Nguyễn Ước dịch
13.

Đến ngã tư Đại lộ Tân thế giới và Xa lộ Gallin, chiếc van cà tàng rẽ xuống con đường lộng gió dẫn thẳng ra Sông Volya. Ông chưa từng biết tới con đường này. Đây là con đường hai bên có những cao ốc bỏ phế, một khu đất trống dành để gỗ và những bãi hoang cho người ta vứt phế liệu: máy móc han gỉ, thùng xăng rỗng, rác rưởi mà những kẻ bụi đời qua đêm nơi đây xả từ ngày này sang ngày khác, làm thành từng đống nhỏ tựa như những bông giấy lễ hội rơi rải rác và nay nằm bẩn thỉu khắp mặt đất.

- Tới nơi rồi bố ơi - anh ta nói - Chúng con cắm trại ở đây. Nếu bố đi bộ ra mé sông thì có thể còn bắt kịp chuyến xe buýt vô thành phố.
Ông cám ơn hai người và xuống xe. Trong bóng đêm, lửa đã được nhóm lên trên bãi đất hoang và ông thấy chung quanh đống lửa có nhiêu người ngồi. Một số đang rót rượu từ các chai vodka loại nửa lít ra uống, một số đang nấu cà phê bằng những chiếc lon thiếc đặt trên than hồng. Đằng trước là các khối đá khổng lồ của Cầu Pontatov, chiếc cầu duy nhất người Đức không giật sập nổi trước khi họ rút chạy khỏi thành phố điều tàn này vào cuối cuộc thế chiến vừa qua. Ông tiếp tục bước. Con đường trước mặt ông đèn đường chiếu sáng lờ mờ, hắt lên ánh màu xanh lạnh người. Trên đường, không một bóng xe cộ nhưng khi ông ra tới gần mé sông thì có bạn đồng hành. Một số đang đẩy xe lăn nhỏ, chất các bọc quần áo, dụng cụ nấu ăn và đồ trải nằm ngủ; một số đi bằng những chiếc xe đạp cũ mèm, đeo nặng trĩu bên người những bọc quần áo cũ rách và các bao các bị đầy đồ ve chai đồng nát. Trong số họ có vài gia đình. Đàn ông hầu hết tụ tập thành từng nhóm bôn năm người ngồi uống rượu và cãi lộn. Một số chân bước lờ qườ và cô đơn, đi như đi về phía một trại giam nào đó. Rồi tới các phụ nữ, hầu hết đều già hoặc cằn trước tuổi, cũng ăn nhậu như đàn ông và cũng cãi lộn om sòm không thua kém chút nào.
Lúc này, ông đã xuống hắn bên dưới các khối đá khổng lồ nơi chân cầu. Khi bước vào vùng bóng tối âm u của chúng, ông thấy nhiều ngọn lửa nhỏ, rải rác dọc theo kè đá cao, có người ta đang ngồi hoặc nằm kế tiếp nhau, vài người đã ngủ. Ở đây, có ít trẻ con, bóng dáng như hồn ma, lang thang vất vưởng giữa những người thân thuộc lớn tuổi hơn chúng. Ngay dưới chân cầu, mùi thức ăn bị mửa ra quyện với mùi nước tiểu xông lên nồng nặc. Ông đưa mắt nhìn dòng sông Volya mênh mông, tối đen~ và bên kia vực thẳm mông lung tối đen đó, ông thấy các ngọn đèn ngoại ô Praha xa xa quá triền sông.
Ông tiếp tục đi, qua khỏi gầm cầu. Ông bước theo mép bờ đá và thấy, nằm dọc theo dốc đả sền sệt bùn, sát mé nước và bị sóng nước dơ bẫn vỗ bập bềnh, là một nam một nữ đang làm tình. Ông quay người đi trở lui, nhìn lên vòm cầu bằng đá, nhìn các nhịp cầu và xe cộ đang lướt qua sàn cầu cao bên trên ông. Ông nghĩ mình như thể đang sa xuống thế giới tột cùng phía dưới này, xa lạ với những người trong thế giới bên trên kia. Đằng trước có đỗng lửa nhỏ ai đó nhóm lên cạnh bức tường đá thấp. Ở đó có ba người, đều là đàn ông trạc tuổi ông. Ông đi tới bức tường đá, ngồi xuống bên đông lửa. Chăng ai hỏi han ông.
Đây là mặt bên dưới của xứ sở chúng ta. Tuy vậy, tôi cần nhớ rằng, lúc này sự khốn khổ đã tràn lan hơn những ngày chúng ta mà tưởng tiếc với nỗi hoài cảm giả tạo. Có thể đúng, như người thanh niên mài dao nói, rằng chế độ này bịt miệng chúng ta bằng xúc xích để giữ chúng ta câm lặng. Nhưng thế giới bên kia thì có cái gì, cái thế giới mà Tổng giám mục Henry Krasnoy gọi là tự do? Phải chăng nơi đó, người nghèo sống khá hơn nơi đây.
Ông nghĩ tới những ngày thuở trước. Đó không phải là những ngày tự do. Đó là những ngày xứ sở này bị cai trị do và vì Hoàng thân Rostropov và bạn bè của ông ta. Tôi đã nói với các Giám mục điều đó. Dĩ nhiên chúng ta muốn tự do. Nhưng phương Tây không giúp chúng ta. Phương Tây không bao giờ giúp chúng ta. Chúng ta một mình.
Ông nhìn ra bóng tối của dòng sông. Trong ánh lửa chập chờn hắt lên từ đống lửa nhỏ, ông ngửi ra mùi bánh xe cao su đang cháy. Người ngồi gần ông nhất lấy ra một xấp báo cũ, bắt đầu luồn báo vô người, lèn giữa áo khoác và áo sơ-mi như để cản gió ngăn sương. Làm xong việc đó, người ấy trải mấy tờ giấy báo ra góc tường đá và nằm xuống. Rồi ông ta ngó ông, đưa tay chỉ vào cuộn báo còn thừa. Ông lên tiếng cám ơn, lấy ít tờ luồn vô ngực và bụng mình như người ấy vừa làm, trải vài tờ xuống mặt bờ đá, rồi nằm xuống cạnh đống lửa. Trong mùi hôi của cao su cháy lan theo gió lạnh từ dòng sông thổi tạt lên, ông cầu nguyện và ngủ.