Hồi 24
Trời long đất lở

Cây nụy đao này riêng cán đã dài một thước năm tấc. Thông thường các võ sĩ của đảo Phù Tang đều cầm đao bằng cả hai tay. Đao pháp của họ khác hẳn với Trung Thỗ, so với kiếm pháp lại càng khác xa.
Trong tay A Cát giờ đã có nụy đao, khác nào người thợ rèn cầm bút mà đập sắt, chàng thư sinh lấy búa mà viết chữ. Có cũng chẳng bằng không có còn tốt hơn.
Nhưng chàng vẫn đón lấy cây đao. Dường như chàng đã bị mất hết cả năng lực phán đoán, không còn phán đoán được hành động như vậy có bình thường hay không nữa. Trong thoáng chốc tay chàng chạm vào cán đao thì ánh kiếm như chớp lòe đã xé toạc không gian bay tới. Thanh kiếm dài ba thước bẩy tấc đã đâm vào không môn (khoảng thân thể không được che chở bảo vệ trong khi giao đấu ư ND), cây nụy đao dài tám thước hết cách thi triển! Kiếm quang vừa lóe đã đến yết hầu A Cát. A Cát rung bàn tay một cái, "cách" một tiếng vang lên, cây nụy đao gẫy thành hai đoạn.
Từ chỗ vừa bị đá ném trúng khi nẫy gẫy thành hai đoạn.
Đá ném trúng giữa thân đao. Mũi đao dài hơn ba thước rơi xuống. Vẫn còn mũi đao dài ba thước đột ngột vọt lên.
Mũi kiếm của Cừu Nhị tiên sinh như con rắn độc đâm tới chỉ còn cách yết hầu A Cát chưa đầy ba tấc, nhát kiếm này đâm ra vốn tuyệt đối chuẩn xác và chí mạng thực sự.
Nhỗ đao, ra tay... mỗi một động tác, lão đã tính toán rất chuẩn xác rồi... Có điều lão lại không tính đến chước này.
"Keng" một tiếng, lửa tóe ra, đao đã đánh trúng kiếm, không phải mũi kiếm mà là đầu mũi kiếm! Không ai có thể trong thoáng giây đỡ đòn ngược lên như ánh chớp đâm tới lại đón đúng vào đầu mũi kiếm! Không ai ra tay lại có thể mau lẹ chuẩn xác đến thế! Có thể không phải tuyệt đối không có ai, có thể hãy còn một người! Có nằm mộng Cừu Nhị tiên sinh cũng không thể tưởng tượng ra A Cát lại là người ấy! Đầu mũi kiếm bị chấn dội, Cừu Nhị tiên sinh liền cảm thấy một sự chấn dội kỳ lạ từ thân kiếm truyền sang bàn tay, cánh tay, sang vai... Sau đó lão như cảm thấy có trận gió thoảng qua. Cây đao gẫy trong tay A Cát như đã hóa thành trận gió nhẹ nhàng thỗi lướt qua người lão. Lão nhìn thấy ánh đao, cũng có thể cảm thấy được trận gió này nhưng hoàn toàn không biết làm cách nào để tránh né hay che đỡ.
Khi gió ào tới liệu có ai né tránh khỏi gió? Liệu có ai biết được gió từ đâu thoảng tới?
Tuy vậy lão vẫn chưa tuyệt vọng vì lão biết lão còn một người bạn đang chực hờ ở đằng sau A Cát... Phần lớn người trên giang hồ đều cho là kiếm pháp của Cừu Nhị tiên sinh đáng sợ hơn kiếm pháp của Mao Đại tiên sinh.
Chỉ có Cừu Nhị tiên sinh tự biết cách nhìn nhận đó sai lầm đến ngu xuẩn, đáng buồn cười đến như thế nào và cũng chỉ có lão tự biết nếu Mao Đại tiên sinh muốn lấy mạng lão thì chỉ còn một chiêu đã đủ để làm việc đó rồi.
Đó là một chiêu thực sự trí mạng, đó là kiếm pháp thực sự đáng sợ. Không ai có thể lường được tốc độ, sức mạnh và sự biến hóa của chiêu này chỉ vì chưa có ai được thấy qua.
Lão cùng Mao Đại tiên sinh ra sống vào chết hoạn nạn có nhau trong suốt bao nhiêu năm mà lão cũng chỉ nhìn thấy có một lần.
Lão tin chỉ cần Mao Đại tiên sinh ra tay bằng chiêu này thì dù A Cát có may mắn tránh thoát cũng chẳng còn thừa sức đâu mà làm bị thương người khác.
Lão tin chắc bây giờ Mao Đại tiên sinh nhất định phải ra tay! Cũng trong khoảnh khắc không có gì đo lường chưa đựng được đó lão bỗng nghe có tiếng quát trầm trầm "Dưới đao!" Tiếng quát vang lên, tiếng gió ngừng ngay lập tức, ánh đao cũng đồng thời tiêu tan.
Kiếm của Mao Đại tiên sinh cầm trong tay đã tới sau đầu A Cát.
Khí kiếm lạnh ngắt khác nào băng tuyết ngàn đời không tan chẩy trên đỉnh núi xa xăm tuy ta không sờ tay vào được nhưng vẫn cảm thấy được ý lạnh nhọn sắc như kim châm của nó, khiến cho huyết dịch lẫn cốt tủy ta bị buốt lạnh thấu vào.
Kiếm vốn lạnh sẵn nhưng chỉ có kiếm nằm trong tay cao thủ thực sự mới có thể phát ra khí kiếm buốt lạnh đến như vậy.
Nhát kiếm bay tới bỗng nhiên dừng lại đột ngột chỉ cách mạch máu lớn sau đầu A Cát không đầy nửa tấc.
A Cát không động. Chàng khi động thì như gió núi, khi không động thì như trái núi. Nhưng dù trái núi cũng có khi phải sạt đỗ.
Môi chàng khô nẻ giống như vách đá trên đỉnh núi cao, trơ trơ không lộ một nét biểu hiện gì.
Chẳng lẽ A Cát không biết cây kiếm sau đầu chàng kia chỉ cầm đâm tới một tấc nữa thì máu của chàng sẽ tuôn ra bằng hết?
Chẳng lẽ thật tình chàng không sợ chết?
"Bất kể gã có sợ chết thật hay không, lần này thì gã chết chắc chắn rồi!" Cừu Nhị tiên sinh thở dài sườn sượt, Lão Chủ Lớn cũng thở dài thật dài chỉ còn chờ kiếm của Mao Đại tiên sinh đẩy tới thêm.
Mao Đại tiên sinh đăm đăm nhìn vào mạch máu phập phồng sau cỗ A Cát nhưng ánh mắt lại mang một dáng vẻ rất kỳ dị, dường như đầy dẫy oán độc, lại dường như tràn trề đau khỗ.
Tại sao kiếm của lão lại không đâm vào đi? Lão còn chờ gì nữa?
Cừu Nhị tiên sinh nhịn không được bật nói:
"Lão khỏi phải sợ cho ta!" Đao của A Cát chỉ cách yết hầu của Cừu Nhị tiên sinh chừng một tấc.
"Trong tay ta vẫn còn kiếm cơ mà. Ta còn cầm chắc có thể né được nhát đao này!" Mao Đại tiên sinh vẫn không có phản ứng gì.
Cừu Nhị tiên sinh bảo:
"Cứ coi như ta tránh không thoát thì lão vẫn cứ giết được gã! Người này không chết thì anh em ta chẳng còn đường sống đâu! Chúng ta không thể không mạo hiểm một phen xem sao!" Lão Chủ Lớn nói ngay:
"Đây tuyệt nhiên đừng coi là mạo hiểm, cơ hội của các vị lớn hơn của gã nhiều!" Mao Đại tiên sinh bỗng cười to. Nét cười cũng như ánh mắt của lão thật là kỳ quái.
Khi tiếng cười của lão cất lên cũng là lúc kiếm của lão rút về từ cạnh đầu A Cát đâm vọt đi đâm thẳng vào vai Cừu Nhị tiên sinh.
"Keng" một tiếng. Kiếm trong tay Cừu Nhị tiên sinh rơi xuống, máu đỏ phọt ra, phọt cả lên mặt ông ta.
Mặt Cừu Nhị tiên sinh vừa căm giận vừa kinh ngạc đến méo xệch.
Lão Chủ Lớn cũng nhẩy dựng lên.
Chẳng ai nghĩ được sự biến hóa này, chẳng ai hiểu Mao Đại tiên sinh sao lại làm như vậy?
Có thể chỉ có Mao Đại tiên sinh cùng A Cát biết mà thôi.
Nét mặt A Cát vẫn không lộ một nét tình cảm nào, dường như sự diễn biến này vốn đã nằm trong dự đoán của chàng.
Chỉ riêng trong mắt chàng vẫn ngập tràn đau khỗ thậm chí còn đau khỗ sâu sắc hơn cả ánh mắt của Mao Đại tiên sinh.
Bỗng Mao Đại tiên sinh thở dài bảo:
"Phải chăng chúng ta năm năm rồi không gặp nhau?" Câu này là nói với A Cát. Coi bộ không phải họ chỉ biết nhau mà có khi còn là bạn hữu của nhau nhiều năm.
Mao Đại tiên sinh lại bảo:
"Mấy năm lại đây ngươi sống khá không? Có đau bệnh gì không?" Bạn bè nhiều năm không gặp gỡ bỗng dưng gặp lại dĩ nhiên phải hỏi han nhau, đây là một câu hỏi rất thông thường nhưng câu này từ miệng Mao Đại tiên sinh thốt ra dường như mở miệng mà cũng chẳng quay đầu lại.
Mao Đại tiên sinh bảo:
"Dù sao ta cũng đã nhận ra ngươi, tại sao ngươi vẫn không chịu quay đầu lại để ta nhìn xem ngươi chứ?" A Cát bỗng thở dài bảo:
"Dù sao ngươi đã nhận ra ta thì hà tất phải nhìn xem nữa làm gì?" Mao Đại tiên sinh bảo:
"Thế thì ít ra ngươi cũng nên xem ta biến đỗi ra sao vậy?" Tiếng của lão nói rất nhẹ nhàng nhưng lại như một tiếng thét khản đặc.
Cuối cùng A Cát cũng quay đầu. Vừa quay lại mặt chàng đã biến sắc. Người đứng trước mặt chàng chẳng qua chỉ là một ông già tóc bạc phơ phơ và cũng chẳng có chỗ nào đặc biệt lạ lùng đáng sợ cả. Nhưng nhìn nét biểu hiện trên mặt lão thì so với việc gặp một con quái vật thời hồng hoang ta còn phải giật mình hơn nhiều.
Mao Đại tiên sinh lại cười, tiếng cười càng kỳ quái hơn:
"Ngươi xem có phải ta biến đỗi rất nhiều không?" A Cát dường như định nói gì nhưng lại chẳng có tiếng nào phát ra.
Mao Đại tiên sinh bảo:
"Giá chúng ta ngẫu nhiên gặp nhau giữa đường, chỉ sợ người chẳng nhận được ra." Ông ta chợt quay mặt hỏi Lão Chủ Lớn:
"Có phải ông đang lấy làm lạ là gã nhìn thấy ta tại sao lại giật mình như thế chứ gì?" Lão Chủ Lớn chỉ còn biết gật đầu. Quả thực lão nghĩ không ra quan hệ giữa hai người này là thế nào đây?
Mao Đại tiên sinh lại hỏi:
"Ông xem gã bao nhiêu tuỗi rồi?" Lão Chủ Lớn nhìn A Cát ngần ngừ bảo:
"Hơn hai chục, chưa đến ba mươi" Mao Đại tiên sinh hỏi tiếp:
"Còn tả" Lão Chủ Lớn nhìn ông ta đầu đầy tóc bạc phơ cùng những nét nhăn đầy mặt thì nghĩ thầm trong bụng là nên nói bớt đi ít tuỗi nhưng cũng chớ nên bớt quá nhiều.
Đang nghĩ thì Mao Đại tiên sinh bảo:
"Ông xem tôi có phải khoảng chừng sáu chục không?" Lão Chủ Lớn bảo:
"Thoạt nhìn thì các hạ độ sáu chục, nhưng xem kỹ thì chỉ độ năm ba năm tư thôi!" Mao Đại tiên sinh bỗng dưng cười vang.
Ông ta cười như xưa nay chưa được nghe chuyện gì đáng cười hơn nhưng tiếng cười của ông ta nghe kỹ chẳng có nét cười vui nào thậm chí có mấy phần như tiếng khóc.
Lão Chủ Lớn nhìn Mao Đại tiên sinh rồi lại nhìn A Cát bảo:
"Chẳng lẽ tôi toàn đoán sai ử" Cuối cùng A Cát thở dài bảo:
"Tôi tuỗi Hỗ, năm nay chẵn ba mươi hai" Lão Chủ Lớn bảo:
"Còn ông ấy?" A Cát đáp:
"Ông ta chỉ hơn tôi ba tuỗi" Lão Chủ Lớn giật mình nhìn Mao Đại tiên sinh. Bất kỳ ai cũng không thể nào nhìn nhận con người này mới ba mươi nhăm tuỗi.
"Sao ông ấy mau già đến như vậy?" A Cát đáp:
"Vì cừu hận!" Cừu hận quá sâu sắc cũng chẳng khác gì đau thương quá sâu sắc, cả hai thứ đều khiến người ta đặc biệt dễ dàng già lão suy bại.
Tất nhiên Lão Chủ Lớn hiểu rõ đạo lý này nhưng không nén được mà phải bật hỏi:
"Ông ấy hận gì?" A Cát đáp:
"Ông ấy hận tôi!" Lão Chủ Lớn thở dài hỏi:
"Tại sao ông ấy lại hận ngươi?" A Cát bảo:
"Vì tôi dan díu với vợ chưa cưới của ông ấy!" Mặt chàng lại biến thành hoàn toàn không lộ một tình cảm nào chỉ nhạt nhẽo nói tiếp:
"Lần ấy tôi vốn thành tâm đến chúc mừng nhưng đến đêm thứ hai họ đính hôn thì tôi dẫn vợ chưa cưới của ông ấy đi theo." Lão Chủ Lớn hỏi:
"Và vì ông ấy cũng yêu người ấy chứ gì?" A Cát không trả lời trực tiếp vào câu hỏi ấy mà chỉ lạnh lùng bảo:
"Chỉ vì sau khi dắt nhau đi ăn ở với nhau nửa tháng tôi đã bỏ cô ấy".
Lão Chủ Lớn bảo:
"Sao ngươi lại có thể làm được cái việc như thế?" A Cát đáp:
"Vì tính tôi thích thế" Lão Chủ Lớn hỏi:
"Chỉ cần ngươi thích bất kỳ việc gì ngươi cũng làm ử" A Cát đáp:
"Phải!" Lão Chủ Lớn thở dài sườn sượt bảo:
"Bây giờ thì coi như ta rõ cả rồi!" A Cát hỏi:
"Rõ cái gì?" Lão Chủ Lớn bảo:
"Vừa rồi ông ấy không giết ngươi vì không muốn ngươi chết quá nhanh! Ông ấy muốn để ngươi sống cũng như ông ấ vỏ, cán kiếm đã thúc ngay vào sườn "chú em". "Chú em" định nhao về phía trước thì kiếm của Cừu Nhị cùng Đơn Diệc Phi từ phía trước mặt đã bay thẳng tới. "Chú em" đành phải né sang phải thì đôi bàn tay đẹp như tay phu nhân quý phái đã chực sẵn, mấy ngón tay mềm mại bỗng dựng đứng lên, cả mười đầu ngón tay như mười mũi trủng chủ đã áp tới cỗ họng và giữa đôi lông mày "chú em".
"Chú em" hết đường tránh né, cái chết đã cầm chắc! Nhưng A Cát không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể! Cây kiếm của Liễu Khô Trúc vừa rút ra khỏi vỏ, đột nhiên lão thấy bóng người thoáng qua trước mắt, kiếm trên tay lão đã lọt vào tay người khác. ánh kiếm lại lóe lên và mũi kiếm đã dí sát họng Liễu Khô Trúc.
Nhưng mũi kiếm không thọc vào Liễu Khô Trúc vì mấy ngón tay trủng thủ của lão béo vẫn chưa chọc vào đầu "chú em"! Động tác của từng người đều ngưng lại, cặp mắt của từng người đều đỗ dồn vào mũi kiếm của A Cát. A Cát lại mải nhìn mười ngón tay nhọn sắc như dao kiếm của lão béo mập.
Chỉ giây lát ngắn ngủi ấy tưởng chừng như dài cả năm trường, cuối cùng hòa thượng già thở dài than:
"Tay các hạ nhanh thật!" A Cát lạnh nhạt đáp:
"Tôi cũng biết giết người!" Hòa thượng già bảo:
"Nhưng mà các hạ chịu khỗ lo việc của chúng ta làm gì?" A Cát bảo:
"Vì người này có chút quan hệ với tôi!" Hòa thượng già nhìn "chú em", lại nhìn bàn tay như ngọc của quý phu nhân kia rồi thở dài mà bảo:
"Các hạ muốn cứu người này, sợ rằng khó được đây!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già đáp ngay:
"Vì đôi tay kia kìa!" Hòa thượng chậm rãi nói tiếp:
"Vì đó là đôi tay "Sưu hồn thủ" (bắt hồn) của Phú Quý Thần tiên chuyên "điểm đá hóa vàng, điểm sống thành chết" mà! Nếu các hạ giết Liễu Khô Trúc thì vị thí chủ thiếu niên này chết là chắc chắn!" A Cát bảo:
"Chẳng lẽ các vị không tiếc gì mạng của Liễu Khô Trúc ư, đỗi mạng lấy mạng thì sao?" Hòa thượng già trả lời gọn lỏn:
"Đâu được!" A Cát biến sắc mặt bảo:
"Nó chẳng qua chỉ là một đức trẻ, tại sao các vị cứ nhất định phải dồn nó vào chỗ chết?" Hòa thượng già bỗng nhiên cười nhạt bảo:
"Đức trẻ? Nó chỉ là một đứa trẻ ư? Một đứa trẻ như nó sợ rằng thế gian này chẳng có nhiều đâu!" A Cát bảo:
"Bây giờ nó còn chưa đến mười lăm tuỗi!" Hòa thượng già lạnh lùng bảo:
"Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể để nó sống đến tuỗi mười sáu được!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già hỏi chứ không trả lời:
"Các hạ có biết Thiên Tôn không đã?" A Cát hỏi lại:
"Thiên Tôn?" Hòa thượng già lại thở dài, chậm chạp đọc lên tám câu kệ:
"Trời đất vô tình. Quỷ thần không mắt. Vạn vật bất tài. Dân ngủ chẳng biết. Sống chết bất ngờ. Họa phúc không cửa. Đất trời tăm tối. Chỉ ta đáng tôn!" A Cát hỏi:
"Đó là lời của ai. Khẩu khí lớn lối nhỉ!" Hòa thượng già bảo:
"Đó là câu khấn của Thiên Tôn đọc khi khai môn lập phái. Đến trời đất quỷ thần cũng bị họ chẳng để lọt mắt, huống gì con người! Những gì họ làm, chẳng kể cũng có thể biết được!" Cừu Nhị bảo:
"Thế lực của họ hùng mạnh lắm, không hề kém Hội Rồng Xanh năm xưa đâu! Đáng tiếc là trên giang hồ còn mấy kẻ chẳng tin tà giáo chúng ta đây sẵn sàng liều mạng với họ!" Đơn Diệc Phi bảo:
"Vì thế mà chút oán riêng của mười kiếm khách Giang Nam với Cừu Nhị đã trở nên chẳng đáng kể gì. Chỉ cần tiêu diệt được bọn tà ác này thì dù đầu Đơn mỗ có rơi xuống còn chẳng tiếc, sá gì một chút thù riêng!" Cừu Nhị bảo:
"Bang hội đầy thế lực tàn ác ở đất này chính là một chi nhánh thuộc hạ của Thiên Tôn đấy!" Hòa thượng già bảo:
"Mệnh lệnh của Thiên Tôn đều do thằng bé này thao túng chỉ huy ngầm trong bóng tối. Lão Chủ Lớn với Trúc Diệp Thanh chẳng qua chỉ là con rối trong tay nó mà thôi." Mặt A Cát trắng bệch ra. Với tiếng tăm địa vị của Thập Kiếm Giang Nam dĩ nhiên họ không cố tình làm hại đến một đứa trẻ con. Lời họ, nói thực là chàng không thể không tin.
Lão Hòa thượng bảo:
"Giờ đây chắc chàng cũng đã rõ rồi, vậy chàng có còn muốn cứu gã nữa không?" A Cát bảo:
"Còn" Sắc mặt hòa thượng già cũng thay đỗi.
A Cát không đợi hòa thượng mở miệng, lại hỏi ngay:
"Gã có phải đầu sỏ của Thiên Tôn không?" Hòa thượng già đáp:
"Dĩ nhiên là không phải!" A Cát hỏi:
"Đầu sỏ của Thiên Tôn là ai?" Hòa Thượng già đáp:
"Đầu sỏ của Thiên Tôn gọi là Thiên Tôn" A Cát bảo:
"Nếu có người lấy mạng của hắn đỗi lấy mạng thằng bé này, các vị chịu không?" Hòa thượng già bảo:
"Đương nhiên là chịu, chỉ tiếc là dù chúng tôi chịu, cuộc trao đỗi này nhất định không thành đâu!" A Cát hỏi:
"Tại sao?" Hòa thượng già đáp:
"Vì không ai có thể giết nỗi Thiên Tôn, không có ai là đối thủ của hắn!" Tiếng hòa thượng ngưng bặt, trên mặt lộ một vẻ rất kỳ quái, tựa hồ tâm thần ông ta lúc đó bay bỗng tận nơi đâu, rất lâu sau ông ta mới chậm rãi nói tiếp:
"Có lẽ cũng có một người..." A Cát hỏi:
"Ai vậy?" Hòa thượng già nói:
"Tam..." Ông ta chỉ nói có một từ rồi dừng ngay, thở dài mà bảo:
"Chỉ tiếc người này chẳng còn ở nhân thế nữa, có nói ra cũng bằng thừa." A Cát bảo:
"Thì nhà sư cứ nói ra, có gì trở ngại đâu?" ánh mắt nhà sư già dường như lại bay bỗng tận cõi xa, lẩm bẩm bảo:
"Trên trời dưới đất độc nhất vô nhị chỉ có mỗi người này, độc nhất vô nhị có mỗi cây kiếm này. Chỉ có kiếm pháp của chàng ta mới thật là ngàn đời chẳng có, thiên hạ vô song." A Cát bảo:
"Nhà sư bảo là..." Hòa thượng già nói:
"Ta nói là Tam thiếu gia!" A Cát hỏi:
"Tam thiếu gia nào?" Hòa thượng giả bảo:
"Núi Thúy Vân Phong, hồ Lục Thủy, Tam thiếu gia của Thần Kiếm sơn trang Tạ Hiểu Phong!" Trên trời dưới đất chỉ có một con người như thế. Chàng không chỉ là kiếm khách có một không hai trong thiên hạ mà còn là một vị tài tử. Từ lúc ra đời chàng đã được vinh quang và sủng ái, không có ai sánh bằng. Chàng thông minh anh tuấn, lực lưỡng khỏe mạnh, cho dù người căm giận chàng nhưng cũng không thể không khâm phục. Bất kỳ ai cũng đều biết Tạ Hiểu Phong là một con người như thế, nhưng liệu có ai thật sự thấu hiểu chàng?
Phải chăng không có ai thấu hiểu chàng cũng chẳng sao?! Có một số người sinh ra đời đâu cần phải để cho người khác hiểu, mà cứ như là thần thánh đó thôi! Vì làm gì có ai hiểu được thần thánh, có thế thần thánh mới được người ta lễ bái và và tôn kính.
Trong cõi lòng, trong con mắt người đời, Tạ Hiểu Phong cơ hồ đã tiếp cận với thánh thần. Còn A Cát?
A Cát chẳng qua chỉ là một lãng tử giang hồ lam lũ, là gã A Cát vô dụng! Tạ Hiểu Phong làm sao lại có thể biến thành một con người như A Cát thế này, thế mà giờ đây gã A Cát lại xưng xưng lên bảo:
"Tôi là Tạ Hiểu Phong!" Có thật không?
Hòa thượng già cười, cười vang:
"Ngươi là Tạ Hiểu Phong là Tam thiếu gia nhà họ Tạ?" A Cát bảo:
"Phải!" Chàng không cười. Đây là bí mật của chàng mà cũng là nỗi đau khỗ của chàng.
Chàng dù chết cũng không để lộ, thế mà giờ đây chàng phải nói ra. Vì chàng không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể để "chú em" chết được! Rồi tiếng cười của nhà sư già cũng phải tắt, ông ta lạnh lùng bảo:
"Thế sao trên giang hồ ai ai cũng biết là chàng đã chết?" A Cát đáp:
"Chàng chưa chết!" Mắt chàng tràn ngập đau buồn và khỗ sở:
"Có thể con tim chàng đã chết, còn con người mới hóa thành A Cát?" A Cát chậm rãi gật đầu, mặc nhiên bảo:
"Chỉ đáng tiếc là con tim A Cát vẫn chưa chết, vì vậy Tạ Hiểu Phong không thể nào không sống lại được!" Cừu Nhị đột nhiên bảo:
"Tôi tin chàng ta!" Hòa thượng già hỏi:
"Tại sao tin?" Cừu Nhị đáp:
"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra làm gì có ai buộc Mao Nhất Vân quỳ được?" Liễu Khô Trúc cũng nói:
"Tôi cũng tin!" Hòa thượng già hỏi:
"Tại sao tin?" Liễu Khô Trúc đáp:
"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra tôi không thể nào tưởng tượng là có người chỉ một chiêu mà cướp được kiếm của tôi!" Hòa thượng già hỏi tiếp:
"Còn người?".
Đó là ông ta hỏi "Cao Quý Thần tiên thủ" Thần Tiên thủ không mở miệng nhưng đôi tay đẹp như của bà mệnh phụ của ông ra thõng xuống, những móng tay sắc như lưỡi kiếm cũng nhũn ra. Đó là câu trả lời rõ nhất.
Bàn tay Tạ Hiểu Phong lật lại một cái, cây kiếm trúc khô của Lãnh Khô Trúc đã chui tụt vào vỏ kiếm đeo bên hông ông ta.
"Chú em" cũng quay mình đối diện với Tạ Hiểu Phong, nhìn chàng, trong ánh mắt gã lộ một tình cảm kỳ quái không sao miêu tả nỗi.
Cao Quý Thần Tiên thủ cũng dùng đôi tay cao quý như tay bà mệnh phụ của mình vỗ vỗ vào vai gã bảo:
"Ngươi còn quên một việc đấy nhé! Còn quên cảm ơn cứu mạng của Tam Thiếu gia!" "Chú em" cúi nhẹ đầu, cuối cùng cũng chầm chậm bước tới, chậm chạp quỳ xuống.
Tạ Hiểu Phong nắm chặt lấy tay gã, trên bộ mặt mệt mỏi tiều tụy của chàng dường như rạng rỡ lên.
"Chú em" bỗng ngửng đầu hỏi:
"Ông...ông sao lại cứu tôi?" Tạ Hiểu Phong không đáp mà chỉ cười cười, cười có vẻ vui mà dường như cũng có vẻ buồn. Nhưng nét mặt chàng còn đang đọng nét cười thì tay phải chàng đã bị tóm chặt lấy Mạch môn. Huyệt đạo của chàng đã bị tóm, chàng bị "chú em" dùng "Thất thập nhị tiểu cầm nã thủ" tóm lấy huyệt đạo lợi hại nhất của người cầm kiếm. Đúng trong thoáng chốc đó, Đơn Diệc Phi cũng bay vọt lên đá một chân về phía Tạ Hiểu Phong, chỉ nghe "phạch" một tiếng từ cái chân gỗ của lão đã bật ra một thanh kiếm. Người lão đang tung bay thanh kiếm đã đâm thẳng vào đầu vai Tạ Hiểu Phong.
Đó là thanh kiếm thứ hai của lão.
Đó mới thực sự giúp lão nỗi tiếng là Sát thủ! Tạ Hiểu Phong không né tránh cây kiếm này. Vì trong lúc này chàng còn đang mải nhìn "chú em" ánh mắt của chàng không hề khiếp sợ, giận dữ mà chỉ tràn trề buồn thương, thất vọng và đau khỗ.
Cho tới khi mũi kiếm của Cừu Nhị tiên sinh và Liễu Khô Trúc cũng đâm tới, lại còn thêm cả đôi tay cao quý như của bà mệnh phụ phu nhân, đôi tay Cao Quý Thần tiên "sưu hồn thủ" (tay bắt hồn).
Tạ Hiểu Phong vẫn không động đậy, không né tránh, tuy huyệt Mạch môn tay phải chàng bị tóm chặt nhưng chàng vẫn còn một tay nữa... Sao chàng không động đậy?
Chẳng lẽ vị kiếm khách thiên hạ vô song bị một thằng bé con dùng cầm nã thủ bắt lấy tay mà không rút được tay rả! Kiếm của Cừu Nhị còn nhanh hơn của Liễu Khô Trúc, lão đâm vào gối Tạ Hiểu Phong. Gối trái tuy chẳng phải là chỗ yếu hại nhất của thân người nhưng đủ khiến người ta hết hành động được. Cừu Nhị ra tay chuẩn xác và độc địa vì nếu đã muốn đả thương chỗ yếu hại của Tạ Hiểu Phong thì tuyệt không thể nào sai chạy được.
Bọn họ cũng chưa muốn hại tính mạng của Tạ Hiểu Phong ngay.
Nhát kiếm này Tạ Hiểu Phong cũng không né tránh, mũi kiếm lướt qua, mát tươi vọt lên tận mặt "chú em".
Kiếm của Liễu Khô Trúc cũng nối theo đâm tới... Chợt "chú em" gào lên, buông tay Tạ Hiểu Phong ra, dùng hết sức đẩy chàng ra rồi dùng ngay cánh tay mình chặn mũi kiếm trúc khô, mũi kiếm vừa khéo đâm phập ngay vào khớp xương của gã.
"Ngươi điên à?" Liễu Khô Trúc giận dữ thét lên rút kiếm nhưng rút không ra.
Đơn Diệc Phi lăng không lật mình kiếm trong chân gỗ tụt vào rồi lại bật ra:
chiêu "Yến tử song phi" (Chim yến bay đôi).
Kiếm của Cừu Nhị đâm chếch cứa vào mặt Tạ Hiểu Phong.
Ba cây kiếm ba phương hướng, đều nhanh như điện chớp, độc địa như rắn rết. Chỉ nghe "bùng" một tiếng, trường kiếm của Cừu Nhị bỗng bị một nguồn sức mạnh đẩy chếch lên đâm phập vào chân Đơn Diệc Phi.
Đơn Diệc Phi bị mất trọng tâm, thân hình từ trên không giáng xuống, "rắc rắc" mấy tiếng rồi cánh tay gẫy rời, cây kiếm trong tay chẳng thấy đâu nữa.
Cây kiếm trúc khô thì bị "chú em" mắc chặt, vì con người "chú em" đã bị dính chết vào cây kiếm trúc.
"Sưu hồn thủ" của Cao Quý Thần tiên đã chộp tới họng và hai mắt "chú em". Bỗng đâu ánh kiếm loáng lên mười ngón trên đôi bàn tay mệnh phụ cao quý đã bị chặt cụt, từng ngón từng ngón lả tả rơi xuống, máu tưới ròng ròng đầy đất.
ánh kiếm lại lóe lên, máu tươi lại vọt ra. Liễu Khô Trúc kêu lên thảm thiết ngã vật xuống, thì "chú em" bay ra ngoài cửa.
Không có ai đuỗi theo và ngoài cửa đã có người chặn lại.
Tạ Hiểu Phong đẩy kiếm, cướp kiếm, vung kiếm, chặt ngón tay, đâm người và lật tay đẩy "chú em" ra ngoài cửa thì thân mình đã chặn ở cửa rồi.
Đến giờ thì ai nấy đều biết chàng chính là Tạ Hiểu Phong. Trong tay chàng đang cầm kiếm.
Khi Tam Thiếu gia nhà họ Tạ đã cầm kiếm trong tay, còn kẻ nào dám xốp nỗi manh động?
Cho dù chàng bị thương, dù vết thương của chàng đang rỏ máu nhưng cũng chẳng ai dám nhúc nhích.
Cho đến khi chàng lùi đi rất lâu rồi lão hòa thượng mới thở dài não nuột bảo:
"Quả nhiên là kiếm pháp thiên hạ vô song, quả nhiên là kiếm khách Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song!" Khi nẫy bị đánh ngã vẫn nằm cứng đờ trên mặt đất, bỗng Trúc Diệp Thanh bật dậy nói:
"Kiếm pháp rõ ràng là tuyệt rồi nhưng còn thiên hạ vô song thì chửa vị tất!" Gã từ tốn ngồi dậy, trên mặt lại lộ nét cười cợt.
Hòa thượng già cũng chẳng kinh lạ gì chỉ lườm gã một cái rồi lạnh lùng bảo:
"Kiếm pháp của Diệp tiên sinh thì cũng tuyệt rồi, sao khi nẫy không tuốt kiếm trở dậy cùng chàng ta thử một trận thắng bại?" Trúc Diệp Thanh mỉm cười:
"Tôi so không bằng gã." Hòa thượng già hỏi:
"Ngươi biết ai có thể so bằng chàng tả" Trúc Diệp Thanh bảo:
"ít nhất cũng có một người!" Hòa thượng già hỏi:
"Phu nhân ử" Trúc Diệp Thanh mỉm cười mà không cười, hỏi trở lại:
"Ông đã thấy phu nhân ra tay chưa?" Hòa thượng già bảo:
"Chưa!" Trúc Diệp Thanh bảo:
"Chỉ vì phu nhân có muốn giết người cũng chẳng cần phải tự mình ra tay!" Hòa thượng già:
"Liệu có ai có thể ra tay thay phu nhân, có thể đưa Tạ Hiểu Phong vào chỗ chết?" Trúc Diệp Thanh đáp:
"Yến Thập Tam!"