2.17. Sau ngày 4-6, Đặng nói với nhân dân hai câu: Dẹp động loạn là hoàn toàn cần thiết; chính sách cải cách mở cửa giữ vững không thay đổi
Ngày 4.6.1989, Đặng Tiểu Bình dùng biện pháp đặc biệt dẹp bỏ cuộc động loạn kéo dài 50 ngày. Biện pháp này xét về ổn định việc cải cách, đúng là đã dẹp bỏ được sự quấy nhiễu cải cách, nhưng đồng thời cũng đặt Đặng trước sự chỉ trích về đạo đức. Trước hết là nói với nhân dân thế nào đây.
Đặng đã nói hai câu:
1) Dẹp tan động loạn là hoàn toàn cần thiết.
2) Chính sách cải cách mở cửa giữ vững không thay đổi.
Hai câu nói trên là nhân quả của nhau. Dẹp động loạn để giữ sự ổn định, vì Trung quốc không cho phép làm loạn, làm loạn thì không thể làm được việc gì nữa, cải cách mở cửa có thể tiêu tan. Như vậy cần đẩy mạnh cải cách mở cửa để chứng minh dẹp động loạn là cần thiết. Vì vậy, Đặng phải gấp rút dựng nên hình tượng cải cách mở cửa, làm mấy việc cải cách mở cửa để nhân dân thấy, khiến nhân dân yên tâm. Đặng hy vọng dùng biện pháp đó để vượt qua chướng ngại, vì ông phát hiện thấy trong động loạn có đủ thứ khẩu hiệu, nhưng không có khẩu hiệu chống cải cách mở cửa. “Học sinh chẳng qua chỉ đề ra yêu cầu tiếp tục cải cách, mà chúng ta thì cải cách thực sự. Như vậy là hợp, mọi vướng mắc sẽ tự nhiên tiêu tan”
Có những người nghĩ khác. Họ cho rằng động loạn là do cải cách mở cửa tạo nên, nên chủ trương áp dụng phương châm thu hẹp cải cách. Sau ngày 4-6, bận vào việc thanh trừ, vận chuyển, xử lý, tăng cường khống chế, không đi sâu tìm căn nguyên của diễn biến hòa bình và tự do hoá từ trong lĩnh vực kinh tế. Theo nếp nghĩ đó, chỉ có đình chỉ cải cách mở cửa, quay về những năm tháng đấu tranh giai cấp, mới tiêu trừ được động loạn về căn bản. Rõ ràng, đó không phải là cách dẹp bỏ chướng ngại, mà là càng đào sâu hố ngăn cách.
Đặng không phủ nhận quan hệ nhất định giữa cải cách và động loạn, nhưng ông không quy động loạn cho cải cách, mà chỉ tìm nguyên nhân ở những sai lầm trong cải cách. Sai lầm lớn nhất của mười năm cải cách là ở giáo dục: Không giáo dục tốt bốn nguyên tắc cơ bản cho nhân dân, cho thanh niên và đảng viên. Như vậy, hiện nay bên tay đó cần phải cứng lên. Nhưng không thể vì bài học động loạn mà rút ra kết luận phủ nhận cải cách.
Cái thông minh của Đặng là chú ý tìm nguyên nhân từ trong đảng. Một trong những nguyên nhân phát sinh động loạn là hiện tượng hủ bại nảy sinh. “Những kẻ có dụng tâm riêng, đã đề ra khẩu hiệu chống hủ bại, chúng ta cũng cần tiếp thu những lời đó như những ý tốt”. Đặng đốc thúc ban lãnh đạo mới cần nhanh chóng làm một số việc chống hủ bại, làm cho rõ ràng để tâm lý nhân dân thăng bằng lại. Với những quần chúng tham gia gây rối, Đặng chủ trương thông cảm, chỉ truy cứu những kẻ cầm đầu vi phạm pháp luật.
Sự kiện ngày 4-6 đã ghi một dấu ấn sâu sắc trong tâm lý hai bên tham gia. Hai việc nắm vững cải cách mở cửa và trừng trị hủ bại mà Đặng tiến hành xuất phát từ chỗ thuận và mở chứ không phải là ép và đóng. Lúc mới dẹp loạn xong, để ổn định cục thế, có tăng cường khống chế và đàn áp cũng là cần thiết. Nhưng đó chỉ giải quyết vấn đề tạm thời, chỉ giành được sự yên ổn bên ngoài. Đặng hiểu rõ vấn đề ở chiều sâu, muốn yên ổn lâu dài thì phải thông qua mở rộng cải cách mở cửa mới giải quyết được. Nếu chỉ có ép, một mực ép, mà không mở, không cải cách mở cửa, thì cải nút ngày 4-6 càng ngày sẽ càng chặt, càng không thể gỡ ra được.
Những nhà phân tích cho rằng, “cái nút ngày 4-6” là một hố sâu lớn, xem ra không phải là nói quá. Tại sao Đặng nói là nếu không cải cách thì chỉ có đường chết? Một là vứt bỏ cải cách coi như tuyên bố Đảng Cộng sản đã mất năng lực tự đổi mới. Như vậy sẽ khiến cho sự thất vọng làm nảy sinh tâm lý bất mãn phổ biến. Hai là, không cải cách thì không thể giải quyết nổi vấn đề kinh tế, và theo đó là các vấn đề xã hội khác. Hai hậu quả đó sẽ tác động lẫn nhau. Sự bất mãn ngấm ngầm sẽ do sự nổi bật của vấn đề kinh tế mà nổi lên. Như vậy, “cái nút ngày 4-6” sẽ biến thành một thùng thuốc súng cho lần động loạn sau: Nếu xung đột lại phát sinh, thì do không có cơ sở vật chất, sẽ không dễ dàng dẹp yên được.
Đặng thấy rõ mối nguy hiểm đó, nên biện pháp giải quyết sự kiện ngày 4-6 không phải là cứ nhấn mạnh mãi, mà làm cho nó nhạt dần đi, tới chỗ hoàn toàn bỏ qua nó mà chuyển qua ra sức cải cách mở cửa. Bởi vì ông biết rằng chỉ có cải cách mở cửa mới xóa bỏ được mâu thuẫn, vượt qua được hố ngăn cách. Biện pháp đó của Đặng đã phát huy tới điểm cao nhất vào dịp tuần du phương Nam năm 1992.
Người ta chỉ chú ý tới cao trào cải cách mở cửa mới do cuộc tuần du phương Nam đem lải, nhưng không biết rằng dưới làn sóng đó còn có bao nhiêu biến đổi. Những người trước kia lo lắng cải cách thất bại nên sản sinh nhiều nghi hoặc, thậm chí thất vọng, nay thấy đất nước lại đi vào quỹ đạo phát triển nhanh về kinh tế thì yên tâm trở lại. Những người bất mãn, thậm chí chống đối việc đàn áp động loạn, thấy dũng khí cải cách của Đảng Cộng sản không giảm, thì cũng dẹp dần nỗi giận dữ. Ngay những người chưa nguôi giận, cũng có sự lựa chọn mới: Xuống đường biểu tình chẳng bằng xông pha kiếm tiền. Làn sóng cải cách mới đưa người ta vào cuộc cạnh tranh sôi dộng trên thị trường. Điểm chú ý của mọi người đã thay đổi và phân tán không còn thời gian nhớ lại những việc đã qua, dần dần phai nhạt ký ức về ngày 4-6. Cải cách càng đi sâu, sự kiện ngày 4-6 càng không có gì để nói nữa. Như vậy, những “chiến sĩ dân chủ” ở phái đối lập lưu vong ở nước ngoài dần dần mất sức hấp dẫn, ở vào tình hội chủ nghĩa, dù có vượt quá trình độ phát triển hiện nay của sức sản xuất, cũng không thể gò bó sự phát triển của sức sản xuất.
Theo đó suy ra, bản thân chế độ xã hội chủ nghĩa không cần đến cách mạng, cách mạng chỉ cần đối với chủ nghĩa tư bản. Đặng thì cho rằng, phán đoán một quan hệ sản xuất có phải là xã hội chủ nghĩa không, cần xét xem nó có lợi cho sự phát triển sức sản xuất không. Nếu không lợi cho sự phát triển sức sản xuất, thì sẽ là trở ngại, dù rằng về chủ quan cho nó mang tính chất gì, lạc hậu hay tiên tiến hơn sức sản xuất, cũng đều nằm trong diện phải cải cách. Tại sao trước kia chỉ nói phát triển sức sản xuất trong điều kiện chủ nghĩa xã hội mà không nói giải phóng sức sản xuất? Nguyên nhân là trong một thời gian dài người ta hình thành một thói quen suy nghĩ, cho rằng chủ nghĩa xã hội là tiên tiến, không thể lạc hậu hơn sức sản xuất, chỉ có thể đi trước sức sản xuất, mà đi trước thì không thể gò bó sự phát triển của sức sản xuất được, mà ngược lại, sẽ mở con đường rộng rãi cho sức sản xuất phát triển một cách thoải mái. Như vậy thì, đương nhiên không cần bàn tới việc giải phóng sức sản xuất nữa.
Vấn đề là cái gọi là quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa tiên tiến, trên một trình độ rất lớn, là mô thức của Liên Xô. Rõ ràng cái đó gây trở ngại cho sự phát triển sức sản xuất, nhưng cứ đổ cho chủ nghĩa tư bản gây trở ngại và một mực muốn nâng cao trình độ công hữu hóa, nâng cao sự thuần khiết của chủ nghĩa xã hội. Loại cách mạng xã hội chủ nghĩa như vậy thế tất đi ngược lại yêu cầu khách quan phải phát triển của sức sản xuất. Càng cách mạng, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và sức sản xuất càng lớn.
Tại sao cải cách cũng là giải phóng sức sản xuất? Đặng nói: “Mọi cải cách của chúng ta đều nhằm một mục đích là quét sạch trở ngại trên con đường phát triển sức sản xuất”. Trở ngại là trở ngại, không phân biệt tiên tiến hay lạc hậu, xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, chỉ biết rằng (qua thực tiễn chứng minh trong 20 năm) nó gò bó nghiêm trọng sự phát triển của sức sản xuất. Có trở ngại thì phải dẹp bỏ, có gò bó thì phải giải phóng. Không làm như vậy, sức sản xuất không thể phát triển được. Lý luận về cải cách của Đặng đơn giản và rõ ràng như vậy, nhằm trúng điều chủ chốt. Đương nhiên, ông biết rõ rằng dẹp bỏ trở ngại cho sức sản xuất phát triển không phải là việc dễ dàng, cho nên “tính chất của cải cách giống như cách mạng trước kia”, cũng là để giải phóng sức sản xuất. Đặng cho rằng muốn phát triển sức sản xuất thì phải đi theo con đường cải cách thể chế kinh tế. Với việc cải cách, ông khái quát thành 10 chữ: Mở cửa ra bên ngoài, làm sống động bên trong. Mở cửa ra bên ngoài, chống lại việc khư khư đóng kín; làm sống động bên trong phát huy tính tích cực của nhân dân cả nước. 10 chữ đó, chẳng phải là giải phóng và phát triển sức sản xuất hay sao? Thực tiễn sau Hội nghi Trung ương ba đã trả lời khẳng định về câu hỏi đó.
3.2. Điệu “hoa cổ Phượng Dương” ca ngợi việc khoán tại huyện Phượng Dương, chỉ một năm là lớn mình. Cái không hợp pháp, sẽ hợp pháp hóa cho nó
Đầu những năm 60, đứng trước vấn đề khó khăn là làm sao khôi phục sản xuất nông nghiệp, Đặng Tiểu Bình đề ra ý kiến: “Quần chúng muốn áp dụng hình thức sản xuất nào, thì nên áp dụng hình thức đó, nếu không hợp pháp, sẽ hợp pháp hóa cho nó”
Đặng muốn đem đến cho hình thức “khoán sản phẩm đến hộ” một danh nghĩa chính thức, hợp pháp hóa cho nó.
Nhưng lời của Đặng không thực hiện được. Việc “khoán” phải làm chui khổ sở trong 20 năm, qua các thời kỳ công xã nhân dân, nhất đại nhị công (tức: một là quy mô lớn, hai là mức độ công hữu hoá cao - Người dịch), nông nghiệp học Đại Trại, cắt đuôi tư bản, cắt hết đợt này đến đợt khác. Nhưng rút cục là cái mà nông dân đã muốn thì đốt cũng không hết, đến thập kỷ 70, làn gió xuân lại trỗi dậy. Một ngày mùa đông năm 1978, phó dội trưởng đội sản xuất Tiểu Cương ở huyện Phượng Dương tỉnh An Huy là Nghiêm Hùng Xương triệu tập 21 người thuộc 18 hộ nông dân đến bàn việc làm thế nào để sản xuất tự cứu. Nghiêm đề ra chủ trương chia ruộng đến từng hộ. Lúc đó, làn gió của Hội nghị Trung ương ba chưa thổi tới Tiểu Cương, ở Phượng Dương việc “chia ruộng”, “khoán sản phẩm” vẫn còn là việc phi pháp. 21 vị nông dân trong lòng đều tán thành sự đề xuất của Nghiêm, nhưng không ai không lo lắng, lỡ lúc lộ ra thì tai họa đến nơi, sẽ làm thế nào? Những nông dân chất phác trung hậu nghĩ ra một biện pháp, họ lập ra một khế ước: “Chúng tôi phân ruộng đến hộ. Các chủ hộ đều ký tên. Nếu làm được, mỗi hộ bảo đảm sẽ hoàn thành việc nộp lương thực cả năm cho nhà nước, không ngửa tay xin tiền và lương thực của nhà nước. Nếu không làm được, cán bộ chúng tôi xin cam chịu tù tội, chém đầu, mọi xã viên bảo đảm sẽ nuôi con nhỏ cho tới khi 18 tuổi”. Bản khế ước đó, nay được lưu giữ tại nhà bảo tàng lịch sử Trung quốc, vì nó đã ghi lại một cách chân thực sự gian nan và sợ hãi của thời bắt đầu cải cách ở nông thôn..
Phượng Dương là quê hương của Chu Nguyên Chương, hoàng đế khai quốc triều Minh, nổi tiếng về điệu múa “Phượng Dương Hoa Cổ”, có một lời ca kèm điệu múa lưu truyền rất rộng: “Nói Phượng Dương, kể Phượng Dương. Phượng Dương thật là nơi đất tốt, từ ngày Chu Hoàng đế rạ đời, mười năm thì có chín năm đói”. Vì vậy, người Phượng Dương bất đắc dĩ phải “mang trống Hoa Cổ đi tha hương”. Sau giải phóng, hơn 30 năm, người Phượng Dương sống nhờ vào cứu tế. Thời kỳ cách mạng văn hóa, có lưu hành lời hát Hoa Cổ mới:
“Phượng Dương đất rộng, không đủ lương.
Người dân lũ lượt đi tha hương.
Con gái đều lấy chồng xứ khác.
Không nàng dâu nào về Phượng Dương”
Có người thống kê, đầu năm 1918, có tới 3 vạn người Phượng Dương rời quê hương đi kiếm sống. Tiểu Cương là đội sản xuất nghèo nhất ở Phượng Dương. Năm 1976 sản lượng lương thực chỉ bằng 1/3 năm 1955. Cùng thì nghĩ tới biến, đó là nguyên nhân vì sao nông dân Phượng Dương cam chịu tù tội, mất đầu để dẫn đầu thực hiện chia ruộng tự cứu.
Trước khi Tiểu Cương chia ruộng đến hộ, công xã Mã Hồ ở Phượng Dương đã thí nghiệm khoán sản phẩm đến tổ được Vạn Lý là bí thư tỉnh ủy lúc bấy giờ ủng hộ. Có được chỗ dựa, đốm lửa cải cách ở Phượng Dương nhanh chóng lan khắp toàn huyện. Năm 1979, toàn huyện thực hiện khoán sản phẩm đến tổ. Năm 1980, tiến lên thực hiện khoán sản phẩm đến hộ. Từ khoán tổ đến khoán hộ, chế độ khoán hên gia đình dần hình thành và mới bắt đầu đã tỏ ra có sức mạnh. Đội sản xuất Tiểu Cương trong năm đầu khoán sản phẩm đến hộ đã có hiệu quả rõ rệt: Thu nhập theo đầu người tăng gấp 7 lần, sản lượng lương thực bằng bảy năm trước cộng lại. Người Phượng Dương từ chỗ bỏ quê hương đi kiếm ăn đến chỗ thừa lương thực không bán được Nông dân phấn khởi, lại sáng tác lời ca mới: “Khoán sản phẩm, khoán sản phẩm; cứ thẳng đường đi không quanh quẩn; nộp xong cho nhà nước và tập thể; thóc còn lại chứa đầy kho lẫm”.
Trong khi Phượng Dương, An Huy thí điểm khoán sản phẩm đến tổ, thì nông dân ở Quảng Hán, Tứ Xuyên cũng hành động. Quảng Hán cũng là huyện nổi tiếng về “ba dựa”: Lương thực dựa vào đi mua, sản xuất dựa vào vay vốn, đời sống dựa vào cứu tế. Thời kỳ cuối của cách mạng văn hóa, người nơi khác chỉ cần mấy chục cân phiếu lương thực là có thể mua được một cô gái ở đây. Việc khoán sản phẩm đến tổ ở Quảng Hán thu dược thành tích rõ rệt, sau này trở thành một huyện tiên tiến về cải cách nông thôn dẫn đầu cả nước.
Song hành động sáng tạo của nông dân An Huy: Tứ Xuyên khiến một số vị ở Bắc Kinh không yên tâm. Phó thủ tướng Trần Vĩnh Quý phụ trách về nông nghiệp vội vã nói: Như thế là hữu khuynh, là đi ngược lại việc học Đại Trại. Có người còn nói: “Khoán sản phẩm đến hộ là đánh vào chế độ công hữu, là phục hồi chủ nghĩa tư bản”. Ngày 15- 3.1979, Nhân Dân nhật báo đăng trên cột một trang nhất, một “bức thư của quần chúng” mượn lời quần chúng nói: Chế độ sở hữu ba cấp lấy đội làm cơ sở của công xã nhân dân không thể lùi lại việc chia ruộng đến tổ, khoán sản phẩm đến hộ. Giữ vững không phân là đúng. Ngày 28-9, “Quyết định về một số vấn đề đẩy nhanh phát triển nông nghiệp” của Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc còn nói như sau: “Có thể khoán công điểm đến tổ trên tiền đề đội sản xuất thống nhất hạch toán phân phối”, nhưng “không cho phép chia ruộng, làm riêng lẻ”. “Trừ những nhu cầu đặc biệt của một số nghề phụ và vùng núi xa xôi, giao thông bất tiện có một vài hộ lẻ, còn thì không được khoán sản phẩm đến hộ”.
Nước bẩn và nước lạnh bắt đầu dội vào đầu cán bộ và quần chúng thực hiện khoán sản phẩm đến hộ. Huyện ủy huyện Phì Tây tỉnh An Huy là một trong những nơi thực hiện khoán sản phẩm đến hộ đầu tiên nhìn thấy hướng gió không thuận lợi từ bên trên, chuẩn bị sửa lại việc khoán sản phẩm đến hộ. Vừa vặn lúc đó, An Huy lại gặp phải cơn đại hạn chưa từng có từ hàng trăm năm, có người mỉa mai, có người vui mừng muốn nhân dịp này tính sổ với họ. Nhưng, những người đó đã tính sai. Vụ thu hoạch năm 1979, An Huy và Tứ Xuyên đều được mùa lớn. Tỉnh An Huy có 60 triệu mẫu bị hạn, nhiều nơi thiếu cả nước uống cho người và gia súc, dự tính nếu chống hạn tốt cũng bị giảm 50 vạn cân lương thực. Nhưng tình hình thực tế lại là, sản lượng lúa mì trong toàn tỉnh lại tăng thêm 4 trăm triệu cân so với mức cao nhất trong lịch sử, lương thực cả năm xấp xỉ những năm bình thường. Tỉnh Tứ Xuyên liên tục hai năm tăng sản lượng tổng cộng hơn mười tỷ cân.
Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý. Bây giờ là lúc Đặng Tiểu Bình “tính sổ”. Ngày 31- 5.1980, Đặng mời một số đồng chí phụ trách trung ương bảo với họ: Sau khi chính sách ở nông thôn được nới rộng, một số nơi khoán sản phẩm đến hộ, hiệu quả rất tốt, thay đổi rất nhanh. Ông đặc biệt nhắc tới huyện Phượng Dương, nơi có điệu “Phượng Dương Hoa Cổ”, thực hiện khoán sản phẩm, một năm đã vươn mình.
Đặng thong thả nói tới vấn đề chính: “Có đồng chí lo lắng, làm như vậy có ảnh hưởng tới kinh tế tập thể không”. Ông luận chứng: “Tôi thấy sự lo lắng đó là không cần thiết. Phương hướng chung của chúng ta là phát triển kinh tế tập thể. Những nơi thực hiện khoán sản phẩm đến hộ, chủ thể kinh tế hiện nay vẫn là đội sản xuất. Những nơi đó tương lai sẽ ra sao? Có thể khẳng định, chỉ cần sản xuất phát triển, sự phân công xã hội và kinh tế hàng hóa ở nông thôn phát triển, thì tập thể hóa ở cấp thấp sẽ có thể phát triển lên tập thể hóa ở mức cao. Những nơi kinh tế tập thể chưa được củng cố cũng sẽ được củng cố. Vấn đề then chốt là phát triển sức sản xuất, cần sáng tạo điều kiện để tập thể hóa v mặt này phát triển một bước”. Một là, khoán sản phẩm đến hộ không làm thay đổi tính chất của chế độ sở hữu tập thể. Hai là, phát triển kinh tế tập thể trước hết cần phát triển sức sản xuất. Chỉ hai điều đó, Đặng đã gạt bỏ dòng nước bẩn mà người ta hắt lên chế độ khoán sản phẩm đến hộ. Tháng 9 năm đó, Trung ương Đảng lại ra một văn kiện, chính thức định danh cho chế độ khoán sản phẩm đến hộ. Những tỉnh còn nghe ngóng cũng bắt đầu chuyển động. Đến đầu năm 1983, trong toàn quốc, số đội sản xuất thực hiện khoán sản phẩm đến hộ đạt 93%. Theo đó, phân chia chính quyền và công xã, bỏ chế độ công xã nhân dân, khôi phục thể chế quản lý hương (trấn) thôn. Lịch sử diễn ra không ai dự đoán được. Nếu những lời Đặng nói đầu thập kỷ 60 được thực hiện, thì việc cải cách nông thôn ở thập kỷ 80 không còn cần thiết nữa. Đặng thừa nhận quyền phát minh chế độ khoán trách nhiệm thuộc về nông dân. Công việc mà ông làm chẳng qua chỉ là cấp cho đứa trẻ khó sinh đó một giấy chứng sinh khiến nó trở thành một “công dân hợp pháp” trong lãnh thổ quốc gia xã hội chủ nghĩa. -
Tổng thiết kế sư đặc biệt quan tâm tới “đứa trẻ mới sinh” đó và gửi gắm hy vọng rất lớn vào nó. Từ 1982 đến 1986 trong năm năm liền, Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc liên tục dùng văn kiện đầ trị kinh tế xã hội chủ nghĩa, dù rằng mang tính chất tư bản chủ nghĩa, nhưng không có hại gì, mà chỉ có lợi cho chủ nghĩa xã hội, thì tại sao lại phải cấm? “Ba điều có lợi hay không có lợi” khác với cách phân biệt hoa thơm cỏ độc của Mao Trạch Đông, nó không dán nhãn hiệu mà xem kết quả. Một sự vật, chưa biết tính chất gì thì phân định thế nào? Đặng nói, nếu có lợi cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa (sức sản xuất, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, mức sống nhân dân) thì nó mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Nếu không, thì là tính chất tư bản chủ nghĩa.
Nói ngược lại, bất kể là tính chất xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, chỉ cần có lợi cho sự phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, thì đều nên mạnh dạn sử dụng để phục vụ cho mình.
“Ba điều có lợi” đối với tất cả những người cải cách là dựa vào thực tiễn mà không dựa vào khẩu hiệu, đó là lời giải đáp: Đó là tính chất xã hội chủ nghĩa. Những chiếc mũ trên tay các vi Phái tả chuẩn bị chụp xuống đầu phái cải cách đã giống như những quả bóng xì hơi.
Còn sợ gì nữa. Anh em hãy mạnh dạn tiến lên.
2.19. Trí tuệ không tranh luận
Nhà văn Vương Mông, trong tác phẩm “Trí tuệ không tranh luận” (xem “Độc thư” năm 1994 số 6), giới thiệu một chuyện hài hước: Hai người tranh luận một vấn đề số học: Một người nói bốn lần bảy là hai mươi tám, người kia nói bốn lần bảy là hai mươi bảy. Tranh luận không ngã ngũ, phải kéo nhau lên quan, xin quan huyện xét xử. Kết quả huyện lệnh đánh đòn người nói bốn lần bảy là hai mươi tám và phán xử người nói bốn lần bảy là hai mươi bảy vô tội.
Viên huyện lệnh kia đúng là xử án hồ đồ. Người giữ vững chân lý thì bị đánh, kẻ sai lầm lại không bị phạt. Nhưng xét kỹ thì thấy trong cái hồ đồ đó lại có phần trí tuệ. Một người cứ tranh luận sống chết với một kẻ cho bốn lần bảy là hai mươi bảy lại không đáng đánh sao? Dù anh có đúng, thì cứ giữ ý kiến của mình, việc gì phải đi tranh luận với một kẻ không hiểu biết về một vấn đề đã rõ rành rành. Vương Mông cho rằng, đó là trí tuệ về cái “vô” của triết học mang màu sắc phương Đông.
Hơn hai ngàn năm trước, một bậc đại trí giả Trung quốc là Lão Tử đã nói: “Cái đạo của thánh nhân, làm mà không tranh. Anh đã không tranh, thì thiên hạ không có thể tranh với anh”. Đạo lý hết sức tuyệt diệu đó đã được phát huy thành một mưu lược trị quốc an bang, thúc đẩy chính sách cải cách. Ông nói: “Không tranh luận là một phát minh của tôi. Không tranh luận là để tranh thủ thời gian làm. Hễ tranh luận là sẽ phức tạp, dùng hết thời gian vào tranh luận, không làm được việc gì nữa. Không tranh luận, dũng cảm làm thử, dũng cảm xông xáo. Cải cách nông thôn là như vậy, cải cách ở thành thị cũng nên như vậy”
Ông Đặng hiểu sâu sắc cái trí tuệ không tranh luận.
Một là, tranh luận sẽ làm hỏng đại sự. Hai mươi năm qua là 20 năm lấy đấu tranh giai cấp làm chủ yếu, cũng là 20 năm dồn dập tranh luận. Bắt đầu từ cuộc đại biện luận về đường lối chung trong thời kỳ quá độ ở thập kỷ 50, dần dẫn hình thành một tác phong, việc lớn cũng vậy, việc nhỏ cũng vậy đều tổ chức đại tranh luận trong toàn dân. Trong cách mạng văn hoá, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp, giữa hai con đường, giữa hai đường lối, về mặt “văn đấu” cũng là tranh luận: Nhất cử nhất động, mỗi ý nghĩ, mỗi câu nói của một tỷ người đều là cái cớ để tranh luận về chủ nghĩa, cả nước mê muội sa vào vũng xoáy tranh luận không gỡ ra được. Người mở đầu tranh luận tin rằng chân lý càng tranh luận càng sáng rõ. Nhưng sự thực hoàn toàn ngược lại, càng tranh luận, ranh giới giữa chân lý và sai lầm càng mờ mịt, càng điên đảo. Những kẻ kiên trì bốn lần bảy là hai mươi bảy được vào đảng, được thăng quan, những người cho rằng bốn lần bảy là hai mươi tám thì chịu oan khuất. Kết quả ra sao? Lý không còn nữa. Sách cũng phế bỏ. Nói dối, nói khoác, nói suông đã chiếm kỷ lục thế giới, còn sản xuất sức mạnh quốc gia, đời sống nhân dân thì tụt xa sau người khác. Cuộc tranh luận hai mươi năm để lại một bài học: Nói suông làm hại nước, tranh luận làm hỏng việc. Đặng đã từng thử xoay lại cục diện đó, dùng trí thức chân thực, lời lẽ xác đáng để chống lại những lời lòe bịp và khoác lác, kết quả lại bị những kẻ nói dối, nói suông đánh đổ. Lần được phục hồi thứ ba, Đặng dùng cách rút củi khỏi đáy nồi: Đóng cửa thị trường tranh luận, toàn tâm toàn ý xây dựng kinh tế, cấm chỉ mọi văn chương hời hợt, hình thức, tuyên bố. “Các thói xấu nói suông, nói khoác, nói dối cần phải chấm dứt”
Hai là, có một số việc không nên tranh luận “nói nhiều nói lắm, không bằng im lặng” (Lão Tử). Thí dụ, sau dẹp loạn năm 1989, không ít người nảy sinh nghi vấn đối với các phương châm chính sách từ sau Hội nghị Trung ương ba, một số nhà lý luận, nhà chính trị chuẩn bị một cuộc đại biện luận về tính chất xã hội chủ nghĩa hay tính chất tư bản chủ nghĩa. Đặng giữ riêng con mắt sáng suốt. Ông nói: “Nếu trong lúc này mà tiến hành cuộc thảo luận có tính chất lý luận như thị trường, kế hoạch v.v.. thì chẳng những không có lợi cho ổn định, mà còn có thể lỡ việc”
Ba là, có một số vấn đề không cần thiết phải tranh luận, thí dụ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cái nào ưu việt hơn không thể giải quyết bằng tranh luận, mà để sự thực nói lên, thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện ở sự phát triển sức sản xuất nhanh và cao. Không làm được điều đó, khoác lác bao nhiêu cũng là vô ích. Vấn đề chọn người, dùng người cũng vậy, con mèo dễ sai bảo không nhất định sẽ bắt được chuột, mèo tốt hay mèo xấu, phải nhìn ở chỗ nó có bắt được chuột không, bắt được nhiều hay ít.
Bốn là, thời gian không cho phép tranh luận. Đã có 20 năm quý giá bị mất đi do tranh luận về chủ nghĩa, còn lại 20 năm của thể kỷ này dùng để vượt lên 4 lần, thời gian gấp rút không thể để lỡ một ngày nào. Có rất nhiều vấn đề, không tranh luận thì thôi, hễ tranh luận là sinh phức tạp không đưa tới một kết quả gì, mà mất toi thời gian và tinh lực, còn làm cho người ta nảy sinh lo lăng, không làm nổi việc gì nữa. Không tranh luận thì có thể mạnh dạn làm thử, mạnh dạn xông xáo, dành ra nhiều thời gian làm việc có ích, nghiên cứu nhiều vấn đề cụ thể.
Năm là, với một số người, không đáng phải tranh luận. Nếu có một nhà lý luận nào đó tìm đến đòi tranh luận rằng bốn lần bảy là 29 thì làm thế nào? Biện pháp tốt nhất là không thèm đếm xỉa đến, cứ vùi đầu làm việc, mặc kệ hắn ta khua chiêng đánh trống. Nếu hắn ta mang chiếc mũ ra dọa, muốn quét sạch những người cho rằng bốn lần bảy là 28, thì cần trả lời qua quít rằng là hắn ta nói bốn lần bảy bằng 29 là đúng, để hắn ta đắc ý mà cút đi. Như thế tức là làm nhiều nói ít, hoặc chỉ làm mà không nói. Không thèm tranh luận, để cho những kẻ chuyên sống bằng tranh luận mất thị trường, đó là thượng thượng sách. Bản thân “Đức tính không tranh luận” cũng là một loại tranh luận, tranh vĩnh viễn chứ không tranh nhất thời. Ít nói suông, làm nhiều việc thực tế, tự phát triển một cách chắc chắn, tự tăng cường mình, dấu bớt ánh sáng, không để lộ ra, còn việc ai phải ai trái, ai được ai thua, thì lịch sử sẽ kết luận, hoàn toàn không cần thiết tranh hơn thua trong một lúc.
2.20. Đội ngũ lãnh đạo do đại hội XIV xác định rất tề chỉnh, toàn là phái cải cách. Đặng yêu cầu đường lối cơ bản phải giữ một trăm năm
Lời Đặng nói trong cuộc tuần du phương Nam năm “Cần giữ vững đường lối phương châm, chính sách của Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khoá XI, then chốt là giữ vững “một trung tâm, hai điểm cơ bản”. Không giữ vững chủ nghĩa xã hội, không cải cách mở cửa, không phát triển kinh tế, không cải thiện đời sống nhân dân, thì chỉ có con đường chết. Đường lối cơ bản cần giữ một trăm năm, không được dao động. Chỉ có giữ vững đường lối đố thì nhân dân mới tin anh, ủng hộ anh. Ai muốn thay đổi đường lối, phương châm, chính sách từ Hội nghị Trung ương ba đến nay thì nhân dân sẽ không cho phép, người đó sẽ bị đánh đổ. Về điểm này tôi đã nói mấy lần rồi”
Câu đó, đúng là ông Đặng đã nói nhiều lần. Từ khi xác lập đường lối cải cách mở cửa vào năm 1978, đã mấy lần gặp trắc trở, luôn xuất hiện “tự do hóa tư sản”. Mỗi lần dó, Đặng đều đứng ra dẹp bỏ mọi quấy nhiễu, nhấn mạnh bốn nguyên tắc cơ bản. Nhưng nhấn mạnh bốn giữ vững, lại lo làm yếu cải cách mở cửa, lại phải nhắc lại là cải cách mở cửa không thể dừng lại, không thể thu hẹp, lòng dũng cảm phải lớn, bước đi phải nhanh. Năm 1989, sau khi dẹp loạn, điều làm Đặng lo lắng nhất là sự dao động đối với cải cách, mở cửa. Quả nhiên là có sự dao động, chao đảo trong hai năm, Đặng không thể không tiến hành việc sửa chữa mang tính lịch sử lần thứ hai. Những tin tức về cuộc tuần du phương Nam còn ghi chép một câu nói của Đặng:
“Quyết sách của tôi còn có một tác dụng. Tác dụng chủ yếu là không dao động”.
Nhưng câu nói đó, Đặng hầu như không muốn nhắc lại nữa. Trên thực tế cũng không có sự cần thiết phải nhắc lại Vì ông đã đến tuổi 90, không thể sống được 90 hoặc 100 năm nữa. Lúc sống, còn có ông bám chắc không buông, nên mới không dao động, sau này làm thế nào? Ai sẽ thay thế giữ vững đây?
“Nhân dân không cho phép” cũng không giải quyết được vấn đề. Trong nhân dân liệu có bao nhiêu phần trăm ủng hộ cải cách, bao nhiêu phần trăm sợ cải cách, điều đó còn là một ẩn số. Về số nhân dân ủng hộ cải cách, có rất nhiều việc họ không cho phép mà vẫn xuất hiện trong hai năm trước cuộc tuần du phương Nam, cuối cùng vẫn phải có ông Đặng đứng ra nói mới giải quyết được. Thế là ông Đặng đứng trước vấn đề giống như Mao lúc cuối đời: Vấn đề người kế tục. Trung quốc, do nguyên nhân chế độ, vẫn không tránh khỏi hiện tượng người chết đi thì đường lối chính sách cũng mất theo. Do đó, đường lối chính trị đúng đắn phải được bảo đảm bởi đường lối tổ chức đúng đắn. Đường lối của Hội nghị Trung ương lần thứ ba có thể giữ vững được không, then chốt vẫn là ở người, ở chỗ con người như thế nào nắm quyền. Từ mấy năm trước Đặng đã nói, cần phải bầu những người kiên trì cải cách mở cửa và có thành tích về chính trị vào cơ cấu lãnh đạo mới. Nay ông nói đường lối cơ bản phải quản 100 năm, Trung quốc phải ổn định lâu dài thì cần dựa vào điều đó.
Cuộc tuần du phương Nam được chọn vào trước khi triệu tập Đại hội lần thứ XIV. Đặng chọn thời điểm đó để nói những lời đó là có tính toán sâu xa. Trước Đại hội lần thứ XIV, có nhà báo muốn biết Đặng Tiểu Bình có tham gia không, ông có ảnh hưởng gì tới đại hội này không? Người phát ngôn báo chí Lưu Trung Đức trả lời: Đồng chí Đặng Tiểu Bình là đại biểu đặc biệt được mời của Đại hội này, những bài nói chuyện trong cuộc tuần du phương Nam hồi đầu năm nay của đồng chí đã chuẩn bị về mặt tư tưởng lý luận cho đại hội. Ban lãnh đạo mới do Đại hội XIV bầu ra cho thấy những bài nói chuyện của Đặng đã làm công việc chuẩn bị về tổ chức cho Đại hội.
Đặng không làm trò cân bằng nguy hiểm như Mao đã làm lúc cuối đời: Chọn một người lãnh đạo mà hai phái đều có thể chấp nhận để tổng hợp hai mặt đối lập mâu thuẫn với nhau. Ban lãnh đạo do Đại hội XIV xác định rất tề chỉnh, toàn thuộc phái cải cách, không có người nào không thuộc phái cải cách. Những người nào dao động về đường lối cơ bản, có lòng dạ phân vân với cải cách mở cửa, đúng như Đặng nói, đều bị nhân dân “đánh đổ”. Những người từng coi là tả bảo đảm hơn hữu, lần này đều tính sai, có người không còn giữ được địa vị, có người tạm thời còn giữ được.
Điều thông minh khác của Đặng là không gửi gắm việc lâu dài vào cho một người. Một cá nhân không thể dựa được mà phải dựa vào một tập thể lãnh đạo, từ trên xuống dưới, từ hạt nhân đến xung quanh, đều là người cải cách. Nhân lúc mình còn phát huy được tác dụng, tổ chức một ban lãnh đạo gồm những người chân tâm thành. Ý ủng hộ cải cách nắm các mạch máu của đất nước. Như vậy, khả năng xuất hiện hiện tượng quay ngược trở lại sẽ rất ít. Vấn đề mà Mao Trạch Đôno còn rất nhiều điều chưa rõ, những vấn đề liên quan đến chủ thể kinh tế xã hội chủ nghĩa tức xí nghiệp quốc doanh lớn và vừa, lại càng như vậy. Chữ “khoán” của nông thôn đã gợi ý rất nhiều. Mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp có ảnh hưởng đến tính chất sở hữu toàn dân không? Chế độ nhận khoán gia đình đã phân riêng quyền sở hữu và quyền kinh doanh, đã giải quyết dễ dàng vấn đề này. Chế độ khoán ở nông thôn đã kết hợp rất tốt trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích; xí nghiệp ở thành thị theo đó mà giải quyết ba mặt nhà nước, xí nghiệp và cá nhân lâu nay vẫn không giải quyết được chẳng thuận hay sao? Nông dân lấy hộ làm đơn vị để nhận khoán, làm nhiều được nhiều, làm ít được ít không làm không được, nếu xí nghiệp ở thành thị cũng làm như vậy, thì những trở ngại như chế độ bao cấp, tiền lương cố định gây ảnh hưởng đến tính tích cực sẽ chẳng tự động bị phế bỏ sao?
Đặng cao hứng nói với khách nước ngoài: “Thành quả cải cách nông thôn đã làm tăng lòng tin của chúng tôi. Chúng tôi đã vận dụng kinh nghiệm cải cách nông thôn vào việc cải cách thể chế kinh tế ở thành thị”. Kỳ thực, cải cách ở thành thị đã bắt đầu thí điểm vào năm 1978, dưới sự cổ vũ của cải cách nông thôn, mới tiến lên được một bước quyết định. Tháng 10.1984, Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa XII chính thức thông qua “Quyết định về cải cách thể chế kinh tế” bắt đầu cuộc cải cách thể chế kinh tế toàn diện lấy thành thị làm trọng điểm. Người ta gọi quá trình nông thôn bao vây thành thị đó bằng hình tượng “chữ Khoán vào thành phố”.
3.4. Nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
Tiền đề của sự làm sống động là cho phép tồn tại tính đa dạng. Giống như trước kia, nền kinh tế công hữu đơn nhất, cộng thêm sự quản lý theo kế hoạch tập trung thống nhất cao độ, khiến cả đất nước tương đương với một xí nghiệp, vừa không có cạnh tranh nội bộ, vừa không có sức ép bên ngoài, hình thành một kết cấu siêu ổn định, đương nhiên không thể nói đến sức sống và hiệu suất.
Mưu lược làm sống động kinh tế của Đặng Tiểu Bình chia làm lai loại, một là, những biện pháp mở rộng quyền tự chủ và du nhập cơ chế cạnh tranh từ nội bộ làm sống động kinh tế công hữu. Hai là, từ bên ngoài chủ thể kinh tế cho phép các thành phần kinh tế phi công hữu tồn tại hợp pháp.
1) Cho phép kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh (hai cái đó chỉ khác nhau ở chỗ có thuê mướn nhân công và thuê mướn nhiều ít tồn tại.
2) Cho phép “xí nghiệp tam tư” (bao gồm Trung quốc và nước ngoài chung vốn, Trung quốc và nước ngoài hợp tác thương gia nước ngoài hoàn toàn đầu tư) tồn tại. Chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung quốc vẫn lấy chế độ công hữu làm một trong những nguyên tắc cơ bản, tại sao lại cho phép những thành phần phi công hữu như cá thể, tư doanh, tư bản nước ngoài (một phần và toàn bộ) tồn tại?
Đặng trả lời: Đó là sự cần thiết để làm cho kinh tế sống động, “là làm sống động chủ nghĩa xã hội, không hại gì đến bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Cho phép những cái đó tồn tại trong một phạm vi nhất định, không có hại mà chỉ có lợi cho chủ nghĩa xã hội, ít ra thì cũng lợi nhiều hơn hại.
Kinh tế cá thể ít nhất có thể giải quyết công việc làm cho một số lớn người. Tuy (theo kinh tế chính trị học truyền thống) chủ nghĩa xã hội mất đi trận địa đó, nhưng nhà nước không phải lo nuôi số người đó. Khi những người đó giàu lên, nhà nước còn có thể thu được một số thuế. Ngoài ra, rất nhiều việc nhỏ về lưu thông trong chủ nghĩa xã hội cũng cần đến kinh tế tư doanh cá thể. Nhưng Đặng không nói như thế, mà vẫn gọi là kinh tế cá thể. Gọi gộp cả hộ cá thể và kinh doanh tư bản vào với nhau như thế cũng cần qua suy lý lô gích: Phân biệt cá thể với tập thể, thực tế là tư nhân, và tư thì đối lập với công, cho nên nó mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Vấn đề cho phép thuê mướn nhân công, gây chấn động tương đối lớn. Có người rất lo lắng: Đó chẳng phải chủ nghĩa tư bản là gì? Và chủ trương cần ngăn cấm. Thái độ của Đặng là: Không việc gì phải giải quyết vội vàng, cứ để vài năm xem, cho họ kinh doanh vài năm, chẳng ảnh hưởng gì đến đại cục, không tổn hại gì cho chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, nếu ngăn cấm, sẽ làm xao xuyến nhân tâm, cho là chính sách thay đổi, sẽ chẳng có lợi gì. Đương nhiên, hạn chế một chút cũng là cần thiết. Thế là giữa thập kỷ 80 ban bố quy định: Nông dân và hộ cá thể không được thuê mướn quá 8 người. Nhưng, trên thực tế, sau này kinh tế tư nhân phát triển lên, số người được thuê mướn tăng vọt. Ở Ôn Châu, Triết Giang, số xí nghiệp tư nhân đặc biệt nhiều, phát triển thành “mô hình Ôn Châu” của các xí nghiệp tư doanh. “Mô hình Ôn Châu” không hề làm tổn hại cho chủ nghĩa xã hội, mà còn trở thành tấm gương cho các tỉnh nghèo noi theo. Chấp nhận “xí nghiệp tam tư” lại càng khó khăn. Có người cho rằng, thêm một phần vốn nước ngoài là thêm một phần tư bản chủ nghĩa, nhiều xí nghiệp. tam tư tức là nhiều nhân tố tư bản chủ nghĩa, là phát triển chủ nghĩa tư bản. Đặng phê bình những người đó, ngay đến kiến thức phổ thông cơ bản cũng không có. Những xí nghiệp chung vốn với nước ngoài, có một nửa là xã hội chủ nghĩa; thu phần nộp vào sở hữu xã hội chủ nghĩa. Ngay cả bộ phận vốn nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, chủ nghĩa xã hội cũng thu được lợi từ nguồn thuế và sử dụng lao động. Còn có thể học từ đó kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, từ đó nhận được thông tin, khai thác thị trường. Ngoài ra còn kéo theo một số ngành phục vụ cho những xí nghiệp đó phát triển lên. xây dựng gần đó một số xí nghiệp có lợi. Như vậy, sẽ làm sống động nền kinh tế. Kinh tế phi công hữu đem lại cái lợi lớn nhất cho chủ nghĩa xã hội là bổ sung cho tài nguyên quốc gia. Theo thống kê, từ ngày cải cách, những xí nghiệp lớn và vừa của quốc doanh đem lại hiệu quả là “3 cái 1/3”, tức 1/3 có lãi, 1/3 hòa vốn, 1/3 lỗ vốn, như vậy gộp lại là hòa vốn. Như vậy, nguồn tài chính quốc gia hàng năm trông vào đâu? Cho nên Đặng nói: “Chúng ta tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài, cho phép kinh tế cá thể phát triển, không làm ảnh hưởng đến điểm cơ bản là lấy kinh tế theo chế độ công hữu làm chủ thể. Ngược lại, tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài và cho phép kinh tế cá thể tồn tại và phát triển xét cho cùng là để phát triển sức sản xuất một cách mạnh mẽ, tăng cường nền kinh tế theo chế độ công hữư”
đương nhiên, Đặng biết rằng muốn bảo đảm cho kinh tế phi công hữu không làm hại chủ nghĩa xã hội hoặc làm cho lợi nhiều hơn hại, thì cần có 2 điều kiện: Một là, kinh tế công hữu xã hội chủ nghĩa trước sau chiếm địa vị chủ đạo; hai là, chính quyền của nhà nước vô sản cần mạnh mẽ. Kinh tế công hữu chiếm địa vị chủ thể (từ 90% trở lên), kinh tế phi công hữu chỉ có tác dụng bổ sung, nó làm kinh tế xã hội chủ nghĩa sống động, nhưng không thể tấn công vào kinh tế xã hội chủ nghĩa: không thể làm phương hại bản chất chủ nghĩa xã hội.
“Điều quan trọng hơn là chính quyền nằm trong tay chúng ta”. Cho phép kinh tế tư doanh: xí nghiệp tam tư tồn tại và phát triển, đương nhiên cũng đem lại một số bất lợi và tiêu cực Đặng không phủ nhận điều đó, nhưng ông tin rằng: “Bộ máy nhà nước của chúng ta là có tính chất xã hội chủ nghĩa, nó có sức mạnh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”. “Một khi phát hiện thấy tình trạng đi chệch khỏi phương hưởng xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước sẽ ra tay can thiệp, sửa chữa lại tình trạng đó”.
3.5. Ông Đặng cho xí nghiệp tách khỏi chính quyền tự mình phát triển để cho chính quyền thanh tịnh vô vi, giữ mìth trong sạch
Nền kinh tế Trung quốc, đặc biệt là bộ phận công hữu, và đặc biệt hơn là các xí nghiệp lớn và vừa, trong một thời gian rất dài không sống động, nguyên nhân căn bản không phải là người Trung quốc thiếu tính tích cực trong kinh doanh, mà là do chính quyền quản lý nhiều quá, chặt quá, làm cho các xí nghiệp bị bóp nghẹt.
Người ta lấy làm lạ: Tại sao cần quản lý nhiều thế? Quản lý ít đi một chút chẳng phải là đỡ việc hơn sao? Vấn đề nếu giản đơn như thế, thì việc cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình sẽ không cần thiết nữa, mà dù có cần thiết, cũng không thể gọi là một cuộc cách mạng.
Quản lý hay không quản lý, quản lý nhiều hay ít, quản lý như thế nào, đều là do thể chế quyết định, mà không phụ thuộc vào ý chí cá nhân, ngay đến người lãnh đạo tối cao cũng không dễ thay đổi.
Thể chế quân sự do những năm chiến tranh để lại cộng thêm mô hình Liên xô được du nhập từ sau ngày lập nước khiến cho Trung quốc hình thành một nền chính trị toàn năng, đời sống xã hội được chính trị hóa toàn diện. Biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế là chính quyền và xí nghiệp không tách rời. Chính quyền coi xí nghiệp là đơn vị thuộc quyền mình, việc sản xuất của xí nghiệp được coi như hoàn thành nhiệm vụ chính trị do cấp trên trao cho. Quan hệ giữa chính quyền và xí nghiệp là quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, Đặng đặt tên là quan hệ “mẹ chồng nàng dâu”.
Đặng đã tóm tắt dặc điểm của thể chế quản lý kinh tế đó là: Bộ máy cồng kềnh, nhiều ngành, nhiều cấp, thủ tục rườm rà, hiệu suất cực thấp.
Bộ máy cồng kềnh tới mức nào? Có những bộ ở trung ương có hơn một vạn người. Nhiều ngành, một số tỉnh, thành phố, các ngành đảng và chính quyền có tới hơn một trăm. Nhiều cấp là vì từ trung ương đến cơ sở có rất nhiều nấc. Có nhiều ngành như thế, nhiều mẹ chồng như thế, trên dưới chen chúc cùng quản lý thì xí nghiệp làm sao mà không chết?
Nhiều mẹ chồng thì sẽ lạm quyền, kiếm việc để quản lý kiếm cơm ăn. Anh quản lý, tôi cũng quản lý, kết quả là mọi việc của xí nghiệp từ người, tiền bạc, vật tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đều bị quản lý hết. Nếu quả thật họ đều quản lý thì xí nghiệp sẽ rảnh được nhiều. Kỳ thực không phải như vậy, mọi việc từ cung ứng vật tư, nguồn vốn, nhân sự, giá cả sản phẩm, đối tượng phục vụ, đều do các “mẹ chồng” làm chủ, gật đầu thì mới được. Mỗi ngành một con dấu, mỗi vị bồ tát một tuần nhang, các xí nghiệp phụ thuộc không hề dám coi thường, nếu không anh sẽ bị kiềm chế không cựa quậy được. Hoạt động kinh doanh của xí nghiệp không xoay quanh nhu cầu của thị trường mà xoay quanh sắc mặt của thủ trưởng các ngành chủ quản. Như vậy thì làm sao có thể nói đến hiệu suất!
Xí nghiệp thiếu sức sống, không có hiệu quả, rút cục là do con lừa không chịu đi, hay cối xay không chịu quay? Trước đây vẫn có nhận xét cho rằng các ngành quản lý chưa đủ mức, lãnh đạo chưa đắc lực, cách nói điển hình là “nắm mà không chặt, coi như không nắm. Xòe bàn tay, tưởng như là nắm, nhưng thực ra không nắm được gì”. Chẩn đoán của Đặng là quản lý quá nhiều, quá chết cứng. Lãnh đạo và ngành chủ quản cấp trên quản lý quá nhiều việc đáng ra không nên quản lý, quản lý không tốt và cũng không quản lý được, khiến cho tính tích cực, tính chủ động và tính sáng tạo của các địa phương, xí nghiệp và công nhân viên chức không thể phát huy được.
“Mục đích hợp pháp của sự tồn tại của chính quyền là làm những việc mà nhân dân cần làm, làm những việc mà nhân dân không làm được hoặc năng lực của họ không thể làm tốt. Còn những việc mà nhân dân có thể làm tốt, thì chính quyền không nên can thiệp”. Căn cứ vào điều đó Tômát Giépphécsơn cho rằng: “Một chính phủ quản lý ít nhất là một chính phủ tốt nhất”. Hăng ri Đa vít Su le cho rằng: “Chính phủ tốt nhất là chính phủ căn bản không phải làm gì cả”. Căn bản không quản lý thì e rằng không được, nhưng cố gắng quản lý ít đi thì khẳng định là có thể được. Điều đó cũng phù hợp với trí tuệ truyền thống của Trung quốc là vô vi nhi trị.
Nhưng xét về tình hình Trung quốc, từ chỗ “quản lý quá nhiều” đến “cố gắng quản lý ít đi” đòi hỏi một cuộc cách mạng về thể chế, cải cách thể chế quản lý kinh tế truyền thống.
Cuộc cải cách thể chế kinh tế do Đặng Tiểu Bình thiết kế, bước thứ nhất là tách riêng chính quyền và xí nghiệp (trong cải cách nông thôn thì là tách riêng chính quyền và công xã), để cho xí nghiệp thoát ly khỏi chính quyền, tự mình phát triển; để cho chính phủ thanh tịnh vô vi, giữ mình trong sạch.
Tách rời chính quyền và xí nghiệp là cuộc vận động theo hai hướng. Tách hay không tách, tách thế nào là do chính quyền quyết định. Vì vậy trước hết yêu cầu chính phủ phải tự giác, sáng suốt một chút, biết cái gì cần quản lý cái gì không cần quản. lý. Cái gì không cần quản lý thì trao xuống dưới, cái gì cần quản lý thì phải giải quyết vấn đề quản lý như thế nào.
Phương pháp cơ bản để giải quyết vấn đề “mẹ chồng” lạm quyền là “dỡ miếu đuổi thần”, tinh giản cơ cấu chính quyền và nhân viên hành chính. Giảm bớt một ngành là giảm được một con dấu, giảm bớt một vị bồ tát là giảm được một tuần nhang. Có người dự tính nếu thực sự quán triệt “luật xí nghiệp”, để xí nghiệp có quyền độc lập kinh doanh, thì các cấp chính quyền có thể giảm 30% cơ cấu và trên 50% nhân viên. Những cơ cấu thừa ra, có thể triệt tiêu hoặc biến thành thực thể kinh tế, tự mình lo toan lấy mình. Những nhân viên thừa ra, Dạng khuyến khích họ xuống cơ sở ứng cử làm xưởng trưởng, giám đốc dể phát huy bản lĩnh của mình..
Những ngành chức năng còn lại cũng cần thay đổi chức năng, giải quyết vấn đề quản lý như thế nào. Đặng yêu cầu thay đổi biện pháp dùng phương pháp hành chính để trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh tế như trước kia, mong các ngành quản lý học phương pháp quản lý kinh tế bằng các biện pháp kinh tế. Có người căn cứ vào nguyên tắc quản lý chặt vĩ mô và buông phần vi mô, nghiên cứu đề xuất công năng của các ngành chính quyền thu hẹp trong 8 chữ: Quy hoạch, điều hòa, đôn đốc, phục vụ. 8 chữ đó xét cho cùng đều mang tính phục vụ. Do đó có người chủ trương phương hướng thay đổi chức năng của chính quyền là giảm bớt chức năng hành chính, tăng thêm chức năng phục vụ. Điều này phù hợp với cách nghĩ “lãnh đạo tức là phục vụ” của Đặng.
Tinh giản cơ cấu chính quyền và thay đổi chức năng của chính quyền đều thuộc về nội dung cải cách thể chế chính trị, cho nên Đặng nói: “Xí nghiệp trao xuống dưới, tách rời chính quyền và xí nghiệp là cải cách thể chế kinh tế, cũng là cải cách thể chế chính trị”. Nhưng dù nói thế nào, chỉ có làm tốt hai việc đó, xí nghiệp mới được cởi trói, quyền lực mới được trao xuống dưới, quan hệ giữa chính quyền và xí nghiệp mới hợp lý.
Năm 1984, quốc vụ viện đi bước thứ nhất, quyết định trao xuống dưới toàn bộ các xí nghiệp thuộc bộ cơ khí, các xí nghiệp công nghiệp cơ khí độc lập khác cũng trao xuống dưới. Các sở và phòng công nghiệp cơ khí của tỉnh và khu tự trị cũng không trực tiếp quản lý xí nghiệp. Các ngành giao thông, hàng không dân dụng và bưu điện cũng dần nới rộng việc quản lý các xí nghiệp. Các xí nghiệp bắt đầu trở thành các thực thể kinh tế độc lập, tự chủ kinh doanh. Từ năm 1986, từng bước thực hiện chế độ khoán trách nhiệm cho xí nghiệp, tiến một bước biến đổi quan hệ giữa chính quyền và xí nghiệp từ chỗ là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo sang quan hệ hợp dộng giữa người ủy thác và người nhận khoán.


Phần 4- A
Mưu lược chính trị

 4.1. Giải quyết vấn đề từ chế độ
Mùa thu năm 1980, Đặng Tiểu Bình đang bận vào việc đánh giá Mao Trạch Đông, nhà báo ý Pharaxi đề ra một câu hỏi với ông: Làm thế nào để tránh sai lầm giống như cuộc cách mạng văn hóa?” Đặng trả lời: “Điều đó phải giải quyết từ mặt chế độ. Chúng tôi chuẩn bị bắt tay vào cải cách chế độ”. Cũng khoảng dịp đó, Đặng nói trong Hội nghị Chính trị mở rộng: Xtalin đã phá hoại nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Mao Trạch Đông đã nói, những việc như thế không thể xảy ra ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ. Đặng nói, tuy Mao nhận thức được điềm đó nhưng do không giải quyết thực tế vấn đề từ chế độ, nên vẫn dẫn tới mười năm tai nạn cách mạng văn hóa, bài học đó là cực kỳ sâu sắc.
Đại cách mạng văn hoá nếu có một chút pháp độ, thì không thể xảy ra bị kịch với chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Nghe nói khi bị phê đấu, Lưu từng đưa bản “Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ra để biện hộ cho mình: “Tôi là chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Các anh đối đãi với cá nhân tôi thế nào không quan trọng, nhưng tôi phải bảo vệ sự tôn nghiêm của chức vụ Chủ tịch nước. Cá nhân tôi cũng là một công dân, tại sao không để tôi được nói? Hiến pháp bảo đảm cho quyền lợi về thân thể của mỗi người không bị xâm phạm. Những người vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc!”. Nhưng trong những ngày tháng vô pháp vô thiên đó, hiến pháp không thể ngăn chặn phong trào quần chúng của Mao Trạch Đông. Trong ngày sinh lần thứ 70, ông bị “khai trừ vĩnh viễn khỏi đảng”. Ngày 12.11.1969, ở Khai Phong, nơi từng lưu truyền câu chuyện về Bao Công, trái tim Lưu đã ngừng đập. Trong biên bản hỏa thiêu, vi chủ tịch nước từng chủ trì và tham dự việc soạn thảo hiến pháp được ghi trong cột nghề nghiệp là “vô nghề nghiệp”.
Khi tổng kết có hệ thống và đánh giá công lao và sai lầm cuối đời của Mao, Đặng đưa ra một kết luận: “Chế độ là nhân tố quyết định”. Ông nói: “Các loại sai lầm trước kia của chúng ta, tất nhiên có liên quan tới tư tưởng, tác phong của người lãnh đạo nào đó, nhưng càng quan trọng hơn là chế độ tổ chức, chế độ công tác. Nếu chế độ về những mặt tốt đó thì kẻ xấu không thể tuỳ ý hoành hành, chế độ không tốt thì làm cho người tốt không thể làm việc tốt mà thậm chí ngược lại”
Quy bị kịch của cách mạng văn hóa vào “chế độ không tốt” không chỉ giúp giải quyết thuận lợi việc “tổng kết quá khứ”, đặc biệt là vấn đề khó khăn như đánh giá Mao Trạch Đông, mà còn có thể chỉ đạo cho những kết luận mang tính cách mạng trong tương lai. Mưu lược của Đặng về cải cách thể chế chính trị, trước hết được bắt đầu từ đây. Năm 1980, Đặng phân tích một số cái xấu chủ yếu trong đời sống chính trị Trung quốc, thấy gốc rễ không có cái nào không từ mặt chế độ. Hoặc là chế độ không tốt, hoặc là không có chế độ tốt, hoặc là có nhưng không hoàn thiện. Thí dụ chế độ gia trưởng và chế độ lãnh đạo suốt đời tuy không có quy định bằng văn bản rõ ràng nhưng thực tế là có tồn tại hai chế độ không tốt đó. Tệ quan liêu và đặc quyền, trước kia chỉ coi là vấn đề tư tưởng và tác phong, Đặng cho rằng cái quan trọng chính là vấn đề chế độ, đặc quyền chẳng phải là quyền lợi vượt khỏi pháp luật và chế độ hay sao?
Chỉnh người không có kết quả bằng thay đổi chế độ. Giải quyết vấn đề tư tưởng tác phong chỉ là trị cái ngọn, giải quyết vấn đề từ chế độ mới là từ gốc. Vì vấn đề chế độ có tính căn bản, tính toàn cục, tính ổn định và tính lâu dài, do đó, ông Đặng nói quả quyết: Nếu không kiên quyết cải cách những tệ đoan trong chế độ hiện hành, thì một số vấn đề nghiêm trọng trước kia có khả năng xuất hiện trở lại, đến mức không có cách nào trả lời nỗi nghi vấn của người ta: Tại sao một số vấn đề chủ nghĩa tư bản giải quyết được mà chế độ xã hội chủ nghĩa lại không giải quyết được?
Giải quyết vấn đề từ chế độ và giải quyết vấn đề bằng tư tưởng tác phong nhằm đường hướng khác nhau nên phương pháp cũng khác nhau. Đặng dứt khoát phản đối dùng phong trào chính trị và phê phán cách mạng để giải quyết vấn đề chế độ và tư tưởng. Có bốn lý do:
1) Nhân dân trải qua nhiều cuộc vận động chính trị, sinh ra chán ghét các cuộc vận động lớn.
2) Phàm những cuộc vận động như thế đều gây tổn hại cho một số không ít người.
3) Thường xuyên tổ chức phong trào thì không yên tâm được để xây dựng.
4) Kinh nghiệm lịch sử chứng minh, dùng biện pháp tổ chức phong trào chính trị rầm rộ để cải cách chế độ hiện hành và xây dựng chế độ mới, xưa nay đều không thành công.
Những tật bệnh về chế độ phải được chữa bằng cách cải cách chế độ, phương lược cải cách nhằm vào chế độ không phải nhằm vào con người mà nhìn bề ngoài thì không “cách mạng”, nhưng thực chất lại có nhiều tính cách mạng và mang tính thách thức, đúng như một nhà bình luận đã nói, là một loại “cách mạng hòa bình”.
4.2. Phí Chính Thanh nói: Đặng hiện đang đi theo một con đường mới: vừa muốn nâng đỡ tinh thần sáng tạo, vừa muốn xây dựng lại đảng và chính phủ.
Năm 1957, khi còn làm Tổng Bí thư, Đặng đề xuất một vấn đề: “Ở Trung quốc, ai có điều kiện phạm sai lầm lớn? Đó là Đảng Cộng sản Trung quốc”. Điều đó ít nhiều có thể giải thích quan điểm của Đặng đầu thập kỷ 80: sự cải cách chế độ về mọi mặt, trong đó then chốt là cải cách chế độ lãnh đạo đảng và nhà nước.
Đảng Cộng sản nắm vận mạng một tỉ người, ở vào trung tâm của đời sống chính trị quốc gia. Việc cải cách chế độ quốc gia, đương nhiên phải bắt đầu từ cải cách bản thân mình. Bản thân không chủ động cải cách, chẳng lẽ lại đợi người khác đứng lên làm cách mạng hay sao?
Ngày 18.8.1980, Đặng có một bài nói nổi tiếng trong Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng: “Cải cách chế độ lãnh đạo đảng và nhà nước”. Bài nói đó được coi là văn kiện có tính cương lĩnh về cải cách thể chế chính trị Trung quốc. Đặng đã phân tích có hệ thống về bộ máy nhà nước mà ông mới tiếp nhận, chỉ ra năm điều tệ hại trong chế độ lãnh đạo đảng, nhà nước và chế độ cán bộ:
1) Trong đời sống chính trị, nhà nước đã tồn tại phổ biến hiện tượng quan liêu đến mức không thể chấp nhận được
2) tác phong gia trưởng, một người nói là quyết định, một người quyết định mọi vấn đề quan trọng, sùng bái cá nhân, cá nhân lấn lướt tổ chức, tổ chức thành công cụ của cá nhân.
3) Quyền lực quá tập trung, mọi quyền lực đều tập trung vào đảng ủy, quyền lực của đảng ủy lại tập trung vào số ít người, thậm chí vào một cá nhân. Cấp trên quản lý cấp dưới quả nhiều, thống nhất một cách chết cứng.
4) Chức vụ lãnh đạo trên thực tế đã tồn tại chế độ suốt đời
5) Hiện tượng đặc quyền của cán bộ dưới mọi hình thức và mầu sắc.
Đặng cho rằng những tệ hại đó ít nhiều đều mang mầu sắc của chế độ phong kiến. Mà biện pháp trọng điểm để quét sạch ảnh hưởng phong kiến là phải thiết thực cải cách và hoàn thiện chế độ của đảng và nhà nước, từ mặt chế độ, bảo đảm dân chủ hóa trong đời sống chính trị của đảng và nhà nước, dân chủ hóa trong quản lý kinh tế, dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, thúc đẩy việc xây dựng hiện đại hóa phát triển thuận lợi. Bệnh tật đã tìm đúng. Nhưng còn sửa thế nào, thì trong một thời gian dài Đặng chưa tìm. ra đầu mối. Ông chỉ đề ra ba kinh nghiệm làm tiêu chuẩn phân biệt tốt xấu trong chế độ lãnh đạo đảng và nhà nước:
1) Về kinh tế, có lợi cho phát triển sức sản xuất.
2) Về chính trị, có lợi cho việc phát huy đầy đủ dân chủ.
3) Về tổ chức, có lợi cho việc lựa chọn, bồi dưỡng nhân tài ưu tú.
Đầu những năm 80, Đặng cho rằng điều kiện và thời cơ để cải cách chế độ lãnh đạo đảng và nhà nước đã chín muồi đồng thời tiến hành thành lập ban bí thư trung ương; bỏ chức chủ tịch đảng; giải quyết việc kiêm chức và quá nhiều chức phó ở trung ương; thiết lập ủy ban kiểm tra kỷ luật trung ương và ủy ban cố vấn trung ương... Sau đó, Đặng tập trung toàn bộ tâm sức làm cải cách kinh tế.
Nhưng đến giữa thập kỷ 80, Đặng phát hiện thấy việc cải cách thể chế chính trị lạc hậu nghiêm trọng so với cải cách thể chế kinh tế, càng ngày càng thấy sự cần thiết và tính bức thiết của cải cách thể chế chính trị, nếu không cải cách thể chế chính trị thì cải cách kinh tế không thể đi sâu được, những thành công đã giành được cũng khó lòng giữ vững. Năm 1986, nhiều lần Đặng đều nhắc đi nhắc lại về mục tiêu và phương pháp cải cách thể chế chính trị. Đến trước khi triệu tập Đại hội lần thứ XIII, Đặng đã hình thành ý tưởng về cải cách như sau:
Mục tiêu thứ nhất là cơ cấu hành chính của đảng và toàn bộ thể chế nhà nước phải tăng cường sức sống.
Mục tiêu thứ hai là khắc phục chủ nghĩa quan liêu, nâng cao hiệu suất công tác.
Mục tiêu thứ ba là phát huy tính tích cực của cơ sở và công nhân, nông dân trí thức.
Phương pháp để tìm thuận lợi, bỏ tệ hại cũng có ba điều:
1) Tách riêng đảng và chính quyền.
2) Quyền lực trao xuống dưới.
3) Tinh giản cơ cấu.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền, cải cách thể chế lãnh đạo đảng và nhà nước rất dễ dẫn tới những nghi ngờ, lo lắng: Có còn cần sự lãnh đạo của đảng không? Sự lãnh đạo của đảng cần phải mạnh lên hay yếu đi? Những vị quan liêu sợ cải cách thường xuyên đưa những vấn đề này ra trước Đặng. Đặng trả lời: cải cách chế độ lãnh đạo của đảng và nhà nước chính là để giữ vững và tăng cưởng sự lãnh đạo của đảng, vì chỉ có “tiến hành cải cách triệt để” những tệ hại trên thì “nhân dân mới tín nhiệm sự lãnh đạo của chúng ta. “
Nếu nói một số biện pháp cải cách của Đặng (như chống lại việc đảng can thiệp quá nhiều) là “làm yếu” sự lãnh đạo của đảng, thì mưu lược của Đặng là “muốn cho mạnh lên, tất phải làm yếu đi”. Có nghĩa là, Đặng muốn thông qua cải cách để chủ động sửa chữa những sai lầm của đảng phạm phải trước kia, tránh sau này lại tái phạm, làm cho sự lãnh dạo có được sức sống mới. Nếu không có những cải cách đó, Đảng Cộng sản Trung quốc có thể sẽ đi theo vết xe đổ của Đảng Cộng sản Liên xô và các Đảng Cộng sản Đông Âu.
Đặng cho rằng cải cách thể chế chính trị “không thể không làm”, sự lãnh đạo của đảng cần phải giữ vững, vấn đề là đảng phải giỏi lãnh đạo. Phải không ngừng cải thiện sự lãnh đạo thì mới tăng cường dược sự lãnh đạo. Mô hình vừa giữ vững vừa cải thiện (cải cách) đó là toàn bộ không gian tư duy mà Đặng vạch ra cho cải cách thể chế. Vấn đề là hai quá trình giữ vững và cải cách không thể tiến hành tách rời nhau. Không thể dự tính là trước hết hãy cải cách tốt sự lãnh đạo của đảng rồi sau mới giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, mà phải đồng thời tiến hành cả hai tay, nghĩa là đối với việc cải cách thể chế lãnh đạo của đảng và nhà nước, Đặng áp dụng biện pháp sau: cải cách việc lãnh đạo của đảng dưới sự lãnh đạo của đảng. Có lúc có thể xuất hiện tình huống sau đây: càng cải cách mở cửa, càng cảm thấy phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng.
Loại cải cách như vậy của Đặng tất nhiên là làm từ trên xuống dưới, tự mình sửa mình và tất phải theo hình thức tiệm tiến. ưu điểm của cách làm đó là không dẫn tới sự mất điều khiển trong xã hội, nhưng cũng có thể thấy được sự phức tạp của nó. Đúng như Phí Chính Thanh đã nói: “Hiện nay Đặng đang đi theo một con đường mới, vừa nâng đỡ tinh thần sáng tạo, vừa xây dựng lại đảng và chính phủ. Ông ý thức được rằng sự tiến bộ của Trung quốc cần phải thông qua một bộ máy quan liêu được huấn luyện chứ không phải là bỏ qua nó. Đó là cách nhìn thiết thực, khác với chủ nghĩa duy ý chí của Mao, nhưng đồng thời cũng là một nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều”
4.3. Người ta không thể không khâm phục trí tuệ và muu luợc của Đặng trong việc “tách riêng đảng và chính quyền”. Nhưng “thuật vá trời” đó của ông khi đem thực hiện vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn và mâu thuẫn
Đầu thập kỷ 40, Đặng Tiểu Bình đã phản đối khẩu hiệu “lấy đảng trị nước”, ngày 15.4.1941, ông đã viết bài trên tạp chí “Sinh hoạt đảng”, chỉ ra những biểu hiện và tai hại của việc “lấy đảng trị nước”.
Những người theo thuyết lấy đảng trị nước “đã giải thích sự lãnh đạo của đảng là “quyền của đảng cao hơn tất cả” tùy ý can thiệp vào công tác của chính phủ, tùy tiện thay đổi pháp lệnh của chính quyền cấp trên; không qua thủ tục hành chính, tùy tiện điều động cán bộ công tác trong chính quyền; có một số địa phương nếu không có thông tri của đảng thì pháp lệnh của chính quyền không thực hiện được, gây nên hiện tượng hỗn loạn trong hệ thống chính quyền. Thậm chí biến “quyền của đảng cao hơn tất cả” thành “đảng viên cao hơn tất cả”, đảng viên có thể làm điều sai trái, đảng viên phạm pháp có thể tha thứ. Kết quả như thế nào? Kết quả là cán bộ ngoài đảng gọi đảng là “nhà đương cục tối cao” (đó là lời châm biếm sâu cay, thế mà có đảng viên nghe thấy lại lấy làm mừng?). Có người tiêu cực không phát biểu ý kiến, có người xa rời chúng ta thậm chí chống lại chúng ta, những người tiến bộ thì lo lắng cho chúng ta. Kết quả, quần chúng cho rằng chính phủ không có tác dụng gì, mọi việc đều do Đảng Cộng sản quyết định. Thế là cần tiền cũng hỏi Đảng Cộng sản, cần lương thực cũng hỏi Đảng Cộng sản. Mọi pháp lệnh của chính phủ đều là pháp lệnh của Đảng Cộng sản, mọi sai lầm của chính phủ đều là sai lầm của Đảng Cộng sản, chính phủ không có uy tín, đảng cũng xa rời quần chúng. Đó thực là một sự ngu ngốc lớn? Kết quả là cơ quan chỉ đạo các cấp của đảng đều tê liệt, không đi sâu vào nghiên cứu chính sách, bận rộn với việc can thiệp vào công tác sự vụ của chính quyền, buông lỏng lãnh dạo chính trị. Kết quả là đảng viên “cậy thế đảng mà kiêu ngạo”, những đảng viên công tác trong chính quyền thì tự cao tự đại, cậy thế lấn lướt người, tự cho là đúng, coi thường người ngoài đảng, tự mình có thể không tuân theo pháp luật, không tuân thủ kỷ luật và trật tự của chính quyền”. “Tóm lại, cái độc hại “lấy đảng trị nước” do Quốc dân đảng để lại đã làm tê liệt đảng, hủ hóa đảng, phá hoại đảng, là biện pháp có hiệu quả nhất khiến đảng tách rời quần chúng. Chúng ta chống lại sự chuyên chính một đảng, “lấy đảng trị nước” của Quốc dân Đảng, chúng ta lại càng phải phản đối cái độc hại do Quốc dân đảng truyền bá vào trong đảng ta”. Điều mà Đặng phản đối trong thập kỷ 80 là “đảng và chính quyền không tách biệt”, “lấy đảng thay thế chính quyền” có khác với cái mà ông đã bài xích trong thập kỷ 40 là “lấy đảng trị nước”? Cái độc hại “lấy đảng trị nước” để lại trong những năm chiến tranh cộng thêm địa vị cầm quyền từ năm 1949, sao chẳng khiến cho quyền của đảng cao hơn tất cả?
Đặng cho rằng quyền lực quá tập trung là một điều tệ hại lớn của thể chế truyền thống, và là gốc của mọi điều tệ hại khác. Quyền lực đã được tập trung như thế nào? Tức là đã mượn cớ tăng cường sự lãnh đạo nhất nguyên hóa, tập trung mọi quyền lực (công nông thương học binh, đảng chính quân dân học, đông tây nam bắc trung) một cách không thỏa đáng vào đảng ủy các cấp, mà quyền lực của đảng ủy, lại tập trung vào mấy bí thư, đặc biệt là tập trung vào bí thư thứ nhất, ở trung ương thì tập trung vào chủ tịch đảng. Kết quả cải gọi là sự lãnh đạo của đảng biến thành sự lãnh đạo của cá nhân. Thời Mao Trạch Đông, cũng đã nhìn thấy quyền lực quá tập trung không lợi cho việc phát huy tính tích cực của địa phương và cấp dưới, đã mấy lần làm việc phân quyền, nhưng lần nào cũng không động chạm tới vấn đề quan trọng là đảng và chính quyền, không tách bạch, dùng đảng thay cho chính quyền, cho nên phân quyền chỉ là câu nói suông, tệ hại tập trung quyền lực càng ngày càng lớn.
Nay Đặng nắm lấy điểm quan trọng: mục tiêu cải cách thể chế chính trị là phát huy tính tích cực, nâng cao hiệu suất, khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Hiệu suất không cao chủ yếu là do đảng và chính quyền không tách bạch, trong rất nhiều việc, đảng đã làm thay chính quyền. Cho nên “nội dung cải cách trước hết là phải tách riêng đảng và chính quyền” giải quyết “vấn đề vạch phạm vi chức quyền giữa đảng với chính phủ, tổ chức kinh tế, đoàn thể quần chúng” Đặng cho đó là then chốt của phương lược cải cách chính trị, “cần đặt lên hàng đầu”.
Tại sao Đặng không thể bao biện mọi việc? Trước hết vẫn là vấn đề cũ này: Ngoài ngành có thể lãnh đạo trong ngành được không?
Một hôm, Đặng hỏi trong hội nghị cán bộ đảng: “Trong đảng viên cộng sản rút cục có bao nhiêu người có chuyên môn và tri thức? đặc biệt là trong cán bộ lãnh đạo có bao nhiêu người có chuyên môn và tri thức?” Câu hỏi đó rõ ràng làm nhiều người phải đỏ mặt. Theo thống kê của Cục thống kê nhà nước vào năm 1982, trong 22 triệu cán bộ có 21% có trình độ đại học, 42% có trình độ phổ thông, trong số lãnh đạo cấp cao có một nửa có trình độ văn hóa thấp, số đông cán bộ lớp giữa và dưới càng thấp hơn. Song tiếp đó Đặng nói: “Dù đảng viên có đủ tri thức chuyên môn, đảng cũng không thể làm thay tất cả, bao biện tất cả. Ngày nay lại càng không thể như vậy”. Năm 1980, Đặng ban bố một quy định: “Từ nay, phàm các công việc thuộc phạm vi chức trách của chính quyền, đều do quốc vụ viện và chính quyền địa phương thảo luận, quyết định và ban bố văn kiện, không do Trung ương đảng và các cấp bộ đảng phát chỉ thị, ra quyết định nữa”, để “thực sự xây dựng một hệ thống công tác mạnh mẽ từ Quốc Vụ viện đến chính quyền địa phương”.
Quan hệ giữa đảng và chính quyền ra sao, hoàn toàn quyết định ở đảng. Đặng tiếp tục áp dụng một số biện pháp về thể chế tổ chức, thí dụ bắt đầu từ trung ương; người lãnh đạo chủ yếu không kiêm chức trong chính phủ, đảng ủy các cấp không phân công bí thư theo dõi công tác chính quyền; triệt tiêu đảng đoàn trong các ngành chính quyền; triệt tiêu các ngành quản lý kinh tế trong đảng ủy tương ứng với các ngành trong chính quyền, công việc thuộc phạm vi pháp luật do nhà nước và chính phủ quản lý, không do đảng trực tiếp quản lý.
ở cơ sở thì phổ biến thực hiện chế độ trách nhiệm của xưởng trưởng (thủ trưởng quân đội, hiệu trưởng nhà trường) dưới sự lãnh đạo của đảng ủy. Đảng ủy chỉ quản những vấn đề chính trị lớn, có tính nguyên tắc, còn những vấn đề sản xuất, quản trị hành chính trong nhà máy đều do xưởng trưởng thống nhất chỉ huy. Thể chế lãnh đạo của đảng đại thể chỉ đến đó thôi, còn các phân xưởng thuộc nhà máy, khoa thuộc nhà trường, Đặng không chủ trương do tổ chức đảng lãnh đạo.
Những điều trên là sự phân biệt giữa đảng và chính quyền của Đặng. Đặng quyết định như vậy không phải là muốn làm yếu quyền lực tối cao của đảng mà là hạn chế việc đảng can thiệp vào công tác hàng ngày và công việc kinh tế. Theo ông “can dự nhiều quá, làm không tốt lại có thể làm yếu sự lãnh đạo của đảng”. Đặng cần ở địa vị lãnh đạo, vấn đề là ở chỗ đảng quản lý chính quyền như thế nào, đảng thực hiện sự lãnh đạo bằng biện pháp gì? Phương pháp quản lý như trước kia không giữ vững được sự lãnh đạo của đảng, không nâng cao được uy tín của đảng. Phương pháp quản lý của Đặng khá cao tay: đảng chỉ nắm phương châm chính sách và quyết định việc sử dụng cán bộ quan trọng; chủ trương của đảng thông qua trình tự pháp luật biến thành ý chí của quốc gia và pháp lệnh của chính phủ; sau đó, đảng thông qua công tác chính trị tư tưởng và tác dụng dẫn đầu gương mẫu của đảng viên mà bảo đảm sự thực hiện.
Đặng đặt rất nhiều hy vọng vào những biện pháp cải cách của ông. Ông mong muốn thông qua những biện pháp đó để khôi phục đia vị và tác dụng của Đảng Cộng sản trong nhân dân các dân tộc và trên quốc tế. Liên hệ tới vận mạng của Đảng Cộng sản Liên xô và các nước Đông Âu người ta không thể không khâm phục tài trí và mưu lược “vá trời” của ông Đặng. Song “thuật vá trời” của ông trong quá trình thực hiện, vẫn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn khó khắc phục: một mặt không cho phép đảng lạm dụng quyền lực, mặt khác lại không làm cho đảng mất đi năng lực khống chế cục diện. Đảng vừa phải ở vào địa vị lãnh đạo, lại vừa không được can thiệp quá nhiều. Những nghệ thuật như vậy thật không dễ nắm. Do đó, ở các địa phương vẫn tồn tại phổ biến hiện tượng không ăn khớp giữa đảng, chính quyền và hội đồng nhân dân, ở nhà máy thì nổ ra mâu thuẫn lúc thì bí thư là “hạt nhân”, lúc thì giám đốc (xưởng trưởng) là “trung tâm”.
4.4. Phàm những việc thích hợp để cấp dưới làm, thì để cho cấp dưới quyết định và thực hiện.
Trao quyền lực xuống dưới là nhằm giải quyết tình trạng quyền lực quá tập trung.
Quyền lực quá tập trung là do đảng và chính quyền không tách bạch, đảng làm thay chính quyền gây ra. Song biện pháp khắc phục điều tệ hại này, ngoài việc tách riêng đảng và chính quyền, còn phải trao quyền xuống dưới, giải quyết mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, chính quyền với xí nghiệp, nhà nước với nhân dân. Phân tách đảng và chính quyền chỉ là sự phân phối lại quyền lực giữa đảng và chính quyền, vấn đề thực sự là phải định vị lại quyền lực giữa chính trị (đảng và chính quyền) với xã hội (tổ chức kinh tế, đoàn thể nhân dân), thông qua việc phân phối quyền lực theo chiều dọc, làm cho xã hội giành được không gian tự do phát triển. Như vậy, mới đạt tới mục đích cải cách và làm sống động.
Việc phân phối quyền lực theo chiều dọc sẽ động chạm tới thần kinh trung ương của thể chế truyền thống. Sau khi Đảng Cộng sản Trung quốc cầm quyền từng nhấn mạnh hết lần này tới lần khác việc tập trung thống nhất, rất ít nói tới phân quyền cho đối tượng bị lãnh đạo có quyền tự chủ. Cấp trên với cấp dưới, lãnh đạo với quần chúng quản rất nhiều việc không nên quản, ao đó quản không nổi, quản không tốt. Đặng đưa ra một thí dụ về “quản quá nhiều”: Thập kỷ 50, cơ quan lãnh đạo nam Sơn Tây quy định vào mồng 5 tháng Tám âm lịch thì ngắt ngọn cây bông, nếu không đủ kích thước thì không dược ngắt ngọn. Cán bộ liền mang thước ra đồng để đo chiều cao và cho ngắt ngọn. Ai làm theo đúng thì mỗi mẫu nộp 40 cân bông, nếu không làm theo, mỗi mẫu phải nộp 50 cân bông. Cán bộ cho rằng làm như vậy thì sẽ kết nhiều bông và coi đó là kinh nghiệm tiên tiến để truyền bá đi. Đặng nói: “như thế là lạm dụng uy tín của đảng”.
Quyền lực quá tập trung, gây trở ngại cho việc thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và chế độ tập trung dân chủ trong đảng, gây trở ngại cho việc phát huy trí tuệ tập thể, dễ tạo thành tệ độc đoán cá nhân, phá hoại chế độ lãnh đạo tập thể. Đặng cho đó là một nguyên nhân quan trọng “sinh ra chủ nghĩa quan liêu”làm nảy sinh đại cách mạng văn hóa, khiến chúng ta phải trả giá rất đắt. Hiện nay không thể không giải quyết.
Quyền lực tập trung cao độ còn một tệ hại nữa: cái gì cũng do cấp trên ôm đồm, địa phương và xí nghiệp không có quyền tự chủ, cũng không chịu trách nhiệm, làm tốt hay không tốt do cấp trên chịu. Cấp trên nắm chắc quyền lực không buông ra, cấp dưới không có tính tích cực, không sống động, thế tất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế.
Nguyên tắc chung về trao quyền, Đại hội XIII khái quát thành: Phàm việc thích hợp để dưới làm thì để cho dưới quyết định và thực hiện. Việc của địa phương do địa phương quản, trách nhiệm của trung ương chỉ là đề xuất phương châm chính trị lớn và đôn đốc; quyền quản lý kinh doanh trao cho đơn vị xí nghiệp và sự nghiệp; việc của các đơn vị do đơn vị quản, trách nhiệm của chính quyền chỉ là dựa theo luật pháp và chính sách để phục vụ cho xí nghiệp và tiến hành giám sát đôn đốc; việc của quần chúng do đoàn thể quần chúng và tổ chức tự trị ở cơ sở căn cứ vào pháp luật tổ chức thực hiện..
Đặng muốn đạt tới 3 mục đích nâng cao hiệu suất công tác, phát huy tính tích cực và giải phóng sức sản xuất, đều dựa vào hai biện pháp phân quyền và trao quyền. Nhưng việc phân quyền theo chiều dọc giữa chính quyền và xí nghiệp, nhà nước và xã hội khó hơn việc phân quyền theo chiều ngang giữa đảng và chính quyền rất nhiều. Vì quyền lực có nhiều tác dụng, bảo những người có quyền trao quyền lực thì giống như đập vỡ nồi cơm của họ. Vì vậy trong quá trình cải cách thể chế, thường xuất hiện hiện tượng: anh trao quyền lực này xuống dưới, thì lại tìm trăm phương ngàn kế thu hồi quyền lực kia về. Một mặt khác, sau khi trao quyền lực xuống dưới, lại xuất hiện hiện tượng đối kháng: “Trên có chính sách, dưới có đối sách”, có lệnh không làm theo, có điều cấm vẫn không thôi, dẫn tới mối nguy hiểm mất sự điều khiển của trung ương.
Từ đó, lại thấy rằng không nên buông quá nhiều. Đương nhiên, điều này phù hợp với sách lược có buông có nắm của ông Đặng. Xu thế chung của cải cách là buông, nhưng ở từng bước cụ thể lại vừa buông vừa nắm. Công việc của Trung quốc chỉ có thể tiến hành theo phương thức từng đợt sóng như vậy.
4.5. Có một cuốn “Danh bạ các cơ quan của Trung quốc” giá sách đã tới mấy trăm đồng. Đủ thấy Trung quốc có quá nhiều cơ quan, Đặng đã phải “Dỡ miếu tống thần”
Mục tiêu trung tâm của cải cách thể chế là trao quyền lực xuống dưới. Đặng Tiểu Bình cảm thấy khó xử là trao quyền thường gặp trở ngại về nhân sự. Trao quyền gây uy hiếp cho quyền lực và địa vị của quan chức đảng và chính quyền các cấp, mà công việc lại phải do họ tiến hành. Thế là xuất hiện tình hình: ở đây anh trao quyền thì ở chỗ kia tôi thu quyền. Anh có biện pháp gì?
Biện pháp của Đặng là bớt củi khỏi đáy nồi, tinh giản cơ cấu, dỡ miếu tống thần. Nhiều “mẹ chồng” quá thì tìm việc làm cho họ xóa bỏ sự khác biệt giữa “mẹ chồng”, “nàng dâu”. Anh thích quản việc, anh hãy tự quản lấy mình.
Như vậy là động chạm tới gốc của vấn đề, không những là với chế độ, mà là với con người. Do đó công việc rất bề bộn.
Có một cuốn “Danh bạ các cơ quan của Trung quốc”, chỉ giá tiền đã tới mấy trăm đồng, đủ thấy Trung quốc có quá nhiều cơ quan. Theo nguyên tắc tinh giản, có hơn 3 vạn cơ quan đảng, chính quyền từ cấp huyện trở lên bị dôi ra. Lại còn số cơ cấu bên trong và cơ cấu lâm thời không thể thống kê hết. Tại một thành phố thuộc tỉnh nọ đã có 131 cơ quan lâm thời, có cái đã được lập ra mười năm, thực chất là một cơ quan chính thức.
Có người nói vui: ở Bắc Kinh, lên xe công cộng nếu không cẩn thận sẽ giẫm phải ba ông cục trưởng. Bắc Kinh là thủ đô, tất nhiên nhiều quan hơn. Nhưng một huyện nghèo ở tỉnh nọ, nhân khẩu chỉ có hơn 30 vạn, mà cán bộ cơ quan đã có 1600 người, tỷ lệ giữa quan và dân thật khá cao. Theo thống kê năm 1979, cán bộ đảng và chính quyền trong cả nước có 279 vạn người, năm 1988 tăng tới 543,5 vạn người. Trong mười năm tăng gấp đôi, vượt quá tốc độ tăng dân số rất nhiều, mà gần sát với tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân. Điều đó có nghĩa là thành quả cải cách trong mười năm đã bị triệt tiêu một phần lớn.
Quan nhiều phủ lớn đã là nguyên nhân quan trọng khiến tài chính kiệt quệ. Số chi phí về hành chính sự nghiệp trong toàn quốc chiếm trên 40% thu nhập tài chính, nhiều tỉnh chiếm tới trên 65%, đại đa số huyện chiếm 80 - 90%. Năm 1990, cả nước bội chi tài chính 7 tỷ đồng, trong đó 3, 6 tỷ là chi về hành chính quản lý. Cả nước có hơn 2100 huyện, tức khoảng 5~5% số huyện sống dựa vào trợ cấp tài chính. Trợ cấp dùng không đủ thì lấy cả quỹ chống nghèo, quỹ sinh đẻ có kế hoạch và quỹ phòng thiên tai cho nhân viên cơ quan sống. Nếu tính cả các khoản thu nhập ngoài tiền lương, ngoài chính sách thì mỗi năm đã ăn đi mất bao nhiêu tài sản xã hội. Người ta thường nói, để cho 1 tỷ người có đủ cơm ăn đã là khó, với trình độ sản xuất hiện nay mà nuôi bộ máy quan liêu khổng lồ như vậy thì càng khó hơn.
Mỗi năm tiêu mất mấy chục tỷ đồng trong thu nhập quốc dân còn chưa phải là cái quan trọng nhất, cái quan trọng hơn là bộ máy phình to, nhiều ngành chen chúc, tầng thứ đè lên nhau, nhân viên đông đúc, chức trách không rõ ràng, tạo thành hai hậu quả: Hiệu suất công tác của cơ quan rất thấp, không làm hết chức trách; mặt khác, quan nhiều sinh lạm quyền, gây trở ngại nghiêm trọng cho việc phát huy tính tích cực trong xã hội. Điều này lại ảnh hưởng rất nhiều đến thu nhập quốc dân.
Còn một hậu quả nghiêm trọng nữa: “Hiện nay có rất nhiều miếu, mỗi miếu lại có rất nhiều bồ tát. Người cũ chiếm hết chỗ, người trẻ không có đường tiến lên” Cứ tiếp tục như thế, “không những bốn hiện đại hóa không có hy vọng, mà thậm chí còn dẫn tới nguy cơ mất đảng, mất nước nữa”. Đứng trước tình hình không thể để tiếp tục mãi, không thể chấp nhận này, Đặng không còn cách lựa chọn nào khác, quyết tâm tiến hành cuộc cách mạng tinh giản cơ cấu
Đặng có kế hoạch để ra hai năm từ năm 1982, để giảm bớt từ 1/8 đến 1/4 cán bộ, tức từ 5 triệu tới 7 triệu. Biện pháp là khống chế biên chế, giới hạn nhân viên,. chỉ cho phép lập từng ấy miếu, không cho tăng biên chế; chỉ cho phép kê bấy nhiêu ghế, không cho tăng số người. Những cán bộ thừa ra và số nhân viên được giải chức thì cho đi học nghiệp vụ, hoặc xếp sắp vào các ngành khác. Những cán bộ chưa đến tuổi về hưu thì cho về hưu sớm hoặc đi học, một số khác được điều tới những cương vị không có quyền ra quyết sách. Những cán bộ cũ có kinh nghiệm thì xếp sắp vào một số chức vụ danh dự.
Đặng muốn thông qua biện pháp đó để cho bộ máy không phình, ra đưa ra một loạt người già, người ốm, người kém, đồng thời đưa thêm vào một số người mới, người trẻ, người có nằng lực, để tăng sức sống, nhằm mục đích nâng cao hiệu suất. Nhưng, dỡ miếu thì dễ, đuổi thần mới khó. Những người đi học rồi sẽ trở về, điều động chỉ là chuyển sang miếu khác, những người thực sự từ giã quan trường không nhiều, người mới được đưa vào lại không ít. Cứ ra một vào hai như thế, miếu càng thêm chật chội. Miếu nhỏ chứa không đủ, lại tìm cách mở rộng miếu. Thành thử miếu được dỡ rồi lại dựng trở lại, hình thành tình trạng tuần hoàn ác tính: phình ra - tinh giản - lại phình ra. Để chống tình trạng luẩn quẩn trên, Đại hội lần thứ XIII nắm lấy khâu then chốt là thay đổi chức năng, gộp lại theo yêu cầu cải cách kinh tế đồng thời tách riêng chính quyền và xí nghiệp, giảm bớt bộ máy trong quản lý chuyên môn và ngành tổng hợp, biến việc quản lý trực tiếp thành quản lý gián tiếp. Những ngành quản lý thừa ra đều biến thành thực thể kinh tế, đi theo con đường của đảo Hải Nam là chính quyền nhỏ, xã hội lớn. Nhưng hiệu quả vẫn không tốt, do đuổi thần rất khó. Anh không cho ghế thì họ đứng trong miếu, đứng cũng vẫn mất một tuần nhang. Lại vì không có chỗ nên lại càng cần lạm quyền. Nếu để họ ra ngoài làm kinh tế, thì họ vốn có chức, có uy, có nhiều mối “quan hệ”, nên lại lập ra rất nhiều công ty mang tính hành chính. “Công ty đổi biển” cũng coi như một tòa miếu mới, hương khói càng nghi ngút. Cơ cấu của Quốc Vụ viện từ 45 giảm xuống còn 41, nhân viên giảm được 1/5, so với số đề ra năm 1982 là giảm 1/3 thì còn kém xa. Dù như vậy đó cũng chỉ là ở cấp trung ương, còn ở địa phương thì tiến triển rất chậm. Công việc vẫn cần do những người đó làm, mấy vạn cán bộ mà nhất tề bãi công thì xã hội sẽ loạn...
Đến đầu thập kỷ 90, trong cơ quan đảng và chính quyền toàn quốc, bình quân mỗi tỉnh, địa khu, thành phố cấp địa khu và huyện lần lượt có 15, 20, 15 và 10 cơ cấu vượt biên chế. Tuy có thêm được nhiều người mới, nhưng tổng số “bồ tát” cũng tăng lên gấp đôi. Đặng chỉ còn gửi gắm hy vọng vào biện pháp kinh tế thị trường thôi.
4.6. Phuarơ bình luận: “việc thay đổi cũ mới do Đặng Tiểu Bình tiến hành hầu như chứng minh rằng chính quyền cộng sản đã tìm ra phương pháp, vừa thay đổi ban lãnh đạo cũ - mới một cách có trật tự, và làm cho bộ máy đồ sộ khôi phục được sức sống thanh xuân
Theo thiết kế của Đặng Tiểu Bình, mục đích của cải cách cơ cấu là để tăng cường sức sống, nâng cao hiệu suất. Mà sức sống của bộ máy đảng và nhà nước là ở sự thay đổi cũ mới trong thành viên lãnh đạo. Như vậy đẻ ra một vấn đề: Làm thế nào để giải quyết hiện tượng lão hoá nghiêm trọng trong tầng lớp lãnh đạo Trung quốc từ sau thập kỷ 80.
Vấn đề này không thể xuất hiện nếu có chế độ nghỉ hưu, mà nếu có xuất hiện thì cũng dễ giải quyết. Vấn đề là Trung quốc từ xưa chưa có chế độ đó. Trung quốc có một quan niệm cũ thâm căn cố đế, tức là cho rằng tuổi tác càng cao thì càng sáng suốt, 50 tuổi là biết mệnh trời, bảy mươi tuổi thì tùy theo ý muốn mà không vượt khỏi khuôn phép. Cách mạng cộng sản chủ nghĩa trong thế kỷ 20 lại thêm một niềm tin mới, cho rằng người cách mạng chân chính thì không thể xuống đài, phải phấn đấu suốt đời vì lý tưởng. Lại thêm sự suy nghĩ thực tế là có quyền mới dễ làm việc, nên có rất ít người tự nguyện xuống đài. Trừ phi phạm sai lầm về chính trị bị cách chức, hoặc trong đấu tranh đường lối bị đả đảo, mọi cán bộ lãnh đạo đều giữ cương vị “cúc cung tận tụy cho đến hết đời”. Loại chế độ giữ chức suốt đời đó là nguyên nhân căn bản khiến cho tầng lớp lãnh đạo bị lão hóa.
Nói một cách khách quan, khi Đảng Cộng sản Trung quốc mới xây dựng nước, hiện tượng lão hóa trong cán bộ chưa nổi bật, vì những cán bộ đã tham gia trường chinh cũng chưa quá bốn, năm mươi tuổi. Thời kỳ cách mạng văn hóa tạo phản, đoạt quyền, đánh đổ hàng loạt cán bộ cũ, cũng có thể gọi là thay cũ đổi mới, đáng tiếc là lại đổi sai người và phương pháp đổi cũng sai. Sau khi đập tan “nhóm bốn tên”, đại đa số quan được về nguyên chức cũ, nhưng Đặng rất nhanh chóng thấy rằng thành công đó chỉ là tạm thời. Năm 1975, khi Đặng chủ trì công tác Trung ương, Vương Hồng Vàn đã nói: “Để mười năm nữa rồi xem”. Câu nói đó nhắc nhở Đặng: “Về tuổi tác, chúng ta không đấu nổi bọn họ”. Mời các đồng chí cũ trở lại, lại gặp phải vấn đề lão hóa và đứt đoạn. “Nếu chúng ta không giải quyết vấn đề trong vài ba năm, thì mười năm sau không biết sẽ dẫn tới chuyện gì”. Do đó, vừa giải quyết xong chuyện phái phàm là. Đặng liền đề xuất: “nhất định phải nhân lúc chúng ta còn sống, chọn lựa đúng được người kế tục” “các đồng chí cũ còn sống, vấn đề còn dễ giải quyết, nếu chúng ta đã mất mà vấn đề vẫn chưa được giải quyết thì thiên hạ sẽ đại loạn”
Theo Đặng, hoàn thành thuận lợi việc thay đổi cũ mới trong tầng lớp lãnh đạo là một biện pháp chiến lược quan trọng bảo đảm về mặt tổ chức cho tính liên tục của chính sách cải cách mở cửa và cho đất nước được ổn định lâu dài. Quyết tâm hoàn thành công việc này của Đặng là rất kiên quyết, nhưng hành động mà ông áp dụng lại rất thận trọng. Ông hiểu rõ then chốt của bước thay cũ đổi mới là vấn đề những đồng chí cũ cản đường, mà số đông cán bộ cũ lại luyến tiếc quyền vị, không chịu bàn giao. Những đồng chí cũ lại là cốt cán của chính quyền hiện nay, không thề thiếu họ được. Do đó giải quyết không thể quá gấp, quá gấp sẽ không thực hiện được, cần phải cố gắng giảm bớt trở lực, liệu chiều mà làm tuần tự tiệm tiến. Năm 1980, từ việc Trung ương giải quyết vấn đề kiêm chức, chức phó quá nhiều, có một ý đồ: để những người chiếm nhiều chỗ quá nhường bớt ra một số chỗ để đưa người mới vào. Phương pháp này thu được hiệu quả trong việc bài xích phải “phàm là”.
Chính nhờ phương pháp này mà Triệu Tử Dương đã tiếp quản được chức thủ tướng từ sự thôi kiêm chức của Hoa Quốc Phong. Nhưng cánh cửa của phương pháp này rất hẹp, không đưa vào được mấy người, mà những người cũ vẫn ở lại, tên tuổi của những người trẻ vẫn xếp ở phía sau. làm như vậy thì việc thay cũ đổi mới trong tầng lớp lãnh đạo sẽ quá kéo dài.
Để đẩy nhanh việc thay đổi, năm 1982, Đặng phát động một cuộc cách mạng trong tinh giản cơ cấu, muốn hoàn thành ngay việc thay đổi trong một lần, thông qua phương thức định biên chế, hạn số người mà rút bớt một loạt người già, người kém, thay vào một loạt người trẻ, người giỏi. Không ngờ, trong khi thực hiện lại gặp phải cái phiền phức là dỡ miếu thì dễ, tống thần thì khó. Kết quả là người mới vào được khá nhiều, nhưng người cũ chỉ ra được số ít, vào nhiều hơn ra, làm cho cơ cấu càng phình to. Muốn đẩy nhanh việc tinh giản cơ cấu mà không (hoặc cố gắng ít) phải hy sinh nguyên tắc tinh giản, chỉ có dựa trên tiền đề là những người cũ thực sự rút lui. Chỗ ngồi chỉ có bấy nhiêu, lại còn tinh binh giản chính, người cũ không rút lui, thì người mới vào làm sao được?
Biện pháp giải quyết về căn bản là từng bước hình thành chế độ nghỉ hưu của cán bộ. Đặng dự tính dùng thời gian 10-15 năm để hoàn thành cuộc cách mạng thể chế này. Lúc đó, không những số lượng cán bộ bị hạn chế, mà nhiệm kỳ, tuổi tác, cũng được quy định rõ ràng. Hết nhiệm kỳ, tự động xuống đài; đến độ tuổi, tự động về hưu, như vậy thì người trẻ mới có thể tuần tự tiến vào trung tâm lãnh đạo, giải quyết về căn bản hiện tượng lão hóa và gián đoạn. Nhưng kế hoạch đó không đáp ứng được nhu cầu bức thiết trước mắt, huống hồ trước đó còn cần có một giai đoạn quá độ. Cái khó là ở chỗ trong thời kỳ quá độ trước mắt làm sao để cán bộ cũ rút lui được?
Đặng nghĩ ra hai biện pháp, một là “khuyên nên rút”, ông dùng tiền đồ quốc gia và đại nghĩa của hiện đại hóa để ra sức khuyên cán bộ cũ rút lui tự nguyện. Đồng thời, Đặng nghĩ tới việc cán bộ cũ không muốn rút lui vì sợ mất quyền lợi, nên đã quy định sau khi rút lui vẫn được hưởng mọi đãi ngộ và đặc quyền như khi tại chức, những người chưa đến tuổi mà nghỉ hưu, còn được một khoản ưu đãi. Phương pháp dùng ưu đãi để đổi lấy quyền lực như vậy cố nhiên làm tăng sự gánh vác của nhà nước, nhưng người già, người ốm nhường chỗ để người khác làm việc vẫn tốt hơn là chiếm địa vị mà không làm việc.
Đặng còn có một biện pháp “nửa rút lui”, tức là lập ra một số chức vị danh dự, để cán bộ cũ rút về “tuyến hai”. Nam 1981, khi tiếp nhận đơn từ chức của Hoa Quốc Phong, Đặng đã đề xuất: “ngoài ủy ban trung ương mới, còn đặt thêm hai ủy ban là ủy ban cố vấn và ủy ban kiểm tra kỷ luật gồm một số lão đồng chí. Thành viên Ban chấp hành trung ương cần trẻ một chút, đó là để lo về saư” Điều được nhiều người khen nhất là chế độ cố vấn. Đặng có ý thức sử dụng biện pháp chưa từng có đó nhằm mục đích giữ yên trong thời kỳ quá độ. Cố vấn không nhận chức vụ cụ thể, như vậy, có thể nhường chỗ cho người trẻ tuổi trung thành với bốn hiện đại. Cố vấn lại có chức vị ngang như ủy viên trung ương, để các lão đồng chí vào vị trí đó, thì dễ làm việc. Song làm cố vấn không phải chỉ có tác dụng an ủi mà còn có trách nhiệm “dẫn dắt”. Mưu lược đó của Đặng có dụng ý rất sâu, vì ban lãnh đạo Trung quốc không chỉ có vấn đề lão hóa, mà còn có vấn đề gián đoạn. “Cách mạng văn hóa” làm ảnh hưởng đến một thế hệ, rất nhiều người trẻ tuổi không đáng tin cậy, người đáng tin cậy lại không được bồi dưỡng kịp thời. Trong tình hình đó, những người già bỏ ngay không dùng cũng không được, cần phải chọn tốt người thay thế trước khi rời chức vụ và bồi dưỡng họ trên cương vị lãnh đạo. Người kế tục làm việc trên tuyến một, các lão đồng chí thì dùng kinh nghiệm của mình làm tham mưu ở tuyến sau, khi cần thiết thì chỉ đạo, phát hiện thấy chọn lựa không thỏa đáng thì đổi người. Khi lớp người trẻ đã thành thục, các lão đồng chí sẽ yên tâm và sẽ lần lượt từ giã cõi đời, chế độ cố vấn sẽ tự động thủ tiêu. Chế độ làm việc suốt đời tới đó là hết, và sẽ thay thế bằng chế độ nghỉ hưu, việc thay cũ đổi mới sẽ hoàn thành.
Tháng 9.1982, ủy ban cố vấn trung ương thành lập, Đặng tuyên bố ngay lúc đó: “Nhiều nhất cũng không tới 15 năm, ủy ban này sẽ được thủ tiêu”. Đặng nói với các ủy viên: “Chúng ta cần tôn trọng cuộc sống này và biện chứng của lịch sử”. Do có cơ sở đó, tại Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư, khóa XII, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc và Hội nghị Trung ương lần thứ năm, đã diễn ra cao trào thay ban, nhiều người ra, nhiều người vào. Đến Đại hội XIII, năm 1987, Đặng đã hoàn thành cơ bản việc thay cũ đổi mới, quyền lãnh đạo tối cao đã trao vào tay thế hệ sau trường chinh. Báo “Người hướng dẫn khoa học đạo Cơ đốc” của Mỹ đăng bình luận của Tổng biên tập Phuarơ: “Việc thay cũ đổi mới do Đặng Tiểu Bình thực hiện tựa hồ đã chứng minh rằng chính quyền cộng sản đã tìm ra được một phương pháp, vừa chuyển giao quyền lực một cách có trật tự, lại vừa làm cho bộ máy đồ sộ khôi phục được sức sống thanh xuân”.
4.7. Không ít người chỉ mới hai, ba mươi tuổi đã là trung đoàn trưỏng, sư đoàn trưởng, thậm chí có người là quân đoàn trưởng. Chẳng lẽ nhưng người trẻ tuổi bây giơ dốt nát hơn nhưng người trẻ tuổi trước kia hay sao?
Rất nhiều cuộc cách mạng xưa nay đều không dùng người trẻ tuổi. Cách mạng của Đặng Tiểu Bình lại khác hẳn, đó là nhường lối cho người trẻ tuổi. Đó là cảm tưởng của một nhà bình luận phương Tây.
“Trẻ hóa cán bộ phải được coi là mục tiêu trung tâm của cải cách thể chế, quận đội, địa phương, đảng và chính quyền đều như vậy”. Đặng nói như vậy không phải là bồng bột, mà có suy nghĩ sâu xa.
Cơ sở để lập nên chính quyền của Đặng là các cán bộ đã bị cách mạng văn hóa đánh đổ. Sau khi lên cầm quyền, Đặng lần lượt mời họ về. Nhưng ông biết rõ rằng, thế hệ chinh chiến này có thể làm công tác chính trị, nhưng đối với hiện đại hóa thì rất lạ lẫm. Họ thiếu tri thức chuyên môn để lãnh đạo, hiện đại hóa, lại thêm tuổi đã nhiều, muốn làm cũng không còn sức. Cán bộ cũ không thể đảm đương được sự nghiệp hiện đại hóa vượt thế kỷ, cho nên sau khi họ về nắm cương vị, Đặng một mặt lo lắng vì cán bộ quá nhiều, một mặt lại cảm thấy rất thiếu cán bộ: “Thiếu lớp cán bộ này, bốn hiện đại hóa không thể thực hiện được”.
Việc thay đổi quyền lực vốn là một việc tự nhiên, người già nghỉ thế người trẻ lên, sông Trường Giang sóng sau xô sóng trước, không việc gì phải lo lắng. Song Đặng đứng trước một tình hình đặc biệt: “Thế hệ trẻ thời cách mạng văn hóa đều chịu ảnh hưởng tư tưởng tả khuynh ở các trình độ khác nhau, có người có tư tưởng bè phái nghiêm trọng, lại rất giỏi đục nước béo cò. Đặng suy nghĩ kỹ đến chuyện các phần tử thuộc phái Lâm Bưu - Giang Thanh thừa cơ vùng dậy. “Hiện nay, chẳng phải ta đã lật lại các vụ án từ thời kỳ bọn Lâm Bưu, Giang Thanh đó sao? Nếu để bọn ấy thừa kế, cầm quyền, chúng lại có thể lật lại các vụ án ấy”
Điều đó khiến các cán bộ cũ phải lo sao trước khi rời khỏi chính quyền, sắp xếp tốt công việc về sau. Nhân lúc còn quản lý công việc, phải thanh trừ hết các phần tử cách mạng văn hóa, đồng thời lựa chọn những người trẻ tuổi đáng tin cậy và có trình độ đề bạt lên, cho rèn luyện trên cương vị lãnh đạo, xem xét sự trưởng thành của họ, tới khi cán bộ cũ đã già yếu thì đủ sức nắm quyền. Đặng cho rằng chỉ có như vậy, mới bảo đảm được tính liên tục của cải cách mở cửa, bảo đảm có người kế tục làm bốn hiện đại hóa.
Đặng yêu cầu các cán bộ cũ coi việc chọn người kế tục là nhiệm vụ hàng đầu. Những việc khác có thể làm kém một chút, còn việc này thì không thể sơ xuất, nếu không sẽ chết không nhắm mắt được.
Có cán bộ cũ sợ người trẻ không đủ kinh nghiệm, không làm nổi nhiệm vụ. Đặng nói, các cán bộ cũ cũng không có bao nhiêu kinh nghiệm hiện đại hóa: không ít người mới hai ba mươi tuổi đã làm trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng, thậm chí quân đoàn trưởng. Chẳng lẽ những người trẻ tuổi ngày nay lại dốt nát hơn những người trẻ tuổi trước kia hay sao?
Lại có người ngại cán bộ trẻ hay “kiêu ngạo”. Đặng có phần hoài nghi về hai chữ “kiêu ngạo”. Phàm người ta có chút năng lực, có lòng hăng hái thì thường có chủ kiến, tự tin, điều đó không có gì xấu. Nếu quả có chút kiêu ngạo, được đặt vào cương vị mới, cũng sẽ biết tự mình khiêm tốn thôi.
Lại có người lo cán bộ trẻ không giữ được cương vị, Đặng nói, không giữ được thì cán bộ cũ giúp họ. Giúp đỡ, ủng hộ cán bộ trẻ là trách nhiệm của cán bộ cũ. Tiêu chuẩn chọn người, ngoài tuổi trẻ, còn có hai điều: một là, phải có tri thức chuyên môn và nghiệp vụ, như các cán bộ đã tốt nghiệp đại học những năm 60. Hai là trung thành với đường lối chính sách từ sau Hội nghị toàn thể Trung ương ba. Những người đã bị đả kích trong cách mạng văn hóa, bất mãn với Lâm Bưu và “nhóm bốn tên”, đã chống đối lại chúng bằng biện pháp tích cực hoặc tiêu cực Đó là tiêu chuẩn chính trị. Những người có thời đã bị lừa dối, nhưng sau đã giác ngộ và có chân tài thực học cũng có thể sử dụng. Đặng đặc biệt nhắc nhở cán bộ cũ, không nên coi việc có ủng hộ mình hay không là một tiêu chuẩn. Các phần tử Lâm Bưu, Giang Thanh đều rất giỏi nịnh nọt, bợ đỡ, khéo chống chế, cán bộ cũ không nên mắc lừa chúng.
Đặng dự tính dùng thời gian 10 năm, tức hai kế hoạch năm năm để trẻ hóa cán bộ, 5 năm đầu chọn ra 5 vạn gồm những người dưới 50 tuổi, khoảng 40 tuổi và dưới 40 tuổi theo tỷ lệ nhất định, hình thành kết cấu bậc thang. Chuẩn bị trong năm ba năm, bảy tám năm đưa họ lên cơ quan lãnh đạo tỉnh, người tỏ ra đột xuất thì đưa lên trung ương. Phương thức chuyển giao quyền lực là: cơ quan lãnh đạo cấp dưới và cấp trung để người trẻ trực tiếp giữ cương vị thứ nhất, thứ hai; cơ quan lãnh đạo cao cấp, để họ giữ cương vị thứ hai, thứ ba. Sau ba tới năm năm lại trao quyền, nếu phát hiện chọn lầm thì đổi vẫn còn kịp. Năm năm đầu, thành viên lãnh đạo cấp tỉnh gồm một tỷ lệ cán bộ trẻ nhất định, năm năm sau, trừ tình hình đặc biệt, đều không được vượt quả độ tuổi quy định, giải quyết luôn cả vấn đề tuổi và vấn đề hạn chế số người.
Năm 1982, khi triệu tập Đại hội lần thứ XII, tình hình chính trị buộc Đặng phải đưa các cán bộ cũ đã được sửa sai vào Bộ Chính trị và các cơ quan lãnh đạo, đồng thời, cũng có một số ít cán bộ trẻ vào các cơ quan đó. Đó là bước đầu trẻ hoá. Nhưng Đặng thấy thành viên lãnh đạo của Đại hội XII vẫn còn cao tuổi, nên đã quyết định triệu tập một hội nghị đại biểu giữa hai lần đại hội, trọng điểm để giải quyết vấn đề trẻ hóa. Năm 1985, triệu tập hội nghị đặc biệt đó, có người nói đó là hội nghị thay thế cũ mới chưa từng có trong lịch sử. 131 cán bộ cũ rút về các cơ quan lãnh đạo khác, 179 cán bộ lãnh đạo mới được tuyển chọn. Những ủy viên trung ương mới, bộ trưởng mới, bí thư tỉnh ủy mới có người hơn 50 tuổi, có người chỉ hơn 40. Đặng nói, điều này đáng dược ghi chép nổi bật trong lịch sử đảng. Đại hội lần thứ XIII năm 1987 là một đại hội thay đổi thế hệ, quyền lãnh đạo trao vào tay những người sau thế hệ trường chinh. Trong năm năm, Đặng đã tiến ba bước lớn, thực hiện thành công việc trẻ hóa ban lãnh đạo. Trong việc chuyển giao quyền lực lớn đó, không có ai bị giết, bị bắt, chính sách cơ bản không có sự thay đổi lớn. Điều đó trong lịch sử Trung quốc chỉ có Đặng Tiểu Bình làm được mà thôi.
4.8. Nhưng bậc cần thiết cộng thêm chiếc thang gọn nhẹ là phương lược cơ bản để Đặng sử dụng rộng rãi cán bộ trẻ trong thập kỷ 80
Cán bộ phải tiến lên từng bậc theo thể chế tập quyền hình kim tự tháp. “Tể tướng từ châu bộ mà lên, mãnh tướng từ tốt, ngũ mà lên”, không thể vượt cấp - đó là chế độ tuyển quan theo từng cấp vốn có của Trung quốc. Chế độ tập quyền tiến theo từng cấp có lợi nhưng cũng có hại. Lợi là, cán bộ được thử thách lâu dài, được tôi luyện, có thể bảo đảm sự tin cậy tuyệt đối. Hai là, xếp theo thâm niên, người già luôn cản ở phía trước, những người trẻ có tài không thể vượt lên; đến lúc tiến lên cao thì đã quá mệt mỏi; càng lên cao tuổi càng nhiều, khiến cán bộ, đặc biệt là lớp giữa và lớp trên càng ngày càng lão hóa, thiếu hẳn sức sống thanh xuân.
Trong thời gian “cách mạng văn hóa”, Đặng Tiểu Bình cũng chủ trương theo từng bậc chống lại kẻ cầm đầu phái tạo phản là Vương Hồng Văn ngồi máy bay trực thăng, thậm chí ngồi tên lửa tiến lên vùn vụt, ngang hàng với thế hệ cán bộ trường chinh. Đến thập kỷ 80, đội ngũ cán bộ phổ biến lão hoá, không đảm đương nổi sự nghiệp hiện đại hóa, nếu cứ theo từng bậc thì không thể kịp. Để đẩy nhanh tốc độ trẻ hóa, Đặng sửa lại thuyết tiến từng bậc. Những bậc cần thiết (như chức danh chuyên môn, thông thuộc cơ sở tích luỹ kinh nghiệm) vẫn cần đặt, vì nếu bỏ thì không có cách gì thử thách, rèn luyện cán bộ, nhưng cần phải phế bỏ quan niệm lỗi thời về bậc, sáng tạo một số bậc mới phù hợp với nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời mạnh dạn phá cách, đề bạt nhanh một số cán bộ ưu tú thuộc tuổi trung niên và thanh niên. Số đặc biệt ưu tú trong đó, theo Đặng “Phải bắc cho họ chiếc thang gọn nhẹ để họ tiến vượt lên”
Những bậc cần thiết (như kết cấu thê đội cho ban lãnh đạo trẻ hóa) cộng thêm chiếc thang gọn nhẹ - đề bạt vượt cấp, tạo thành phương lược cơ bản để Đặng sử dụng rộng rãi cán bộ trẻ trong thập kỷ 80.
Những bậc thềm dài dặc và chiếc thang gọn nhẹ đều có cái lợi hại của nó. Loại trước lên chậm, nhưng thời gian thử thách dài, có cái lợi là ổn định. Loại sau lên nhanh thời gian thử thách ngắn, trong một số ngành như quân đội cần đặc biệt thận trọng. Đặng phân biệt quân đội và địa phương. Quân đội có tính đặc thù của nó, tuy cũng cần chọn một số cán bộ tương đối trẻ, nhưng vẫn phải đề bạt theo từng bậc từng bậc một, không thể nhảy quá nhanh. Nhưng “địa phương khác với quân đội, xí nghiệp cũng khác với quân đội, trường học và cơ quan nghiên cứu khoa học càng khác với quân đội, chọn lựa và đề bạt nhân tài có thể phá cách”. Đặng làm mẫu về mặt này. Năm 1980, ông đi thị sát nhà máy chế tạo ô-tô số 2, phát hiện phó giám đốc nhà máy là một nhân tài: tốt nghiệp đại học từ trước “cách mạng văn hóa”, bị đả kích trong “cách mạng văn hóa”, bất mãn với việc chống làn gió lật án hữu khuynh, tuổi mới 38 lại là cốt cán về kỹ thuật. Thế là ông bắc cho anh ta một cái thang, đưa lên làm cán bộ cấp tỉnh.