15. Phê sai một người, dân số tăng lên mấy trăm triệu

Ngày 26 tháng 7 năm 1979 trong bản tin sáng lúc trước 7 giờ đài phát thanh nhân dân Trung ương đã phát đi một tin đặc biệt của phóng viên báo Tân Hoa xã với nhan đề: "Tổ chức Đảng đã triệt để sửa sai và phục hồi danh dự cho Mã Dần Sơ". Cùng ngày các loại báo như "Nhân dân Nhật báo" "Quang minh Nhật báo" "Báo Quân giải phóng"… Các báo nước ngoài, hải ngoại, Hồng Kông, Ma Cao và các đài phát thanh rầm rộ đăng tải tin tức đó.

Trong ngày các nhân sĩ trong, ngoài nước sôi nổi bàn tán" "Đảng Cộng sản Trung Quốc thật khí phách, dám công khai thừa nhận việc làm sai và sửa sai của mình" "Vị tiền bối đó xem ra vẫn còn được sống những năm tháng của mình, được sửa sai, thật trời xanh có mắt…". Ông Dương Kiến Nghiệp phóng viên Tân Hoa xã đang tỷ mỉ ghi lại những điểm cơ bản thích hợp với chủ đề mà mọi người đang bàn tán, trong giờ phút lịch sử kích động lòng người này vào tác phẩm văn học, tác phẩm về cuộc đời Mã Dần Sơ.
Tiếng vang của bản tin chẳng lẽ không hấp dẫn sự phấn khởi sâu sắc của mọi người ư? Chính là vì lý luận của ông Mã phê phán: sự phát triển mạnh mẽ của dân số ngày nay đang gia tăng tới mức nguy cấp, khắp nơi những dòng người đi không ngớt, cảnh tượng ngột ngạt thiếu không khí, vấn đề nhà ở vô cùng cấp thiết, giao thông đông đúc sản phẩm lương thực làm ra đã bị "uy hiếp" bởi hàng ngàn, hàng vạn người mỗi năm phát sinh thêm… Chính vì lo lắng cho những người dân toàn đất nước Trung Quốc mà Mã Dần Sơ kiên quyết bảo vệ chân lý, chịu đựng mọi ý kiến phên phán vẫn yêu cầu thực hiện "Kế hoạch hoá gia đình" vì hạnh phúc của con cháu.
Nhưng bởi vì còn có những kẻ có ý đồ và rắp tâm nói láo để hại ông đã dựng thành tội, họ phê phán ông gay gắt, đồng thời gặp phải cuộc đại phê phán đang rầm rộ khí'thế nên nhân cách và sự tôn trọng của ông bị tổn hại, ông bị buộc thôi chức vụ Hiệu trưởng trường Đại học Bắc Kinh, bãi miễn chức vụ uỷ viên thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc.
Từ năm 1959 đến 1979 ông bị bãi chức và bị phê phán, trong thời gian dài dằng dặc 20 năm đó ông ăn không ngồi rỗi ở nhà, họ hàng thân thích của ông không gặp và phân biệt đối xử, khiến ông tủi thân. 20 năm đắm chìm trong oan uổng ông đã được sửa sai, làm sao mọi người lại không vui mừng chào đón ông được? Còn với ông Mã hôm ấy là người vui sướng. Bản tin như sau: Một buổi sáng trung tuần tháng 7 toà nhà số 32 ngõ Tổng Bố đông, Bắc Kinh mấy ngày trước yên tĩnh bỗng chốc náo nhiệt hẳn lên. Lý Quý phó Bộ trưởng Mặt trận thống nhất Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đến đây hỏi thăm ông Mã Dần Sơ, nhà kinh tế học nổi tiếng 98 tuổi. Cuộc gặp mặt được diễn ra trong phòng ngủ của ông Mã. Ông Mã ngồi trên ghế salon đơn, cùng ngồi còn có vợ ông và con gái, Phó Bộ trưởng Lý Quý nói: "Hôm nay tôi được sự uỷ thác của Đảng đến báo để ông Mã rõ: "Trước đây năm 1958 và cuối năm 1959 hai lần phê phán ông đều là sai lầm. Thực tế đã chứng minh luận điểm của ông trong việc hạn chế sinh đẻ là chính xác Phía tổ chức cấp trên đã triệt để sửa sai, khôi phục danh dự cho ông, hy vọng ông vui vẻ sống những năm cuối đời và hy vọng ông Mã mạnh khỏe sống lâu". Ông Mã vui vẻ trả lời: Tôi rất vui mừng. Hơn hai mươi năm trước dân số của Trung Quốc không đông như hiện nay, phải nhanh chóng phát triển sản xuất mới được. Lý Quý cùng ông Mã nói đến báo cáo của công tác chính phủ của Hội nghị lần thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân khoá 5, phải tập trung lực lượng đưa sản xuất nông nghiệp đi lên, phải làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình, kiên quyết giảm bớt sự phát triển dân số.
Ông Mã cười thoải mái, ông nói to: "Báo cáo đó là đúng quá, tôi hoàn toàn tán thành. Như vậy xem ra lão già này giờ đây cũng còn chút có ích đấy, Hai chân ông Mã đã bị tê liệt, nhưng hai tay vẫn còn hoạt động được, sắc thái của bộ mặt tròn vành vạnh vẫn đẹp, ít nếp nhăn, đôi mắt mâu nâu nằm dưới đôi lông mày đã bạc. Ông đã bị nghễnh ngãng song trí óc ông vẫn sáng suốt.
Qua bản tin đó chúng ta thấy con người phóng khoáng của ông Mã Dần Sơ, tính chất mô phạm và phong thái sinh hoạt, nói, cười của ông, đồng thời cũng chứng minh ông không thù hận vì những cái đã mất đi của cá nhân, để mất đi khí chất của mình.
Cũng giống như chúng ta không thể giả thiết là không xảy ra "Đại cách mạng văn hoá", thế thì sự phát triển của đất nước rõ như ban ngày.
Chúng ta cũng không thể giả thiết lý luận của ông Mã Dần Sơ ngày đó được thực hiện, thì Trung Quốc hôm nay sẽ phát triển càng mạnh mẽ hơn bao giờ hêt. Do vậy phê phán sai một người mà đã để đất nước chịu tổn thất nghiêm trọng không thể lường hết được, đó là sự thật khốc liệt của lịch sử.
Nhưng cũng có điều đáng mừng là những cái đã qua đi sẽ không bao giờ lặp lại. Đây là một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử Trung Quốc.
Nhưng vết thương đã lành song không thể quên được nỗi đau. Mùa đông năm ấy gió dữ và tuyết, tại Hội nghị phê phán Mã Dần Sơ của Trường Đại học Bắc Kinh, ông Mã muốn nói rất nhiều điều: "Các anh ầm ĩ phê phán tôi là vô lý, dù tôi có chết cũng không yên lòng. Tôi không sai nhưng hôm nay nói với các anh không được, rồi sẽ có một ngày sự thật và lịch sử sẽ phán xét chủ trương của tôi là chính xác".
Mã Dần Sơ là nhà giáo dục, nhà kinh tế học nổi tiếng của Trung Quốc, ông cũng là nhà trí thức có nhận thức sớm nhất về việc hạn chế sinh đẻ của Trung Quốc.
Từ rất sớm ông đã từng du học Đại học ở Mỹ, Đại học Colombia và đã giành được học vị tiến sĩ.
Sau ngày giải phóng, ông đã từng giữ chức vụ uỷ viên Trung ương Chính phủ nhân dân, uỷ viên phó Chủ nhiệm Uỷ ban tài chính kinh tế Trung ương Chính phủ nhân dân, Phó Chủ tịch uỷban quân chính Đảng Hoa Đông, Hiệu trưởng Trường Đại học Bắc Kinh, Đại học Triết Giang… và ông còn là uỷ viên Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khoá 1, khoá 2, uỷ viên Hội hiệp thương chính trị khoá 2, uỷ viên Thường vụ Hội hiệp thương chính trị khoá 4, khoá 5.
Năm 1957 Mã Dần Sơ đi tìm hiểu vùng nông thôn, có một vấn đề khiến ông, không thể không chau mày suy nghĩ: Đó chính là một hiện tượng tận mắt nhìn thấy khiến người ta phải sợ hãi: Dân số nông thôn phát triển quá nhanh. Càng ngày ông càng thấy vấn đề này vô cùng nghiêm trọng, Năm 1953 Trung Quốc tiến hành điều tra dân số trong phạm vi toàn quốc lần thứ nhất cho thấy: Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 1953 dân số toàn quốc đã đạt 601 triệu dân. Dựa vào đó có thể thấy tốc độ tăng trưởng của dân sốTrung Quốc mỗi năm tăng 12-13 triệu người. Mức độ tăng trưởng là 2%.
Lúc đó Mã Dần Sơ nhận thấy vấn đề dân số là vấn đề trọng yếu liên quan đến đời sống nhân dân và kế hoạch quốc gia của Trung Quốc. Nếu không nắm vững vấn đề này thì sẽ để lại cho toàn dân tộc và con cháu mai sau một hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Mã Dần Sơ có trách nhiệm của một nhà kinh tế học ông đã đưa vấn đề dân số vào hạng mục trọng điểm nghiên cứu khoa học của mình.
Trong đầu ông phác thảo một lời giải: Trung Quốc hiện nay đang tồn tại một mâu thuẫn rất nổi trội, đó là mâu thuẫn giữa sức sản xuất lạc hậu với nhu cầu ngày càng cao của quảng đại quần chúng về sinh hoạt văn hoá vật chất.
Mà muốn giải quyết mâu thuẫn đó không thể bỏ qua sự phát triển mạnh mẽ về sức sản xuất tiến hành công nghiệp hoá với tốc độ lớn và phần lớn ngân khố tích luỹ được phải là nền tảng không thể thiếu để phục vụ những mục tiêu trên. Nhưng điều mà khiến người ta phải canh cánh lo âu đó là tích luỹ bằng thu nhập quốc dân thì có hạn, ngược lại phải chi cho 600 triệu cái mồm đang há to thì đã mất đi một nửa, như vậy vốn tích luỹ chẳng qua sẽ là "Nhìn bánh vẽ cho đỡ đói, nhìn nước biển cho đỡ khát mà thôi".
"Nếu như dân số Trung Quốc trước đây và ngày nay không hạn chế sự phát triển, thì sự phát triển sức sản xuất của Trung Quốc sẽ tất yếu gặp phải trở ngại rất lớn. Vấn đề này cần phải chú ý một cách nghiêm túc". Đối mặt với thực trạng đó Mã Dần Sơ chẳng lẽ lại bình chân như vại, im lặng hưởng thái bình?
Vấn đề dân số là sự việc vô cùng to lớn liên quan đến tiền đồ của cả dân tộc Trung Hoa. Cần phải điều tra thực tế và tìm tài liệu có sức nặng để làm báo cáo, đủ sức thuyết phục kiến nghị với Trung ương để tiến hành thực thi kế hoạch hạn chế sinh đẻ. Mã Dần Sơ đã vượt qua những năm của "người xưa nay hiếm", nhưng ông không quan tuổi cao, cát bụi dặm trường, để tiến hành điều tra trong 3 năm tình hình dân số vùng Triết Giang, Giang Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông, Thượng Hải, phía nam Giang Tô và ngoại ô Bắc Kinh.
Vì nguyện vọng lớn lao "Dân giàu nước mạnh"
Mã Dần Sơ đã quên đi sự mệt mỏi, dốc hết sức mình đi đến mọi nơi và lao vào nghiên cứu, điêu tra đầy gian khổ. Năm 1953 sau cuộc tổng điều tla dân số lần thứ 1 Mã Dần Sơ không quản khó khăn ba lần vào ra Triết Giang, đi sâu vào nghiên cứu điều tra vấn đề dân số, dần dần ông phát hiện và đối chiếu với tốc độ hiện nay thì tốc độ phát triển dân số của Trung Quốc có khả năng đạt tới 3%. Vấn đề càng thêm trầm trọng.
Mã Dần Sơ nặng lòng suy nghĩ: "Nếu không nhanh chóng triển khai công việc này, cứ để thời gian kéo dài thì sự việc này vẫn tiếp tục phát triển và nó sẽ đem lại khó khăn rất lớn cho nền kinh tế quốc dân, cuộc sống văn hoá vật chất của nhân dân không được nâng cao. Trung Quốc mới sẽ mang trên mình một gánh nặng không thể tiến lên và phát triển nhanh chóng được". Ông quyết tâm đưa chủ trương phai khống chế sự phát triển dân số của Trung Quốc tại Hội nghị lần thứ hai Đại hội Đại biểu nhân dân khoá I. Thiệu Lực Tử vui vẻ đồng ý chủ trương rất có lợị cho dân cho nước này, Lý Đức Toàn cũng giơ cả hai tay tán thành. Mã Dần Sơ vui mừng viết thành văn bản "Hạn chế dân số và nghiên cứu khoa học".
Không thể ngờ được kết quả của sự chăm lo khổ hạnh của ông đã đem đến sự phản đối ý kiến mạnh mẽ gần như nhất trí của nhóm họp nhỏ ở Triết Giang. Mã Dần Sơ cũng vì thế mà đã bị phê phán và công kích ở mọi nơi. "Trong đất nưốc Xã hội chủ nghĩa không có vấn đề dân số. Ông là người trong Đại hội đại biểu mà dám nói đến vấn đề dân số. Thật là bừa bãi? To gan?"
Những thùng nước lạnh dội thẳng vào đầu Mã Dần Sơ khi ông đang bừng bừng khí thế.
"Những điều ông nói về vấn đề dân số hoàn toàn một giuộc với Man-tuýt, không mau cuốn xéo cho nhanh đi". Đúng là đầu trâu, mồm ngựa cùng phụ hoạ một cách khiên cưỡng, đấy là một số kẻ không có bản lĩnh nhìn người. Những người đồng tình với Mã Dần Sơ rất ít. Nhưng Mã Dần Sơ là người không biết lùi bước. Một lần nữa ông phát biểu ý kiến của mình: "Ý kiến của tôi và chủ trương của tôi là đúng đắn. Những điều mà mọi người phản đối, tôi sẽ sửa lại… lần Đại hội đại biểu tới tôi sẽ đưa ra".
Đúng là một người cứng rắn như thép. Mùa xuân năm 1957 khi lãnh đạo Đảng và Nhà nước mở Hội nghị cấp cao Thường vụ quốc hội gồm Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, nhân dịp đó Mã Dần Sơ đã báo cáo lý luận về dân số của mình vô cùng hấp dẫn và trôi chảy: "Nền kinh tế XHCN của chúng ta là nền kinh tế kế hoạch, nếu không đưa chương trình dân số vào trong kế hoạch không thể hạn chế được dân số, không thể thi hành kế hoạch hoá sinh đẻ thì không thể coi đó là kinh tế kế hoạch được".
Toàn hội trường vang lên tiếng vỗ tay. Mao, Lưu, Chu cũng tán thành bài phát biểu. Nhận được sự cổ vũ, Mã Dần Sơ càng hăng hái thuyết trình về lý luận dân số của ông. Ở trường Đại học Bắc Kinh nhờ có vượt khỏi vận đen đã gặp phải.
Đúng lúc đang bị thế lực trên nén xuống, Bành Đức Hoài bị chụp chiếc mũ bẩn thỉu "nguỵ quân tử" "dã tâm gia".v.v, con đường chính trị của Bành Đức Hoài bị chặt đứt. Điều làm ông giá buốt tâm can đó chính là sự ám ảnh của vận rủi chính trị đă khiến cho cuộc sống sinh hoạt của gia đình ông ảm đạm âm u. Ông và vợ yêu là Phố An Tu đã phải cắt đứt và chia tay nhau, cả hai bị đẩy vào sự đau khổ kéo dài.
Hòn đá quá sức nặng nề trên đầu Bành Đức Hoài: "Sửa sai cho ai, cũng không thể sửa sai cho Bành Đức Hoài. "Bành Đức Hoài, tổ chức phản Đảng Tập đoàn phản Mao Chủ tịch" "Bành Đức Hoài thông đồng vớì nuớc ngoài"… những điều áp đặt nặng nề đó đã khiến cho hai vợ chồng ông phải chịu đựng nỗi đau khổ quá lớn không thể diễn đạt nổi bằng lời.
Bành Đức Hoài lo lắng cho Phố An Tu, thực tế khó có thể chịu đựng nổi đành phải chọn cách ly hôn, đây thực là một hạ sách, giữa Đảng và Bành Đức Hoài thì Phố An Tu càng yêu Đảng hơn nên đã chọn ly hôn. Ngày chia tay hai người cùng ăn một quả lê trong những giọt nước mắt đau khổ của Bành Đức Hoài, sau khi ăn xong nửa quả lê Phố An Tu cũng đầm đìa nước mắt… Bành Đức Hoài không ăn lê vì trước lúc bổ lê Bành Đức Hoài đã nói rõ hai người không nên ăn lê. Nhưng kết cục họ không tránh khỏi sự việc đó.
Ngày 16 tháng 6 năm 1962 Bành Đức Hoài viết lá thư dài (khoảng 8 vạn chữ), gửi Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng, ông kể lại cả quá trình công tác của mình, hằng mong điều đó sẽ giúp giảm nhẹ tội danh của mình. Ngày 23 tháng 9 năm 1965 lần đầu tiên Mao Trạch Đông ngồi nói chuyện với Bành Đức Hoài. Trong ký ức của Bành Đức Hoài vẫn nhớ như in cảnh tượng buổi nói chuyện giữa ông và Mao Trạch Đông.
Ma0 Chủ tịch:
- Tôi chờ anh từ sớm, khó ngủ quá. Chiều qua nhận được thư anh tôi mừng quá nên không ngủ được. Anh thật là người cố chấp, mấy năm không viết thư, lúc viết thì viết luôn 8 vạn chữ. Hôm nay còn có đồng chí Thiếu Kỳ, Tiểu Bình, Bành Chân cũng đến tham dự, Thủ tướng Chu còn phải tiếp Xu-các-nô do vậy không thể đến được. Chúng ta cùng bàn nhé!
Từ đây chúng ta phải xây dựng chiến lược hậu phương chuẩn bị chiến tranh. Theo tỷ lệ, tây nam đầu tư rất nhiều vật thì chiến lược hậu phương càng đặc bíệt quan trọng. Anh đi tây nam là thích hợp nhất lúc đi có thể đem theo một số binh lính để chiến đấu, đó là điều kiện giúp anh lấy lại được danh dự.
Bành Đức Hoài:
- Lúc ở Hội nghị Lư Sơn Chủ tịch có hỏi phương án quyết định của tôi như thế nào? Khi ấy tôi hứa với Chủ tịch ba điều. Chủ tịch hỏi: Ba điều đó như thế nào? Tôi đáp: 1. Trong bất cứ tình huống nào cũng không phản lại cách mạng. 2. Trong bất cứ tình huống nào cũng không tự sát. 3. Từ nay về sau công tác không làm được nữa sẽ tham gia lao động sản xuất, tự lực cánh sinh.
Chủ tịch nói:
- Hai điều sau tôi vẫn nhớ được có lẽ cái đúng thuộc về anh. Chiến lược hậu phương điều cốt yếu là khu Tây Nam, ở đó có nhiều tài nguyên, địa lý cũng thích nghi, nhiều khả năng làm được. Có lẽ đồng chí Bành Đức Hoài sẽ làm nên một chút thành tựu ở đó. Xây dựng sự lãnh đạo thống, nhất của Đảng thành lập Bộ Tổng chỉ huy, Lý Tĩnh Tuyền là trưởng, Bành là phó, và còn Trình Tự Hoa… ("Tự thuật của Bành Đức Hoài" trang 288-289 Nhà xuất bản Nhân dân Bắc Kinh).
Một tháng sau (phát biểu theo nghị định "5-16") ngày 16 tháng 6 năm 1966 Quan Phong, Thích Bản Vũ Thành tìm hiểu Cách mạng văn hoá Trung ương đã viết một lá thư có liên quan đến Bành Đức Hoài gửi lên thượng cấp của họ là Giang Thanh, Khang Sinh, Trần Bá Đạt:
" Chúng tôi thấy rằng giao công tác này(1) cho Bành Đức Hoài là không xác đáng. Theo chúng tôi hiểu, sau khi vào công việc "ba đường lối" Bành Đức Hoài vẫn tích cực tiến hành những hoạt động không bình thường. Do vậy, chúng tôi lại một lần nữa đề xuất ý kiến, hy vọng Trung ương xem xét bãi bỏ chức vụ Phó Tổng chỉ huy "ba đường lối" của Bành Đức Hoài. Từ đó ông nhìn thấy nhiều sự việc rất thực mà Đại cách mạng văn hoá đã vạch trần.
Song đến nay Bành Đức Hoài cũng vẫn là lá cờ đen của chủ nghĩa xét lại. Để vạch trần bộ mặt xấu xa của ông ta trước quảng đại quần chúng, để thanh trừng triệt để mầm mống tai hoạ, chúng tôi mong rằng Trung ương cần phải xem xét, lựa chọn điều kiện thích hợp công bố trước quần chúng hoạt động tội ác phản Đảng phản Xã hội chủ nghĩa của Bành Đức Hoài. Bởi vậy cuộc đấu tranh giành quyền lực này là cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, là cuộc đấu tranh mà chúng ta lật đổ chính quyền phản động từng bộ phận, ở từng địa phương cho nên chúng ta phải giành lấy thời cơ.
Thế là từ nay Bành Đức Hoài bắt đầu sống chuỗi ngày đau khổ trong cuộc sống đen tối mịt mùng, chẳng dễ gì có được những ngày trong sáng phẳng lặng. Chu Ân Lai chuyển tin dữ của tây nam có liên quan đến Bành Đức Hoài tới Mao Trạch Đông. Chu Ân Lai e rằng sẽ có chuyện bất trắc xảy ra với Bành Đức Hoài nên lập tức điện báo cho lãnh đạo xây dựng tây nam, Quân khu Thành đô, Khu vệ binh Bắc Kinh và "cờ hồng" Bắc Hồng.
"Đồng chí Bành Đức Hoài sẽ trở về Bắc Kinh. Song phải nghiêm chỉnh chấp hành ba điều sau.
1 Hồng vệ binh và bộ đội cử người hộ tống đồng chí Bành Đức Hoài đến Bắc Kinh, dọc đường không cho phép ai dừng lại, không được có lời nói hành vi nào lăng nhục đồng chí ấy, tuyệt đối bảo vệ an toàn cho đồng chí Bành Đức Hoài.
2. Không cho phép đi máy bay, mà phải đi bằng tàu hoả đến Bắc Kinh do Quân khu Thành đô trực tiếp liên hệ.
3. Bộ đội vệ binh Bắc Kinh cử người chờ đón tại ga Bắc Kinh đồng thời phụ trách sắp xếp việc học tập và sinh hoạt cho đồng chí Bành Đức Hoài.
Các đơn vị phải tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành việc bảo đảm an toàn cho đồng chí Bành Đức Hoài. Các đơn vị phải chịutiếng nói của Lâm Hồ Hiện và Hiệu Viện Nội tự tay dán quảng cáo…"Bàn về dân số mới" đã trở thành một đề án chuẩn bị chính thức đưa vào Hội nghị lần thứ 4 Đại hội đại biểu nhân dân khoả I.
Đây là văn ban nổi tiếng vì lợi ích trước mắt và hạnh phúc con cháu mai sau. Nhưng Mâ Dần Sơ chẳng bao giờ nghĩ được rằng chính văn bản "Lý luận dân số mới" mà ông đặt bao hy vọng hoài bão và tâm huyết vào đó đã đem lại sự bất hạnh, gian khổ, nhửng tai hoạ lút đầu… Ngày 5 tháng 7 năm 1957 Nhân dân Nhật báo dành cả số báo số 11 đăng tải toàn bộ văn bản "Lý luận dân số mới".
Mã Dần Sơ đang lớn tiếng hò hét: Trung Quốc không khống chế dân số là không được Nhưng chính lúc Mã Dần Sơ đang chân thành lắng nghe ý kiến của quảng đại độc giả thì phong trào phản đối phái hữu đã mở ra mạnh mẽ và rộng lớn. Khí thế phong trào này đang rầm rộ. Trong bối cảnh lịch sử như vậy "lý luận dân số" và Mã Dần Sơ giống như một con thuyền nhỏ, làm sao chịu nổi sóng gió, tránh sao được số mệnh gian nan? Cuốn theo trào lưu của phong trào, từng nhóm, từng nhóm tri thức dân chủ, trí thức yêu nước, giáo sư, học giả… chỉ vì đưa ra ý kiến của mình mà bị coi là "Điên cuồng tấn công Đảng" "Phản Đảng, phản xã hội chủ nghĩa" cuối cùng, lắc thêm một cái biến thành "Phần tử phái hữu".
Mã Dần Sơ tránh không kịp cách nói của xã hội lúc đó: "Lý luận dân số mới" của Mã Dần Sơ là phối hợp phái hữu tấn công Đảng". Có kẻ tìm hết cách bới móc mỉa mai Mã Dần Sơ: "Mã Dần Sơ đánh ngựa của Đảng Cộng sản, đánh không được, đánh phải chân bị nó giẫm vào tay". Mã Dần Sơ không quan tâm đến những việc ấy, ông vẫn đi làm bình thường.
Tháng 5 trong Hội nghị lần thứ 2 Đại hội đại biểu khoá 8 của Đảng đã phê phán Mã Dần Sơ và lý luận của ông". Hiển nhiên đây là quan điểm "đi ngược lại chủ nghĩa Mác-Lê Nin". Thế là đã thấy sự nguy hiểm rồi.
Nửa năm đầu năm 1958 Trường Đại học Bắc Kinh mở cuộc phê phán đích danh Hiệu trưởng của mình. Báo và tập san của trường tuôn ra 18 bài luận phê phán Mã Dần Sơ. Báo chí toàn quốc bắt đầu trổ tài bước vào cuộc đại phê phán.
Mã Dần Sơ ngoài việc mất đi lòng kính trọng ra, có người còn ngạo ngễ chụp cho ông ba cái mũ "Ông là chủ nghĩa Man-tuýt, ông phủ nhận tính ưu việt của chế độ XHCN, ông không có tình cảm với 600 triệu dân". Năm 1958 phong trào chống phái hữu toàn quốc tạm lắng xuống, nhưng với Mã Dần Sơ và "lý luận dân số mới" của ông chẳng hề có biểu hiện giảm mà lại càng mãnh liệt hơn, vì lúc đó có Khang Sinh tổ phó tổ Văn hoá Giáo dục Trung ương kiêm tổ trưởng tổ lý luận được gọi là "Lý luận uy quyền" đích thân chủ toạ điều khiển: nên cuộc phê phán như lửa cháy đổ thêm dầu càng bốc cao hơn bao giờ hết.
Ngày 15 tháng 12 năm 1959 Khang Sinh nghiến răng nghiến lợi nói với Bí thư Đảng uỷ Trường Đại học Bắc Kinh "Nhất định phải phê phán thật kỹ Mã Dần Sơ về mặt chính trị, từ nay Mã Dần Sơ không được làm Hiệu trưởng Trường Đại học Bắc Kinh, sau khi triệt để điều tra phê phán, cho ông ta rời khỏi Đại học Bắc Kinh".
Dưới sự chỉ đạo của Khang Sinh Trường Đại học Bắc Kinh, quần chúng sôi nổi, giáo viên hồ hởi tiến hành, phê phán quy mô nhỏ, quy mô lớn đối vỡi Mã Dần Sơ, lịch sắp xếp kín mít. Những bài báo chữ lớn với số lượng nhiều dạng như bông tuyết rơi đâm thẳng vào xương tuỷ Mã Dần Sơ…
Những lời nhục mạ nhao nhao, những lời chỉ trích, chửi rủa chẳng cần thứ tự, những ngôn từ bẩn thỉu tuôn ra ào ào như nước rửa chân, chẳng còn một chút nghĩa tình, đập thẳng vào Mã Dần Sơ. "Tội danh" của Mã Dần Sơ ngày càng nhiều: Công kích sự phát triển với tốc độ cao và đại vọt tiến của nền kinh tế quốc dân, công kích và bôi nhọ công xã nhân dân, công kích kế hoạch kinh tế xã hội' chủ nghĩa, ca ngợi sự cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, là phiên bản của "chủ 'nghĩa đa phần" của Pháp tại Trung Quốc, đấu tranh giành quyền lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin… Mùa đông năm 1959 rất lạnh. Nhất là trong vườn Trường Đại học Bắc Kinh Khang Sinh đã dùng giọng đầy khí lạnh của vùng Sơn Đông, để công kích người khác: "Mã Dần Sơ đã từng nói, có người nói ông ta là người của chủ nghĩa Man-tuýt nhưng ông ta không đồng ý. Ông ta nói Man-tuýt là ngựa nhà, Mác-Lê Nin cũng là ngựa nhà, mà ông ta là ngựa nhà Mác… Tôi nhận thấy "Lý luận dân số mới" của Mã Dần Sơ chàng có gì phải nghi ngờ, đó chính là ngựa nhà của Man-tuýt". "Chồng mũ" của Mã Dần Sơ đột nhiên lại được chồng lên cao hơn: "Mã Dần Sơ" là Man-tuýt của Trung Quốc… Mã Dần Sơ vốn vì chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư bản phục vụ?…" Mã Dần Sơ dù có ngàn lưỡi cũng không thể tranh cãi nổi, ông ta chỉ cần nhấn mạnh một điểm: "Tôi Mã Dần Sơ là "ngựa nhà Mác?". Cuộc đời Mã Dần Sơ gần 80 năm, chịu bao nỗi nhọc nhằn, gian khó khổ hạnh.
Chỉ vì cái lợi to lớn của một dân tộc ông đã phải chịu bao điều bôi nhọ vô lý thô bạo song ông vẫn kiên quyết bảo vệ chân lý. Trên tở "Quang minh Nhật báo" ông phát biểu (lại nói về lý luận "vòng quay" của luật cân bằng của tôi) ông còn viết bài trần thuật ý kiến của mình để báo khác đăng tảì.
Nhưng tất cả những việc làm đó chẳng đem lại kết qua gì tốt đẹp. Chẳng những báo chũ to ở vườn Trường Đại học Bắc Kinh "Bỗng đêm qua gió. xuân về, ngàn vạn cây lê lại nở hoa, ông đã lường trước rồi vậy mà vẫn không xong, cửa phòng ông, bàn của ông, đầu giường ông đều dán đầy những báo chữ to, khẩu hiệu… Nhưng ông không vì những thứ đó mà chán nản, ông lại phát biểu trên báo "Kiến thiết mới" "Nhắc lại yêu cầu của tôi": "… Tôi đã gần 80, bìết rõ rằng một người không địch được muôn người". Tôi tự thấy đơn thương độc mã mà chiến đấu chống trận thì chết trận là chắc chắn: nhưng quyết không đầu hàng, những người phê phán bằng cách dùng áp lực buộc phải phục tùng mà không dùng lý lẽ để thuyết phục. Ông không sợ cô đơn. Ông không sợ phê đấu vì nước nhà và vì chân lý ông không sợ bị hắt nước lạnh, không sợ vạc dầu, không sợ mất chức - ngồi tù và càng không s Thanh và "Câu lạc bộ quân sự", vu cho Bành là tướng của tập đoàn phản Đảng.
Cao, Nhiêu, buộc Bành phải viết ra tài liệu của "Câu lạc bộ quân sự". Bành Đức Hoài tức giận sùi bọt mép, đấm mạnh lên bàn quát to: "Giết chết cũng không thể có". Trong lòng Bành Đức Hoài bị giày vò, về tinh thần cuộc sống sinh hoạt lại bị coi thường, bộ quần áo cũ mặc trên người là bộ đồ lót mang đến từ Thành Đô. Thần kinh ông bị giày vò kéo dài, lại thêm thời gian trong hầm mỏ của chiến tranh Triều Tiên nên bệnh viêm da đã tái phát (đôi chân tầng tầng lớp lớp lở loét nhầy nhụa) khiến cho chiếc áo lót thấm đầy vết máu. Bệnh tật hành hạ ông, lại còn phải ở trong căn phòng âm u ướt át, lạnh lẽo, quần áo chẳng có để thay mặc thấm đầy máu, quần thủng bảy, tám lỗ dù bông trắng lòi ra từ chỗ thủng như những bông hoa trắng… Ngày 6 tháng 3 Bành Đức Hoài và một số người "Phạm tội" bị dẫn giải sang căn nhà tạm (cách chỗ năm gốc tùng không xa) của bộ đội vệ binh khu thôn La Đạo, cửa lớn có vệ binh canh gác, cửa phòng của Bành Đức Hoài có một tiêu binh canh giữ luôn để mắt và ghi lại "Nhất cử nhất động phản cách mạng"của Bành Đức Hoài. Trong phòng ông không có lấy một tên tiêu binh, đối với việc quản thúc ông giờ đây vô cùng nghiêm ngặt.
Bành Đức Hoài nghĩ thầm: "Ta hiểu rồi, đây không phải là phòng của doanh trại mà là phòng làm việc đây". Mùa đông buốt lạnh ghê gớm mà Bành Đức Hoài vẫn mặc bộ quần áo bông cũ, thủng, rách nát mà chẳng có quần áo để thay nên, ông đã trộm được cái kim của lính tiêu binh để tự vá lại những chỗ thủng, rách. Nhìn ông lúc ấy ai mà chẳng não lòng. Ngày 1 tháng 4 Bành Đức Hoài đang tràn đầy hy vọng viết thư gửi lên Mao Trạch Đông thì trên mặt báo đã đăng đầy tin tức đổi trắng thay đen của kẻ giấu tên nào đó, nói ông hồi ở tây nam đã biện bạch với Mao Trạch Đông về phương án hoạt động lật đổ của ông: "Tôi đến tây nam đợt đầu bảy tháng, đã đi khoảng 20 huyện thị 15 khu, xí nghiệp mỏ (Vân Nam vẫn chưa đi) mục đích chính là thu thập ít tài liệu để làm một số đề tài nghiên cứu, nhằm nâng cao kiến thức của cá nhân tôi về mặt này, đồng thời đề xuất để Lãnh đạo xem xét, ngoài ra tôi không có ý đồ gì khác". Thế là Bành Đức Hoài mong thấy mặt nước hồ thu êm ả thì chỉ có than thở với sóng trào đại dương: Mao Chủ tịch không trả lời ông. Buổi tối ngày 20 tháng 4 Bành Đức Hoài lại viết thư cho Thủ tướng Chu, ông nói: "Những mảnh vỡ của quặng mỏ Thạch Miên, Tứ Xuyên được chất đầy bờ nam, mất mát cũng đã nhiều, những mảnh quặng này có thể làm phân canxi, phân ba-zơ, phân lân, loại phân này cho hiệu quả cao, tôi sợ rằng sự việc này bị gác lại".
"Vốn việc rất nhỏ không nên làm phiền đến Thủ tướng song tôi chẳng biết nên nói với ai, vậy mong Thủ tướng lượng thứ, tiện đây xin chúc ngài mãi mãi khỏe".
Ngày 24 tháng 5 năm 1967, Nhân dân Nhật báo lại đăng bài phát biểu dài của "Thích Nguyên soái, bừng bừng khí thế nói về cương lĩnh xây dựng quân đội của giai cấp vô sản trong đại cách mạng văn hoá. "Mao Chủ tịch nói chuyện tại Đại hội Văn nghệ ở Diên An", lại một lần nữa quạt gió âm đốt lửa quỷ: "Một số phần tử theo chủ nghĩa xét lại trong nội bộ Đảng đang ủng hộ một nhóm đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hội nghị Lư Sơn đã bãi bỏ chức vụ của Bành Đức Hoài và một số người thuộc phần tử chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, âm mưu lật đổ chính quyền với ý đồ khuấy động người khác cùng theo chúng tiến hành lật đổ cách mạng giành lại chính quyền". Những người đó là Bành Chân, Lục Đinh Nhất, Chu Dương, Lâm Mặc Hàm, Phục Diễn, Điền Hán…
Trong việc ghi lại của tiêu binh thì tất cả những phản ứng của Bành Đức Hoài khi đọc bài phát biểu của "Thích Nguyên soái" đều được ghi lại đầy đủ tỉ mỉ:. Ông ta đọc đến đoạn cuối liền gạch một đường, giọng ồm ồm, quẳng mạnh tờ báo sang một bên, nằm lên giường hát bài "Quốc tế ca"… Bầu máu nóng đang sục sôi, quyết đấu tranh vì chân lý.
Nhóm Giang Thanh lại dấy lên cao trào. Phát hiện lớn, phê phán lớn, đấu tranh mạnh Đảng phái cách mạng của giai cấp vô sản trong phạm vi toàn quốc" giành chính quyền mọi mặt. Đương nhiên Bành Đức Hoài không thể "lọt lưới" được.
Giang Thanh mật lệnh cho "Thích Nguyên soái, ngầm giúp Cơ Nghị yêu cầu ông ta ra lệnh cho Hàn ái Xương của Hàng không Bắc Kinh "Hồng kỳ", nhận "nhiệm vụ chiến đấu". "Các anh phải khép tội Bành Đức Hoài là phản lại Mao Chủ tịch, buộc ông ta phải cúi đầu nhận tội. Nếu ông ta không thành khẩn lại tỏ thái độ, các anh không nên khách khí với ông ta".
Giang Thanh vốn mang trái tim phục thù mãnh liệt, giờ đây đã có thời cơ làm mưa làm gió.
Bà ta lên gân lên cốt nói: "Bành Đức Hoài được an dưỡng trong khu vệ binh đã quá béo tốt rồi, trước đây chưa dám một lần công khai phê phán, nay đưa ông ta ra phanh phui hết những điều xấu xa ra?".
Ngày 18 tháng 7 năm 1967 tổ chuyên án vụ Bành Đức Hoài vui mừng phát cuồng đón nhận "Lời tổng động viên chiến đấu" của "Thích Nguyên soái": "Rắn độc đã cứng lại, nhưng nó chưa chết hẳn. Bành Đức Hoài chỉ là con hổ giấy giết chết người không nhắm mắt. Bành Đức Hoài là kẻ quân phiệt. Không nên nhìn cách ăn mặc mà thương xót ông ta, giống như con hổ dữ phải chết. Thực tế nó chưa chết là do sự gắng gượng của bản năng. Động vật, côn trùng đều có bản lĩnh bảo vệ mình, lẽ nào dã thú ăn thịt người loại này không bị đánh gục nó xuống đất, phải chà đạp lên nó"
Ngày 19 tháng 7 mở đầu cuộc phê đấu Bành Đức Hoài bằng "thượng cẳng chân hạ cẳng tay".
Bọn bồi thẩm hỏi Bành: "Anh có phản lại Mao Chủ tịch không? "Tôi không phản Mao Chủ tịch, với Mao Chủ tịch tôi không có gì để nói" Câu trả lời của Bành Đức Hoài vừa dứt, bọn cốt cán làm loạn không chịu nổi, nổi xung dang tay đấm mạnh Bành Đức Hoài, khiến tấm thân tàn tạ suy nhược của ông bị hất ra phía sau mấy bước, từ từ đổ xuống mặt đất. Một đám Hồng vệ binh bu lại nhằm đầu, thân thể ông liên tục đấm đá thục mạng. Đột nhiên một tên Hồng vệ binh cao to lực lượng bồi vào ngực ông quả đấm trời giáng khiến ông tối tăm mặt mũi, lảo đảo lao đầu vào bàn trong phòng học của Học viện Hàng không Bắc Kinh, sau đó đổ sập xuống nền xi màng vang lên tiếng động lớn trong phòng học. Bành Đức Hoài giáng chịu sự đau đớn hét lên: "Chúng mày đối xử như vậy với con người gần 70 tuổi này ư?". Đối với nạn dịch đánh Bành Đức Hoài đang sục sôi thì tất cả những điều đó chàng giải quyết được gì. Bành Đức Hoài liên tục bị bọn "tiểu tướng" lôi ra, đánh gục, đánh ngã, lại dựng dậy đánh tiếp cứ như thế như trò chơi với một đồ vật vậy. Sau đó một tên cao to mặc áo da nhằm vào Bành Đức Hoài lúc này đã bị đánh tới máu chảy đầm đìa tung cú song phi vào ngực Bành Đức Hoài, ông "nấc" nhẹ và ngất lịm đi.
5 giờ 15 chiều khi Bành Đức Hoài bị đánh tới mức nửa tỉnh nửa mê mới bị lôi về "phòng giam" và suốt đêm bị ép buộc viết "Lời nhận tội". Hôm sau vì Bành Đức Hoài bị trọng thương nên phải đưa đến viện 267 để kiểm tra: Mặt trước phần ngực qua X quang đã phát hiện: l) Đoạn giữa xương sườn thứ 5 trái bị gẫy, 2) Cuối xương sườn thứ 10 trái nghi gãy không còn, 3) Cơ hoành cách trái có chứa dịch (máu) 4) Phổi trái, dưới đáy phổi không làm việc.
Tình cảnh bi thảm đó do Hồng vệ binh khu báo lên "Trung ương cách mạng": "Hôm qua Học viện Hàng không Bắc Kinh mở một Hội nghị nhỏ gồm 30 - 40 người tham gia đấu tố Bành Đức Hoài. Trong Hội nghị có đánh Bành Đức Hoài gục 7 lần, họng nát, phổi bị nội thương một chút, ngày mai lại tiếp tục".
Viên Tư lệnh khu vệ binh Bắc Kinh báo cáo Thủ tướng Chu Ân Lai tình trạng thương tật của Bành Đức Hoài và gửi kèm phim chụp ngực. Chu Ân Lai biết thực trạng như vậy đã phê bình Khu vệ binh không làm hết trách nhiệm, đồng thời chỉ thị đưa Bành Đức Hoài đi khám bệnh, báo cáo rõ tình hình điều trị của ông cho Chu Ân Lai. Từ nay về sau khi lãnh đạo Trung ương chưa có lệnh không ai được phê đấu Bành Đức Hoài. Vệ binh khu phải tuyệt đối đảm bảo an toàn tính mạng của Bành Đức Hoài.
Ngày 20 tháng 7 năm 1967 đã nổ ra cuộc tuần hành của mấy chục vạn quân và dân bao vây mặt trước Vũ Hán nơi làm việc của Vương Lực, thành viên tiểu tổ "Trung ương cách mạng", bởi vì quảng đại quần chúng và binh lính sỹ quan đều không bằng lòng với sai lầm cực đoan hữu khuynh của "Trung ương cách mạng", sự kiện (20 tháng 7) của Vũ Hán đã chấn động toàn quốc. Sự kiện này nổ ra vào ngày thứ hai sau ngày Bành Đức Hoài bị đánh trọng thương Lâm Bưu động viên quần chúng đã đưa ra khẩu hiệu "Nắm lấy những phần tử trong nội bộ quân đội", thế là Bành Đức Hoài sau bao năm phạm tội nay bị cuốn theo dòng nước ngược: bọn phản động vô tình trở thành đại biểu của "phần tử nội bộ quân đội". Các tờ báo trên toàn quốc khua chiêng gõ trống dấy lên "cao trào phê Bành".
Những năm cuối đời, thân thể, con tim của Bành Đức Hoài phải chịu sự tàn khốc lớn lao như vậy Một người đã đổ máu chiến đấu cho sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp mở nước với những chiến công hiển hách, kể từ ngày 26 tháng 7 năm 1967 đã trở thành "đạo cụ" không thể thiếu của bọn tạo phản, thay phiên nhau diễn những vở kịch kinh hồn bạt vía. Học viện Hàng không Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, các tổng bộ phận giải phóng, Uỷ ban khoa học quốc phòng, Thông tấn xã Nhân dân Nhật báo, các cơ quan trực thuộc Không quân, không quân tại học viện Thủ đô, các đơn vị văn thể… mấy chục cơ quan, đơn vị liên tục "Phê đấu" tất cả 7 lần "diễu hành", thanh thế rất lớn, 6 lần tập trung với quy mô hàng vạn người. Vì quân đội mà Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiện, Đàm Chính, Trương ái Bình, Tiêu Hướng Vinh, Liêu Hán Sinh… đã làm nên những chiến công lừng lẫy cũng bị lôi vào "cùng đấu". Trước sự chăm chú của hàng trăm con mắt quần chúng, trước sự đánh đập, làm nhục dã man vô nhân đạo, Bành Đức Hoài không cam chịu nhục, ông đứng thẳng, ngẩng cao đầu. Và vì thế sự hèn hạ đã lên cao độ, tức tối không kiềm chế được, một bọn 5 tên to cao lực lưỡng thô thiển nhảy vào ấn đầu ông và bẻ quặt hai tay ra phía sau, khiến cho lão tướng thất tuần mấy lần ngất lịm đi.
Đêm 15 tháng 8 năm 1967 trong nhà tù vang lên tiếng loa truyền tin "Nghị quyết lần thứ 8 của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 8 về vấn đề tập đoàn phản Đảng do Bành Đức Hoài cầm đầu".
Ngày hôm sau "Nghị quyết" đã đăng tải trên "Nhân dân Nhật báo" cùng xã luận "Bành Đức Hoài khó trốn tội, tạp chí "Hồng kỳ" phát biểu bài xã luận từ thất bại của Bành Đức Hoài đến sự phá sản của tập đoàn Hách Lỗ Hiểu Phu Trung Quốc.
Báo "Giải phóng quân" phát biểu bài xã luận "Nghị tướng thừa dũng khí truy đuổi bọn giặc cùng đường". Thế là toàn quốc lại lần nữa dấy lên phong trào phê Bành. Các đơn vị thực hiện phê Bành giống như cuộc bán đấu giá, tranh tranh, cướp cướp lôi kéo Bành Đức Hoài đi phê đấu.
Vì lúc đó Tạ Phúc Tri uỷ viên cục Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, thành viên "Cách mạng văn hoá Trung ương" phó Thủ tướng Quốc vụ viện lần lượt hạ bút huy động tự mình sắp xếp thứ tự cho các đơn vị "phê đấu" Bành Đức Hoài. Cứ như vậy từ đầu đến cuối năm 1967 mấy chục đơn vị, quân khu Bắc Kinh, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh quân binh chủng… tiến hành 12 lần đại hội gồm hàng vạn người phê đấu Bành Đức Hoài. Thay phiên nhau lên án Bành Đức Hoài con người đã 69 tuổi trong sự tàn khốc, độc ác cùng với những cuộc đấm đá ngấm ngầm của những nhóm bí mật…
Khí thế "phê đấu" của năm 1967 tạm lắng xuống thì những cuộc thẩm vấn khốc liệt của năm 1968 lại kéo đến. Muốn làm rõ tội danh "Bành Đức Hoài là Đảng viên giả" liên lạc với nước ngoài "cùng sắp đặt âm mưu với Hách Lỗ, Hiểu Phu", vẫn dùng phương pháp lần lượt thẩm vấn, lật đi lật lại~, mỗi ngày bắt đầu thẩm vấn từ 7 giờ tối đến 3 giờ sáng hôm sau, cứ như vậy đã khiến cho Bành Đức Hoài rơi vào trạng thái mê mê tỉnh tỉnh, thân thể rã rời, sức cùng lực kiệt. Ngày 26 tháng 1 năm 1968 trong "Nhật ký của tiêu binh"đã viết Bành Đức Hoài từ nơi thẩm vấn

---~~~mucluc~~~---