18.
Ông tơ khéo khiến.

 Khi tới cửa ngõ tôi dừng lại chưa chịu bước vô nhà. Ông kêu người bồi, dặn điều gì nhỏ quá. Tôi nghe không rõ, nhưng thấy người bồi đưa tay ngoắt tôi như ngoắt con bồi chị bếp, bỗng ổng nổi giận sửng-sộ sạt-cà-rây ỏm tỏi:
- Đồ vô phép. mau mau đi dọn chỗ cho tử tế. Rồi mới được mời chị Hai vào. A-lê! Mau lên.
Lúc đó mặt trời đã lặn, bổn thân ông ta nhắc ghế ra sân, mời tôi ngồi và nói dã lã:
- Chị Hai đừng giận. Bồi ngu quá. Bồi cứng đầu nhiều. Vợ bồi tốt. Để tôi đi coi dọn.
Một chập sau thấy anh bồi và một người đàn bà chạy ra, có lẽ là vợ chồng, cả hai dạ bẩm rộn ràng và niềm nở mời tôi còn trọng hơn bà con ruột cách mặt lâu ngày. Thiệt cái thói đời xảo trá mị thường, thấy ghét quá.
Tôi nghe mời, bèn bước theo họ thắng xuống nhà dưới, tuy là nhà bếp nhưng rộng rãi khoảng khoát, giữa gian có lót một bộ ván ba gõ đỏ, trên trải chiếu bông sạch sẽ, mùng lưới tàng ong trắng toanh vén lên bốn phía trông rất khéo léo. Kế bên bộ ván có một bàn bán nguyệt trên có bày bình trà nóng đựng trong vỏ dừa cho trà được ấm lâu và hai cái tách tráng men kiểu Tây để trên hai đĩa nguyên bộ, rõ là đồ vật dụng nhà sang, kế bên đó có một ghế xích-đu kiểu Thonet thứ thiệt và phi người lịch duyệt không sắm nổi các món nầy. Thấy ông nầy hậu đãi tôi bực ấy, không cần đi guốc trong bụng lão, chớ tôi đã biết liền ông ta có ý chi rồi.
Tới bữa cơm tối, ổng dặn bồi món nào cũng sớt hai, dọn riêng nơi bàn bán nguyệt cho tôi dùng và căn dặn con nọ ép tôi ăn cho thật no như ở nhà không khác. Vì tôi đi đường thấm mệt, nên chỉ ăn sơ một món súp phô mát và hai hột gà la cót, xong rồi tôi nhờ bồi gái nhắc ghế xích đu ra thềm hóng mát. Tôi nằm lim dim, gác tay lên trán, suy nghĩ cả canh: Khó thật! Hạ san để lấy chồng kiểm lâm xứ núi nầy à? Không đâu? Xuống Sài Gôn phen nầy là để dọc ngang không biết trên đầu có ai kia chớ? Tuy vậy, quyết lòng ăn trên ngồi trốc, mà trong mình còn thiếu nát hết: nhan sắc trời cho tuy có, mà có cũng bằng không: phải giàu đồ bắc kế thì hùm mới thêm oai! Nhớ lại hồi mình bị chúng mưu sự, đến bị bắt bị lục xì, bỏ vô nhà thương, là tại tiếng Tây đói no chửa sạch, mới ra cớ đỗi! Nghĩ đến đó, mừng thầm. Nhơn dịp làm vậy, nên nán lại đây tu binh mãi mã, trước hết hãy học cho được ba tiếng Tây cho rành, có phi bạc phi đao đỡ mình, sau nữa để đợi chuyện anh Tiều châu kia nguôi ngoai khuây lảng bớt! Nam Mô A Di Đà Phật! Sắc dẫu có tài mà còn non? Cầu, con cầu xin Phật độ cho con đủ vi đủ cánh rồi sẽ hay!
Vừa suy nghĩ tới đó, bỗng thấy ông kiểm lâm nơi nhà trên bước xuống, bộ xơi cơm vừa rồi, ổng mon men lại hỏi:
-- Chị Hai, dọn chỗ ở đỡ như vầy được hay không được?
Tôi vội đáp:
- Ông dọn như vầy tốt quá chừng! Cám ơn ông lắm!
Ông day hỏi tôi ăn cơm có ngon không, vợ bồi có tử tế không? Sao chị Hai buồn mà ra nằm một mình ngoài nầy? Tôi trả lời không có buồn, rồi xin kiếu cho vô nằm vì mệt mỏi. Sáng ra thấy vợ anh bồi sửa soạn đi chợ, tôi lật đật gởi một đồng bạc, nhờ nấu một bữa cơm An Nam, để kịp xe trưa, tôi về Sài Gòn. Chị ta không chịu nhận đồng bạc, rằng chủ có đưa tiền chợ đầu hôm rồi, vì ổng thấy tôi ăn cơm Tây không được ngon miệng. Chị ta năn nỉ:
- Cô về dưới ấy làm chi lật đật quá? Ông chủ sẽ rầy hai con không biết điều nên cô hờn mới về gấp và như vậy tội nghiệp cho hai đứa tôi lắm! Nói xin lỗi, xin cô đừng giận: tự thuở nay, hai đứa tôi ở với Tây cũng nhiều chủ rồi, thiệt khổng thấy ông nào thương ai như cách ông nầy thương và đối đãi như với cô vậy!
Tôi giả bộ không hiểu, cười mà hỏi làm sao chị biết? Chị ta khai thiệt rằng ổng năn nỉ biểu hai vợ chồng o bế làm sao cho tôi ưng chịu, thì giấy hoảnh(1) ổng bê cho liền.
Tôi giả đò không chịu, rằng sửa soạn đã lỡ, thôi để về. Như ổng thiệt tình thương, thì Tây Ninh - Sài Gòn non một trăm cây số có xa xuôi gì đó! Khi ấy chị ta mới năn nỉ cản tôi xin ở lại chơi thêm một bữa nầy nữa, tôi làm bộ dụ dự, đợi chị ta năn nỉ gần gãy lưỡi tôi mới chiều theo. Qua ngày hôm sau hai đứa nó thiếu một điều lạy tôi xin ưng ông kiểm lâm cho hai đứa nó kiếm chác chức đỉnh chớ đồng lương không đủ xài, thêm nợ nần nhiều. Cơ khổ! Nói vậy hai đứa nầy cũng học một sách với cô chủ sự và má Tư Hớn, chỉ khác là hai người kia vừa khai thác nai tơ, vừa lợi dụng vừa bán đứng tôi mà ăn tiền đầu tiền đuôi, còn hai đứa nầy, dầu sao chúng còn năn nỉ và được sự ưng thuận của tôi trước. Sau rốt, chín hấu còn mại hơi, tôi đợi cho ông Tây tỏ ý niềm nở thật tình, tôi đợi đến cạn nước tôi mới ưng chịu.
Nội ngày đó tôi biểu vợ chồng bồi đem đồ đạc lên nhà trên, kẻo tội nghiệp hai bữa rày, họ đêm nào cũng ăn chay nằm đất gần ông Táo, vì bộ ván bị tôi chiếm theo lệnh của ông Tây hảo ngọt.
Chú thích:
(1) Giấy hoảnh: vingt - giấy bạc hai chục đồng của trào Pháp cũ