T1 - Chương 8

Dịch giả và giới thiệu: Nguyễn Hữu Dũng
T2 - Chương 45

Người thợ dệt Makrynux, chủ ngôi nhà mà người ta mang chàng Vinixius vào, rửa ráy, mặc quần áo cho Vinixius và cho chàng ăn, sau đó chàng hộ dân quan trẻ tuổi ấy lấy lại sức hoàn toàn, chàng tuyên bố rằng ngay trong đêm ấy chàng sẽ tiếp tục đi tìm ông Linux. Ông Makrynux, một tín đồ Thiên Chúa cũng khẳng định lại lời lão Khilon rằng cùng với thầy tu tuổi tác tên là Klemenx, ông Linux đã tới Oxtrianum, nơi Sứ đồ Piotr rửa tội cho một đám đông các tín đồ của giáo thuyết mới. Những người Thiên chúa giáo trong khu phố này được biết rằng ông Linux giao quyền quản lý nhà ông cho một người tên là Gaiux nào đó đã từ hai hôm nay. Đối với chàng Vinixius, điều đó là bằng chứng chứng tỏ rằng Ligia và bác Urxux không có mặt ở nhà và chắc chắn họ cũng đã cùng ông Linux đi tới Oxtrianum rồi.
Ý nghĩ ấy khiến chàng nhẹ cả người. Là một người già nua tuổi tác, ông Linux khó có thể hàng ngày đi bộ từ khu Zatybre ra mãi khu vực bên ngoài cổng thành Nomentan, rồi từ đó lại trở về Zatybre, nên chắc hẳn mấy ngày đó ông đã lưu lại ở nhà một trong số các đạo hữu bên ngoài thành, và cùng với ông có cả Ligia và bác Urxux nữa. Nhờ vậy họ đã thoát được hoả hoạn, và đám cháy nói chung cũng không lan sang sườn bên kia của ngọn đồi Exquilin, Vinixius thấy như trong tất cả những sự việc đó có sự an bài của Chúa Crixtux; chàng cảm thấy sự bảo trợ của Người đối với chính bản thân chàng, và với trái tim tràn ngập hơn bao giờ hết lòng biết ơn, chàng thầm hứa với Người trong tâm tưởng rằng suốt đời chàng sẽ báo đền ơn Người trước những bằng chứng hiển nhiên của những ân phước kia.
Tuy nhiên chính điều ấy càng khiến chàng nóng lòng muốn đi ngay tới Oxtrianum. Chàng sẽ tìm được Ligia, tìm được ông Linux, ông Piotr và sẽ đưa họ về một miền xa xôi nào đó, đến một mảnh đất nào đó của riêng chàng, thậm chí đến tận Xyxilia. Roma đang cháy và sau vài ngày nữa nó sẽ chỉ còn là một đống tro tàn, vậy họ còn ở lại đây làm gì trước thảm hoạ và đám người náo động? Nơi ấy họ sẽ sống giữa những đám nô lệ bị đày ải, nơi ấy họ sẽ được vây bọc giữa sự yên ả của làng quê và sẽ sống thanh bình dưới đôi cánh che chở của Chúa Crixtux, họ sẽ được ông Piotr ban phước lành. Chỉ cần tìm ra họ nữa mà thôi.
Nhưng đó không phải là chuyện dễ. Vinixius vẫn còn nhớ rõ chàng đã phải vất vả thế nào mới lần được từ đường Via Appia tới khu Zatybre, chàng đã phải chật vật biết bao mới tới được con đường Portova, nên giờ đây chàng quyết định sẽ đi vòng thành phố theo phía bên kia. Đi theo đường Khải Hoàn, dọc theo sông, có thể đến được tận cầu Emilius, từ đó, bỏ qua Pinxiux, xuôi cánh đồng thần Marx, men theo các khu vườn Pompeius, Lukullo và Xaluxtius, có thể đến được Via Nomentan. Đó là con đường ngắn nhất, song cả ông Makrynux lẫn lão Khilon đều khuyên không nên đi theo đường ấy. Cho tới lúc này, ngọn lửa chưa lan tới khu này của thành phố, nhưng tất cả các bãi chợ và đường phố đều có thể bị tắc nghẽn vì người và các thứ đồ đạc của họ. Lão Khilon khuyên nên đi qua Ager Vatykanux đến tận Porta Flaminia, tới đó sẽ vượt sông, rồi tiếp tục đi dọc bên ngoài tường thành, bên ngoài khu vườn Axylius, về phía Porta Xalaria. Sau một lúc ngần ngừ, Vinixius đồng ý với lời khuyên ấy.
Ông Makrynux phải ở lại để canh nhà, song ông đã cố tìm được hai con la mà họ có thể dùng để lên đường tiếp tục đi tìm Ligia. Ông cũng định cấp thêm cho một người nô lệ nữa đi cùng nhưng Vinixius từ chối, vì chàng nghĩ rằng đám quân cấm vệ đầu tiên mà chàng gặp được trên đường đi sẽ tuân theo lệnh chàng, giống như lần vừa rồi.
Lát sau, cùng với lão Khilon, chàng lên đường vượt qua Pagux Janiculenxix về hướng đường Khải Hoàn. Ngay cả tại đây, những chỗ trống cũng đã biến thành khu hạ trại, tuy nhiên họ vẫn len qua được, ít vất vả hơn, vì phần lớn dân chúng chạy trốn theo đường Portova dồn về phía biển. Qua cổng Xeptymian họ đi dọc con đường nằm giữa dòng sông và những khu vườn Đomixia tuyệt đẹp, những cây trắc bá của nó bị đám cháy hắt ánh đỏ rực trông như nhuộm trong ráng chiều. Đường mỗi lúc một thoáng người hơn, chỉ thảng hoặc họ mới phải đương đầu với dòng dân quê đi ngược lại mà thôi. Vinixius thúc la đi nhanh hết sức, còn lão Khilon theo sau chàng suốt dọc đường cứ lầm bầm tự nhủ: ‘’Thế là đám cháy đã nằm lại phía sau và đang làm nóng rát lưng ta. Chưa bao giờ trên con đường này ban đêm lại sáng tỏ đến thế. Lạy thần Zeux! Nếu người không trút mưa rào xuống dập tắt đám cháy này thì điều đó có nghĩa là Người không còn yêu gì Roma nữa cả. Sức người không thể dập nổi đám cháy nhường kia. Cả một thành đô được cả Hi Lạp lẫn toàn thế giới phục sự kia mà! Ấy vậy mà giờ đây bất kỳ một tên Hi Lạp nào cũng có thể nướng đậu trong đám tro than của thành phố! Ai ngờ được chuyện ấy kia chứ!… Sẽ không còn Roma và sự thống trị của La Mã nữa rồi… Khi đám tro tàn này nguội đi, kẻ nào muốn dẫm lên và huýt sáo sẽ được bình an mà huýt sáo tuỳ thích. Lạy các thần linh! Huýt sáo giễu cả cái thành đô thống trị thế giới thế này. Kẻ nào trong đám dân Hi Lạp hay ngay cả bọn dân man rợ nữa lại có thể ngờ được điều ấy…Vậy mà hắn có thể cứ huýt sáo, bởi vì đám tro tàn dù là còn lại sau đống lửa của bọn mục đồng hay sau một thành phố đã bốc cháy thì cũng chỉ là một đống tro tàn, chóng hay chầy rồi gió cũng thổi tung hê đi hết mà thôi”
Vừa lầm bầm, thỉnh thoảng lão lại vừa quay nhìn về phía sóng lửa với bộ mặt vừa vui mừng vừa dữ tợn. Rồi lão lại lẩm bẩm tiếp:
“Nó đang chết! đang chết! Sẽ không còn có nó trên mặt đất nữa. Giờ thì thế giới biết gửi đi đâu ngũ cốc, ô liu và tiền bạc của mình kia chứ? Ai sẽ cướp bóc vàng và ép ra những giọt nước mắt của thế giới? Cẩm thạch tuy không cháy nhưng sẽ nát vụn ra trong lửa. Kapiton thành g hơn. Những lúc ngài lặp lại vần thơ sau chót, rồi đó, bằng một cử chỉ học được của Aliturux, Nerô lại vứt bỏ khỏi vai chiếc "xyrma" bi thương, đập vào dây đàn và hát tiếp. Cuối cùng ngài cũng hát hết bài ca đã được soạn ra từ trước và bắt đầu ứng tác, tìm những sự so sánh kỳ vĩ trong cái quang cảnh đang trải ra trước mắt ngài. Mặt ngài bắt đầu biến đổi. Ngài không hề xúc động trước sự tàn phá của thành phố quê hương, nhưng ngài lại say sưa và xúc động bởi sự trang trọng của những lời thơ của chính ngài đến mức đột nhiên ngài buông cây đàn luýt rơi thành tiếng xuống chân, quấn mình trong chiếc xyrma, ngài đứng lặng yên như hóa đá, trông hệt như một trong những pho tượng Niobe trang trí cho sân trong cung điện Palatyn.
Sau một giây im lặng, một tràng sấm hoan hô vang lên. Nhưng đáp lại chúng từ xa là tiếng hú hét của đám người. Giờ đây không còn ai nghi ngờ gì nữa là chính hoàng đế đã ra lệnh đốt cháy thành phố để dựng lên một quang cảnh và ca hát những bài ca trên cái phông ấy. Nghe thấy tiếng kêu gào đó của hàng trăm nghìn con người, Nerô bèn quay lại phía các cận thần với nụ cười buồn đầy tuyệt vọng của một con người bị xúc phạm và nói:
- Đấy, dân Quiryt biết đánh giá ta và thi ca như vậy đấy!
- Bọn khốn nạn! - Vatynius đáp - Xin người hãy ra lệnh cho lính cấm vệ đánh thẳng vào bọn chúng.
Nerô quay sang Tygelinux.
- Liệu ta có thể tin vào sự trung thành của binh lính chăng?
- Vâng, thưa thánh thượng! - Viên chỉ huy quân cấm vệ đáp.
Song ông Petronius nhún vai.
- Tin được vào sự trung thành của chúng chứ không thể trông cậy vào số lượng của chúng đâu - Ông nói - Tạm thời xin người hãy ở lại đây, nơi người đang đứng, bởi đây là chỗ an toàn hơn cả, còn đám dân chúng kia thì chỉ cần phải làm yên đi đã.
Cả ông Xeneka lẫn chấp chính quan Lixynius cũng cùng ý kiến như thế. Trong khi đó, phía dưới kia, sự sôi động tăng lên. Quần chúng tự vũ trang bằng những phiến đá, cọc chống lều, những miếng ván phá từ các cỗ xe và những chiếc cáng, cùng đủ các loại sắt thép khác nhau. Lúc sau, một vài viên chỉ huy toán vệ binh tiến lại báo rằng, bị đám quần chúng lấn ép, lính cấm vệ phải cố hết sức mới duy trì được đội hình chiến đấu và do không được lệnh tấn công nên chúng đang không biết phải làm thế nào.
- Lạy các thần! - Nerô thốt lên - thật là một đêm khó tả! Một bên là đám cháy, một bên là biển người đang gào thét.
Và ngài lại bắt đầu tìm những vần thơ khả dĩ có thể diễn tả một cách tuyệt vời nhất nỗi nguy hiểm của thời điểm ấy, song nhìn thấy chung quanh toàn những khuôn mặt tái nhợt và những cái nhìn không yên, bản thân ngài cũng đâm ra sợ.
- Hãy đưa cho ta một chiếc áo choàng màu sẫm có mũ che! - Ngài kêu lên - Có thật sắp phải đánh nhau rồi hay chăng?
- Tâu hoàng thượng - Tygelinux đáp với giọng không mấy chắc chắn - thần đã làm tất thẩy những gì có thể, nhưng mối nguy hiểm này thật đáng sợ…Xin người hãy lên tiếng đi, thưa hoàng thượng, xin hãy nói với mọi người và hãy hứa hẹn với bọn chúng.
- Hoàng đế mà lại phải nói chuyện với bọn vô lại sao? Có ai nhân danh ta làm việc đó hay chăng? Ai nhận nào?
- Thần ạ! - Ông Petronius bình thản đáp.
- Đi đi nào, bạn ta! Khanh là kẻ trung thành với ta nhất trong lúc hoạn nạn…Đi đi, và chớ có tiếc lời hứa!
Ông Petronius quay lại phía đoàn người tùy giá với vẻ mặt đầy khinh thị và giễu cợt.
- Các vị nguyên lão có mặt tại đây, - Ông nói - Ngoài ra, cả ông Pizo, anh Nerva và Xenexio đi cùng với tôi.
Rồi ông khoan thai bước xuống khỏi đường máng nước, những người được ông gọi đi theo sau ông không phải không ngần ngừ nhưng cũng được cổ vũ chút ít bởi sự bình tĩnh của ông. Xuống đến chân những vòm cung, Petronius ra lệnh đưa tới cho mình một con ngựa bạch, rồi ngồi lên lưng ngựa, ông dẫn đầu toán người đồng hành vượt qua những toán cấm binh dày đặc, hướng về đám tiện dân đen ngòm đang hú hét, không một tấc sắt, trong tay ông chỉ có một chiếc gậy mỏng manh bằng ngà voi mà ông thường dùng để chống.
Ông tiến đến sát tận nơi, ngựa ông va cả vào đấm người. Chung quanh, trong ánh sáng của đám cháy, thấy rõ những cánh tay giơ cao cầm đủ mọi loại vũ khí, những đôi mắt cháy bỏng, những bộ mặt bóng nhẫy mồ hôi và những cặp môi ngầu bọt đang gào thét. Làn sóng điên loạn ấy lập tức vây chặt lấy ông và cả toán tùy tùng, phía sau trông rõ cả một biển những cái đầu, chuyển động, lắc lư, kinh khủng.
Tiếng huyên náo càng tăng lên và biến thành tiếng rống gầm không giống tiếng người nữa, những chiếc gậy, đinh ba, thậm chí cả những thanh gươm nữa hoa lên trên đầu ông Petronius, những cánh tay thú dữ vươn ra muốn tóm lấy cương ngựa ông, muốn tóm cả ông nữa, nhưng ông vẫn cứ tiến vào mỗi lúc một sâu thêm, lạnh lùng, thản nhiên, khinh khi. Thỉnh thoảng, ông lại dùng gậy đập lên đầu những kẻ táo tợn nhất, ngỡ như ông đang dẹp đường cho mình trong một đám đông rất đỗi thường tình và chính sự tự tin của ông, sự bình tĩnh của ông khiến đám tiện dân đang náo động phải kinh ngạc. Mãi sau người ta bắt đầu nhận ra ông, nhiều giọng gào lên:
- Petronius! Arbiter elegantiarum! Ngài Petronius!...
- Petronius! Bốn phía đều vang rền tiếng gọi.
Và càng nhắc tên ấy bao nhiêu, những bộ mặt chung quanh càng bớt dữ tợn đi bấy nhiêu, tiếng huyên náo càng đỡ phần gay gắt, bởi nhà quý tộc trang nhã này mặc dù chẳng bao giờ lấy lòng dân chúng song lại được người ta yêu mến. Người ta xem ông là một người nhiều nhân tính và hào phóng, ông đặc biệt nổi tiếng kể từ lúc có vụ án Peđanius Xekunđa, khi ông lên tiếng đòi giảm nhẹ bản án thảm khốc tử hình tất cả các nô lệ của viên quan nọ. Kể từ sau vụ đí, đám nô lệ lại đặc biệt ngưỡng mộ ông với một tình yêu mến không kìm hãm nổi, thứ tình yêu mà những con người bất hạnh và bị chà đạp thường dành cho những người biểu lộ cho họ dù chỉ chút ít đồng cảm. Ngoài ra, vào lúc này, người ta còn tò mò muốn biết vị sứ giả của hoàng đế sẽ nói điều gì, bởi không một ai nghi ngờ rằng hoàng đế đã cố ý phái chính ông.
Còn ông cởi chiếc áo toga màu trắng có những đường viền đỏ thắm, giơ lên đầu vẫy vẫy ra hiệu muốn nói.
- Im đi! Im đi kìa! - Khắp các phía người ta kêu lên.
Một lúc sau người ta im lặng thực. Khi ấy, đứng thẳng người trên lưng ngựa, ông cất tiếng nói, giọng vang động nhưng bình tĩnh:
- Hỡi các công dân! Những kẻ ai được nghe ta nói hãy lặp lại lời ta cho những kẻ đứng xa hơn, mọi người hãy cư xử cho ra hồn người chứ không phải như lũ thú dữ trong đấu trường.
- Chúng tôi nghe đây! Chúng tôi xin nghe!...
- Vậy thì hãy nghe đây. Thành phố sẽ được xây dựng lại. Các khu vườn Lukullo, Mexenax, Xedar và Agrypina sẽ mở rộng cửa đón các người. Từ ngày mai sẽ bắt đầu phát chẩn ngũ cốc, rượu vang và ôliu đến mức các người có thể tọng đầy đến tận họng. Sau đó hoàng đế sẽ tổ chức cho các người những hội vui mà cho đến nay thế gian chưa từng thấy bao giờ, trong đó các người sẽ được hưởng tiệc rượu và quà tặng. Sau đám cháy các người sẽ giàu có hơn trước đám cháy rất nhiều!
Đáp lời ông là những tiếng rì rầm lan từ giữa ra khắp bốn chung quanh, hệt như những làn sóng lan trên mặt nước khi có ai đó ném xuống nước một hòn đá, đó là những người ở gần ông đã lặp lại cho kẻ xa hơn những lời ông vừa nói. Sau đó đôi chỗ vang lên những tiếng kêu la vẻ tức giận hay tán thưởng và rốt cuộc những tiếng đó biến thành một tiếng hô đồng thanh vang động.
- Panem et circenses...(1)
Ông Petronius quấn chặt người trong chiếc áo toga và đứng yên hồi lâu, trong bộ phục trang sắc trắng, nom ông hệt như một pho tượng cẩm thạch. Tiếng hò reo càng tăng thêm, át cả tiếng gầm của đám cháy, vang rộng khắp bốn phía, mỗi lúc một sâu hơn, song rõ ràng là vị sứ giả hãy còn điều gì đó muốn nói, bởi ông cứ đứng chờ.
Mãi, sau giơ cánh ta ra lệnh im lặng, ông nói to:
- Ta hứa với các người panem et circenses, còn bây giờ, các người hãy hò reo lên để chào đón hoàng đế, người đã nuôi các người ăn, cho các người mặc, rồi sau đó hãy đi mà ngủ đi, hỡi lũ vô lại, vì trời sắp sáng rồi kìa.
Nói đoạn, ông quay ngựa lại và vừa dùng chiếc gậy đập nhẹ vào đầu, vào mặt những kẻ đứng chắn đường, ông khoan thai tiến về phía những hàng lính cấm vệ.
Lát sau, ông đã đến dưới chân đường máng nước. Lên trên, ông gặp một cảnh tượng gần như hoảng loạn. Người ta không hiểu rõ tiếng hò reo: “Panem et circenses!“ và cho rằng lại bùng nổ một cơn cuồng nộ mới. Thậm chí người ta cũng không ngờ rằng ông Petronius lại có thể thoát thân, nên vừa thoáng trông thấy ông, Nerô đã chạy tới tận cầu thang, mặt nhợt nhạt vì xúc động, hỏi dồn:
- Thế sao? Đằng ấy xảy ra chuyện gì thế? Đã đánh nhau rồi chăng?
Petronius hít một hơi đầy phổi, thở ra thật mạnh và đáp:
- Thề có Ponklux! Chúng nó nồng nặc mùi mồ hôi và xú khí. Ai đưa hộ cho tôi bình xông hương nào, tôi đến chết ngất mất thôi!
Rồi ông quay sang hoàng đế.
- Thần đã hứa hẹn với chúng nó ngũ cốc, ôliu, mở cửa các khu vườn và trò vui - Ông nói - Thế là chúng nó lại ca ngợi hoàng thượng và bằng những cặp môi sùi bọt, chúng lại gào lên chào đón người. Lạy các thần linh, lũ tiện dân này có cái mùi mới khó chịu làm sao!
- Lính cấm vệ của tôi đã sẵn sàng - Tygelinux kêu lên - Và giá như ông không dẹp yên chúng thì bọn hò la kia sẽ phải ngậm miệng đời đời! Tâu hoàng thượng, thật đáng tiếc là hoàng thượng đã không cho phép thần dùng sức mạnh.
Petronius nhìn kẻ đang nói, nhún vai và bảo:
- Cũng chưa bị mất gì đâu. Ông có thể sẽ phải dùng sức mạnh vào ngày mai đấy.
- Không, không! - Hoàng đế phán - Ta sẽ ra lệnh mở cửa các khu vườn và ban phát ngũ cốc cho chúng. Cảm ơn khanh, Petronius! Ta sẽ tổ chức những cuộc vui và ta sẽ công diễn bài ca mà hôm nay ta hát cho các khanh nghe.
Nói đoạn ngài đặt tay lên vai ông Petronius, im lặng hồi lâu, cuối cùng, sau khi đã bớt xúc động, ngài mới hỏi:
- Khanh hãy nói thật lòng nhé: Khanh thấy khi hát ta thế nào?
- Hoàng thượng thật xứng với quanh cảnh này, cũng như quanh cảnh thật xứng với người - Ông Petronius đáp.
Rồi ông quay lại phía đám cháy.
- Song chúng ta hãy ngắm nhìn nữa đi - Ông nói - Và hãy vĩnh biệt thành Roma cũ.
Chú thích:
(1) Bánh mì và hội thi. - Trong thời kỳ đế quốc La Mã, đây là đòi hỏi chủ yếu của đám tiện dân và thường được chính quyền thỏa mãn phần lớn.

- Nhưng nhà ngươi muốn nói điều gì? - Vinixius hỏi.
- Rằng, thưa ngài, các khu nhà nguyện tồn tại công khai ở khu Zatybre, nhưng để tránh bị theo dõi, dân Thiên chúa giáo phải cầu nguyện một cách bí mật, họ tụ tập nhau lại trong các lều hoang ở ngoại thành hoặc trên các đấu trường bỏ trống. Những kẻ sinh sống ở khu Zatybre đã chọn đúng chỗ này, nơi được hình thành vì lí do xây dựng hý trường, cùng nhiều ngôi nhà khác nhau dọc sông Tyber. Giờ đây, khi thành phố đang bị tiêu huỷ, chắc hẳn các tín đồ của Chúa Crixtux đang cầu nguyện. Chúng ta sẽ tìm ra bọn họ, đông vô kể, trong các hầm ngầm dưới đất, vì thế tôi xin ngài, chúng ta sẽ rẽ vào đó trên đường đi.
- Thế mà nhà ngươi lại nói rằng ông Linux đã rời tới Oxrtrianum! - Vinixius sốt ruột thốt lên.
- Còn ngài thì hứa cho tôi một ngôi nhà có trại nho ở gần Ameriola, - lão Khilon đáp, - vậy nên tôi muốn tìm kiếm nàng trinh nữ khắp mọi nơi, những nơi mà tôi hi vọng tìm thấy nàng. Khi đám cháy bùng nổ họ có thể đã quay lại khu Zatybre… Có thể họ đã đi vòng quanh thành phố giống như chúng ta lúc này đang làm vậy. Ông Linux vốn có một nếp nhà, có thể ông ấy muốn được ở gần nhà hơn để nhìn xem đám cháy có lan tới khu này hay không. Nếu như họ quay trở về, thì tôi xin thề với Perxefon, thưa ngài, rằng chúng ta nhất định sẽ tìm thấy họ đang cầu nguyện trong hang ngầm, tệ nhất thì chúng ta cũng thu được những tin tức nào đó về họ.
- Ngươi nói phải, vậy hãy dẫn đường đi! - Chàng hộ dân quan nói.
Không ngần ngại, lão Khilon quành về bên trái, về hướng ngọn đồi. Hồi lâu sườn đồi che khuất đám cháy cho họ, nên mặc dù những chỗ cao gần đấy vẫn ngập trong ánh sáng, nhưng chính họ lại chìm trong bóng tối. Bỏ qua hý trường, họ rẽ sâu hơn nữa về bên trái và lọt vào một chốn giống như một khe núi, trong đó hoàn toàn tối đen. Nhưng trong bóng tối đó Vinixius trông thấy nhiều đèn lửa chập chờn.
- Bọn họ đấy! - lão Khilon thốt lên - Hôm nay bọn họ sẽ đông hơn bao giờ hết, bởi vì những nhà nguyện khác đã bị thiêu huỷ hoặc đang dầy đặc khói giống như cả khu phố Zatybre.
- Phải, ta có nghe tiếng hát, - Vinixius nói.
Quả thực từ một lỗ hổng tối tăm bên trên vọng ra những giọng người đang hát, còn những ánh đèn lần lượt thay nhau mất hút vào trong ấy. Song từ những khe núi bên cạnh mỗi lúc một hiện ra những bóng người mới, và lát sau Vinixius cùng lão Khilon lọt vào giữa một đám đông người.
Lão Khilon bước xuống la, gật đầu với một thiếu niên đang bước đi bên cạnh và bảo:
- Ta là tăng lữ của Đức Crixtux, một giám mục. Ngươi hãy trông la cho chúng ta, ngươi sẽ được ta ban phước lành và rửa sạch mọi thứ tội lỗi.
Rồi không chờ trả lời, lão ấn dây cương vào tay cậu bé và cùng với chàng Vinixius nhập vào toán người đang đi.
Lát sau, họ đi vào hang ngầm dưới đất, lần mò theo ánh đèn mờ ảo chập chờn trong cái hành lang tối tăm cho đến khi tới được một cái vòm hang rộng rãi, nơi trước kia hẳn người ta đã khai thác đá, vì các vách hang được tạo thành từ những phiến đá với những vết toác mới tinh khôi.
Ở đây sáng hơn trong hành lang, vì ngoài những cây đèn cầy và đèn nhỏ còn có các ngọn đuốc cháy rần rật. Trong ánh đuốc, Vinixius trông thấy một đám đông người đang quỳ gối vươn hai tay lên trời. Chàng chẳng thấy Ligia, sứ đồ Piotr và ông Linux đâu cả. Ngược lại, vây chung quanh chàng là những khuôn mặt trang trọng và đầy xúc động. Trên một số khuôn mặt hiện rõ vẻ chờ trông lo lắng và hi vọng. Ánh đèn lửa nhẩy nhót trong lòng trắng của những đôi mắt đang ngước nhìn lên, mồ hôi tuôn chảy trên những vừng trán nhợt nhạt như phấn, một số người đang ca hát, những kẻ khác thành tâm gọi cầu tên Chúa Jexux, một vài người đấm ngực thình thình. Có thể đoán được rằng người ta đang chờ trông một cái gì đó trọng đại sắp xẩy ra sau phút chốc nữa thôi.
Đột nhiên những người hát im bặt và trên đầu đám người, trong một cái ô cửa hình thành sau khi lấy đi một phiến đá khổng lồ, chợt hiện ra khuôn mặt ông Kryxpux, quen thuộc với Vinixius, khuôn mặt gần như mê hoảng, tái nhợt, sùng tín và khắc nghiệt. Mọi cặp mắt đều hướng về ông, dường như chờ đợi những lời động viên và hi vọng, còn ông, sau khi chào đám người, bắt đầu cất tiếng nói vội vã, gần như những tiếng kêu la:
- Các người hãy than tiếc đi cho những tội lỗi của các người, bởi giờ đã đến rồi! Đấy, Đức Chúa đã trút ngọn lửa huỷ diệt xuống cái thành phố tội ác và trác táng này như xuống một thành Babilon mới. Đã điểm rồi giờ phút xét xử, giận dữ và thảm hoạ… Chúa đã báo trước rằng Người sẽ đến và các ngươi sẽ được trông thấy Người. Nhưng Người sẽ không đến đây như Con Chiên đã từng hiến máu chuộc tội cho các ngươi, mà như một vị quan toà kinh khủng, nhân danh công lý của Người, dìm những kẻ có tội và bất tín vào vực thẳm… Thảm thương thay cho những kẻ có tội, vì đối với chúng sẽ không còn có lòng nhân từ nữa… Con đã thấy Người kia rồi, hỡi Chúa Crixtux! Những cơn mưa sao đang sa xuống mặt đất, vầng thái dương tối tăm đi, mặt đất há ra những vực thẳm khôn cùng, những hồn ma của những người đã quá cố thức dậy, và Người đi giữa tiếng kèn, giữa đoàn Thiên sứ, giữa tiếng sấm và làn chớp giật. Con đã thấy và đang nghe thấy tiếng Người kia, hỡi Chúa Crixtux!
Ông chợt câm bặt và ngửa mặt lên dường như đang dõi nhìn một cái gì xa xôi và khủng khiếp. Và chính lúc ấy, trong cái hang ngầm chợt vang rền tiếng ầm ầm câm đặc, một, hai rồi mười tiếng. Đó là tiếng của hàng dãy những ngôi nhà cháy trụi đang sập đổ trong tiếng ầm ầm giữa một thành phố đang rừng rực cháy. Nhưng phần lớn những người Thiên chúa giáo xem tiếng động đó là tín hiệu báo rõ ràng giờ kinh khủng đã tới, vì trong số các tín đồ ấy, lòng tin vào sự xuất hiện lần thứ hai và nhanh chóng của Chúa Crixtux cùng với sự tận thế được truyền bá rất rộng, lúc này lòng tin ấy được củng cố thêm bởi hoả tai của thành đô. Vậy nên nỗi sợ Chúa Trời trùm lên đám người. Nhiều giọng nói lắp đi lắp lại: “Ngày phán xét!… Người đang đến kia rồi!” Nhiều người lấy tay che mặt vì tin rằng chỉ giây lát nữa thôi mặt đất sẽ rung lên dưới chân, và từ những vực thẳm của nó, những bầy thú dữ của địa ngục sẽ kéo ra để lao vào những kẻ có tội. Những kẻ khác kêu lên: “Lạy Chúa Crixtux, xin hãy thương tình. Hỡi Người chuộc tội, xin Người hãy nhân từ…” Còn một số người nữa lớn tiếng thú tội, và cuối cùng có những người ôm chặt lấy nhau, để có được bên mình những trái tim gần gũi trong giờ phút kinh khủng.
Song cũng có những khuôn mặt chứa chan nụ cười thiên giới, thanh thản và không hề biểu lộ nỗi sợ hãi. Nhiều chỗ vang lên những lời bàn tán trong cơn cuồng tín, người ta bắt đầu kêu to những câu không ai hiểu nổi bằng những thứ ngôn ngữ khó hiểu. Từ một góc hang tối đen có ai đó kêu lên: “Hãy tỉnh dậy đi, kẻ nào còn đang ngủ!” Bên trên tất cả là tiếng kêu của ông Kryxpux: “Cẩn thận đấy! Cẩn thận đấy!”
Tuy nhiên thỉnh thoảng im lặng lại bao trùm, dường như ai nấy đều nín thở chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Vào những lúc đó, có thể nghe rõ tiếng ầm ầm xa xa của những khu phố đang sụp đổ. Rồi lại vang lên tiếng rền rĩ, lời cầu nguyện, bàn tán và tiếng kêu cầu: “Hỡi người chuộc tội, xin Người hãy thương tình!” Chốc chốc ông Kryxpux lại lên tiếng, ông kêu lên: “Các ngươi hãy chối bỏ đi những của cải trần thế, bởi vì chỉ chốc nữa thôi sẽ không còn đâu mặt đất dưới chân các ngươi! Hãy chối bỏ đi những tình yêu trần thế, bởi Chúa sẽ không nhận những kẻ nào yêu vợ con hơn yêu Người! Thương thay cho kẻ nào yêu thương vật được sáng tạo hơn người sáng tạo! Đáng thương thay cho kẻ giàu! Đáng thương thay những kẻ xa hoa! Đáng thương thay những kẻ truỵ lạc! Đáng thương thay cho chồng, cho vợ, cho con!…”
Đột nhiên, một tiếng rền mạnh hơn tất thẩy những tiếng động trước kia làm rung chuyển cả khu mỏ đá. Tất cả mọi người đều nằm lăn ra đất, giang tay thành hình chữ thập, mong dùng cái dấu hiệu này tự vệ trước những loài quỷ dữ. Im lặng bao trùm, trong đó chỉ nghe những hơi thở gấp gáp, những tiếng thì thầm đầy kinh hoảng: “Jexux, Jexux, Jexux!”, và đây đây có tiếng khóc trẻ thơ. Đúng vào lúc đó, bên trên cái biển người đang nằm rạp, chợt vang lên một giọng nói thật bình tĩnh:
- Bằng an cùng các người!
Đó là tiếng của Sứ đồ Piotr, người vừa mới bước vào hang. Nghe thấy tiếng ông, lập tức nỗi sợ hãi của mọi người qua đi, hệt như nỗi hãi hùng của đàn chiên con qua ngay khi người chăn chiên xuất hiện. Người ta nhổm dậy, những người ở gần nép vào chân ông, như tìm kiếm chỗ nương tựa dưới cánh ông, còn ông giơ đôi cánh tay lên đầu họ và nói:
- Sao các người lại sợ hãi trong lòng? Ai trong các người có thể đoán trước được những điều gì sẽ đến với mình trước khi giờ phút điểm? Chúa đã dùng lửa trừng phạt thành Babilon, nhưng đối với các ngươi, những kẻ đã chịu lễ rửa tội, những kẻ đã được máu của chính Con Chiên chuộc cho mọi lỗi lầm, thì sẽ là lòng nhân từ của Người, các ngươi sẽ chết với tên Người trên môi. Bằng an cùng các ngươi!
Sau những lời dữ tợn và thiếu lòng nhân của ông Kryxpux, những lời của ông Piotr đến với những người có mặt tựa như mật ngọt. Thay cho nỗi sợ Chúa, lòng yêu Chúa tràn ngập lòng người. Họ lại tìm thấy được một Đức Chúa Crixtux mà họ hằng yêu qua những lời kể của đức Sứ đồ, không phải là một vị quan toà chẳng chút nhân từ mà là một Con Chiên ngọt ngào và kiên nhẫn, mà lòng nhân trăm lần vượt quá sự dữ của nhân loại. Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm toàn bộ đám người, nỗi vui sướng cộng với lòng biết ơn đức Sứ đồ tràn ngập muôn trái tim. Nhiều giọng nói từ các phía khác nhau vang lên: “Chúng tôi là chiên con của Người, xin Người hãy chăn dắt chúng tôi!” Những kẻ được ở gần hơn thì nói: “Xin đừng bỏ chúng tôi trong ngày hoạn nạn!” Và họ quỳ quanh chân ông. Nhìn thấy thế, Vinixius tiến lại gần, nắm lấy mép chiếc áo choàng của ông, chàng cúi đầu nói:
- Xin Người hãy cứu lấy con! Con tìm kiếm nàng trong khói của đám cháy cũng như trong đám người dày đặc, nhưng chẳng nơi đâu con tìm nổi nàng. Song con vẫn hằng tin rằng Người sẽ có thể mang nàng trả về cho con.
Ông Piotr đặt tay lên đầu chàng:
- Con hãy tin, - ông nói, - và hãy đi cùng ta.
Chú thích:
(1) Nguyên văn: một thành đô của Jupiter như thế!
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Thuvien Ebook
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 11 tháng 8 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Những nhầm lẫn khôi hài Quo Vadis Trên sa mạc và Trong rừng thẳm