Chương 2

Vào năm mẹ cháu mười ba tuổi thì cải cách ruộng đất xảy ra và ông nội cháu bị đem ra đấu ở đình làng. Ông nội cháu có một người con trai với bà vợ đầu, đã mất, tên là Phạm Đình Thành. Thành không được ông nội cháu quan tâm nhiều vì bao nhiêu tình thương ông cháu dành cả cho người vợ lấy về sau này. Ông cháu là địa chủ, có nhiều đất, nhiều ruộng và có một thời gian ngắn giữ chân chánh hội. Nhưng cũng chẳng là gì so với đất ruộng nhà ta. Vào thời kỳ cải cách ông cháu cũng như một số người giàu có khác bị mang ra đấu tố giữa đình làng. Đấu tố là gì á? Kể ra cũng khó giải thích nhỉ? Là bị trói, bị quỳ, bị những người dân nghèo mắng nhiếc, chửi bới, lăng mạ, thậm chí cả đánh đập nữa. Tại sao lại thế á? Thì người giầu bóc lột người nghèo, đến lúc ấy cách mạng thành công, người nghèo được bóc lột lại người giàu. Bóc lột thật đấy chứ. Ruộng vườn, thóc lúa, giường tủ, bát đĩa, trâu bò, lợn gà, thậm chí cả vại dưa muối lẫn cây quạt lụa, bóc hết, lột hết, chia đều cho mọi người, những người dân nghèo ấy mà. Tại sao lại còn đấu tố nữa á? Thì đào tận gốc, trốc tận rễ mà. Lũ người giàu là lũ cây độc, không thể để tồn tại, phát triển trên mảnh đất công nông được. Vì thế người ta đem những người giàu ra cho dân nghèo xét xử. Dân nghèo muốn giết ai thì giết, bỏ đói ai thì bỏ, cầm tù ai thì cầm. Tóm lại cách xét của họ là ai giàu cộng với ác thì xử giết, ai giàu mà ác ít thì xử tù, ai giàu mà không ác thì xử làm bần cố nông, tức là lưu đày họ vào kiếp nghèo đói. Cả nhà ta may sao đều chạy được. Chỉ mình ta không chạy vì ta cũng máu đi làm cách mạng. Ta nhất định không chịu bước chân xuống tàu ở Hải Phòng để bỏ vào Nam cùng với gia đình. Vợ con ta cũng ở lại với ta. Ta đinh ninh thế. Nhưng tối hôm ấy, khi ta đi họp đoàn thanh niên về thì vợ con ta cũng đã bỏ ta mà đi nốt. Ông nội cháu ấy hả? Ông ấy được xét là giàu mà không ác. Đáng lẽ ra là như thế. Nhưng cậu con trai của ông cháu, cái cậu Thành ấy mà, bỗng dưng lại tố ác cho ông cháu. Cậu Thành kể rằng ông cháu từng đánh cậu ấy vì cậu ấy đi trêu gái, từng nhốt cậu ấy vì cậu ấy đòi bỏ nhà lên tỉnh đăng ký đi phu Nam Bộ, từng phạt không cho cậu ấy ăn vì dám cãi lại gì ghẻ, từng bắt cậu ấy quỳ gai vỏ mít vì dám chửi thầy giáo ở làng bên, từng giám sát, ngăn trở cậu ấy không cho cậu ấy thoát ly tham gia cách mạng từ sớm, để mãi sau này cậu ấy mới được vào đoàn thể nên cái sự giác ngộ của cậu ấy mới chậm, mới muộn màng, vân vân và vân vân. Cứ lẫn lộn thực hư như thế, nhập nhằng giữa bản chất và hiện tượng như thế. Ngày ấy cậu Thành cũng mới mười lăm, mười sáu tuổi thôi. Tuổi trẻ ấy mà, máu trong người rất dễ sôi, ưa trả thù vặt và thích làm những việc giả tưởng. ông nội cháu trở thành ông lão chăn vịt, thành kẻ hót phân trâu, thành người mò hài cốt, thành lão già coi nghĩa địa. Vợ con ông đâu á? Cái bà hai ấy ôm con bỏ vào Nam theo đằng ngoại. Ông cháu đáng lẽ cũng đi chuyến ấy nhưng vì quay lại tìm cậu Thành nên bị lỡ tàu. Chính vợ con ta cũng đi chuyến tàu ấy đấy. Chúng dám lừa ta cho đến lúc con tàu nhổ neo mà ta chẳng biết gì. Ông cháu hận cậu Thành lắm. Hận cho đến lúc chết. Nhưng mà ông cháu còn khổ chán rồi mới chết. Trước khi chết vài năm ông cháu gặp con mẹ Hàn. Mẹ Hàn là đứa trẻ mồ côi, sống sót sau vụ đói năm bốn nhăm ghê rợn. Ngày mẹ Hàn gặp ông nội cháu là ngày ông cháu đang đói và rét, nằm chết lả đi ở góc nghĩa địa. Mẹ Hàn đi bắt lươn ngang qua đó, nhìn thấy, bóp lươn nướng cho ông cháu ăn một lúc hết mười sáu con liền, nhẵn cả giỏ. Rồi mẹ Hàn đưa ông nội cháu về ở cùng. Mẹ Hàn được chia cho cái chuồng trâu cũ của nhà ta trong đợt cải cách. Nhà cháu bây giờ được dựng trên nền chính cái chuồng trâu ấy đấy. Mẹ Hàn dốt nát, may nhờ cách mạng cũng cắp sách đi học được vài chữ ở lớp bình dân học vụ. Thầy giáo đứng lớp dạy mẹ Hàn là cậu Thành. Cậu Thành là người nhiều chữ nhất ở cái làng này vào thời bấy giờ. Tất nhiên chẳng thể bằng ta, nhưng thôi, trừ ta ra. Sau sửa sai cậu Thành hối hận lắm. Người nhiều chữ ai lại đi tố bố đẻ mình? Sửa sai là thế nào á? Là người ta sửa lại những việc làm trong cải cách ruộng đất. Người ta thấy việc để cho dân nghèo bóc sạch lột nhẵn, lại giết hại, cầm tù, o bế bừa bãi những người giàu là thái quá, là oan uổng, là không cần thiết, là thiếu công bằng và không minh bạch. Những người giết rồi thì thôi, những người chưa giết thì thả, những người khốn quẫn được trả một phần nhà, một phần đất. Có chứ, có xin lỗi, Nhà nước xin lỗi, các đội sửa sai đến từng nhà xin lỗi. ông cháu cũng được xin lỗi. Cậu Thành cũng về xin lỗi nhưng ông cháu không nhận lời xin lỗi đó, trợn mắt lên mắng cậu Thành, rồi chết. Cậu Thành ơn mẹ Hàn lắm. Mà con mẹ Hàn bắt lươn đen đủi, quắt queo ngày nào đến lúc dậy thì cũng mình nở thân son lắm. Rồi cậu Thành xin hỏi cưới mẹ Hàn. Vì tình hay vì nghĩa, chả biết, nhưng nghe tin ấy mấy cô xinh gái nhất làng úp mặt vào bụi duối khóc rưng rức. Thế mà mẹ Hàn từ chối đấy. Mẹ Hàn bảo: Anh là thầy tôi, tôi kính, nhưng anh tố ông cụ đến chết khổ chết sở thì tôi khinh. Tôi chả lấy người tôi khinh làm chồng. Cậu Thành lúc ấy đâu phải thường. Đội trưởng một đội sản xuất của Hợp tác xã, lại được đưa đi bồi dưỡng về thuỷ lợi, nắm cả công tác thanh niên, viết giỏi, vẽ đẹp, gọi A lô hay như đài, là niềm ngưỡng vọng của con gái cả làng trên xóm dưới. Oai phong lắm. Chả phải đùa. Thế mà lại bị con mẹ Hàn từ chối. Nhưng cậu Thành bảo với mẹ Hàn thế này: Đời tôi có hai lỗi lớn, thứ nhất là tố bố, thứ hai là không trả nghĩa được cho cô. Với hai lỗi ấy tôi là người bất nhân, bất nghĩa. Làm người mà phi nhân nghĩa thì bỏ đi cho xong. Cô không lấy tôi thì tôi xin ra núi Ngựa trực chiến phòng không cho bom Mĩ nó bỏ vào đầu tôi, tan xác là xong. Mẹ Hàn vẫn không chịu đổi ý. Cậu Thành ra trực chiến phòng không ở núi Ngựa thật. Ra hôm trước thì hôm sau bom bỏ sát trận địa. Cậu Thành bị sức ép, bất tỉnh, phải đưa lên bệnh viện huyện. Mẹ Hàn nghe tin, vội tất tả lên huyện thăm. Khóc như sóng quẫy. Cậu Thành tỉnh thì dứt khóc. Cậu Thành hỏi: Cô có lấy tôi không? Mẹ Hàn bảo: Thì lấy!
Con mẹ Hàn cháu dốt nát nhưng được nết thương người, lại chịu khổ tốt. Cái thương người của mẹ Hàn là cái thương của con cua cắp con cáy bò qua sa mạc tìm nước. Hoa không bao giờ nở trong mắt mẹ Hàn nhưng nước mắt của người đời lại dễ nhuộm ướt phần hồn cằn cỗi, thô ráp của người đàn bà sống sót sau trận đói thảm khốc năm xưa. Cậu Thành thì lại không chịu được khổ. Sau khi mẹ Hàn đẻ thằng Dương, cậu Thành phát bệnh, một thứ bệnh kinh hoàng thời ấy - bệnh trĩ. Là bệnh gì á? Bệnh về hậu môn ấy mà, ở chỗ lỗ đít ấy. Cứ mỗi khi tiêu hoá hay làm việc nặng là chỗ ấy nó lại tòi ra một búi ruột già. Đau đớn, khó chịu lắm. Không ngồi, không cúi được lâu. Ăn phải chất xơ cứng thì lúc đi ngoài rõ khổ. Mà thời ấy thức ăn lại toàn ở dạng hạt và củ. Đòn giáng của bệnh tật chưa làm cậu Thành chết được. Phải thêm một đòn giáng khắc nghiệt nữa của số phận thì cậu Thành mới quị hẳn. Là gì ư? Là sự hiểu lầm ấy mà. Lúc bấy giờ bom Mĩ nó bỏ nhiều lắm. Khu trường bắn hồi ấy là kho vũ khí, khí tài của bộ đội, có cả tên lửa giấu trong đó nữa. Vì thế xung quanh trường bắn người ta bố trí tới bốn, năm ụ pháo cao xạ. Không hiểu sao trong một thời gian ngắn bom Mĩ lại cứ trút xuống khu vực đó. Lúc đầu pháo ta bắn trả oách lắm, khí thế hừng hực. Dân làng đổ xô đi xem xác máy bay và săn lùng giặc lái. Nhưng có ngày chúng đánh liên tục tới 10 giờ liền. Có vẻ như Mĩ nó biết kho vũ khí của ta nên quyết tâm đánh phá bằng được. Hai ụ pháo phòng không liên tục bị bom dội trúng, cả bộ đội và dân quân chết tới hơn chục người. Thế là trên về điều tra. Trên bảo có gián điệp chỉ điểm cho máy bay Mĩ đánh vào vùng này. Lập tức các ụ pháo phòng không được thay đổi vị trí. Một số dân quân trực chiến được đưa vào dạng tình nghi. Hàng rào bảo mật trận địa phòng không được thiết lập, không ai được ra vào nếu không được phép. Chả ra gì cho cái cậu Thành, tự nhiên có tin đồn cậu Thành có liên hệ với người nhà ở trong Nam. Thì quả thực là cũng có một cái thư của bà hai gửi cho ông nội cháu. Nhưng thư về đến tay cậu Thành thì nó đã mốc lên vì nằm ở trong ngăn tủ hồ sơ mật của xã tới 8 năm 9 tháng. Tiếng đồn từ vô ý chuyển thành hữu ý. Chắc là tên gián điệp chỉ điểm cho máy bay Mĩ bắn phá trận địa của ta đây? Lại còn tạo ra chuyện bị sức ép của bom Mĩ để làm vỏ bọc che chắn nữa kia. Cáo già thật. Thế là cậu Thành đi đến đâu cũng gặp những ánh mắt có gai. Tổ chức không đả động gì cả nhưng thái độ thì cũng có khang khác. Đảng bộ xã xin ý kiến của trên thì nhận được trả lời: Đang xác minh! Cậu Thành không bị tước chức, bớt quyền nhưng chẳng được giao việc gì cụ thể cả. Sinh mệnh chính trị của cậu Thành đang khoẻ khoắn thế bỗng dưng như bị cúm, rúm ró, thảm hại quá chừng. Bệnh trĩ do bị bom ép cứ ngày một hành hạ cậu Thành. Những mạch máu lúc nào cũng căng phồng lên ở búi trĩ liên tục vỡ ra. Mẹ Hàn nghe ai nói cây xương rồng nước lợ có thể kéo thành ruột lên được, cất công đi gánh thúng lớn thúng bé về nhà sắc cho cậu Thành uống. Cái ăn không có cứ nước xương rồng uống mãi, cậu Thành tọp đi trông thấy. Đến khi trên báo về là đã bắt được tên gián điệp Mĩ rồi thì cậu Thành phấn khởi quá, ngồi dậy uống ba bát nước xương rồng liền rồi chạy một mạch lên xã bắt tay từng người một. Đêm ấy cậu Thành chết. Chết thanh thản, nhẹ nhõm lắm dù rất đau đớn về thể xác. Đôi mắt cậu khép hờ như ngủ, môi cậu tươi, vương lại một nét cười phơ phất. Mẹ Hàn bụng mang dạ chửa đưa cậu Thành ra đồng trong một chiều xuân mưa rây, cây cỏ đang bắt đầu xanh lại sau một mùa đông u ám. Qua hạ thì mẹ Hàn đẻ rơi cháu ở gốc cây bạch đàn giữa lúc đang gặt dở thửa ruộng khai hoang bên chân núi. Cháu có được sức dẻo dai của mẹ, sự sáng dạ của cậu Thành, chỉ khác anh Dương cháu một điểm, đó là sự nhạy cảm. Nhạy cảm quá thường dẫn đến những hành động cực đoan. Ta không muốn cháu bị mê hoặc bởi những cung bậc của dòng chảy này nhưng lại tìm thấy ở cháu sự tâm giao.Ta những muốn rót vào phần hồn đơn điệu và tẻ nhạt của anh Dương cháu chút rượu hồng chưng cất từ men văn hoá ngàn năm của làng nhưng cơ thể nó không chứa nổi. Ngược lại cháu nhận về mình tất cả. Hoặc sẽ là một kẻ mềm yếu, từ bi đến mức không làm nổi được việc gì, hoặc sẽ trở thành chú ngựa hoang có phần hồn nhàu nát, tổn thương, hoặc sẽ thăng hoa như loài chim chỉ quen vẫy cánh dưới mặt trời và tìm nơi trú ngụ trên đỉnh núi, kết quả của sự nhạy cảm quá mức thường là như thế. Ta buông mình quá lâu trên dòng chảy này nên hiểu được sự lên xuống, nổi trôi của dòng đời. Ta tiếc cho thằng Dương và lo cho cháu. Ta hiểu cháu vì ta đã từng hiểu rất rõ về cậu Thành và mẹ Hàn. Ta luôn đứng ở tâm bão nên xung quanh dù có bị quăng quật xác xơ thì ta vẫn vô sự. Ta bình an bởi ta biết đường thoái của mình dù phải đánh đổi mọi thứ phù vân. Sự khổ đau và nỗi thất vọng thường làm biến đổi con người ta. Ta cũng bị thời cuộc và biến cố phẫu thuật nhưng ta sống dựa vào quy luật của dòng chảy. Nguyệt cầm và những lời hát văn là giá đỡ của cuộc đời ta. Ta cũng có những người bạn để xẻ chia, kể cả bạn vong niên như cháu. Tiễn cháu lên Hà Nội học ta lại tặng cháu khúc nhạc lòng quen thuộc này mà thôi. Ta đã nhìn thấy sự hết ở ta và sự tiếp nối từ người khác. Cháu hãy đi sao cho chân cứng đá mềm, một ngày nào đó, trên đường đời rất dài rất rộng của cháu, thấy hiu hiu lá rụng thì lại nhớ đến ta, đến khúc hát của người lái đò già. Ta là quá khứ của cháu. Dù muốn dù không cũng sẽ vẫn là như thế.
...Chỉ còn lại một ngư ông bên núi, gác mái chèo ngửa mặt đón hư vô, con thuyền trĩu những nỗi niềm nhân thế, biết về đâu giữa bát quái trận đồ.Những trái núi đặt bên ô cửa, nghe lòng mình tiếng gọi của xa xăm, nước không chảy cho con thuyền cập bến, đáy sông kia muôn thủa sỏi vẫn nằm...
Đêm trên dòng sông giữa khoang đò chật hẹp ấy còn bềnh bồng, bềnh bồng trôi mãi trong giấc ngủ đầu tiên nơi ký túc xá của chàng sinh viên Phạm Bạch Đàn. Bạch Đàn đã đỗ đại học với số điểm khá cao, được đặc cách vào khoa triết. Đàn ngơ ngẩn hỏi người giáo vụ: Khoa triết là khoa gì? Người đàn ông gầy gò trong chiếc áo kẻ ca rô màu xám nhạt ngẩng đầu lên giảng giải: Là khoa quan trọng nhất của các khoa, là khoa học của mọi khoa học, là chìa khoá mở cánh cửa lớn để đi vào thế giới này trước khi mở từng cánh cửa nhỏ. Rồi người cán bộ giáo vụ bảo: Tóm lại, học triết ra là để làm lãnh đạo và rất dễ được đi Liên Xô.
Nhưng những giấc mơ bồng bềnh không còn đến với Đàn vào đêm hôm sau nữa. Ma cũ mò đến bắt nạt ma mới, không khí phòng ở ngột ngạt, những đôi mắt âu lo, thắc thỏm khi đêm xuống làm căn phòng như được nén căng, chỉ chờ bục vỡ. Những lời thì thào truyền đi, từng lúc từng lúc, len lỏi, gặm nhấm, ức chế tinh thần đám sinh viên năm thứ nhất vốn rất mỏng manh chí khí xô xát. Đã biết Hùng ve, Tiến sẹo chưa? Đã biết Phương lé, Hải cẩu chưa? Hùng ve học khoa lý năm thứ ba, một mình tả xung hữu đột với bọn đầu gấu ngoài trường, nhận tám mũi khâu trên mặt vẫn chưa là cái đinh gỉ gì, đêm nằm lúc nào cũng thủ sẵn cây kiếm dài mét rưỡi dưới gối. Hải cẩu học khoa sử, từng "hạ phóng" hai năm về quê vì dính vụ chém xượt tai Phương lé. Phương lé phá kỷ lục yêu thầy mến trường, ở lại làm "cán bộ khung" cho khoa hoá tới chín năm vẫn không tốt nghiệp được. Tiến sẹo nổi tiếng với màn tỏ tình bằng cách chặt ngón tay út. Bây giờ cô người yêu Tiến ra trường rồi nhưng vẫn đều đặn hàng tuần vào thăm Tiến. Cứ thế lý lịch của các anh hùng hảo hán khoá trước truyền qua lỗ tai những nam sinh mới nhập trường gây cho họ một mối lo sợ phấp phỏng, cảm giác bất an luôn làm cho họ rúm người lại, chỉ mau mau lên giảng đường rồi xuống thư viện, càng tránh va chạm càng tốt. Đàn cũng nằm trong số những chú cừu non tránh voi chẳng xấu mặt nào ấy. Nhưng lối đi thì hẹp, lại chẳng nhiều, ngả nào cũng có voi đứng chặn cả rồi. Trong nhà ăn mắt mũi cứ nháo nhác sẽ bị coi là nhìn đểu. Ra bể nước vô ý bắn nước vào các đại ca bị coi là xúc phạm nghiêm trọng đối với người khác. Lên thư viện nhiều quá là hành vi bất lịch sự vì làm người khác mất chỗ ngồi. Lên xuống cầu thang va chạm vào người khác là hành vi gây sự. Vào tán tỉnh hoa khôi của khoá là muốn đấu súng với đàn anh. Tất nhiên vào ban ngày thì mọi sự dường như đều được giấu diếm trong sự bình yên giả tạo. Chỉ khi nào đêm xuống ân oán mới được lôi ra giải quyết. Xin đểu, phạt đểu là hình thức phổ biến mà các đại ca hay đem ra áp dụng. Xin có vô vàn kiểu xin, xin quần áo, giầy dép, xin cây đàn ghi ta, xin chiếc kính cũ nhưng hay hay, xin mũ, xin bút, xin cả tình và tiền nữa. Phạt cũng có muôn ngàn kiểu phạt, phạt thuốc, phạt trà, phạt tiền, phạt đồng hồ, phạt rượu, phạt quỳ, phạt lạy, phạt yêu, phạt tắm, phạt đấm đá và chui qua háng nữa. Trạng thái tâm lý đầu tiên xảy đến với Đàn là uất ức. Càng nghĩ, càng lý giải càng thấy ức. Tại sao đều là những trí thức cả lại có những việc làm vô liêm sỉ như thế? Tại sao càng học nhiều, càng ở môi trường sinh viên nhiều lại càng sa đoạ, rách nát nhân cách như thế? Tại sao những Hải cẩu, Tiến sẹo, Phương lé đều một thời là những học sinh giỏi đến khi vào đại học lại trở nên lưu manh hoá như thế? Tại sao Nhà trường và Ban quản lý ký túc xá lại không thẳng tay can thiệp để tạo ra một môi trường sống cho sinh viên thực sự trong lành? Tại sao những nam sinh mang trong mình dòng máu kẻ sĩ, trí tuệ bừng nở, sức khoẻ đang vào độ dồi dào kia lại hèn yếu, nhu nhược, khoanh tay trước một vài cá nhân yêng hùng trổ mã nhưng thực chất là tha hoá, trì trệ, xấu xa và đê hèn đến thế? Cùng với thời gian Đàn cũng trả lời được từng câu hỏi một. Trước hết là việc loại bỏ những đại ca, đầu gấu ở trong trường không đơn giản như Đàn nghĩ. Việc kỷ luật buộc thôi học một sinh viên phải do Hội đồng kỷ luật của nhà trường xem xét trên cơ sở những chứng lý đầy đủ và cụ thể. Mà kỷ luật thì có rất nhiều hình thức: Cảnh cáo, khiển trách, tạm đình chỉ học tập, nặng lắm thì mới buộc thôi học. Còn nếu những vi phạm đã trở thành tội phạm rồi thì đó lại là phần việc của các chú công an. Nhưng sinh viên chủ yếu chỉ vi phạm nhỏ lẻ, vì không muốn ảnh hưởng đến việc học tập nên không ai muốn thưa kiện lên nhà trường làm gì, kết quả dù thế nào cũng không dứt được thù oán, thà nhắm mắt cho qua, học xong vài năm rồi biến, chả tốt hơn sao? Cho mọi sự là đơn giản thì nó đơn giản. Có lẽ nên nghĩ như thế thì hơn, nhưng Đàn lại không quen với cách nghĩ ấy. Đàn cứ thấy ngôi trường đại học là một thánh đường thiêng liêng, ở đấy không thể có những kẻ lưu manh, côn đồ. Đàn không thể đơn giản hoá vấn đề đi được vì thực sự Đàn thấy nó phức tạp và cần phải được giải quyết triệt để. Và việc làm đầu tiên của Đàn nhằm tiêu diệt đàn voi dữ ở ký túc xá là làm đơn gửi lên nhà trường, chỉ mặt, vạch tên từng người một với cụ thể những việc chúng làm. Ngay lập tức nhà trường cử một đoàn kiểm tra xuống gồm đại diện Ban giám hiệu, Phòng giáo vụ, Phòng quản lý học sinh, sinh viên, Ban quản lý ký túc xá, Đoàn thanh niên, Đội xung kích để thẩm tra, thu thập bằng chứng giúp Hội đồng kỷ luật nhà trường nghiêm trị những sinh viên cá biệt. Buổi họp Hội đồng kỷ luật nhà trường đầu tiên mà Đàn tham dự với tư cách là bên nguyên, thậm chí hơn thế, như một công tố viên, đã thất bại thảm hại. Những con voi dữ ở trường Đàn có quá nhiều kinh nghiệm để đối phó với những buổi họp như thế này. Phạt vạ ở quán nước hôm thứ sáu tuần trước ư? Không, hôm ấy bạn A mời chúng em ra đấy ngồi chơi vui với nhau đấy chứ. Anh em mời nhau chén nước điếu thuốc là chuyện bình thường, có vấn đề gì đâu ạ. Không tin các thầy cứ hỏi A xem. Xin đểu đôi giầy của B ở phòng 104 ấy ạ? Đâu có, hôm ấy chúng em tổ chức sinh nhật, em mượn của B hẳn hoi, rồi bận đi thực tập nên chưa trả được, tối hôm qua em mang sang gửi B rồi, anh em rất vui vẻ, các thầy cứ hỏi B xem có đúng thế không ạ? Vâng, vâng, cái chuyện đánh C ở nhà ăn hôm chủ nhật vừa rồi là có thật. Nhưng không phải vì nhìn đểu nhìn điếc gì đâu ạ. Chẳng qua đi học về muộn, tất cả đều đói nên chen lấn nhau vào lấy cơm. Em nghĩ mình học trước mấy khoá, là đàn anh nên dù sao cũng cần được tôn trọng tí chút. C hôm ấy hơi xâng xấc, đến sau lại đòi chen ngang lấy trước nên em nóng, tát C một cái, đúng một cái thôi ạ. Chiều hôm qua em đã gặp C xin lỗi rồi ạ. Anh em có gì bỏ qua cho nhau, cần gì phải làm phiền đến các thầy như thế này đâu ạ.
Lần đầu tiên Đàn hiểu được cái lưỡi của con người ta làm được nhiều điều ngoài sức tưởng tượng như thế nào. Những A, những B, những C được mời lên ngồi cả đấy, nhưng chả ai nói được gì ngoài việc xác nhận tính chân thực của những lời bào chữa từ đám bị cáo đã quá dạn dày với những kiểu họp Hội đồng như thế này. Giữa cuộc họp tình người như được hâm nóng, mọi sai phạm vụt trở thành những điều vụn vặt chẳng đáng phải đem ra xem xét. Mà cố ép vào hình thức cảnh cáo hay khiển trách cũng thấy nó thế nào ấy, chả ra làm sao cả. Thôi thì thay mặt Ban giám hiệu, thay mặt Hội đồng kỷ luật mong các em đoàn kết thân ái với nhau, cố gắng giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong học tập. Các anh khoá trên trong quan hệ với các em khoá dưới cũng nên rõ ràng, minh bạch, tránh hiểu lầm. Chấm hết. Tan họp.
Những lần tham gia họp Hội đồng kỷ luật sau này Đàn còn vỡ lẽ ra nhiều điều nữa mà những chàng Đônkihôtê mới vào trường như Đàn không hiểu được. Những kẻ bị đem ra kỷ luật quỉ biện đã đành, đứng sau họ lại còn cả tập thể lớp với đại diện là lớp trưởng, bí thư, rồi giáo viên phụ trách, rồi đại diện khoa, mỗi người đều ra sức bênh vực cho người của lớp mình, khoa mình. Bài học duy lý sâu sắc nhất mà Đàn học được chính là ở những buổi họp tập thể kiểu này. Phi chứng lý bất tội trạng. Lời nói lại dập lời nói, người phán quyết thường ngự trên đỉnh chóp quan liêu, cho nên kết cục chỉ là tát nước bằng tay, mệt người mà chẳng tích sự gì. Với riêng Đàn, kết cục chưa phải đã dừng lại ở đấy. Ân oán bao giờ cũng được giải quyết về đêm.
Và chỉ ngay đêm hôm sau thôi.
Đàn đang mơ thấy mình ngồi trong con đò của ông lão Thảnh nghe khúc hát văn với bồng bềnh sóng nước thì bỗng nhiên con đò lắc mạnh. Đàn tối tăm mặt mũi, đầu óc choáng váng, cảm giác đau thốc, buốt nhói ào đến, lan ra toàn thân, găm nhức, tê điếng. Đàn hét lên ú ớ. Cả phòng bật dậy. Bốp. Chát. Hứ... hự! Đây chỉ là đòn cảnh cáo thôi, mày sẽ phải trả giá! Câu nói đó được ném lại nhanh như gió nhưng quẩn mãi bên tai Đàn. Điện được bật sáng. Đàn co quắp, bó tròn trong đống chăn màn bùng nhùng. Với tư thế như thế kia Đàn hoàn toàn thụ động khi bị tấn công, cách tự vệ hiệu quả nhất là đưa hai tay lên ôm chặt lấy vùng đầu. Lên báo cáo với Đội xung kích Đàn nhé? Hay báo Ban quản lý ký túc xá? Những thằng bạn cùng phòng nhao nhao lên chia xẻ với Đàn bằng cách đó. Đàn bảo: Thôi, chúng mày đứa nào có cao cho tao xin một ít rồi đóng chặt cửa lại ngủ tiếp đi. Hai ba vệt gậy vụt hằn lên, đỏ rực ở mạng sườn, đùi và cánh tay Đàn. Môi hơi sưng vì bị đấm, ngực nhói đau bởi cú đạp thật lực trước khi đòn "hội đồng" chấm dứt. Dù sao bọn chúng cũng còn chừa cái đầu của Đàn, không trút xuống đó vài ba cú gậy thù. Những đêm tiếp theo cửa phòng Đàn được buộc chặt. Nhưng phòng ở tập thể, người ra kẻ vào không biết đâu mà kiểm soát, nếu hôm nào người ngủ sau cùng lỡ về muộn một tí là cả phòng phấp phỏng lo âu. Căng thẳng nhất vẫn là Đàn. Lúc nào cũng có cảm giác bị rình rập, bị trả thù. Đàn nghĩ đến cách tự vệ nhưng chẳng lẽ lúc nào cũng giắt một cây côn ở trong người? Vẫn biết cách tự vệ tốt nhất là chủ động tấn công. Nhưng tấn công phải trên cơ sở danh chính ngôn thuận, nếu không khi đưa ra trước Hội đồng kỷ luật Đàn cũng lại được xếp vào cùng một rọ với bọn chúng mà thôi. Đàn viết đơn tình nguyện xin vào Đội thanh niên xung kích của nhà trường. Đàn được phát một chiếc băng đỏ đeo ở cẳng tay và một chiếc dùi cui cũ bằng gỗ, tróc sơn, nham nhở. Đội trưởng xung kích từ khi có Đàn như rồng thêm vây, như chim thêm cánh, tích cực lùng sục, hạch hỏi, trấn áp những sinh viên thích chơi trò bạo lực. Thì ra đội trưởng cũng phải nín nhịn những con voi giấy này từ lâu lắm rồi. Chỉ vì thiếu những đội viên có dũng khí, có bản lĩnh nên lực lương xung kích chưa đủ sức để trị lũ đại ca học đường. Đàn về với đội trưởng, khoác băng đỏ được hơn tháng, tiếng tăm đã nổi khắp ký túc. Đống biên bản lưu cữu ở Đội xung kích hàng mấy năm liền chẳng mấy chốc đã hết veo. Biên bản được lập với tất cả những sinh viên nào vi phạm nội qui ký túc xá. Đánh bạc, uống rượu say, chơi quá giờ qui định, gây rối, quan hệ nam nữ không lành mạnh, dùng bếp dầu, ri đô, để xe sai nơi qui định...tất tần tật, thanh niên xung kích lập biên bản đưa lên Ban giám hiệu xử lý. Đàn đã tạo ra được cho mình một cái thế mới. Và dù có sứt đầu mẻ trán thì Đàn cũng vẫn không sợ vì Đàn làm việc nhân danh lẽ phải, nhân danh tổ chức, nhân danh nội qui nhà trường. Đàn rình rập bắt Phương lé đi chơi về muộn giữa lúc Phương đang loay hoay trèo cổng vào ký túc xá. Đàn rút dùi cui phang túi bụi vào đầu Hải cẩu khi hắn dám gây rối ở khu B1. Đàn tổ chức khám phòng ở thu cây kiếm dài mét rưỡi của Hùng ve ngay giữa ban ngày, trước con mắt của hàng trăm sinh viên ở dãy nhà B2. Đàn cùng với đội trưởng xốc lại lực lượng xung kích của nhà trường khiến nó ngày một mạnh hơn, liều hơn, tích cực hơn, say việc hơn. Cái thế của Đàn là thế núi, thế rừng, voi phải tránh, hổ phải phục. Đó cũng là cách tự vệ tốt nhất để không còn kẻ nào dám động đến Đàn.
Nhưng ở đời cái gì cũng có hai mặt. Say một cái gì đó quá thì cũng không tốt. Đàn say quyền dù đó chỉ là thứ quyền lực của một anh đội phó Đội thanh niên xung kích, quyền năng không vượt quá mười điều qui định của Nội qui ký túc xá. Mục đích ban đầu của Đàn là trấn áp lũ Phương lé, Hải cẩu, đến khi đạt được rồi thì Đàn lại quay sang cần mẫn đi làm cái việc phạt các đôi lứa tình tự trong ri đô, phạt đốt bếp dầu và để xe đạp không đúng nơi qui định. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ của một đội viên xung kích Đàn dần quen với cách vung dùi cui để xử lý mọi tình huống. Đàn sa vào tự phụ. Không biết tự bao giờ Đàn thích được chào hỏi, được ghi nhận công trạng, được chiêu đãi dù chỉ là một chiếc bánh gai hay chén nước trà. Đôi khi bí lên Đàn cũng hỏi vay tiền người này, mượn áo người nọ. Đàn không cần biết những kẻ cho Đàn vay tiền hay mượn áo đó là do nể Đàn, quí Đàn hay sợ Đàn. Có những lúc Đàn đã dẫm vào vết chân đi trước của lũ voi độc mà Đàn từng xua đuổi. Cũng là xin đểu, phạt đểu cả thôi, các nam sinh khoá mới cũng có những người ưa quan trọng hoá vấn đề, đã lập luận thế. Và ở cuộc họp Hội đồng kỷ luật của nhà trường được mở vào năm sau, trong số những lá đơn gửi đến cũng có một lá tố cáo Đàn đã lợi dụng danh nghĩa Thanh niên xung kích để xin đểu tiền của một sinh viên cùng quê. Đàn ngã ngửa người, biện hộ một cách vấp váp, rời rạc, vừa cáu người, thương mình vừa bực người lại vừa giận cả mình. Thà đừng nhận đồng hương cho xong. Mà cậu ấy lại có vẻ con nhà khá giả. Cậu ta mời Đàn ra quán uống nước, thấy cậu ta móc ra nhiều tiền quá, Đàn bảo:- Anh còn nợ quán này mười bốn đồng, chú cho anh vay trả luôn cho họ, coi như anh giữ tiền hộ chú, ít ngày nữa rồi anh trả chú sau.
Cũng tưởng là tình đồng hương thân thiết thế này thì có thể làm anh em với nhau được. Mà cậu ấy trông hiền lành, thỏ thẻ như con gái, Đàn có ý quí mến cậu ấy thực sự mới bỗ bã hỏi vay chứ ai ngờ đâu mình nghĩ thế nhưng người ta lại không nghĩ thế. Đàn muối mặt bộc bạch hết sự thể cho Hội đồng nghe nhưng nghe thì nghe vậy còn đằng sau những nét đăm chiêu của từng vị uỷ viên Hội đồng kia họ nghĩ gì thì có trời mới biết được. Kết luận sau cùng của cuộc họp là Đàn phải cởi băng đỏ ở cẳng tay ra, bàn giao lại cùng với dùi cui cho người khác, hạ một bậc hạnh kiểm, trừ đi không phảy hai điểm trung bình trung. Người đầu tiên đến "chia buồn" với Đàn khi hay tin ấylà thằng Bằng cùng phòng. Nó bảo:
- Trả mũ áo cho triều đình rồi hả? Đây có lời thành thật chia buồn nhá.
Đàn nhìn thẳng vào mắt nó hỏi:
- Mồm mày nói chia buồn mà sao mặt mày cứ tươi hơn hớn thế?
Thằng Bằng nhún vai:
-Thì phải tiêu hoá nỗi buồn ngay chứ. Tao đã bảo mày rồi, cứ thích vác tù và hàng tổng làm gì. Tao còn nghi ngờ về việc mày học triết nữa kia. Mày không có dáng làm đày tớ của nhân dân đâu.
Nói xong thằng Bằng xoa xoa chân, ngửa người quay mặt vào tường đưa tay ấn chiếc cát xét cả dãy ký túc chỉ duy nhất nó có. Băng nhạc vàng quay đi quay lại đến cả ngàn lần lại ri rỉ ri rỉ mấy giọng hát hải ngoại, gieo vào lòng Đàn nỗi chán ngán. Đàn chả ưa gì thằng Bằng. Nó là một thằng rất khó chơi. Bố nó làm phó bí thư tỉnh uỷ một tỉnh miền duyên hải nên nó là đứa sung túc nhất phòng. Nó nghiện mực nướng. Người nó lúc nào cũng bốc ra cái mùi tanh nồng biển cả ấy. Nó có thể nhai mực bất kỳ chỗ nào. Trong túi quần nó lúc nào cũng có vài mảnh mực khô.
Thằng Bằng từng ủng hộ Đàn nhất mực trong việc dẹp lũ Phương lé, Hải cẩu nhưng lại căm Đàn thấu xương vì chuyện Đàn cứ thích chõ mắt vào sau tấm màn ri đô của chị em. Giải quyết những mụn trứng cá tầng tầng lớp lớp trên mặt là việc làm quan trọng hơn hết thảy, kể cả việc lên giảng đường ghi ghi chép chép để sau này ra trường về quê nối nghề của bố. Cách giải quyết mụn trứng cá của thằng Bằng là hàng đêm lần mò chui rúc vào sau tấm màn ri đô xanh, đỏ bên dãy nữ sinh. Nó vật lộn con người ta phờ phạc ra rồi về phòng thản nhiên kể lại một cách rất hào hứng. Bằng không đẹp trai nhưng lại có quá nhiều kinh nghiệm trong việc phỉnh phờ phụ nữ để làm cái việc đưa ra khỏi người thứ trùng trắng bất trị. Bằng rủng rỉnh tiền bạc, lại có cái ô to đùng ở trường, nên sức hút đối với chị em rất mạnh, đáng để các nam sinh cùng khoá phải ghen tỵ. Sự ham hố da thịt đàn bà ở Bằng là vô độ nên thân xác lúc nào cũng lẻo khoẻo, ngồi đâu ngủ gật đấy, nhưng hễ choàng mở mắt ra là phóng những tia cú vọ về tứ phía được ngay. Bằng bị những kẻ xu nịnh bố làm hỏng từ sớm nên trong hòm lúc nào cũng có những tập ảnh phô bày những thứ người ta cần che đậy. Bằng mang ra cho cả phòng xem những bức ảnh đó rồi giảng giải về cái sự giao ái của con người một cách say mê, cả bọn cười rú lên với nhau, mắt thằng nào cũng lờ đờ lim dim tha sức tưởng tượng về những vùng miền da thịt, đêm xuống lại thả sức phóng tinh, ú ớ khoái lạc, sáng hôm sau ngượng nghịu dậy sớm đi thay quần. Đàn cũng nằm trong số những kẻ bị mê hoặc bởi những câu chuyện tính dục từ Bằng. Về khả năng thoả mãn bản năng sinh lý thì quả thật Bằng có quyền cười mỉa vào lũ nam sinh đồng môn, những kẻ cũng đầy ứ những dục vọng như Bằng nhưng lại chả dám công khai thừa nhận, lúc nào cũng giấu giấu diếm diếm một cách khổ sở. Tuy nhiên tính dục phải đi liền với văn hoá, tất cả những thanh niên nam nữ thời ấy đều được dạy rằng quan hệ nam nữ bất chính là phi đạo đức, phi pháp, không lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến môi trường sống xung quanh. Vì thế Đàn đã bắt Bằng phải ký vào biên bản bởi những việc Bằng làm sau tấm ri đô trong một lần đi kiểm tra phòng ở của nữ sinh. Bằng thù Đàn từ đấy. Bằng nhìn ra trong cái con người nhà quê của Đàn có rất nhiều điều lố bịch và nực cười. Bằng lại là người có cái lưỡi móc câu, lời nói nào của Bằng bung ra cũng giật lên được một vài mảnh hồn bầm tím của Đàn. Nó hỏi Đàn:
-Quê mày bây giờ đi ăn cỗ có còn húp nước xáo cho no bụng còn thức ăn để dành chia phần cho nhau mang về không?
Đàn bảo:
- Kể ra thì đó cũng là một nét ứng xử văn hoá của những người nghèo. Đáng thương nhưng không đáng khinh.
Thằng Bằng thủng thẳng:
- Tao chả hiểu được cái thứ mày nói ấy nó văn hoá ở chỗ nào, nó chỉ làm tao liên tưởng đến nét sinh hoạt của loài người dưới chế độ thị tộc nguyên thủy mà thôi. Cái thời người ta ăn lông ở lỗ ấy, nói theo cách của mày là cũng đáng thương chứ chả đáng khinh.
Thằng Bằng có khả năng ăn nói đến mức quỷ biện. Trong một buổi xêmina, khi nói về sự phân chia đẳng cấp trong xã hội ấn Độ cổ đại, nó liên hệ một cách rất tài tình như thế này: Con người ta sinh ra không ai bị số phận đóng dấu nô lệ lên mặt cả. Trước tạo hoá con người đều bình đẳng, cái nghèo không phải là điều đáng xấu hổ mà đáng xấu hổ là tư tưởng chấp nhận đói nghèo. Hầu hết các bạn ngồi đây đều có một lý lịch gắn liền với sự nghèo đói, song chúng ta không mặc cảm về điều đó, vì chúng ta ý thức được đói nghèo đẻ ra cách mạng. Chúng ta đi cùng đói nghèo đến khi nào cách mạng thành công thì thôi. Cách mạng thành công thì không còn đói nghèo nữa. Không ai có quyền giàu có khi những người xung quanh mình nghèo đói. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận bình quân nghèo đói chứ không để cho sự giàu có xuất hiện ở một vài lớp người vì như thế sẽ lại sinh ra đẳng cấp. Bình quân nghèo đói cũng là một cuộc cách mạng vì chứng tỏ trong xã hội đã không còn đẳng cấp nữa. Và chẳng bao lâu chúng ta sẽ đạt được bình quân giầu có khi mà của cải dư thừa, xã hội tiến lên cơ giới hoá rồi tự động hoá. Nhưng đó là sau này, còn bây giờ chúng ta chấp nhận nghèo đói và có quyền ngẩng mặt tự hào vì sự nghèo đói của chúng ta hôm nay có sự thay đổi về chất đối với sự nghèo đói trong xã hội cổ đại ấn Độ mấy ngàn năm trước đây. Nói cách khác sự nghèo đói trong xã hội phân chia giai cấp là đói nghèo tự phát, còn đói nghèo trong xã hội ta hiện nay là đói nghèo tự giác. Một dân tộc biết tự giác đói nghèo là một dân tộc biết kết liễu nghèo đói để chuyển sang giàu có.
Đứng trước số đông thằng Bằng biết kích động lòng tự hào đói nghèo và khéo léo ru ngủ những số phận nghèo đói nhưng với riêng Đàn thì nó lại luôn chứng minh cho Đàn thấy đói nghèo sinh ra nhục nhã, hèn kém và ngu dốt. Nó không ưa Đàn nhưng không chịu rời bỏ Đàn. Hình như nó tìm thấy niềm hứng thú trong việc kích động, mạt sát cái thằng nhà quê trong con người Đàn. Nó bảo Đàn: Mày giặt hộ tao toàn bộ đống chăn màn này tao sẽ cho mày cái áo Natô cũ kia. Hoặc: Tao sẽ cho mày một nửa lọ sườn muối nhưng mày phải tẩm quất cho tao ba buổi, mỗi buổi bốn mươi phút. Nó luôn đặt Đàn trước sự lựa chọn khó khăn. Và Đàn thường chấp nhận đánh đổi một chút tự ái để nhận về mình chiếc áo Nato hay lọ sườn rang muối để rồi ấm ức mà không làm gì được. Cũng phải thừa nhận là thằng Bằng sòng phẳng. Nó chỉ muốn Đàn là Đàn và nó là nó. Mà Đàn là Đàn nghĩa là luôn theo sau gót nó về ý nghĩa sống. Nếu đã nhận như thế thì ở khía cạnh này thằng Bằng lại là người tốt nữa kia. Nhưng Đàn cố gắng giãy giụa để không muốn rơi vào sự an bài rất mơ hồ nhưng khắc nghiệt, u uẩn, nhục nhã đó. Và Đàn muốn phá vỡ sự an bài danh phận bằng cách sẽ chứng minh cho Bằng thấy Đàn cũng có những giây phút chớp loé trong cuộc đời chứ chả phải như củ khoai củ sắn cứ ngậm ngùi nằm trong bóng tối dưới gầm giường. Việc làm chớp loé đầu tiên của Đàn là tổ chức sinh nhật. Trước đó hàng tháng Bằng đã xỏ xiên Đàn rồi. Bằng bảo: Mày sinh ở gốc cây bạch đàn nên phía trước cuộc đời mày là màn trời chiếu đất. Năm nay mày có định đốt nến kỷ niệm ngày sinh không hay hưởng đèn giời quen rồi? Thôi thì Đàn nuốt hận, bỏ qua đi có lẽ phía trước cuộc đời dài rộng kia Đàn sẽ còn có dịp thanh toán nợ nần với Bằng nhưng Đàn lại bảo: Có chứ, tao không mọi rợ như mày nghĩ đâu, sinh nhật tao sẽ có rượu chảy, hoa tươi và bánh ga tô. Ba chục bạc chứ mấy, cũng là trả nợ anh em chiến hữu thôi. Ôi, khơraxô, Bằng lập tức đổi giọng, thế thì tao sẽ tặng mày nửa cân mực khô, nhớ nhé!
Nhớ nhé, Đàn nhớ nhưng kiếm đâu ra ba chục bạc bây giờ? Không thể để thằng Bằng cười vào mũi Đàn được. Đàn nghĩ tới hai người có thể giúp được Đàn ba chục bạc lúc này. Đó là anh Dương và thầy Quý.
Đàn vội mượn xe hăm hở đạp tới chỗ hai người.