Bộ ấm chén bằng đất nung

Mụ đầm vợ tên quan ba Rémy Gressier chủ đồn điền, xếp đồn Bảy Ngàn bị bắt làm tù binh không tự đi xuống lầu được vì cầu thang đã bị sập. Chính trị viên đại đội Phương bèn gọi Ru bảo đứng phía dưới đưa tay đỡ khi anh đặc công cõng mụ ta tuột xuống.
Ru chấp hành lệnh. Sau khi nhận cái thân hình béo nhậy mềm nhũn ấy từ lưng anh đặc công và đặt xuống đất. Ru nghe mụ líu lo gì đó tỏ vẻ cảm ơn.
Anh lính mới thoát nạn mù chữ từ sau khi vào bộ đội làm sao nghe được tiếng Tây xa lạ ấy!
- Méc xà lù! Xức nước gì thơm quá!
Ru buột miệng đáp lời mụ như thế. Rồi lao đi khuân chiến lợi phẩm. Anh trở lên lầu, vác thùng đạn lên, thùng đạn nặng lắm, trĩu cả vai. Khi bước ngang qua bộ sa lông, anh tình cờ trông thấy bộ ấm chén uống trà bằng đất nung, một cái ấm độc ẩm và bốn cái chén hạt mít nằm vừa gọn trong cái đĩa sâu lòng cũng một màu đất nung lôi cuốn anh dừng chân. Dĩ vãng chợt sống lại thúc giục anh phải quyết định lấy bộ ấm đất này. Nhìn quanh thấy các đồng đội đang tất bật thu dọn, Ru ngần ngừ đắn đo, thu vội bộ ấm chén túm vào cái khăn rồi vác thùng đạn tụt xuống.
Chỉ có vậy, một bộ ấm chén bé xíu bằng đất nung mà tiểu đội đã đưa anh ra phê bình.
Chiến lợi phẩm là xương máu của đồng đội và đồng chí, không ai được lấy làm của riêng, dù là cây kim, sợi chỉ.
Lần đầu tiên, sau năm năm thoát ly đi bộ đội, anh chiến sĩ thật thà như đếm ấy bị đưa ra phê bình vì tham ô chiến lợi phẩm.
Ru nhận lỗi, nhưng anh buồn, một nỗi buồn thấm thía không làm sao giải tỏa được. Ngày đại đội liên hoan mừng chiến thắng, anh từ chối tham gia cái tiết mục độc diễn mà trước đây lần nào đại đội đốt lửa trại anh cũng góp vui. Cái tiết mục do ông Huỳnh Tú chính trị viên trung đội sáng chế. Ông thấy Ru lùn lùn, mập mạp, mặc cái quần đùi luồn bằng dây chuối se, luôn luôn xề xệ hở rốn, ông lấy lọ nghẹ vẽ cái bụng ấy thành mặt hề, cái miệng rộng nằm ngay trên đường ngấn chỗ cái rốn, bộ râu trê xoắn tít dưới cái mũi vẽ tượng trưng bằng hai cái vòng tròn. Hai con mắt có đôi lông mày rậm đen vạch theo đường ngấn sát thượng vị. Khi ban nhạc Măng-đô-lin, Băng-giô, có tiếng vỗ tay nhịp kèm trổi lên, Ru ta phơi cái bụng ra múa hệt ông địa giỡn lân, cái miệng vẽ bằng lọ nghẹ, theo lớp mỡ nây bụng rung rinh như biết hát, khi nhạc giòn giã rịch rình rinh cái mặt cười thì người biểu diễn kéo cái sao mỡ bên trong cao lên, khi nhịp điệu chậm, sa mỡ bị kéo trễ xuống, nhìn bức vẽ như đang khóc. Văn nghệ của lính đơn giản thế mà vui, cười rất sảng khoái. Người e lệ nhất cũng phải cười.
Sáng ngày, bà con cô bác, ai gặp Ru nhớ cái bụng đêm liên hoan cũng cảm tình gọi anh là ông Địa.
Nhớ hồi năm tám tuổi, cha dẫn Ru lên nhà ông hội đồng điền chủ trên Cao Lãnh. Cha khép nép chắp tay đứng sau gốc cột, còn ông Hội đồng ngồi trên ghế trường kỷ, vẻ quắc thước nhàn nhã như tiên ông, cầm cây phất trần phe phẩy, ung dung nhàn hạ. Lần đầu tiên trong đời Ru nhìn thấy ông Hội đồng uống thứ gì trong cái tách chỉ bằng ngón tay, ông nhấp từng ngụm, mắt lim dim có vẻ ngon lắm. Về nhà hỏi cha, cha bảo đó là bộ ấm chuyên dùng để uống trà.
Sau lần ấy, Ru đi chăn trâu cho ông Hội đồng. Cái phồn trâu đã cách biệt cậu bé lên tám với cuộc đời, cho đến năm hai mươi mốt, Ru mới đi theo bộ đội. Mười ba năm ròng lẻ loi với đàn trâu giữa đồng không mông quạnh, Ru vẫn giữ nguyên cái bản sắc "nhân chi sơ tánh bổn thiện", thật thà như đếm, chẳng hiểu xã hội là gì ngoài sự dốt nát mà anh phải lãnh chịu. Khi anh giáo viên xóa mù chữ kiểm tra bài hỏi:
- Ơ tờ là gì?
Ru bập bẹ trong miệng:
- Ơ tờ... ơ... tơ...
Giáo viên bèn mách nước:
- Ơ... tờ... gì mà cay cay ấy.
- à biết rồi... ơ tờ gừng...
Ai nghe cũng phải cười, nhưng chính trị viên nhân ấy bảo "mù chữ, dốt nát là sự đau khổ của dân tộc".
Và khi ra thao trường, đơn vị tập cho anh em lính mới đi đều bước, mọi người mới hay trong đời có thể có người không biết chân trái là chân nào. Khẩu lệnh hô "chân trái - đi đều bước!" Ru cứ cái chân thuận thò ra giẫm cả lên gót người đi trước. Huấn luyện viên phải bứt sợi dây chuối buộc vào ống quyển chân trái và hô "chân dây chuối - đi đều bước!" Một hai! Một hai!
Ôi làm sao tránh được khi lúc nào đó, trong cuộc đời có những tiếng cười ra nước mắt.
Nhà giàu hồi xưa, gẫm có tài sử dụng lao động, một thằng nhỏ tám tuổi thôi, trông coi một cái phồn-tiền của nhiều, để làm gì, mua ba bốn chục con trâu bỏ tít giữa đồng nội, Đồng Tháp Mười mênh mông chỗ nào không có cỏ, tội gì nuôi gần xóm để trâu ăn lúa của đồn điền, chọn cái gò nhỏ giữa đồng xa tít tắp, bỏ mặc đàn trâu với thằng nhỏ, hoặc nói ngược lại, bỏ thằng nhỏ với đàn trâu. Mười ngày cho người đem gạo muối ra một lần, thằng nhỏ tự mò cá mà ăn, còn trâu thì đã sẵn cỏ. Mỗi năm bậy bậy cũng thêm được vài chục con nghé.
Khi đơn bị Ba lẻ bảy hành quân lội nước băng tắt từ Gãy Cờ Đen về Thống Linh, giữa đồng mỏi chân, mưa ướt, tạt vào chỗ có ánh lửa bập bùng hun muỗi cho trâu để sưởi, tìm chút ấm áp, lần đầu tiên Ru thấy những người trang lứa mình người nào cũng súng ống, nói là đi đánh Tây để dân mình khỏi bị áp bức và cũng là lần đầu tiên anh em bộ đội thấy một con người bị xã hội bỏ rơi.
- Trốn mẹ theo tụi tôi đi! ở đợ làm gì cho khổ?
Trước khi theo bộ đội. Ru ra phồn nhìn đàn trâu mà thương. Những con vật đen đúa thở phì phò, mẹ có, con có, trầm mình dưới bùn để tránh muỗi, mùi nước đái trâu từ dưới phồn xông lên cay nồng. Người ta bảo nước đái trâu cũng gây nghiện, sau này anh em trong đơn vị nhận xét Ru bị ghiền nước đái trâu vì đóng quân ở đâu Ru cũng đem nóp ra gần chuồng trâu nằm ngủ. Mười ba năm hít thở cái không khí có mùi ấy, không ghiền sao được.
Cuộc đời mới bắt đầu với Ru từ buổi ấy. Anh trốn luôn theo bộ đội vỏn vẹn chỉ có chiếc quần đùi mốc phèn và tấm áo bà ba te tua phủ một tấm thân mốc cời vì hắc lào đầy đặc từ cần cổ đến gót chân.
Lá muồng trâu xức món lác (hắc lào) kinh niên này không ăn thua gì. Chính trị viên Trung đội C, ông Huỳnh Tú bèn ra tay.
- Ru! Cậu có gan không? Thứ này rát dữ à! Tôi sẽ làm cuộc cách mạng lột da cho cậu. Yên trí, chỉ một lần là sạch sẽ đẹp trai thôi.
- Được chú Tám, em sẽ cắn răng chịu đựng.
Đúng là phải "cắn răng chịu đựng". Ông Huỳnh Tú ra xã Mỹ Trà, chỗ này vùng kháng chiến nhưng chỉ cách thị xã Cao Lãnh một cây cầu sắt. Ông nhờ thím Năm Lộc bán hủ tíu ở chợ An Bình có dịp ra vô ngoài thị xã mua một ve a-xít ở chỗ xạc bình của nhà máy xay. Dầu nhớt ông xin của Ban cơ khí tiểu đoàn. Hai thớ nhớt và a-xít trộn chung vào cái muỗng dừa theo tỉ lệ ước lượng.
Ông lấy một miếng xơ dừa rộng bản, chặt bằng đầu, rồi đập cho tơi ra như cái bàn chải. Hai thầy trò dắt nhau ra vườn sau làm chuyên khoa da liễu.
Ru mình trần, hai tay giữ chặt gốc cau, đưa lưng ra sẵn sàng chịu đựng. Ông Huỳnh Tú cầm cái xơ dừa quậy quậy vào cái gáo a-xít.
- Rồi chưa! Ráng nghe! Âởy ấy, đừng có nhúc nhích, đổ hết.
Ông cầm cái xơ dừa nhanh tay phết, lên xuống, ngang dọc như ông thợ hồ phết vôi lên tường.
Cái xơ dừa quơ đến đâu, nghe như lửa đốt đến đấy, Ru oằn cong rồi ưỡn xương sống, tay cấu vào gốc cau, nhưng coi bộ không kham nổi phải buông gốc cau, nắm tay thành quả đấm lên gồng nghe răng rắc. Tiếng ư ử nghèn nghẹn từ trong cổ họng phát ra không thành lời. Khi tấm lưng đã hoàn toàn đen đủi màu dầu nhớt. Anh chàng bỗng đứng bật dậy, chạy uỳnh uỵch, nhảy luôn ba bốn cái mương, tuôn ra tấm đòn dài bắc qua cầu ra chiếc ghe dưới bến, từ mũi ghe nhảy lên mui chạy ra sau lái, rồi từ đằng lái quay trở lại đằng mũi. Trên bộ anh em rượt theo tới nơi khi chú chàng nhảy ùm xuống nước, cắm đầu lội tuốt qua bên kia sông, chui tuốt vào đám lục bình ló đầu lên réo:
- Ông Tú ơi! Rát quá ông Tú ơi! Cắn răng chịu đựng không nổi...
Chừng nửa buổi, ông Tú đang ngồi ở văn phòng thấy Ru bước vào cười mỉm:
- Ông ơi! Lột da, bong lên, gỡ ra từng miếng sạch trơn, đã lắm.
- Còn trước ngực, làm nữa thôi?
- Làm nữa, sợ gì! Cắn găng chịu đựng.

*

Kỷ niệm chợt đến như thoáng hiện dù giữa cảnh quyết liệt của sống chết trong chiến tranh. Cái phút bâng khuâng buộc phải dừng chân với thùng đạn trên vai khi nhìn thấy bộ ấm chén bằng đất nung trên bàn sa-lông của tên chủ đồn điền đồn trưởng Bảy Ngàn như một tia chớp tái hiện cảnh ông Hội đồng ngồi xơi nước trên bộ tràng kỷ, khi cha con Ru đứng khép nép bên một gốc cột. Nhớ khi lần đầu tiên cha đưa con ra phồn trâu để trả món nợ truyền kiếp của gia đình Ru cho ông Hội đồng, hai cha con rút vào chung một chiếc nóp, cha thở dài than thở:
- "Phận cha nghèo, biết bao giờ được một phút ung dung ngồi ghế trường kỷ uống trà Thanh Tâm như ông Hội đồng?".
Thì ra cha mình cũng có những phút giây mơ ước dù biết rằng làm sao với tới được. Nghèo nàn như một cái gông bám chặt, như con đỉa đói bám vào thân phận trâu cày.
Nếu không nói ra, thì làm sao anh em đồng đội trong đơn vị hiểu được vì sao Ru túm lấy bộ ấm chén bằng đất nung cất kỹ dưới đáy ba lô trong trận Bảy Ngàn. Bao giờ trở lại Tháp Mười, anh sẽ tặng cha, để cha được uống chè Thanh Tâm thoả bao ngày mơ ước...
Chính trị viên Huỳnh Tú rọc giấy bọc riêng từng cái chun hạt mít và cái ấm, gói chung tất cả lại bằng mảnh giẻ lau súng.
Ông vẫy gọi Ru vào, thân mật trao tay bộ ấm chén.
- Này, cậu giữ lấy để sau này gặp lại biếu ông già. Nhớ cất kỹ trong ba lô, đừng làm bể.
Chính trị viên nhìn theo người lính. Hừ! Hiện tượng và bản chất, suýt nữa mình nghi oan cho hành động thật tốt đẹp của người con có hiếu và chân chất.

*

Kịp đến ngày hành quân lên Long Châu Hà. Mười hai giờ đêm nay Tiểu đoàn sẽ đánh vào Mặc Cầu Dưng. Vì bí mật hành quân nên vị trí xuất phát ở rất xa. Giữa khuya đánh mà giờ khởi hành là 12 giờ trưa hôm trước.
Núi rừng nhiều khi làm ta sửng sốt vì vẻ hùng vĩ của nó. Sau một đêm hành quân thức trắng từ Cần Thơ vượt lộ Cái Sắn đến kinh Mỹ Hiệp Sơn đất Long Châu Hà, sáng ra Ru thấy sừng sững giữa trời, cao hơn mây, ngọn núi Mỹ Hiệp Sơn xanh biếc.
Đồng bào nói đây đến đó còn đi nửa buổi đường, mà sao núi to lớn đến vậy. Che kín cả một góc trời, xanh biếc một màu. Có gì bí ẩn trong núi mà lòng Ru rạo rực muốn biết.
Nhớ thuở còn lẻ loi giữa sình môn, những buổi chiều hoang, phóng mắt tận chân trời, thấy xa lắm, bóng dáng màu xanh chỉ lớn hơn ngôi nhà, mẹ bảo đó là núi, ở xa lắm, người nghèo không đi tới được. Ngờ đâu, vết chân hành quân đã đưa anh tới đây, cận kề núi đến vậy. Nó thúc giục Ru háo hức muốn đặt chân đến núi xem có gì trong ấy, kẻo cả đời không thấy được.
Đêm nay Tiểu đoàn sẽ nổ súng đánh đồn Mặc Cầu Dưng. Đường còn xa nên kế hoạch hành quân định vào 12 giờ trưa để kịp giờ G vào 12 giờ đêm. Ru không nén nổi lòng chờ đến sau trận mới đi xem núi. Chuẩn bị vũ khí, nén cơm xong, Ru tha thiết xin phép cán bộ tiểu đội, thông cảm cuộc đời mai một, ít ỏi của anh cho anh đi xem núi. Sướng quá, tiểu đội thông cảm cuộc đời mai một ít ỏi của anh nên đồng ý cho đi xem núi.
Gửi súng lại cho đồng đội mang dùm, Ru đi xem núi. Anh đi như chạy vì chỉ ước lượng còn ba tiếng nữa đội hình hành quân sẽ đến chỗ con đường rẽ từ bờ kinh Mỹ Hiệp Sơn vào núi cấm.
Cuộc du lịch hỏa tốc, mướt mồ hôi, thật hả hê. Khi trở lại điểm đúng giờ, nhận khẩu súng do đồng đội giao lại, tiểu đội trưởng hỏi thấy gì trong đó, Ru đáp: "Em gờ được tảng đá...".
"Em rờ được tảng đá..." nghe như nghĩa "em rờ được Tổ quốc quê hương". Ngờ đâu câu nói ấy là những lời cuối cùng của đời người chiến sĩ.
Ru tử trận sau khi hạ đồn Mặc Cần Dưng, diệt quân tiếp viện. Một viên đạn mồ côi không may trúng anh trên đường rút quân. Nỗi đau của đồng đội rất lớn, vì đây là viên đạn cuối cùng của một giai đoạn chiến tranh. Chỉ sau đó hai ngày, hiệp định đình chiến Genève được ký kết.

*

Soạn chiếc ba lô của anh, chúng tôi thấy một cái quần đùi và một cái áo sơ mi vải đen, một cây bút chì, một lọn thừng. Tài sản để lại của người lính chỉ có thế và còn một di sản: một bộ ấm chén bằng đất nung bọc trong mảnh giẻ lau súng, anh đã giữ gìn để sau này đem về cho cha.

*

Ngày đình chiến - Cụ già Đồng Tháp Mười lặn lội xuống thị xã Cà Mau nơi Tiểu đoàn 307 tạm thời tiếp quản mới hay tin con đã mất.
- Bác Chín ơi! Đây là kỷ vật của anh Ru, suốt dặm đường hành quân, anh ấy mong có ngày mang bộ ấm chén này về trao tận tay cho bác.
Hai mươi năm sau, tập kết ra miền Bắc trở về, tôi có dịp về thăm lại Thống Linh. Nhà bác Chín vẫn còn ở trên mảnh đất hồi chín năm chính quyền kháng chiến đã tạm cấp cho bác. Bác Chín trai và gái đều đã qua đời. Em gái của Ru, con bác Chín có chồng được hai con đang tuổi đi học, ở ngôi nhà ấy.
Tôi nhìn lên bàn thờ giữa nhà thấy bộ ấm chén bằng đất nung vẫn còn để dùng làm vật thờ.
Kỷ niệm người đồng đội sống lại trong tôi. Thấy tôi đi đến bàn thờ, xem lại bộ ấm chén, người em gái của Ru bảo:
- Lúc đi dưới Cà Mau về, ba em đặt bộ ấm chén lên bàn thờ để ngày ngày cúng nước cho anh Ru. Ba má em mất rồi, em cũng để y chang chỗ đó để cúng cho ba người...
Phải lắm! Kỷ vật, dù chỉ là bộ ấm chén bằng đất nung thôi, cũng phải để y chang chỗ đó...