Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 4
Vai của Athos, dải đeo gươm của Porthos và chiếc khăn tay của Aramis.

 
D' Artagnan giận dữ bằng ba bước nhảy đã vượt qua tiền sảnh và lao xuống cầu thang, chàng đang định xuống bốn bậc một thì mải chạy, đầu húc phải một lính ngự lâm vừa ra khỏi nhà ông De Treville bằng một cửa thoát, trán chàng va phải vai người đó khiến người đó kêu rú lên, đúng hơn là thét lên.
- Tôi xin lỗi - D' artagnan vừa nói vừa chạy tiếp - tôi xin lỗi, nhưng tôi vội quá.
Chàng vừa xuống bậc thang đầu tiên, thì một bàn tay sắt đã nắm lấy đai áo chàng và giữ chàng lại. Người lính ngự lâm nhợt nhạt như tấm vải liệm nói to:
- Ông vội, vội nên ông húc tôi. Ông nói: "Xin lỗi" và ông tưởng thế là đủ ư? Không đâu, ông bạn trẻ của tôi ạ. Ông tưởng rằng hôm nay ông De Treville nói với chúng tôi hơi lính tẩy một chút, mà ông có thể xử sự với chúng tôi như ông Treville ư? Tỉnh lại đi, ông bạn. Ông không phải là ông Treville, ông hiểu chưa.
D' Artagnan nhận ra Athos sau khi được thầy thuốc băng bó đang trở về nhà, liền đáp:
- Tôi xin thề, tôi thề tôi không cố ý, tôi đã nói: "Tôi xin lỗi".
- Tôi tưởng thế là đủ. Tuy nhiên, tôi xin nhắc lại, và lần này có lẽ là quá đủ, thề danh dự, tôi đang vội, rất vội. Vậy hãy buông tôi ra, để tôi đi đến nơi tôi có việc.
Athos buông chàng ra nói:
- Thưa ông, ông không lịch sự. Người ta thấy ông từ nơi xa đến.
D' Artagnan đã bước được ba bốn bậc, thấy Athos nhận xét như vậy chàng dừng lại ngay trả lời:
- Quái nhỉ, thưa ông! Tôi có ở xa mấy đến đây, cũng không cần ông dạy tôi bài học về phép lịch sự, xin nói để ông biết.
- Có thể chứ? - Athos nói.
- Chà! Nếu như tôi không rất vội! - D' Artagnan nói to - Và nếu như tôi không đuổi theo một kẻ...
- Thưa người đang vội, tôi, ông sẽ thấy tôi không chạy đâu. Ông hiểu chứ?
- Và ở đâu xin vui lòng?
- Gần Cácmơ Đềsô.
- Mấy giờ?
- Lúc trưa.
- Lúc trưa. Được lắm. Tôi sẽ đến.
- Cố gắng đừng làm tôi phải đợi, bởi mười hai giờ mười lăm phút là tôi sẽ đuổi theo cắt tai ông đấy.
- Được! D' artagnan hét to - Sẽ ở đó lúc mười hai giờ kém mười lăm phút.
Và chàng bắt đầu chạy như ma đuổi, hy vọng tìm lại được người lạ mặt mà bước chân thong thả chắc chưa đưa hắn đi quá xa.
Nhưng tới chỗ cửa mở ra phố, Porthos đang chuyện trò với một lính gác. Giữa hai người đang trò chuyện, có một khoảng trống vừa đúng một người. D' artagnan tưởng khoảng trống ấy đủ cho chàng và chàng lao qua như một mũi tên bay giữa hai người. Nhưng D' artagnan đã không tính đến sức gió lúc chàng sấp qua, gió lùa sâu vào áo khoác dài của Porthos làm nó bung lên và D' artagnan nhào thẳng vào tấm áo. Chắc hẳn Porthos có những lý do để không thả cái phần thiết yếu của chiếc áo, bởi đáng lẽ để mặc cái tà áo chàng đang giữ, chàng lại kéo sát vào người mình làm cho D' artagnan bị quấn trong tấm áo nhung bởi một động tác xoay tròn, áo Porthos bướng bỉnh cưỡng lại.
D' artagnan nghe thấy tiếng người ngự lâm chửi rủa, muốn chui ra khỏi chiếc áo choàng đang che hết mắt chàng mà tìm lối ra trong nếp áo. Chàng sợ nhất là làm tổn hại đến vẻ tươi tắn của dải đeo gươm lộng lẫy. Nhưng khi e dè mở mắt thì chàng thấy mũi mình dính vào khoảng giữa hai vai của Porthos, nghĩa là đúng vào dải đeo gươm.
Than ôi! Giống như mọi vật trên đời này chỉ có được cái mã bề ngoài, dải đeo gươm chỉ có vàng phía trước, mặt sau đơn giản là da trâu. Porthos, thật là thích hào nhoáng nhưng không thể có nổi dải đeo gươm toàn bằng vàng, ít nhất cũng có được một nửa. Từ đó người ta hỉểu sự cần thiết của bệnh cúm và sự khẩn thiết của chiếc áo choàng.
- Con tiều! - Porthos vừa kêu lên, vừa dùng hết sức mình để gỡ khỏi D' artagnan đang lục đục trong lưng áo - Cậu hóa dại hay sao mà đâm nháo đâm nhào như thế vào người ta?
D' artagnan chui ra từ dưới vai người khổng lồ nói:
- Tôi xin lỗi, nhưng tôi vội quá, tôi chạy theo một kẻ...
- Do tình cờ mà anh để quên mắt trong khi chạy chăng? - Porthos hỏi.
- Không - D' artagnan bị chọc tức trả lời - Mà nhờ có mắt tôi mới thấy được cả cái mà người khác không thấy.
Porthos hiểu hay không hiểu, nhưng vẫn luôn như thế, đùng đùng nổi giận ngay:
- Thưa ông, tôi báo để ông biết, nếu ông cứ cọ người vào một lính ngự lâm như thế, ông sẽ tự cọ lông(1) mình đấy.
- Cọ lông ư, thưa ông! - D' artagnan nói - Tiếng đó thô quá?
- Chính nó mới hợp với người quen nhìn thẳng vào mặt kẻ thù?
- A, mẹ kiếp? Tôi biết thừa ông không quay lưng lại kẻ thù của ông đâu.
Và chàng trai trẻ thích chí về câu nói xỏ xiên của mình, vừa bước đi vừa cười rũ rượi.
Porthos giận sùi bọt mép chuẩn bị nhảy bổ vào D' artagnan.
- Để sau, để sau đã - D' artagnan hét to - khi nào ông không mặc áo choàng nữa đã.
Vậy lúc một giờ, đằng sau vườn Luxembourg.
- Tốt lắm, lúc một giờ - D' artagnan vừa đáp vừa ngoặt theo góc phố.
Nhưng trên đường phố chàng vừa chạy qua lẫn nơi chàng đưa mắt nhìn khắp, đều chẳng thấy bóng ai. Cho dù kẻ lạ mặt có đi thong thả, hắn cũng đã đi đường hắn mất rồi, có lẽ hắn đã rẽ vào một ngôi nhà nào đó. D' artagnan hỏi thăm về hắn, tất cả những ng!!!8328_49.htm!!! Đã xem 955329 lần.

Đánh máy: Nguyễn Học
Nguồn: Nguyễn Học
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 9 năm 2006

- Viết thế mới thật là khéo! - Athos nói.
- Thế thì, đơn giản thôi vậy "Thưa Huân tước, ngài có nhớ một bãi kín nhỏ nào đó mà người ta đã tha mạng ngài?"
- D'Artagnan ơi là D'Artagnan - Athos nói - Cậu sẽ chỉ mãi mãi là một biên tập viên tồi, "Mà người ta đã tha mạng ngài".
- Thôi đi! - Ai lại đi viết thế. Người ta không nhắc những việc đó với một người lịch sự. Trách quên ơn là gây thù oán đó.
- Ôi! Bạn thân mến, - D'Artagnan nói - anh thật không thể chịu nổi, và nếu cứ phải viết dưới sự kiểm duyệt của anh, nói thật nhé, tôi thèm vào nữa.
- Cậu làm thế là đúng. Cậu hãy điều khiển cây súng và lưỡi gươm, bạn thân mến ạ, hai ngón đó thì cậu rất hào hoa, còn cây bút hãy chuyển cho ngài tu viện trưởng, nó liên quan đến ngài nhiều hơn.
- Ờ, đúng, phải rồi - Porthos nói - hãy chuyển bút cho Aramis, hắn ta viết luận văn bằng cả tiếng Latinh kia mà.
- Thôi được - D'Artagnan nói - Aramis, anh soạn thảo bức thư này đi. Nhưng thề có Đức Thánh cha giáo hoàng! Hãy viết cho chặt chẽ, bởi đến lượt tôi, tôi cũng sẽ vặt lông anh đấy, xin báo trước như vậy.
- Tôi không đòi hỏi gì hơn - Aramis nói với niềm tin ngây thơ mà mọi thi sĩ vốn có sẵn trong mình - Nhưng phải cho tôi biết rõ đã, tôi mới chỉ được nghe chỗ này, chỗ kia mỗi chỗ một tí, rằng con chị dâu đó là một con gian manh tôi cũng đã có bằng chứng khi nghe nó nói chuyện với Giáo chủ.
- Khẽ chứ nào, đồ quỷ! - Athos nói.
- Nhưng - Aramis tiếp tục - tôi không nắm được chi tiết.
- Tôi cũng vậy - D'Artagnan nói.
D'Artagnan và Athos im lặng nhìn nhau một lúc. Cuối cùng Athos sau khi đã tĩnh tâm lại và tái người đi hơn thường lệ vốn đã như thế, ra hiệu đồng ý, D'Artagnan hiểu mình có thể nói ra.
- Thế thì! Đây là điều phải nói ra - D'Artagnan nói tiếp - "Thưa Huân tước, chị dâu ngài là một mụ đàn bà hiểm độc, đã từng muốn giết ngài để hưởng gia tài của ngài. Nhưng mụ không thể lấy anh trai ngài, vì đã cưới chồng ở Pháp, và đã bị…
D'Artagnan dừng lại nhìn Athos như thể muốn tìm một từ.
- "Bị chồng đuổi", - Athos nói.
- "Bởi vì mụ đã từng bị đóng dấu chín" - D'Artagnan tiếp tục.
- Sao, mụ định giết người em chồng ư? Porthos kêu lên - - Không thể thế.
- Phải, thế đấy.
- Mụ đã từng có chồng? Aramis hỏi.
- Phải.
- Và chồng mụ đã phát hiện ra dấu bông huệ đóng chín trên vai mụ? - Porthos kêu lên.
- Phải.
Ba tiếng "phải" đều do Athos nói, mỗi tiếng giọng càng u uất hơn.
- Và ai đã nhìn thấy cái dấu hoa huệ đó? Aramis hỏi.
- D'Artagnan và tôi, hay đúng hơn, nếu theo trật tự niên giám là tôi và D'Artagnan - Athos trả lời.
- Và người chồng của con mụ ghê tởm đó còn sống? Aramis hỏi.
- Ông ta còn sống.
- Anh có chắc không?
- Tôi chắc chứ.
Một phút im lặng lạnh lùng, trong khi đó mỗi người đều cảm nhận riêng theo bản tính của mình. Athos là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng, chàng nói:
- Lần này, D'Artagnan đã đưa ra cho chúng ta một chương trình hành động rất hay và trước hết ta phải viết thế đã.
- Anh nói đúng, Athos ạ - Aramis nói - và việc biên tập mới gai góc đây. Bản thân ông chánh án cũng sẽ bối rối khi soạn thảo một bức thư mạnh mẽ như thế, trong khi đó ông ta soạn thảo một bản án một cách dễ dàng. Thôi được, các người im đi để tôi viết Thế là Aramis cầm lấy bút, nghĩ vài phút, viết liền một mạch tám đến mười dòng, bằng nét chữ mềm mại duyên dáng của đàn bà, rồi bằng một giọng dịu dàng và chậm rãi như thể mỗi từ đã được cân nhắc chu đáo, chàng đọc:
"Thưa Huân tước,
Người viết mấy dòng chử này cho ngài đã có vinh dự được đọ gươm với ngài trong một mảnh đất kín ở phô Âm ty. Từ đó vì ngài đã từng nhiều lần muốn kết bạn với người đó, người đó có nghĩa vụ phải nhận ra tình bạn bằng một lời khuyên chân thành. Hai lần ngài suýt nữa đã trở thành nạn nhân của người họ hàng gần nhất mà ngài tin là người thừa kể, bởi vì ngài không biết trước khi kết hôn ở Anh, người đó đã từng cưới chồng ở Pháp. Nhưng lần thứ ba, tức lần này, ngài có thể bị giết hại. Mụ họ hàng đó ra đi từ La Rochelle trong đêm tối tới nước Anh. Ngài hãy giám sát mụ khi mụ tới, bởi mụ có những mưu toan to lớn và khủng khiếp. Nếu ngài nhất thiết muốn biết mụ ta có khả năng làm chuyện gì, xin ngài hãy xem cái quá khứ của mụ trên vai trái…"
- Ồ, thế là tốt lắm rồi, Athos nói - cậu đúng là một cây bút cỡ đổng lý văn phòng Nhà nước, Aramis ạ. Bấy giờ Huân tước De Winter sẽ cảnh giác cao, đương nhiên nếu thư này đến tay ông ta, và không may nó có rơi vào tay Giáo chủ, thì chúng ta cũng sẽ không bị phương hại gì. Nhưng vì gã người hầu ra đi có thể chỉ dừng lại ở Saterlơrôn mà làm cho chúng ta tin đã đến London, ta chỉ trao bức thư và nửa số tiền, và hứa đưa nốt nửa kia, nếu có thư trả lời. Cậu vẫn còn cái nhẫn chứ?
- Còn hơn cả thế kia, tôi có tiền rồi.
- Và D'Artagnan ném cái túi lên bàn, nghe tiếng vàng kêu xủng xoảng, Aramis ngước mắt nhìn, Porthos giật mình, còn Athos vẫn bình thản như không. Chàng hỏi:
- Có bao nhiêu trong túi?
- Bẩy nghìn livrơ toàn tiền mười hai quan.
- Bảy nghìn livres? - Porthos kêu lên - Cái viên kim cương nhỏ hạng xoàng ấy mà giá bảy nghìn livrơ cơ à?
- Chắc là như thế - Athos nói - vì tiền một đống đây. Tôi không cho là anh bạn D'Artagnan của chúng ta bỏ thêm tiền của mình vào đâu.
- Nhưng, các vị ạ, trong mọi chuyện này, chúng ta không nghĩ gì đến Hoàng hậu. Vậy chúng ta hãy chăm lo một chút đến sức khỏe của ông Buckingham thân yêu của bà. Đó là điều tối thiểu ta phải làm.
- Chính thế - Athos nói -nhưng việc này liên quan đến Aramis.
Chàng ta đỏ mặt dáp:
- Thế thì tôi phải làm gì nào?
- Ồ - Athos nói tiếp - thật quá đơn giản - soạn thảo một bức thư thứ hai cho con người khôn khéo sống ở Tours.
Aramis lại cầm bút, lại nghĩ, và viết những dòng thư lập tức được các bạn hoan nghênh nhiệt liệt như sau: "Cô em họ thân mến…
- A! - Athos nói - ra con người khôn khéo đó là họ hàng của cậu - Em con cô ấy mà - Aramis nói.
- Vậy tiếp tục với em họ cậu đi!
Aramis tiếp tục đọc:
"Cô em họ thân mến, Đức ông Giáo chủ mà Chúa dành cho hạnh phúc của nước Pháp và sự lúng túng của kẻ thù vương quốc đang sắp kết liễu bọn phản nghịch tà đạo ở La Rochelle. Có thể hạm đội cứu viện quân Anh sẽ không đến kịp để tận mắt nhìn thấy. Tôi cũng không dám nói rằng tôi tin chắc ông De Buckingham sẽ bị ngăn trở bởi một sự cố lớn nào đó. Đức ông là một nhà chính trị lỗi lạc nhất trong thời gian qua. Ngài sẽ dập tắt mặt trời, nêu mặt trời làm vướng chân ngài. Hãy báo những tin vui này cho bà chị em, em thân mến ạ. Anh mơ thấy gã người Anh đáng nguyền rủa ấy bị chết. Anh không thể nhớ lại được là bởi dao găm hay thuốc độc. Có điều anh tin chắc là anh đã mơ thấy hắn bị chết, và như em đã biết đấy, những giấc mơ của anh không đánh lừa anh bao giờ. Em hãy yên tâm, không lâu nữa anh sẽ trở về".
- Tuyệt lắm - Athos nói - cậu là vua của các nhà thơ, Aramis thân mến ạ, cậu nói như Apôcalíp(2) ấy và cậu nói đúng như kinh Phúc âm. Giờ cậu chỉ còn việc ghi địa chỉ vào nửa thôi.
Dễ thôi mà - Aramis nói.
Chàng gập bức thư lại một cách tình tứ rồi viết: "Gửi cô Mítsông, cô thợ may ở thành Tours".
Cả ba người bạn cùng nhìn nhau cười: họ bị lừa, Aramis nói:
- Bây giờ, các vị đã hiểu chỉ Bazin mới có thể mang thư này đi. Cô em họ chỉ quen biết Bazin và chỉ tin anh ta. Bất kỳ ai khác đều làm hỏng việc. Hơn nữa, Bazin nhiều tham vọng và thông thái. Bazin đã đọc lịch sử, các vị ạ, hắn biết Xích Canh đã trở thành giáo hoàng sau khi đã từng chăn lợn con. Hắn cũng tính chuyệnthụ giáo như tôi chẳng qua vẫn hy vọng đến lượt hắn cũng trở thành giáo hoàng hoặc ít nhất cũng Giáo chủ. Các vị hiểu một người đã có những mục tiêu như thế sẽ không để bị tóm, hoặc nếu bị tóm, sẽ chịu tử đạo còn hơn khai ra.
- Tốt, tốt lắm - D'Artagnan nói - Tôi hoàn toàn đồng tình anh chọn Bazin. Nhưng anh ủng hộ tôi chọn Planchet đi. Ngày nào Milady đã dùng gậy phang hắn tống ra khỏi cửa mà Planchet thì nhớ dai lắm, và tôi xin đảm bảo, nếu gã thấy có thể trả thù được, thì thà hắn chịu để đánh gãy sống lưng chứ không chịu bỏ cuộc đâu! Nếu việc đi Tours là việc của anh, Athos ạ, việc đi London cũng là việc của tôi. Vậy tôi mong các vị hãy chọn Planchet, hơn nữa hắn đã từng đến London với tôi và biết nói rất chuẩn mấy câu: "London, sir, if want please and My master, lord D'Artangman" (London, thưa ngài, mong ngài làm ơn chỉ giúp và ông chủ tôi, ngài D'Artagnan). Với những điều đó, xin các vị yên tâm, hắn sẽ biết đường đi, đường về.
- Trong trường hợp ấy - Athos nói - Planchet cần được nhận bẩy trăm livrơ tiền đi và bẩy trăm livrơ tiền về còn Bazin ba trăm livres tiền đi và ba trăm livrơ tiền về. Như thế sẽ còn lại năm nghìn livres, mỗi người chúng ta cầm một nghìn livrơ để chi dùng riêng, còn để lại quỹ một nghìn livrơ mà cha tu viện trưởng sẽ giữ để chi những trường hợp đặc biệt hoặc nhu cầu chung. Như thế có được không?
- Anh Athos thân mến - Aramis nói - Anh nói cứ như ông Nétxto mà ai cũng biết là một nhà thông thái bậc nhất của Hy Lạp ấy.
- Vậy thì! Dứt khoát nhé - Athos nói lại - Planchet và Bazin sẽ đi. Tóm lại, tôi hoàn toàn vui vẻ giữ lại Grimaud, hắn đã quen tính nết chủ, tôi biết thế. Hôm qua chắc hắn đã hết vía, chuyến đi này sẽ chỉ làm hại hắn.
Họ cho gọi Planchet đến và cho hắn những chỉ dẫn. Hắn cũng đã được D'Artagnan báo trước, đầu tiên là vinh quang, tiếp đến là tiền bạc rồi đến hiểm nguy.
- Tôi sẽ giấu thư vào mép áo - Planchet nói - nếu bị bắt tôi sẽ nuốt ngay.
D'Artagnan nói:
- Ồ, thế thì anh không thể làm nổi nhiệm vụ này rồi.
- Vậy tối nay ông sao cho tôi một bản, mai tôi sẽ thuộc lòng.
D'Artagnan nhìn các bạn như muốn nói: "Thế nào! Tôi đã hứa với các anh mà?"
- Bây giờ - Chàng tiếp tục căn dặn Planchet - Anh có tám ngày để đến gặp Huân tước De Winter và có tám ngày để trở về đây, tổng cộng mười sáu ngày. Nếu đến ngày thứ mười sáu sau khi khởi hành, tám giờ tối, anh chưa về đến nơi, sẽ không có tiền, dù là tám giờ năm phút.
- Vậy thì ông chủ - Planchet nói - mua cho tôi một cái đồng hồ!
- Cầm lấy cái này! - Athos vừa nói vừa đưa cho hắn chiếc đồng hồ của mình rất hào hiệp vô tư - Và hãy là một chàng trai can trường. Hãy nghĩ rằng nếu ngươi nói, nếu ngươi ba hoa, nếu ngươi la cà, ngươi sẽ làm chủ ngươi bị chặt cổ, mà chủ ngươi lại hết sức tin tưởng ở long trung thành của ngươi và đảm bảo cho ngươi. Nhưng cũng cần nghĩ nếu do lỗi của ngươi, gây tai họa cho D'Artagnan, ta sẽ tìm lại được ngươi ở bất cứ nơi đâu, và sẽ phanh thây ngươi.
- Ồ, thưa ông - Planchet nói, vừa thấy tủi vì bị nghi ngờ và nhất là hoảng sợ về sự bình thản của Athos.
- Và ta - Porthos trợn tròn mắt lên - nên biết ta sẽ lột da mày.
- Ôi, thưa ông!
- Còn ta - Aramis nói bằng một giọng dịu dàng và du dương ta sẽ thiêu người dưới lửa nhỏ như một tên mọi rợ.
- Ôi, thưa ông!
Và Planchet òa khóc, không biết do sự hãi trước những lời hăm dọa đối với hắn hay vì cảm kích khi thấy bốn người bạn gắn bó chặt chẽ với nhau đến thế.
D'Artagnan cầm tay và ôm hôn hắn và bảo:
- Thấy chưa, Planchet, các ông ấy nói với ngươi như vậy là vì quý ta, nhưng trong thâm tâm lại yêu mến ngươi.
- Ôi thưa ông? - Planchet nói - hoặc tôi sẽ hoàn thành hoặc cứ cắt tôi ra làm bốn. Cứ việc cắt tôi ra làm bốn, ông cứ tin là không còn sót mảnh nào chịu khai báo đâu.
Chàng quyết định tám giờ sáng hôm sau, Planchet sẽ ra đi cốt để như Planchet đã nói với chàng, đêm có thể học thuộc lòng bức thư. Vậy là hắn có mười hai tiếng đồng hồ để lo việc học. Và phải trở về lúc 8 giờ tối ngày thứ mười sáu.
Sáng hôm sau lúc hắn sắp lên ngựa, D'Artagnan trong lòng vẫn cảm thấy lo lắng cho Quận công De Buckingham, kéo Planchet ra một chỗ và bảo hắn:
- Nghe đây, khi anh đã trao thư cho Huân tước De Winter và khi ông ấy đã đọc xong, anh bảo thêm ông ấy: "Xin ngài hãy canh chừng cho ngài Huân tước De Buckingham, bởi vì người ta muốn ám sát ngài ấy". Này Planchet, điều này rất nghiêm trọng, rất cần thiết đến mức ta cũng chẳng muốn thú nhận với các bạn ta là ta tin trao cho anh bí mật này và đối với một nhiệm vụ hàng đầu như thế, ta cũng không muốn viết cho anh mang đi.
- Xin ông yên tâm - Planchet nói - Rồi ông sẽ thấy có thể tin cậy vào tôi.
Và cưỡi trên một con tuấn mã, gã phải đi hai mươi dặm rồi bỏ ngựa lại để đổi ngựa trạm, Planchet phi nước đại, lòng hơi thắt lại vì ba lời hẹn ước của ba chàng ngự lâm quân nhưng dẫu sao cũng trong tình trạng tốt đẹp nhất trên đời.
Bazin ra đi sáng hôm sau đến Tours và có tám ngày để hoàn thành nhiệm vụ.
Bốn người bạn, trong suốt thời gian vắng mặt hai gã ấy, hơn bao giờ hết phải để mắt canh chừng, phải mũi đánh hơi, tai nghe ngóng. Ngày ngày phải thử xem liệu có bắt gặp người ta nói gì không, phải rình rập điệu bộ, dáng dấp của Giáo chủ, phải đánh hơi các xe thư vừa tới. Nhiều lần, không tránh khỏi run lên khi họ bị gọi lên vì một công việc đột xuất nào đó. Vả lại họ cũng phải giữ sao cho được an toàn cho chính họ. Milady là một con ma, khi nó đã hiện hình với ai, nó sẽ không để cho người đó ngủ yên.
Sáng ngày thứ tám, mặt mày tươi tỉnh như vẫn thường thấy, Bazin mỉm cười theo thói quen bước vào tửu quán Pácpayô, đúng lúc bốn người bạn đang ăn điểm tâm, và nói theo đúng quy ước:
- Thưa ông Aramis, đây là thư trả lời của cô em họ.
Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau vui sướng, nửa phần công việc đã được làm xong, tất nhiên đây là phần việc tốn ít thời gian và dễ dàng hơn.
Aramis cầm bức thư, nét chữ thô kệch và sai chính tả, không tránh khỏi đỏ mặt.
- Lạy chúa! - Chàng vừa cười vừa reo lên - dứt khoát là tôi thất vọng rồi. Chả bao giờ cái cô Mítsông tội nghiệp viết được như ông De Voatuya.
- Thế nghĩa là thế nào, cái cô Migiông tội nghiệp ấy - Người lính Thụy sĩ đang trò chuyện với bốn người bạn thì thư đến liền hỏi.
- Ồ, Chúa ơi! Có gì đâu - Aramis nói - một cô thợ may bé nhỏ duyên dáng mà tôi rất yêu và tôi yêu cầu cô ấy viết cho mấy dòng để làm kỷ niệm ấy mà.
- Nói thật nhé - Người lính Thụy Sĩ nói - Nếu nàng là một mệnh phụ như cái chữ viết của nàng, thì ông đúng là có phúc lớn đấy ônh bạn của tôi ạ!
Aramis đọc thư rồi chuyển cho Athos và bảo:
- Athos, anh xem cô ấy viết gì này.
Athos liếc nhìn qua bức thư và muốn dập tắt mọi sự nghi ngờ có thể phát sinh, đọc to lên:
"Anh họ của em ạ, chị em và em đoán rất giỏi những giấc mơ, và chúng em cũng có nỗi sợ khủng khiếp về những giấc mơ ấy. Nhưng về giấc mơ của anh, có thể nói, em hy vọng là mọi mộng mị đều là giả dối. Tạm biệt! Mong anh luôn khỏe và thỉnh thoảng cho chúng em biết tin về anh".
Aglaê Mítsông(3)
- Cô ta nói về giấc mơ nào thế? - Người lính long kỵ xán lại gần trong khi đọc, hỏi.
- Phải, giấc mơ gì vậy? - Người lính Thụy Sĩ nói.
- Ồ, mẹ kiếp - Aramis nói - thì đơn giản nó là một giấc mơ tôi mơ rồi kể cho cô ấy nghe chứ còn cái của nợ gì nữa.
- Ồ, phải, mẹ kiếp! Vì đơn giản là kể lại giấc mơ, nhưng tôi không mơ bao giờ cả!
Athos vừa đứng dậy vừa nói:
- Thế thì anh may quá đấy, tôi những mong có thể nói được như anh thôi!
- Không bao giờ! - Người lính Thụy sĩ lắp lại và tỏ ra rất sung sướng vì một người như Athos lại thèm muốn một điều gì đó ở mình - Không bao giờ! Không bao giờ!
Thấy Athos đứng dậy, D'Artagnan cũng đứng lên theo, khoác tay Athos đi ra.
Porthos và Aramis ở lại để đối mặt với những lời giễu cợt của tay lông kỵ binh và người lính Thụy Sĩ.
Còn Bazin, anh chàng ra nằm ngủ khoèo trên một ổ rơm, và anh ta có nhiều óc tưởng tượng hơn anh chàng Thụy Sĩ, nên mơ thấy Aramis trở thành giáo hoàng, và đội lên đầu anh chiếc mũ hồng y Giáo chủ.
Nhưng dù trở về may mắn Bazin cũng không cất được một phần nỗi lo đang châm đốt bốn người bạn. Những ngày chờ đợi dài dằng dặc, và nhất là D'Artagnan những muốn đánh cược ngày bây giờ dài bốn tám giờ. Chàng quên mất những sự chậm trễ buộc phải có của công việc chạy tàu. Chàng phóng đại thế lực của Milady. Chàng gán cho mụ đàn bà đối với chàng giống như một con quỷ đó, có lũ tay chân cũng siêu nhiên như mụ, chàng tưởng tượng ra từ mỗi tiếng động nhỏ nhất người ta tới bắt giữ chàng và người ta dẫn Planchet về để đối chứng với chàng và các bạn chàng. Còn hơn thế nữa, lòng tin của chàng xưa kia lớn lao đến thế, vào cái gã xứ Picađy ấy, ngày một giảm sút. Sự lo âu ấy lớn đến nỗi lan sang cả Porthos và Aramis. Chỉ còn mỗi Athos vẫn bình thản như không, như thể chẳng có mối hiểm nguy nào động đậy xung quanh chàng và chàng vẫn hít thở không khí như mọi ngày thường.
Nhất là ngày thứ mười sáu, những dấu hiệu bồn chồn ở D'Artagnan và hai người bạn kia thể hiện rõ đến nỗi họ đứng ngồi không yên và lang thang như những cái bóng trên con đường mà Planchet sẽ phải trở về.
Athos bảo họ:
- Thật đúng là, các cậu không phải là những người lớn nữa mà là một lũ trẻ con, đến nỗi một con mụ đàn bà này làm cho các cậu sợ hãi ghê gớm đến thế. Và tóm lại, có chuyện gì nào? Bị cầm tù ư? Thì người ta sẽ lôi chúng ta ra khỏi tù. Người ta đã từng kéo bà Bonacieux ra khỏi tù như chơi đó sao. Bị chặt đầu ư? Nhưng ngày ngày trong chiến hào chúng ta vẫn vui vẻ phơi mình ra cho những chuyện còn tệ hơn, bởi một viên đạn trái phá có thể làm gãy chân ta và tôi tin rằng một nhà giải phẫu cắt đùi ta còn làm ta đau hơn tên đao phủ chặt đầu ta. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Hai giờ, bốn giờ, sáu giờ, hoặc chậm hơn nữa, Planchet sẽ ở đây. Hắn đã hứa như vậy. Và tôi, tôi có một niềm tin rất lớn vào những lời hứa của Planchet, một người mà tôi thấy là một chàng trai rất can trường.
- Nhưng nếu hắn không tới? - D'Artagnan nói.
- Ồ nếu hắn không tới, đó là có lẽ hắn bị chậm, có thế thôi.
- Hắn có thể bị ngã ngựa, hắn có thể bị lộn nhào qua cầu, có thể chạy quá nhanh nên bị mắc chứng sưng phổi. Thế đấy. Các vị ạ, ta phải tính đến phần của các sự cố chứ. Đời là một chuỗi tràng hạt những nỗi khổ đau nho nhỏ mà nhà triết học vừa cười vừa lần những hạt khổ dau. Hãy là nhà triết học như tôi, các vị ạ, hãy ngồi vào bàn và uống, chẳng có gì làm hiện ra tương lai màu hồng như ta nhìn nó qua một cốc rượu sămbéctanh.
- Đúng lắm, - D'Artagnan trả lời - Nhưng tôi mệt mỏi vì cứ sợ rằng, thứ rượu vang đó lại lấy ra từ hầm rượu của Milady, ngay khi uống.
- Cậu khó tính quá - Athos nói - một người đàn bà đẹp đến như thế?
- Một mụ đàn bà bị đóng dấu! - Porthos cười hô hố.
Athos giật mình đưa tay lên trán lau mồ hôi cũng đứng dậy không kìm nổi một động tác căng thẳng.
Trong khi ấy ngày vẫn cứ trôi và chiều tối đến chậm hơn nhưng cuối cùng vẫn đến. Các quầy rượu đầy ắp khách uống.
Athos rủng rỉnh trong túi phần chia tiền bán kim cương, không rời quán Pácpayô nữa. Chàng đã tìm thấy trong ông De Buyxinhi người chung quy đã khao bọn chàng một bữa tiệc thịnh soạn, một đối thủ cờ bạc ngang tầm với chàng. Họ chơi với nhau như thường lệ tới khi đồng hồ điểm bẩy tiếng và người ta nghe thấy tiếng chân lính tuần tra đến thay phiên các trạm, rồi bảy giờ rưỡi vang lên tiếng kèn thu quân.
- Chúng ta nguy rồi - D'Artagnan rỉ rai Athos.
- Cậu muốn nói chúng ta đã thua chứ gì? - Athos bình tĩnh vừa nói vừa rút trong túi ra bốn đồng pítxtôn vàng ném lên bàn, rồi tiếp tục - Các vị, kèn thu quân rồi, ta về ngủ thôi.
Và Athos, theo sau là D'Artagnan ra khỏi quán Pácpayô, Aramis khoác tay Porthos đi đằng sau. Aramis lải nhải mấy vần thơ, và Porthos thỉnh thoảng lại nhổ vài chiếc ria mép tỏ ý thất vọng.
Nhưng kìa, bất thình lình từ trong bóng đêm, một bóng người hiện ra, mà hình dạng có vẻ thân quen với D'Artagnan và một giọng nói rất quen thuộc nói với chàng:
- Thưa ông, tôi mang đến cho ông áo khoác của ông vì tối nay trời lạnh.
- Planchet! - D'Artagnan reo lên, mừng vui đến phát rồ.
- Planchet! - Porthos và Aramis nhắc lại.
- Ờ, đúng là Planchet  - Athos nói - Thế thì có gì lạ? Hắn đã hứa trở về lúc tám giờ, và bây giờ là tám giờ. Hoan hô, Planchet người là một chàng trai biết giữ lời hứa, và nếu bao giờ người thôi làm cho chủ ngươi, ta vẫn dành một chỗ để ngươi giúp ta đấy.
- Ồ, không, không bao giờ - Planchet nói - không bao giờ tôi rời bỏ ông D'Artagnan.
Đồng thời D'Artagnan cảm thấy Planchet nhét một mẩu thư ngắn vào tay mình.
D'Artagnan rất muốn ôm hôn Planchet lúc trở về cũng như chàng đã từng ôm hôn anh ta lúc ra đi. Nhưng chàng lại ngại sự biểu lộ tràn trề đối với người hầu như thế giữa nơi phố xá có vẻ kỳ cục đối với người qua lại đành phải kiềm chế.
- Tôi có thư - chàng nói với Athos và các bạn.
- Tốt lắm - Athos nói - Ta về chỗ mình thôi và ta sẽ đọc bức thư.
Bức thư nóng bỏng trong tay D'Artagnan chàng muốn rảo bước, nhưng Athos kéo tay chàng và khoác vào tay mình, buộc chàng phải đi cùng nhịp với bạn mình.
Cuối cùng họ bước vào lều bạt, thắp đèn lên, trong khi đó Planchet đứng gác trước cửa để đề phòng bốn người bị bắt quả tang, D'Artagnan tay run run, bẻ xi niêm phong mở bức thư mong đợi bấy lâu nay.
Thư chỉ có nửa dòng, nét chữ hoàn toàn của người Anh, ngắn gọn và dứt khoát:
"Thank you, be aesy"
Có nghĩa là "Cám ơn, hãy yên tâm"
Athos giật lấy bức thư trong tay D'Artagnan, đưa lại gần đèn và đốt và chỉ buông ra khi nó đã hoàn toàn biến thành tro. Rồi gọi Planchet, và bảo hắn:
- Bây giờ chú em, chú có thể đòi bẩy trăm livrơ của chú được rồi, một bức thư như thế này rồi thì chú em không phải lo gì nữa đâu. Thế mà tôi đã phải nghĩ ra biết bao nhiêu cách để giữ bằng được nó - Planchet nói.
- Vậy thì kể lại cho bọn ta nghe nào - D'Artagnan nói.
- Trời ơi! Dài lắm, thưa ông.
- Anh nói đúng đấy Planchet ạ - Athos nói - Hơn nữa, trống điểm quân đã báo rồi, chúng ta sẽ bị để ý khi để đèn lâu hơn người khác.
- Thôi được, - D'Artagnan nói - Ta đi ngủ vậy. Ngủ ngon nhé! Planchet!
- Thú thật, đây là giấc ngủ đầu tiên từ mười sáu ngày nay đấy, thưa ông.
- Ta cũng vậy? D'Artagnan nói.
- Ta cũng thế - Porthos nói.
- Cả ta nữa! - Aramis nói Thế thì các cậu có muốn tôi thú nhận sự thực không? Thật tình thì tôi cũng thế! - Athos nói.
Chú thích:
(1) Hình phạt thời trung cổ cho bánh xe nghiến nát chân tay như ép mía
(2) Tiếng Hy Lạp có nghĩa là linh ứng. Chương cuối cùng của Tân ước, có tính chất tượng trưng, huyền bí, rất tối nghĩa, nhưng lại đầy chất thơ.
(3) Đây là sự sơ xuất của tác giả vì bức thư không hề sai chính tả
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Nguyễn Học
Nguồn: Nguyễn Học
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 9 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--