì hoàn toàn bị bất ngờ bởi câu nói khá hỗn của con. Thầy đứng lùi xa một bước nhìn hai người, ông Tuân và chị Nga nhìn nhau. Chợt tim thầy nhói lên đau đớn khiến thầy phải ôm ghì lấy ngực mình. Cơn đau dai dẳng quá, khiến thầy ngã phịch vào cái bao tải đựng sắn khô. Chị Nga vùng dậy ôm lấy thầy mà khóc:
-Bố ơi! Con giết bố rồi...
--!!tach_noi_dung!!--

Sưu tầm: Phụng Hoàng
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 8 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Anh Dậu của tôi Cánh Đồng Lưu Lạc Đi Qua Giao Thừa Hành hương Lan huệ sầu ai Một người Sài Gòn Người thợ sửa giày góc phố Phản Trắc Phiên Chợ Tết Cuối Cùng Triết lý thợ hồ