Phần III
Kinh tế - Chính trị

Đôi nét về tổ chức chính quyền ngày trước
Trước đây "quyền lực" của làng xã rất lớn, nên có câu "phép vua thua lệ làng". Chính quyền phong kiến trung ương từng can thiệp, nhằm giảm bớt "quyền lực" của làng xã, nhưng đã không làm nổi. Khi cai trị nước ta, chính quyền thực dân Pháp dùng nhiều biện pháp để can thiệp vào làng xã và cải lương hương thôn là một trong những chính sách đó. Do đó đã hình thành một số tổ chức ở làng quê:
Hội đồng Hương hội: Vào 2/1/1921 người Pháp lập ra hội động này ở các làng quê. Hội đồng Hương hội gồm các tộc biểu hay giáp biểu (mỗi họ hay giáp cử ra đại diện của mình). Các tộc biểu cử ra 4 người gồm Chánh hương hội, Phó hương hội, Thủ quỹ và Thư ký. Hội đồng Hương hội cai trị trong xã ấp bằng sổ thu chi su thuế, quản trị công sản,...
Hội đồng Kỳ mục: Tuy đã hình thành Hội đồng Hương hội, nhưng nó hoạt động ít có hiệu quả, vì làng quê còn chịu ảnh hưởng của các kỳ hào, nên năm 1927, người Pháp phải xem xét lại vai trò của hội đồng Kỳ mục. Đứng đầu Hội đồng Kỳ mục là Tiên chỉ và gồm những cựu chánh, phó tổng, cựu lý trưởng, phó lý.. Hội đồng kỳ mục kiểm duyệt hoạt động  của hội đồng Hương hội. Vị Tiên chỉ cuối cùng của làng ta là Cử nhân Ngô Quý Doãn.
Những tư liệu xa còn lại rất ít. Song cứ xét về vị trí địa lý, một làng quê giáp ngay kinh thành Thăng Long, lại trên trục đường lên phía Bắc, thì làng ta sớm tiếp xúc, giao lưu với mọi miền. Bên cạnh những thuận lợi, tất nhiên sẽ có những điều bất lợi. Những cuộc binh đao khói lửa từ đời Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Tây Sơn, làng ta ít nhiều bị ảnh hưởng. Sang nhà Nguyễn, trong một cuốn gia phả họ còn viết, vào đời Vua Thiệu Trị, làng xóm sống trong cảnh loạn ly. Một ký ức khác thì nói về Pháp chiếm thành Hà Nội, rồi nạn giặc Cờ Đen, dân làng phải sống trong cảnh giặc giã. Làng ta có cụ Cử Doãn, cụ Nguyễn Thế Thân (tức cụ Chánh Vinh) tham gia phong trào Văn Thân, chống Pháp. Cụ Nguyễn Thế Thân từng bị tù đày nhiều năm.
Cách mạng tháng 8
Vào năm 1940 một số thanh niên Lại Đà đến Đình Bảng học tiếp trường Kiêm Bị Từ Sơn, như Ngô Quý Cư, Ngô Thiệu Lễ, Vương Khắc Quy,.... Tháng 5/1941 đ/c Hoàng Quốc Việt đã thành lập ở Đình Bảng "Đội Nhi đồng Cứu vong" nhiều thanh niên ở Lại Đà đã tham gia
Cuối năm 1941, để tiện chỉ đạo và triển khai phong trào cách mạng, Trung ương quyết định xây dựng an toàn khu (ATK) quanh Hà Nội. Đông Hội lúc ấy là địa bàn nằm trong ATK. Đội công tác ATK được thành lập, do đ/c Nguyễn Trọng Tỉnh phụ trách. Tết Nguyễn đán 1942, đ/c Dự là giao thông trung ương, với danh nghĩa là bạn học, được đa về Lại Đà để tạm lánh sự khủng bố của giặc ở Đình Bảng. Đầu năm 1942 đ/c Tỉnh được ông Cư và ông Quy, bí mật đón từ ngã ba sông Đuống về nhà ông Thơ Hồ ở Lại Đà. Tại đây đ/c Tỉnh đã tập hợp số anh em trước đây đã từng trong đội Cứu vong Đình Bảng, để triển khai xây dựng cơ sở cách mạng của xã. Dưới sự lãnh đạo của đ/c Tỉnh, tổ chức Việt Minh trong xã từng bước được hình thành. Ngoài các anh vốn là đội viên nhi đồng cứu vong cũ, do sự tuyên truyền, giác ngộ, thêm một số thanh niên thôn Lại Đà được đa vào tổ chức Việt Minh, như: Ngô Thiệu Thuyên, Ngô Bá Kiểm, Nguyễn Văn Phát, Vương Khắc Thuyên,... Toàn bộ số thanh niên đó chia làm 3 tổ, trong đó 2 tổ ở Lại Đà. Như vậy khoảng giữa năm 1942, ánh sáng cách mạng đã chính thức rọi tới Lại Đà.
Để chỉ đạo phong trào Việt Minh, đ/c Tỉnh nhiều lần qua lại thôn Lại Đà và gia đình ông Thơ Hồ. Tài liệu cách mạng được các tổ Việt Minh nhận từ đ/c Tỉnh tại chùa Dâu Canh đem về giấu ở Lại Đà. Về nguyên tắc, các tổ Việt Minh hoạt động độc lập với nhau, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đ/c Tỉnh, nhưng đôi khi đại diện Việt Minh hai làng Lại Đà và Hội Phụ vẫn có sự gặp gỡ nhau tại cầu
Đàm, nằm giữa hai làng, để bàn việc phối hợp công tác cách mạng chung. Hoạt động chủ yếu của 3 tổ Việt Minh này là rải truyền đơn và dán áp phích để vạch rõ tội ác của Pháp - Nhật và tuyên truyền cách mạng trong quần chúng. Ngoài địa bàn xã, các đội viên Việt Minh hai làng đã nhiều lần rải truyền đơn và dán áp phích ở các làng Lê Xá, Mai Hiên, Gia Quất,... Kết quả các hoạt động trên là giúp quần chúng có nhận thức ban đầu về tôn chỉ và mục đích cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Đầu tháng 3/1943 trong một lần tổ thanh niên Việt Minh thôn Hội Phụ tổ chức treo cờ ở chợ Sa bị lộ, địch lần theo dấu vết về hai thôn Hội Phụ và Lại Đà truy lùng cách mạng. Chúng nhận được thông tin làng Lại Đà có anh ngô Quý Cư. Tên trùm mật thám Nit về làng lùng bắt được anh Ngô Quý Cư. Địch đánh đập, tra khảo anh dã man, hòng qua anh tìm bắt những thanh niên Việt Minh ở làng Lại Đà. Mặc dù bị tra tấn đến chết đi sống lại nhiều lần, anh Cư vẫn cương quyết không khai báo. Gương trung kiên, bất khuất của anh Cư đã góp phần bảo vệ cơ sở Việt Minh của Lại Đà và góp phần giác ngộ quần chúng hiểu thêm về cách mạng. Sau một thời gian lấy cung anh Cư, giặc xử án tù, rồi đưa anh về giam tại nhà tù Hoả Lò.
Giữa năm 1943, do bị lộ, đ/c Tỉnh chuyển công tác đi xây dựng ATK ở Hiệp Hoà (Bắc Giang), đ/c Lê Đình Thiệp, cán bộ trung ương được cử về phụ trách đội ATK Đông Anh - Từ Sơn (sau cách mạng Tháng 8 d/c Thiệp là Chủ tịch ủy ban lâm thời huyện Đông Anh và sau này là Thứ trưởng Bộ Lao động thương binh xã hội). Ông Ngô Thiệu Thuyên là người thường xuyên đưa Đ/c Thiệp về thôn Lại Đà. Lúc này ở Lại Đà có thêm một cơ sở cách mạng là gia đình ông bà Ngô Thiệu Níp, Phạm Thị Nụ. Gia đình đón tiếp, nuôi dưỡng và bảo vệ đ/c Thiệp trong những lần đồng chí về Lại Đà chỉ đạo phong trào Việt Minh. Nhằm che mắt kẻ địch, ông Níp đã mở hiệu thuốc Hồng Khê, chuyên bán thuốc cảm cúm gia truyền. Bản thân ông Níp lúc này cũng là thành viên của tổ Việt Minh thôn Lại Đà.
Đầu năm 1944, do kết quả hoạt động của cơ sở Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của đ/c Thiệp, một số đoàn thể cách mạng như: Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc lần lượt ra đời. Tổ Phụ nữ cứu quốc lúc đầu chỉ có khoảng trên dưới 10 người, trong đó có các chị: Nguyễn Thị Nhã, Ngô Thị Toạ,..., do Nguyễn Thị Bỉnh làm tổ trưởng. Đầu năm 1945, đ/c Nguyễn Thị Phúc Hằng (Điệp) được cử về làm công tác chuyên trách phụ nữ ATK (đ/c Hằng là phu nhân của Tướng Trần độ). Đầu tiên chị Hằng đến  nhà ông Ngô Bá An (Mọi), sau đó nhiều lần đi về nhà ông Ngô Thiệu Níp để chỉ đạo phong trào phụ nữ xã. Đầu năm 1945, qua con đường sách báo và tài liệu cách mạng bí mật, ông Nguyễn Văn Phác đã tuyên truyền và đưa vào tổ chức Việt Minh các vị: Nguyễn Văn Nhuận, Nguyễn Văn Lượng,...
Để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, đ/c Thiệp đã lựa chọn và gửi một số thanh niên trung kiên đi học trường Quân chính kháng Nhật tại Việt Bắc, trong đó Lại Đà có Nguyễn Đình Tỵ, Nguyễn Đình Đức, Nguyễn Đình Tưởng, Ngô Thiệu Thuyên, Ngô Bá Chinh, Nguyễn Thị Nhã. Đoàn của cả tỉnh gồm 43 người, xuất phát ngày 22/5/1945 (tức 11/4 năm Ất Dậu). Không may khi đến Vân Hán (Thái nguyên), đoàn bị quân Nhật phục kích, bắt toàn bộ. Nguyễn Đình Tỵ và Nguyễn Đình Đức bị giặc bắn chết ở cầu Gia Bảy. Đây là hai liệt sỹ cách mạng đầu tiên của thôn Lại Đà.
Ngày 9/5/1945 phát xít Đức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Hoạt động Việt Minh ở Lại Đà gần như chuyển ra công khai. Các đoàn thể cứu quốc như, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng được củng cố. Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, thể thao, phát triển rộng khắp trong làng. Tổ chức Việt Minh còn lập hẳn một thư viện ở giữa làng, trong đó truyền bá sách báo, tài liệu nói về cách mạng. Khẩu hiệu của thư viện là "Nâng cao dân trí", nên dễ truyền bá và đi vào lòng dân. Ông Ngô Thiệu Níp và các thanh niên Việt Minh còn làm nhà lá để tổ chức khâu nón, danh nghĩa là lập hội ái Hữu, nhưng thực chất là tập hợp hơn 30 thanh niên học tập, rèn luyện, để làm nòng cốt cho tự vệ cách mạng sau này. Công tác chuẩn bị vũ khí cũng được tích cực triển khai. Lực lượng Việt Minh thôn đã cử người đi mua một khẩu súng ở ấp Đức Giang, đồng thời bí mật thuê người rèn dao găm, kiếm, mã tấu và hơn 20 chiếc nỏ cho tự vệ luyện tập.
Ngày 3/8/1945 (tức 26/6 năm Ất Dậu) nhân đám tang cụ Đám Ruông, một cuộc rải truyền đơn nổi tiếng đã diễn ra tại làng. Cuộc rải truyền đơn được chuẩn bị chu đáo, có người canh gác, cảnh giới cẩn thận. Khi đám tang qua gần gốc cây sanh ở giữa làng, truyền đơn được tung ra, tổ Việt Minh còn cử người đọc truyền đơn và kêu gọi nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa.
Ngày 18/8/1945 (tức 11/7 năm Ất Dậu) lực lượng Việt Minh thôn đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tại sân đình. Các chức dịch trong làng phải nộp sổ sách và triện đồng, chấm dứt chế độ cũ. Ông Ngô Quý Cư vừa thoát khỏi nhà tù Hoả Lò, kịp về quê tham gia khởi nghĩa, ông đã diễn thuyết trong cuộc mít tinh và nói về lệnh tổng khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và tuyên bố, chính quyền đã thuộc về tay nhân dân. Một lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước đình làng. Lá cờ này do tổ Việt Minh thôn ngầm móc nối với bên ngoài, may từ những ngày chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Ngày 20/8/1945 Uỷ ban cách mạng lâm thời thôn Lại Đà được thành lập, do ông Ngô Quý Khoáng làm Chủ tịch. Những ngày đầu cách mạng, các phong trào trong làng rất sôi nổi: tập luyện quân sự, thể dục buổi sáng, bơi lội... Ngay từ sáng sớm hàng trăm thanh niên, nam giới thì quần đùi, áo cánh, nữ giới thì áo ngắn, quần thâm bó ống, chạy dọc đường làng. Cứ một quãng, họ lại hô to khẩu hiệu:"Đả đảo Nhật -Pháp", "Tiễu trừ Việt gian", "Việt Nam độc lập",... Rồi sau đó họ cùng nhau hát vang các bài ca cách mạng: "Cùng nhau đi hùng binh... ", hay "Diệt phát xít, giết bầy chó đê hèn của chúng...". Cứ thế đoàn người diễu hành suốt từ đầu làng Trong, ra đầu làng Ngoài. Ban ngày họ tập võ, múa gậy, đấu đao, bắn nỏ, tập bơi... ban đêm tập văn nghệ. Trong không khí sôi động của cuộc cách mạng Tháng 8, ngay từ buổi đầu vừa giành được chính quyền, cùng với các tầng lớp khác, thiếu niên, nhi đồng cũng được thu hút, tham gia vào phong trào. Các đội viên đợc phân làm hai lớp, lớp lớn gọi là thiếu niên tiền phong, lớp nhỏ hơn gọi là nhi đồng cứu vong. Hàng ngày, đội thiếu niên, nhi đồng được tập quân sự, học hát,... Phụ trách đội là các anh chị: Nguyễn Đình Tưởng, Vương Hữu Phong, Vương Thị Tuân, Vương Thị Bẩy, Nguyễn Thế Thạch,...
Một nét đặc biệt của Lại Đà trong những ngày cách mạng Tháng 8 là hoạt động của thư viện thôn. Thư viện đặt tại nhà hội đồng cũ (tại vị trí nhà mẫu giáo ngày nay). Các thành viên chủ chốt gồm những người có trình độ Tây học từ Hà Nội về làng và những người có học ở làng, như các ông: Tú Bảo, Cử Huấn, Ngô Quý Cư, Ngô Bá Hoè, Vương Khắc Trắc, Ngô Quý Khoáng,...
Sách vở, báo chí của thư viện do sự đóng góp từ các tủ sách gia đình, hay sự hảo tâm của mọi người. Ngoài một số tài liệu, sách báo cách mạng, thì đa số là sách của Tự lực văn đoàn, sách truyện thiếu nhi của Lan Khai,... Phụ trách thư viện là ông Ngô Bá Hoè, hàng ngày thường trực ở thư viện còn có cô Trinh Thị Thoa. Thư viện có quả địa cầu, ông Hoè chỉ dẫn cho mọi ngời về các nước trên thế giới. Thanh thiếu niên có trình độ biết đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ, đến thư viện đọc sách báo rất đông. Ngoài là nơi đọc sách báo, thư viện còn là "Phòng thông tin", tham gia tuyên truyền về vệ sinh, có tranh vẽ hay khẩu hiệu vận động mọi ngời giữ gìn vệ sinh, uống nước sôi, không rửa mặt bằng nước ao tù, nhà cửa cần thoáng mát, chế diễu bọn xôi thịt, rượu chè,... Một hoạt động đáng chú ý nữa ở thư viện là ra tờ báo của làng với tên gọi "Lại Đà Tân Thanh". Ở một làng quê "bùn lầy nước đọng", thư viện Lại Đà thực sự là một luồng ánh sáng do cách mạng mang đến. Tiếc rằng thời gian hoạt động của thư viện cha được bao lâu, thì đất nước bước vào cuộc chiến tranh, thư viện của làng không duy trì được nữa.
Vào tháng 4/1946 xã Hội Phụ tiến hành bầu Hội đồng nhân dân xã, số đại biểu gồm 21 người. Hội đồng nhân dân xã bầu ra Uỷ ban Hành chính xã, thay thế Uỷ ban Cách mạng lâm thời; vị chủ tịch đầu tiên của Uỷ ban Hành chính xã là Ông Nguyễn Bá Bảo (Tú Bảo). Sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, để lãnh đạo lực lượng tự vệ sẵn sàng chiến đấu, tháng 7/1946 bên cạnh uỷ ban hành chính, mỗi xã thành lập một một uỷ ban Kháng chiến, vị Chủ tịch UBKC đầu tiên của xã Hội Phụ là ông Ngô Thiệu Lữ.
Chín năm kháng chiến chống Pháp
Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, chính quyền lâm thời đã tổ chức một đợt tuyển quân vào Vệ quốc đoàn, Lại Đà có anh Vương Hữu Tống và Ngô Duy Lộc xung phong vào đoàn quân Nam tiến. Đây là những bộ đội đầu tiên của làng. Ngày 2/2/1952 ông Vương Hữu Tống đã anh dũng hy sinh.
Cuối năm 1946, để đề phòng tình huống chiến tranh có thể xảy ra, tháng 11/1946, huyện Từ Sơn được chia ra làm 5 khu quân sự, Lại Đà nằm trong khu Độc Lập. Cuối tháng 11/1946 đội du kích khu Độc lập được thành lập, có nhiều chiến sỹ tiêu biểu trong đội du kích ấy là người làng ta, như Nguyễn Đình Uẩn, Lương Văn Định, Nguyễn Đình Tưởng, Vương Khắc Thuyên, Nguyễn Thị Quý. Đội du kích khu độc lập ngày ấy được phiên chế làm 3 trung đội, Đại đội trưởng là Nguyễn Xuân Trọng, chính trị viên là Đỗ Văn; 3 trung đội trưởng trong đó có hai người làng Lại Đà là: Vương Khắc Thuyên, Nguyễn Đình Tưởng. Đội có nhiều chiến binh quốc tế như: người Nhật Bản có Ái Việt; Cao Kỳ Phúc (huấn luyện viên trưởng); người Trung Quốc có La Bảo Khanh; người Đức có Hen-ri  Gioóc-giơ. Sau này ông Nguyễn Phú Tưởng đi bộ đội, về hưu ở hàm trung tá.
Ngày 20/12/1946 Đài Tiếng nói Việt Nam phát lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chủ tịch. Cùng cả nước, nhân dân Lại Đà hào hùng bước vào cuộc kháng chiến. Trận đánh đầu tiên là du kích phối hợp với bộ đội địa phương đóng quân ở một số làng và trại Lam Sơn, chặn đánh tàu và ca nô của địch trên sông Đuống, đoạn Đông Trù - Đông Ngàn
Tháng 1/1947 để thống nhất lực lượng, tập trung cho đánh địch, Uỷ ban Kháng chiến và Uỷ ban Hành chính của xã được sáp nhập làm một, gọi là Uỷ ban Kháng chiến hành chính.
Vào 27/3/1947 (tức 5/2 năm Đinh Hợi) giặc Pháp tổ chức một trận càn lớn, gồm khoảng 500 lính Âu Phi, có xe cơ giới và máy bay yểm trợ. Giặc xuất phát từ Dốc Vân, chia làm 2 mũi, một mũi hướng theo quốc lộ 3, một mũi theo đường đê, tạo thế gọng kìm để tiêu diệt lực lượng khu Độc Lập và triệt hạ pháo đài Xuân Canh. Tại Mai Hiên đã diễn ra trận đánh quyết liệt giữa ta và địch. Một nhóm của đội du kích khu độc lập rút sang xóm Nhồi, xóm Mít của Cổ Loa. Trận chiến đấu này, trên địa bàn xã Đông Hội có 6 du kích hy sinh, trong đó hai du kích là người làng ta: Nguyễn Đình Uẩn và Lương Văn Định. Đây là những liệt sỹ đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp của Lại Đà. Du kích Nguyễn Thị Quý đã tham gia chôn cất hai liệt sỹ trên.
Để phù hợp tình hình mới, sau trận càn này, Huyện uỷ Từ Sơn quyết định giải thể đội du kích khu Độc Lập và tổ chức du kích xã. Tháng 9/1947 nắm đợc ý đồ bình định vùng đồng bằng quanh Hà Nội của thực dân Pháp, Huyện uỷ Từ Sơn kêu gọi nhân dân trong huyện chuẩn bị đối phó với âm mưu trên của giặc và chủ trương triển khai lập làng chiến đấu. Lại Đà được Huyện uỷ Từ Sơn chọn là một trong những nơi xây dựng làng chiến đấu điển hình của khu Độc Lập. Huyện cử cán bộ trực tiếp về hướng dẫn công tác này. Xung quanh làng được rào kín, chỉ ra vào được qua 2 cổng làng. Cổng làng luôn có du kích canh gác, phải có mật khẩu mới được ra vào làng. Trong các xóm, người làng đào hầm bí mật, và đường banh lao -  xóm nọ với xóm kia có những con đường nhỏ, đào xuyên tường từ nhà này sang nhà khác và đào ngầm qua ngõ xóm. Các trục chính của đường làng được đào hình chữ chi để làm chậm bước tiến của giặc. Bên trong lũy tre là các giao thông hào. Lại Đà có được những kết quả trong cuộc chống cần, ngoài ý chí kiên cường bất khuất của dân làng, cũng phải nhắc đến yếu tố hết sức quan trọng khác, đó là sự trợ giúp của cấp trên. Thời kỳ đó du kích Lại Đà được ban chỉ huy huyện Đa phúc huấn luyện kỹ thuật, sau đó là bộ đội huyện Từ Sơn. Một trong những bộ đội huyện Từ sơn huân luyện cho du kích Lại Đà là ông Ngô Hương Canh, ông là rể Lại Đà. Cũng không thể quên được sự phối hợp của  đội du kích Ngọc Thuỵ. Du kích Ngọc Thuỵ ban ngày tập luyện ở các làng: Hội phụ, Trung Thôn, Lại Đà, đêm đêm vượt sông Đuống về Ngọc Thuỵ bám dân, bám làng chiến đấu.
Sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, địch thất bại trong chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh". Sang năm 1948, chúng buộc phải chuyển sang chiếm đóng, trọng tâm bình định của chúng là đồng bằng Bắc bộ, trong đó có vùng nông thôn quanh Hà Nội. Đấu tranh giữa ta và địch ở thế giằng co, ta muốn giữ, giặc muốn chiếm. Lại Đà trở thành mục tiêu triệt hạ của địch ở bờ Bắc sông Đuống. Cũng trong thời gian này, được sự bồi dưỡng và dìu dắt, ông Ngô Quý Cư vào đảng, tiếp đó  là ông nguyễn Phú Dự, nguyễn Phú Tạng. Ông Nguyễn Phú Tạng sau này từng là Chủ tịch UBND  huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
Đầu năm 1948 Uỷ ban KCHC xã Hội Phụ được kiện toàn lại và do ông Nguyễn Phú Nghìn làm chủ tịch. Để cho du kích và bộ đội rảnh tay đối phó với giặc, Uỷ ban tổ chức cho dân tản cư vào Liên Hà, nam giới và phụ nữ khoẻ mạnh ở lại làng chiến đấu và sản xuất.
Năm ngày sau, 21/3/1948 (tức 11/2 năm Mậu Tý), giặc Pháp tổ chức đợt càn thứ hai. Do lần trước bị thiệt hại nặng nề, nên chúng  rất cay cú, lần này giặc tăng cường lực lượng và thay đổi chiến thuật. Về phía ta, do biết trước mưu đồ của địch, nên chi bộ hạ quyết tâm, đập tan cuộc tấn công của địch. Trên tăng cường về thêm đội du kích Hoàng Hoa Thám và du kích Ngọc Thuỵ đang ém quân ở làng, các trận địa được củng cố vững chắn, đào thêm giao thông hào và hầm bí mật. Sáng đó khi trời còn mờ sương, tổ tuần tra của ta đã phát hiện thấy bọn lính Âu Phi và lính nguỵ rải quân phía Tây làng và đang áp sát luỹ làng. Lợi dụng trời còn tối, chúng phá mấy đoạn luỹ. Mọi động tĩnh của giặc không qua đợc con mắt của tổ trinh sát. Khi phá xong các đoạn luỹ ở xóm 2, xóm 3 và cổng bến, chúng nổ súng ở đầu làng Trong, nhằm nghi binh, giảm sự chú ý của ta về phía lũy. Tương kế tựu kế, ở hướng đầu làng Trong, ta cũng nổ súng, giả như mắc mưu giặc, nhưng lực lượng tập trung vào cánh quân sẽ chèo qua luỹ làng.  Khi qua luỹ và áp sát vào đường làng, nhiều tên giặc bị sa xuống hầm chống và vướng mình, chúng còn bị đạn du kích bắn ra, nhiều tên bị thương kêu la thảm thiết, có tên bị vướng chông, bọn giặc phải khiêng cả bàn chông ra đồng để cứu chữa. Bị chống trả quyết liệt, địch từ luỹ làng và nghè dùng súng AT (loại đạn xuyên) bắn xối xả vào làng. Nhiều nhà tranh bị trúng đạn, bốc cháy. Vừa chiến đấu, du kích vừa thực hiện nhiệm vụ cứu chữa các nhà dân giặc bắn cháy. Xóm làng mịt mù trong khói lửa, có nhà cháy sụp, gây tử vong một cụ già. Địch liều chết tiếp tục xông vào làng, nhưng đều bị đánh bật ra. Biết không thể vào được làng và cũng để hỗ trợ cho quân lính rút lui, chúng dồn dập bắn đạn cối và AT vào làng. Những vết đạn ngày ấy, đến nay còn thấy ở cổng xóm 2, cổng xóm 3.
Sau hai trận chống càn thằng lợi, ta rút ra đợc nhiều kinh nghiệm, du kích đặt mìn ở những nơi xung yếu và tập luyện tình huống để đối phó với giặc. Mọi người dân sẵn sàng quyết chiến với quân giặc. Ông Ngô Thiệu Níp từng thách thức trên loa với giặc, chúng “có giỏi”, thì tấn công vào làng. v.v.
Trận càn thứ ba của giặc Pháp diễn ra vào sáng sớm ngày 27/4/1948 (tức 19/3 năm Mậu Tý). Lần này chúng huy động hơn 100 tên, đánh theo hai hướng. Tại hướng Bắc, chúng phá một đoạn rào ở ngõ Ngang, rồi đột nhập vào trong làng. Khi chúng tiến đến xóm 4, du kích Ngô Thị Nhàn nấp trong nhà ông Nguyễn Phú Nghìn, đã giật mìn, làm 2 tên giặc chết ngay tại chỗ. Địch tung lựu đạn vào nhà ông Nghìn, nhưng du kích kịp thời rút sang xóm 2, xuống hầm bí mật. Hướng Nam, địch men theo bờ ruộng, phá rào làng để vào xóm 14. Ở cuối xóm 14 và gần vườn chùa đã có sự bố trí của một tổ du kích, do Uỷ viên quân sự Nguyễn Phú Dự chỉ huy. Khi quân giặc lọt vào ổ phục kích, nữ du kích Quý giật mìn, phối hợp với các du kích khác tiêu diệt 2 tên địch và làm bị thương 4 tên nữa. Giặc cậy đông hô hét truy đuổi, nhưng du kích nhanh chóng rút sang xóm 13 và xuống các hầm bí mật. Quân giặc tràn vào đốt nhà, cướp bóc của cải và giết hại dân lành. Riêng ngày 27/4/1948 (19/3 Mậu Tý), giặc Pháp đốt cháy nhiều nhà cửa và giết hại 8 người làng. Sau trận chiến đấu này, tiểu đội trưởng Nguyễn Thị Quý và du kích Ngô Thị Nhàn đi dự hội nghị tuyên dương, hai người ngồi trên chủ tịch đoàn và được trao giấy khen chiến sĩ thi đua đánh Pháp của huyện.
Ngày 4/7/1948 (tức 28/5 năm Mậu Tý) giặc lại tổ chức càn quét. Trận càn này chúng vây làng từ nửa đêm, sáng sớm thì đánh vào trại Tây Sơn. Xã đội phó Nguyễn Phú Dự và một số du kích vận động từ đình xuống trại Tây Sơn để triển khai du kích đánh địch. Giặc cậy nhiều đạn, bắn như mưa rào, du kích Nguyễn Văn Đầm hy sinh, đ/c Dự bị thương nặng, bò được vào một nhà dân. Số du kích còn lại rút xuống hầm bí mật. Đ/c Dự được đa đi cứu chữa, nhưng vì vết thương quá nặng, nên đã hy sinh. Sau trận đánh này, toàn Khu độc Lập đã tổ chức học tập gương 3 liệt sỹ, trong đó có 2 ngời làng ta là Nguyễn Phú Dự và Nguyễn Văn Đầm.
Cay cú vì nhiều lần tiến đánh mà đều bị thất bại, từ mùa thu 1948 đến mùa xuân 1949, địch 3 lần càn quét làng chiến đấu Lại Đà.
Ngày 29/7/1948 (tức 23/6 năm Mậu Tý), hơn một trăm lính Âu Phi và một bộ phận quân nguỵ do Quản Vượng chỉ huy, một cánh xuất phát từ cầu Đuống, một cánh xuất phát từ Gia Lâm, vây Lại Đà vào lúc nửa đêm. Khoảng 4 giờ sáng, cánh quân từ cầu Đuống áp sát cầu Gạch, cách đầu làng Trong chừng gần 200 mét, chúng cho một bộ phận rẽ về phía Tây lũy làng, thẳng ra trại Tây Sơn.
Sáng sớm hôm đó, khi trời còn mù sơng, Đội trưởng đội du kích Lơng Văn Uông và du kích Nguyễn Phú Hịch đi tuần. Trước đó có cụ Nguyễn Phú Dụng dắt trâu đi cày sớm. Qua cổng làng, đến nghè thì cụ Dụng phát hiện có địch. Vì bọn giặc muốn bí mật, nên chúng không nổ súng, cụ Dụng vứt cày, bơi vọt qua luồng chạy thoát. Khi nhìn qua cổng làng, hai du kích thấy bọn lính Pháp lố nhố ở cửa nghè, họ vội vàng đóng sập cổng lại, rồi thổi còi báo động và chạy về xóm 8.  Du kích của làng và du kích Ngọc Thuỵ đang đóng ở đây biết có địch. Bị lộ, giặc nổ súng loạn xạ, nhưng vì cổng làng vững chắc, lại được cài chặt, nên chúng phải phá một đoạn luỹ ở ngõ Ngang, xông vào. Cùng lúc, cánh quân khác cũng dồn dập nổ súng. Cánh quân của Quản Vợng xuất hiện sau cùng, chúng từ đê kéo vào. Cánh quân phía đầu làng Trong sau khi phá luỹ ở ngõ Ngang, tiếp tục phá cánh cổng làng, rồi theo đường làng xông vào. Chúng chia quân vào các xóm, lùng sục. Vào xóm 2, chúng đạp cổng nhà cụ Túc. Thấy cụ ở sân, chúng bắn ngay. Ông Nghĩa, con trai cụ, đang núp trong nhà, cũng bị chúng bắn chết. Đến đầu xóm 14  gặp cụ Thơ Nhưỡ đang dắt trâu đi cày, chúng xả súng bắn chết luôn. Vào nhà ông Phúc ở đầu xóm 4, bắt được ông Xây, chúng đâm chết, rồi mổ bụng ông. Vào đến giữa xóm 4, chúng xông vào nhà cụ Đám Mần. Tại gian bếp, một nhóm các cụ già đang túm tụm ngồi, gồm cụ Mần ông, cụ Mần bà, cụ Bào (các cụ đều ngoài 70 tuổi), bà Hài, bà Sỹ và con trai hai bà,... bọn giặc cứ súng tiểu liên xối xả bắn vào họ. Chỉ trong tích tắc, 7 người bị giết. Sau đó chúng vào nhà cụ Kiểm, thấy con trâu buộc trong chuồng, chúng xả đạn bắn vào chân, vào bụng con vật. Con trâu ngắc ngoải, tận đến chiều mới chết. Sau khi lục soát các xóm, bọn giặc kéo ra bờ đầm, bà con ẩn nấp trong bụi táo gai, bị chúng lôi ra. Họ bị đánh đập, cưỡng bức, những người khoẻ mạnh, bị chúng lôi đi.
Toán giặc ở đầu làng Ngoài cũng dã man không kém, gặp ai chúng cũng đánh đập, bắn giết. Chưa tiêu diệt đợc du kích, địch quay ra dùng kế nghi binh, giả vờ rút lên đê sông Đuống, rồi bất ngờ quay lại và chúng bắt được nhiều người từ dưới hầm mới chui lên. Trong trận càn này, 40 người bị chúng bắt đi, 21 dân lành bị chúng giết. Đảng viên Ngô Bá Vy, dù bị địch bắt và tra tấn hết sức dã man, nhưng vẫn không hề khai báo. Đây là trận càn giặc gây tổn thất lớn nhất với dân làng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đầu năm 1949, do sự thay đổi của cục diện kháng chiến, UBKCHC huyện Từ Sơn chủ trương ghép nhiều xã nhỏ thành một xã lớn. Tháng 3/1949 ba xã Hội Phụ, Song Đông và Tiên Hội đợc sáp nhập làm một, lấy tên là xã Đông Hội, đ/c Ngô Ngọc Toàn được chỉ định là chủ tịch UBKCHC xã. Tháng 3/1949 Chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương xã Đông Hội được chính thức thành lập, số đảng viên toàn xã lúc này là 30 người.
Ngày 8/11/1949, để phù hợp với tình hình mới, Chi bộ xã Đông Hội tổ chức đại hội lần thứ nhất, tham gia đại hội có 30 đảng viên và bầu ra ban chi uỷ gồn 7 đồng chí, do đ/c Ngô Ngọc Toàn làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đảng Cộng sản Đông Dương xã, các tổ chức đoàn thể và quần chúng được tiếp tục củng cố. Đặc biệt đội thiếu niên cũng được thành lập ở một số làng, trong đó nổi lên là hoạt động của Đội du kích thiếu niên thôn Lại Đà. Đội có 10 đội viên, do đồng chí Ngô Duy Thọ phụ trách.
Vào một đêm  giữa tháng 8/1950, xã đội trưởng và du kích Nguyễn Phú Giao bí mật về thôn Lại Đà. Hai đ/c bí mật gặp Ban hội tề và bảo an thôn để cảnh cáo, trấn áp, đồng thời tuyên bố cách mạng sẽ thẳng tay trừng trị, nếu họ còn tiếp tục hợp tác với giặc. Cả Ban hội tề run sợ, hứa thôi không làm việc cho địch. Ban tề tan rã. Biết là thất bại trong âm mưu lập tề, địch lại tăng cường vây ráp, khủng bố nhân dân và tìm diệt du kích. Cả mấy tháng trời làng xóm luôn trong tình trạng báo động. Địch vây ráp không theo quy luật, giờ giấc gì cả. Lúc chúng đi ban đêm, khi chúng vào ban ngày, nhiều cán bộ, du kích sa vào tay giặc, nhiều người đã nêu cao phẩm chất, khí tiết người cách mạng. Trong đợt này, du kích trẻ Lương Viên, lúc ấy mới 16 tuổi, dù bị địch tra khảo hết sức dã man, vẫn kiên quyết không khai báo.
Giữa năm 1951, địch tổ chức hai cuộc vây càn lớn vào Lại Đà và Hội Phụ. Tại hai thôn chúng đã phát hiện ra hơn 20 hầm bí mật và bắt đi hơn 10 đảng viên, du kích. Năm 1951 là năm tổn thất nặng nề nhất của phong trào cách mạng Đông Hội nói chung, Lại Đà nói riêng.
Năm 1952 địch đã củng cố lại ban tề ở thôn. Hoạt động của du kích, đảng viên hết sức khó khăn, ban ngày nằm hầm bí mật, ban đêm lên bám đất, bám dân để hoạt động. Cuối năm 1952 đảng viên Nguyễn Khắc Hảo bị địch bắt từ năm 1951, đã cùng bạn tù giết chết lính áp tải, vượt hơn một trăm cây số qua bốn tỉnh về làng tiếp tục hoạt động. Đến đầu năm 1953 một số đảng viên, du kích bị bắt đã tìm cách thoát khỏi nhà tù trở về bổ sung cho lực lượng của xã và thôn.
Đầu năm 1954, địch tại các đồn bốt quanh Đông Hội bắt đầu co cụm lại. Từ sau ngày 13/3/1954 khi những tin tức thắng lợi từ chiến dịch Điện Biên Phủ bay về, các ban Hội tề bắt đầu tan rã, lính địch trong các đồn bốt án binh bất động. Ngày 20/7/1954 chính phủ Pháp buộc phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ, thừa nhận nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 27/7/1954 lệnh ngừng bắn trên toàn quốc được ban bố, quân đội Pháp lần lượt rút khỏi các khu vực ở miền Bắc. Cuối tháng 9/1954, định rút khỏi các đồn bốt quanh Đông Hội, quê hương Lại Đà được giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Lại Đà có rất nhiều người tham gia  du kích, ngoài những người đã nêu ở phần trên cuốn sách, thì còn nhiều người khác, như Ngô Duy Thưởng, Nguyễn Phú Tiến, Nguyễn Văn Mai, Lương Văn Thang, Ngô Bá Mọi, Vương Hữu Tảo, Nguyễn Phú Hợi, Nguyễn Phú Tuyết, Vương Thị Nhi, Vương Thị Xuyến, Ngô Thị Vẹn, Ngô Thị Nhu, Ngô Thị Linh, Vương Thị Tịnh, Nguyễn Thị Nghĩ, Trịnh Thị Thoa, Nguyễn Thị Sức,v.v. Có gia đình cả hai vợ chồng cùng tham gia, như gia đình ông Nguyễn Khắc Hảo, bà Nguyễn Thị Quý; gia đình ông Nguyễn Phú Lục, bà Nguyễn Thị Sắc; gia đình ông Ngô Bá Vi, bà Vương Thị Bẩy, hay anh em cùng tham gia, như ông Nguyễn Phú Giao, Nguyễn Phú Dự; ông Nguyễn Đình Uẩn và bà Nguyễn Thị Thầu (chồng bà Thầu là liệt sỹ Lương Văn Duy);v.v... Đó là cha kể những gia đình có con em hoạt động, thì các bà mẹ, ông bố đều tham gia nuôi giấu, bảo vệ. Rất nhiều tấm gương du kích, cán bộ bị đích bắt và tra tấn hết sức dã man, nhng vẫn kiên trung với cách mạng, điển hình như: ông Nguyễn Khắc Hảo, bị đích bắt và tù tội tới hai lần; ông Ngô Bá Vy bị địch bắt tra tấn hết sức dã man;....
Bên cạnh hoạt động du kích chống càn và phá tề, nhân dân Lại Đà còn tích cực đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Ngay sau cách mạng Tháng 8 và những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều người Lại Đà đã từng đảm nhiệm những công việc quan trọng của xã, của thôn: ông Ngô Quý Khoáng (8/1945), chủ tịch Uỷ ban Lâm thời thôn Lại Đà; ông Nguyễn Bá Bảo (4/1946) chủ tịch Uỷ ban Hành chính xã Hội Phụ; ông Ngô Thiệu Lữ chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến xã Hội Phụ; ông Nguyễn Phú Nghìn chủ tịch UBKCHC xã Hội Phụ (1948). Tháng 8/1948 thực hiện phong trào "Công phiếu kháng chiến", nhiều gia đình tham gia, trong đó tiêu biểu có gia đình ông Ngô Thiệu Níp, mua hai phiếu, với số tiền 2.000 đồng (tương đương 20 tấn thóc). Tháng 9/1950 xã tổ chức vận động nhân dân góp gạo ủng hộ chiến dịch Biên Giới, mỗi gia đình ủng hộ từ 15-20 kg gạo, Chi bộ cử đ/c Ngô Bá Chinh phụ trách dẫn đoàn dân công vượt vòng kiểm soát của địch, theo tuyến Yên Phong - sông Cầu- Hiệp Hoà, giao gạo cho chiến khu ở huyện Phú Bình. Tháng 12/1950, nhiều thanh niên Lại Đà tham gia trong nhóm thanh niên xung phong lên vùng Kim Anh, Đa Phúc, phục vụ chiến dịch Trần Hưng Đạo từ 25/12/1950 đến 17/1/1951 và trong đoàn phục vụ chiến dịch Hoàng Hoa Thám ở đường 18 từ 20/3 đến 7/4/1951, có rất nhiều người Lại Đà tham gia như: bà Thầu, bà Cần, bà Tịnh, ông Phụng,...
 Đội du kích thiếu niên Lại Đà
Hơn năm mươi năm đã qua, giờ đây, những đội viên Đội du kích thiếu niên Lại Đà ngày nào, người thì đã hy sinh, người đã mất, còn lại họ đều ở cái tuổi "thất thập cổ lai hy".
Sau thất bại trong chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947, rồi chiến dịch Trung du 1948-1949, chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp hoàn toàn phá sản, từ năm 1949, định chuyển hướng chiến lược: quay về bình định các vùng đồng bằng và khu vực nông thôn quanh Hà Nội. Để thực hiện chiến lược này, chúng tăng cường thêm đồn bốt, tuyển thêm nguỵ quân và tổ chức lập Tề ở các làng. Quanh vùng Đông Hội, chúng lập thêm 4 đồn mới, một ở Xép, một ở Lộc Hà, một ở Đông Trù và một ở Đông Ngàn. Lính địch ngày đêm càn quét, lùng bắt cán bộ, du kích, đồng thời chúng ráo riết lập các Ban tề, đến tháng 3/1950, ban tề lần lượt ra đời ở các làng. Trước tình hình trên, Chi bộ đề ra nhiệm vụ: giữ vững cơ sở đảng và chính quyền trong lòng địch; thực hiện phá tề, trừ gian, quấy rối hậu phương địch; huy động sức người, sức của chi viện cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Vào thời điểm này, Huyện uỷ Từ Sơn phát động phong trào: học tập "Đội du kích thiếu niên Đình Bảng". Lại Đà là một trong những cơ sở mạnh của xã về mọi mặt, nên được chỉ đạo thành lập đội du kích thiếu niên. Đội du kích thiếu niên Lại Đà đã ra đời trong những ngày khói lửa hào hùng ấy. Đ/c Ngô Duy Thọ, được Chi uỷ cử trực tiếp tổ chức, chỉ đạo Đội. Với phương châm bí mật, gọn nhẹ, đ/c chọn được 10 thiếu niên dũng cảm, gan dạ. Các đội viên gồm: Lương Văn Ly, Lương Văn Bái, Lương Văn Tý, Vương Hữu Liên, Ngô Thiệu Tuất, Ngô Duy Trụ, Nguyễn Phú Giao, v.v. và đội trưởng là Lương Viên. Sau khi thành lập, các đội viên được dự một khoá huấn luyện cấp tốc: học cách sử dụng vũ khí; học thông tin liên lạc; công tác địch vận; trinh sát,... Sau khoá huấn luyện, đội được tổ chức thành 3 nhóm, mỗi nhóm lại được đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực.
Đội viên Đội du kích thiêu niên ngày ấy, Vương Hữu Liên, năm nay 70 tuổi, hồi tưởng lại: "Hồi đó tôi ngời nhỏ bé, nên đợc phân công làm liên lạc. Một buổi sáng, tôi nhận nhiệm vụ chuyển công văn xuống cơ sở Đông Trù. Lúc đó bọn địch thường tung thám báo, chỉ điểm khắp nơi. Để tránh con mắt nhòm ngõ của địch, tôi ăn mặc rách rới, đeo giỏ, cầm cần câu, giả như người đi câu. Tôi vòng qua Hội Phụ, sang Lê Xá, rồi xuống đầu làng Đông Trù. Sau khi quan sát, thấy tín hiệu báo an toàn, tôi đến địa điểm và nói mật khẩu, cớ sở tiếp nhận công văn, tôi trở về an toàn. Ngoài chuyển công văn, chúng tôi còn tham gia nhiều công việc khác, ví dụ như trinh sát, liên lạc, bảo vệ các cuộc họp bí mật. Chúng tôi chốt ở các điểm xung quanh nơi họp, nếu có động, thì báo cho mọi ngời biết, mà rút đi an toàn. Một lần vào rằm tháng 8, bọn giặc ở quận Vạn Lộc tổ chức cho thiếu nhi rước đèn, chúng bày cả bánh kẹo để mua chuộc dân chúng. Lại Đà cũng cử mấy chục thiếu niên rước đèn lên Vạn Lộc. Đến gốc sanh giữa làng, tôi gặp ông Ngô Thiệu Níp, lúc đó ông là Bí thư chi bộ Lại Đà. Tôi chào, ông ngầm ra hiệu, cứ đi đi. Vào khoảng chín, mời giờ tối, đám rước đang nhộn nhịp, chúng tôi hát vang những bài hát kháng chiến (vì địch không có bài hát cho thiếu niên), thì chợt nghe tiếng trống đổ dồn, tiếng reo hò vang vọng khắp các làng. Bọn đích hốt hoảng, xua chúng tôi về. Đám rước tự dưng tan tác như ong vỡ tổ. Về đến làng, tôi được tin Ban tề đã bị phá. Các làng trong vùng cũng vậy.
Ông Lương Văn Ly thì kể về những chuyện quấy đảo bọn giặc: "Ngày ấy bọn địch đóng ở các đồn thường liên lạc với nhau bằng điện thoại. Vào những đêm tối trời, chúng tôi theo du kích lên quốc lộ 3 cắt dây điện thoại. Để chuẩn bị cho việc cắt dây điện, buổi chiều, một số đội viên  ra quốc lộ 3, quan sát địa hình. Từ Đống Lủi đến Tiên Hội là đoạn trọng tâm, chúng tôi thờng trinh sát. Nhóm đi cắt dây điện được chia thành nhiều tốp. Cắt dây ở một cột điện, thì có 4 người cảnh giới tại hai phía, một người trèo lên cột, hai người ở dới cuộn dây lại. Cắt xong cột này, sẽ chuyển sang cắt tiếp dây cột khác. Dụng cụ cắt dây điện là dao găm và lựu đạn. Trèo lên cột, nghéo chân vào đầu cột, một tay rút lựu đạn ra làm đòn kê, tay kia dùng dao găm chặt dây. Dịp ấy tổng cộng có 6 đợt cắt dây điện. Để bất ngờ, làm cho địch không đề phòng, các lần cắt dây điện bố trí cách nhau độ hơn một tháng. Dây điện cắt xong, khiêng về Trung Thôn, quẳng xuống ao. Mỗi lần bị cắt dây điện, lập tức hôm sau địch tung quân đi càn, lùng sục du kích. Do chúng tôi hết sức  cảnh giác, nên bọn địch chẳng làm được gì. Cũng có lần chúng
tôi đi phá quốc lộ 3. Cứ mỗi lần quấy nhiễu, đánh phá như vậy, bọn địch hoảng hốt, mất ăn mất ngủ, còn anh em thì hào hứng vô cùng.
Đội trưởng Đội du kích thiếu niên ngày nào - Lương Viên - hồi tưởng lại chuyện xa, ông kể: "Vào những năm 1949-1951, tình hình rất căng thẳng. Giặc vây càn bất cứ lúc nào, cho nên không có hầm bí mật, thì du kích không thể hoạt động được. Thường mỗi người có từ hai, đến ba hầm, một hầm cho mình, còn lại dành cho khách. Hầm của ai đào, chỉ riêng người ấy biết. Ngày đó tôi đào một cái hầm ngay dưới bệ thờ trong nhà. Một hôm, bọn địch ở bốt Lộc Hà, cùng hàng chục tên tề phản động, có cả chỉ điểm, kéo vào nhà tôi. Do bị bất ngờ, tôi, anh Ly và xã đội trưởng vội xuống hầm. Mẹ tôi (cụ Phi) vừa kịp xoá xong dấu vết và nguỵ trang cửa hầm, thì chúng ập vào. Chúng lục soát khắp nhà. Một lúc khá lâu, mà chúng vẫn không tìm thấy dấu vết gì. Chán rồi, chúng đành phải rút lui. Do có một tên chỉ điểm nói gì đó, bọn chúng quay lại, lùng sục tiếp. Tìm trong nhà không thấy, chúng ra ngoài vườn tìm kiếm. Được một lúc, thì chúng tìm ra lỗ thông hơi ở dưới bụi duối sau nhà cụ Tàu. Cả lũ liền xúm vào đào bới. Cuối cùng, chúng tìm ra hầm bí mật. Hàng chục mũi súng chĩa xuống hầm. May cho chúng! Nếu lúc đó mà chúng tôi có súng, hay lựu đạn, thì khối đứa chết! Tất nhiên, mình cũng hy sinh. Chúng kéo ba người ra khỏi hầm. Xã đội trưởng bị chúng đánh dã man nhất, "chết đi sống lại" nhiều lần, còn tôi và anh Ly, cũng bị đánh tối tăm mặt mũi, máu me đầm đìa. Mọi người đều cắn răng, không khai nửa lời. Cuối cùng, chúng trói cả ba ngời lại, lôi về bốt Lộc Hà. Xã đội trưởng bị chúng nhốt vào hầm đặc biệt, còn tôi và anh Ly bị nhốt vào khu hầm khác. Sau đó chúng đa Xã đội trưởng sang Hà Nội. Vì tôi và Ly còn ít tuổi, mới mời sáu, mời bảy, dân làng lại đấu tranh mạnh mẽ, địch lại không khai thác đợc gì và cho là trẻ con, nên chúng đành phải thả hai đứa ra. Sau dịp ấy, chúng tôi rút vào hoạt động bí mật.
Lần thứ hai tôi bị bắt vào năm 1951. Trận này chúng quây sớm. Anh cán bộ huyện vừa kịp rút xuống hầm ở bờ ao Chùa. Ông Phụng thì xuống hầm ở bụi tre ngay cạnh đường. Tôi chạy xuống bờ đầm. Đến bờ ao nhà cụ Tàu, tôi thấy lũ Tây đen lố nhố, đành phải quay lại. Định trú vào căn hầm bí mật ở đầu nhà, nhưng do nước ngập, tôi đành phải trèo lên mái nhà gian tiền tế. Nó được che khuất bởi cái mái bếp. Ở dưới đất bọn địch khá đông. Chúng lùng sục khắp các xó xỉnh, mà không tìm thấy gì. Khoảng giữa tra, bọn chúng quay ra đình. Một lúc sau, không hiểu sao, lại thấy chúng quay lại. Một thằng Tây lai trèo lên nóc bếp để chỉ huy, nó đã phát hiện ra tôi. Cả lũ xúm vào đấm đá, đánh đập, cứ giầy xăng đá, mũi súng chúng thúc vào bụng, vào ngực tôi. Đánh chán, mà chẳng tra xét đợc gì, cuối cùng, địch giong tôi ra đình. Đau đớn, nhng tôi vẫn cố lê bớc. Máu từ vết thơng trên đầu túa xuống mặt, xuống áo quần. Ra đến tam quan, tôi thấy hai du kích là anh Nguyễn Khắc Hảo và chị Ngô Thị Ky bị trói giật cánh khỉ, máu mê bê bết khắp người. Chúng kéo cả ba người ra ngoài đê, lẳng lên xe, đa về bốt Phủ Lỗ. Sau đó chị Ky bị đa về trại giam Nhà Tiền ở Hà Nội, còn tôi và anh Hảo bị đa lên đồn Quýt Lu, Vĩnh Yên. Đầu năm 1952, chúng đưa bọn tôi lên Hoà Bình, để phu dịch cho bọn lính Mường. Một hôm anh Hảo và mấy ngời bị chúng đa vào rừng chặt củi, do bàn nhau trước, lừa lúc tên lính gác sơ ý, họ xông vào chém chết, rồi bỏ trốn vào rừng. Mọi người tìm đờng sang Phú Thọ, rồi gặp đợc bộ đội. Sau đó anh Hảo quay được về làng, tiếp tục chiến đấu ở quê. Còn tôi, khoảng hai tháng sau, nhân lúc địch rút về Xuân Mai, đã trốn thoát. Cuộc vượt tù thật gian nan: Từ Chương Mỹ, qua Phú Thọ, sang đến phố Giá - Phổ Yên, vùng tự do, đờng đi hết sức nguy hiểm, khó nhọc. Nhận đợc tin tôi đến phố Giá, anh Tuyết vội lần sang, đón tôi về xóm Soi Cả, xã Ninh Sơn. Anh em gặp nhau, mừng vui, không nói lên lời. Năm 1953 đợc phép của địa phương, tôi thoát ly vào ngành điện ảnh VN"
Câu chuyện bi thương, uất hận vào ngày 29/7/1948 (23/6 năm Mậu Tý)
Những năm 1947- 1951 là những năm tháng chiến tranh ác liệt. Giặc Pháp thường vây bổ, càn quét xóm làng. Cuộc sống của dân làng bị đảo lộn. Để đề phòng quân giặc vây xóm, cứ chiều chiều, bà con trong làng phải sơ tán ra ngoài cánh đồng, hay đánh trâu, bò lên Cổ Loa, tránh qua đêm. Sáng hôm sau nghe ngóng, thấy yên ổn, bà con mới lục tục kéo về.
Ngày đó, tôi (Nguyễn Phú Sơn) cũng sống trong cảnh ấy, tối tối theo cụ Nga đi thuyền xuống Chuôm Cụ Vượng, ở giữa cánh đồng chiêm mênh mông, tránh giặc qua đêm. Hôm đó, không hiểu sao tôi lại ở nhà, nên khi giặc vây làng, đã không chạy kịp. Tôi đã chứng kiến những hành động dã man của giặc Pháp với dân làng.
Sáng sớm ấy dân làng nghe tiếng súng nổ. Mọi người nháo nhào đi ẩn nấp. Tiếng súng, tiếng hô hét, tiếng bước chân rẫm rịch diễn ra từ sáng đến quá tra. Rồi xóm làng thấy yên ắng. Tưởng giặc đã rút, mọi ngời lục tục dời chỗ ẩn nấp. Ai nấy đều hãi hùng trớc cảnh tượng: xác ngời bị bắn, người bị mổ bụng, người bị đâm chết nằm trong nhà, ngoài ngõ. Tôi và bố tôi (cụ Nguyễn Phú Bảng) vội đi tìm bà nội của tôi. Vào đến nhà cụ Mần, thì chúng tôi choáng váng, thấy đống xác người nằm ngổn ngang trong bếp. Ngay tại cửa bếp, những tút đạn còn vương vãi. Tôi nhìn thấy xác bà nội nằm trong đống xác ấy. Mọi người kéo đến, đa xác những người chết đi. Bố tôi đặt xác bà tôi lên chiếc chõng tre, khiêng cụ về nhà. Còn đang khâm liệm, chợt chúng tôi lại nghe thấy tiếng súng nổ và tiếng người hô hoán: Tây, Tây... Thì ra lũ giặc quay lại, chúng chỉ giả vờ rút lui.
Tôi vùng chạy ra bờ ao. Trong lúc chạy, tôi thoáng nhìn thấy cô Nghị tay ôm bọc quần áo. Cô còn chưa kịp chui vào bụi rào táo, thì bị trúng đạn giặc, xác cô nằm vắt qua cành táo, bập bềnh trên mặt nước. Bố tôi do không chạy kịp, đành trèo lên sàn gác, nằm dán mình trên đó. Hai thằng lính Tây xộc vào nhà, chúng dùng mũi súng hất chiếu đang phủ trên chõng, nhìn thấy xác bà nội tôi, chúng mới bỏ đi. Trận lùng sục, càn quét kéo dài gần 10 tiếng đồng hồ và vào khoảng 3 giờ chiều, quân giặc mới rút hẳn. Khi quân giặc rút rồi, mọi người lục tục ra khỏi nơi ẩn lấp, trở về nhà, ngời thì thu nhặt ván lát, người thì hạ cánh cửa để đóng quan tài. Dọc đường làng, ngõ xóm nhiều xác người đợc khiếng bằng võng, bằng chõng, hoặc bằng tấm ván,... nhất là ở xóm 4 và xóm 15, máu loang lổ trên đường, ruồi nhặng bâu đầy. Xóm làng rền rĩ tiếng khóc, tiếng cưa đục đóng quan tài, nghe thật oai oán. Bà con mấy làng lân cận nghe tin dữ, lục tục vác ca, đục, mai, cuống, sang giúp đóng quan tài và đào huyệt, chôn cất người đã khuất. Chiều tà trên những nấm mồ mới đắp, khói nhang nghi ngút. Ngay xẩm tối hôm ấy, hàng trăm gia đình lũ lợt gồng gánh, dắt díu nhau tản cư lên Cổ Loa, để lại một xóm làng hưu quạnh và uất hận.
Trong trận càn ấy, cả làng có tới 21 người bị giặc giết. Thê thảm nhất là gia đình ông Hài, cả 2 bà vợ và người con trai bị giết; nhà ông Sỹ, hai người bị giết; ông Vương Khắc Trư bị Tây chọc tiết,v.v.. Bọn giặc còn bắt đi 40 dân làng, họ bị  giam ở nhà máy rượu tại đầu cầu Long Biên. Do bị giam hãm và đói khát, 4 người nữa bị chết, như ông Nguyễn Phú Nghi, Nguyễn Văn Hương, ông Quận Tít,... Số còn lại chúng chuyển đến nhà Tiền (tức nhà máy in Tiến bộ bây giờ), sau đó họ bị bắt đi lao dịch, nên kẻ mất người còn.
Sau này còn nhiều trận càn khác, có những cái chết rất thương tâm. Như trong trận càn ngày 11/2/1949, cụ Thẩm đã ngoài bảy mươi tuổi, do ốm đau, không chạy được, giặc đốt nhà, bị chết cháy; cụ Trịnh Xuân Mão, ngoài bảy lăm tuổi, cũng bị chết cháy; một cụ nữa người họ Vương bị chúng lôi ra tam quan, rồi phi dao găm đến chết, sau đó chúng còn rạch bụng, moi ruột gan cụ.
Sau trận càn ngày ấy, cứ đến ngày 23/6 âm lịch, là ngày giỗ chung của nhiều gia đình trong làng. 55 năm đã qua, mà dân làng vẫn không quên được sự kiện bi thương và cả sự dã man của quân giặc.
Đội thiếu niên - nhi đồng (1954-1956)
Trước ngày giải phóng thủ đô, quân Pháp đóng ở các đồn quanh Đông Hội co cụm lại, chúng án binh bất động, nguỵ quân nguỵ quyền tan rã từng mảng, làng xóm không còn cảnh quân giặc lùng xục, bắt bớ.
Tháng 11/1954 Chi bộ phân công đ/c Ngô Duy Thọ trong ban chi ủy, đứng ra tổ chức đội thiếu niên nhi đồng Lại Đà. Khoảng 180 thiếu niên, thiếu nhi của thôn được tập trung và chia thành hai đội: Đội thiếu niên (khoảng 110 đội viên), Đội nhi đồng (khoảng 70 đội viên). Ban phụ phụ trách gồm: Tổng phụ trách Ngô Quý Diệm; phụ trách đội thiếu niên là các anh chị: Nguyễn Thị Quang, Vương Thị Hiền, Vương Thị Hợp, Vương thị Chung; phụ trách đội thiếu nhi gồm: Nguyễn Thị Khương, Ngô Quý Hưng, Đinh Thị Mão. Các đội chia thành các phân đội, mỗi phân đội thiếu niên gồm 12 đội viên, mỗi phân đội thiếu nhi gồm 10 đội viên. Hàng ngày các đội viên được tập trung để tập luyện, sinh hoạt, như tập nghi thức đội, tập đi đứng, tập văn nghệ...
Chuẩn bị cho ngày kỷ niêm 19/8 và Quốc khánh 2/9/1955 các đội viên được tập luyện để tổ chức cắm trại, như dựng lều, truyền tin, tìm dấu, tập văn nghệ. Tuy chiến tranh vừa mới chấm dứt, kinh tế còn rất nhiều khó khăn, nhưng chính quyền địa phương vẫn quan tâm, trang bị cho đội một bộ trống ếch, các gia đình thì lo cắt may cho con cái một bộ đồng phục - áo trắng quần xanh.
Nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, nhớ ơn các anh hùng liệt sỹ đã đem lại cho quê hương đất nước nền tư do độc lập, các đội viên được tổ chức tham gia phong trào "Toàn dân nhớ ơn liệt sỹ". Các đội viên còn tham gia các cuộc mít tinh phản đối đế quốc Mỹ can thiệp vào miền Nam, buộc chúng phải công nhận hoà bình, thống nhất đất nước theo hiệp định Giơ-ne-vơ.
Quanh các đồn bốt cũ, trên cánh đồng, vũ khí đạn dợc của giặc còn vung vãi rất nhiều, làm cản trở sản xuất. Khi có phong trào thu nhặt vũ khí, các đội viên đã hăng hái tham gia. Không chỉ thu nhặt ở quê, các đội viên còn sang tận Bắc Cầu, Gia Thượng, Đức Giang để thu nhặt. Chỉ trong mấy tháng phát động, các đội viên đã thu lượm được hàng nghìn viên đạn, nộp cho Bộ đội.
Phong trào văn nghệ được các đội viên hưởng ứng sôi nổi nhất. Các đội viên đợc tập những bài hát mới như: Nhớ ơn bác Hồ, Du kích ca, Hành quân xa, Hò kéo pháo, Bộ đội về làng, Nhanh bước nhanh nhi đồng, Chiến thắng Tây Bắc,...
Gần 50 năm đã qua, nay các đội viên thiếu niên nhi đồng ngày ấy đều đã ở cái tuổi ông bà, có người ở làng, có người thoát ly công tác, có ngời làm ruộng, có người là công nhân, có người là giáo viên, bác sỹ, có người đang giữ cương vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, nhưng dù ở vị trí nào, họ vẫn không quên được tuổi thơ trong Đội thiếu niên nhi đồng Lại Đà, hàng năm trong những buổi kỷ niệm gặp mặt, họ lại quần tụ, ôn lại chuyện sinh hoạt tập tành xa, chuyện đi thu nhắt súng đạn, những buổi cắm trại thuở nào. 
Thời kỳ Chống Mỹ
Anh Nguyễn Phú Thành, cha mẹ đã già, lại là con trai độc nhất, vẫn hăng hái tòng quân. Anh nhập ngũ ngày 12/4/1963. Ngày 30/7/1964, anh vượt Trường Sơn trên tuyến đờng 559. Nguyễn Phú Thành là người Lại Đà đầu tiên vào Nam chiến đấu. Nguyễn Đình Nham, hoàn cảnh gia đình thật đặc biệt, là con trai duy nhất của ông Nguyễn Đình Thi. Thời chín năm kháng chiến, khi Pháp lập tề, chi bộ cử ông Thi, ông Hợi, ông Chất, ông Ngô Bá Nhạ tham gia ban Hội tề "hai mang". Việc bị bại lộ, giặc tra tấn các ông hết sức dã man, nhưng mọi người nhất định không khai báo. Tiếp nối truyền thống gia đình, tháng 2/1961, Nguyễn Đình Nham tình nguyện nhập ngũ. Ngày 5/8/1964 anh vượt Trường Sơn vào Nam. Anh là người Lại Đà thứ hai vào Nam chiến đấu. Câu chuyện của anh cũng rất đặc biệt: Trong một lần máy bay B52 rải thảm, anh bị bom vùi lấp, đơn vị không tìm thấy. Đến khi tỉnh lại, thì đơn vị đã đi xa, anh phải nhập vào đơn vị mới. Tưởng anh đã hy sinh, đơn vị gửi giấy báo tử về gia đình. Dù nhận được giấy báo tử, vợ anh vẫn hy vọng và chờ đợi. Mãi sau này, chị mới có ý định tái giá. Đúng dịp ấy, vào tháng 2/1979 anh đã trở về. Một cuộc gặp mặt đầy hạnh phúc và có hậu. Với những chiến công, thành tích đạt được, Nguyễn Đình Nham được tặng thưởng 8 huân chương các loại.
Còn rất nhiều tấm gương khác: Anh Ngô Bá Toàn, lúc đó đang làm y tá xã, hoàn cảnh gia đình: mẹ già, vợ yếu, 3 con nhỏ, nhưng với tinh thần một đảng viên, anh đã tình nguyện lên đờng nhập ngũ, anh hy sinh ngày 27/7/1966.
Nguyễn Phú Vũ có bố là cán bộ đội TNXP, là anh lớn của một gia đình 7 anh em, Vũ giữ vai trò lao động chính giúp mẹ, nhưng anh vẫn gạt nước mắt, từ biệt mẹ gìa, tạm biệt người yêu, tình nguyện vào Nam chiến đấu. Có những gia đình, anh em sát cánh chiến đấu bên nhau cùng một mặt trận, như anh em Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Phú Long, cùng chiến đấu ở Quảng Nam. Nguyễn Phú Trọng đã hy sinh năm 1969... Nhiều chàng trai chưa đủ tuổi tòng quân vẫn hăng hái lên đường, như Vương Hữu Hùng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Phú Quyền. Nguyễn Phú Duy, sợ thiếu cân, lúc khám sức khoẻ phải nhờ người khác cân hộ. Bài thơ viết trước lúc lên đường vào mùa xuân năm 1966 của liệt sỹ Nguyễn Khắc Sửu, đã thể hiện tinh thần hăng hái ra trận của lớp thanh niên ngày ấy:
Xuân Bính Ngọ lên đường làm nghĩa vụ
Lòng tôi đây nh vó ngựa tung bay
Xa quê hương nay đó mai đây
Tiêu diệt giặc xâm lăng, thù đất nớc
Đêm ngày một lòng mơ ước
Ước những người tuổi tre măng tơ
Lúc ra đi bao lu luyến hẹn hò
Ngày thống nhất trở về xum họp
Cùng với những người mặt đối mặt với quân thù, còn rất nhiều thanh niên Lại Đà dũng cảm phục vụ chiến trường. Họ cũng phải chịu đựng mưa bom bão đạn, luôn có mặt trên nhiều cung đường, phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến đấu. Đó là các anh, chị: Lương Văn Chỉnh, Nguyễn Phú Dần, Ngô Thị Tỵ, Ngô Thị Bảo Vi,...
Kỷ niệm về họ, gia đình, bạn bè và dân làng mãi mãi không quên. Xin ghi lại dòng tâm sự của một trong số 37 liệt sỹ thời chống Mỹ - lá thư cuối cùng từ chiến trường Tây Nguyên của liệt sỹ Nguyễn Phú Vũ gửi về gia đình:
Mẹ kính mến!
Các em yêu quý!
Thưa mẹ! Con đã tới vị trí, con tranh thủ biên thư để mẹ biết tin.
Lời đầu tiên, con gửi lời thăm sức khoẻ các bà cùng các bác, cô, dì và anh chị, cùng tất cả các bác, anh, chị ở xóm 3 vẫn khoẻ mạnh và bình an, con mừng lắm!
Thưa mẹ! Khi con tới đơn vị, cũng là lúc đơn vị con vừa chiến thắng và lập một chiến công lừng lẫy trong loạt trận Pơ-lây-me, Đức Cơ,... càng tạo nên niềm tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh vô biên của tầng tầng lớp lớp người con dân tộc, xông lên, xốc tới chiến trường huy hoàng nhất.
Thưa mẹ! Hôm nay là hôm thứ 15 con đã ở đơn vị. Các đ/c của con cũng vừa chiến thắng bên kia sông trở về. Ở đây tuy là hậu cứ, nhng không khí sôi nổi, vui tươi, chuẩn bị cho trận chiến đấu tới. Không những chuẩn bị về tư tưởng, mà chuẩn bị cả những thứ nhỏ nhất là vòng nguỵ trang, dây giầy, dây dép,... thật chu đáo và cẩn thận. Song điều kiện chiến trờng cũng có nhiều khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về tinh thần, vật chất, tình cảm, thiếu thốn cả không khí lành mạnh của miền Bắc XHCN thân yêu. Mà ở đây, hình như tiếng bom rơi, đạn nổ choán hết cả tiếng động của vạn vật. Mắt thấy, tai nghe những đổ máu, hy sinh, những cái đáng kính, đáng quý nhất. Những người chiến sỹ cách mạng, những người con đã được truyền dòng máu hào hùng của một dân tộc anh hùng, họ đã không sợ hy sinh đổ máu, xông lên, xốc tới, xả thân mình vào chỗ khó khăn, gian khổ nhất.
Những khó khăn, những gian khổ, những thiếu thốn với họ, chỉ là những vật chết. Mẹ ơi! Trong cuộc sống quyện trong máu lửa, con phải làm gì đây? Hình ảnh mẹ hiền, hình ảnh em thơ, hình ảnh quê hương, làng xóm thân yêu, càng thấm sâu vào lòng con từng giây phút. Mẹ ơi! Con khao khát, dù chỉ một tin của gia đình, cũng làm con khoẻ hẳn lên. Mẹ ơi! Những chiều thầm gọi mẹ, lòng con xao xuyến, nghẹn ngào!
Đấy, những hình ảnh ấy, phải chăng đã tạo nên một bản anh hùng ca. Mẹ ơi! Con chắc giờ phút này đây mẹ đang mong chờ tin con tận phương Nam xa xôi và cách trở. Mẹ ạ, nhưng rồi đây con lại về với miền Bắc thân yêu!
Thưa mẹ! Còn trong giờ phút này đây, với nhiệm vụ nặng nề của Đảng, nhớ mẹ bao nhiêu, con càng phải thể hiện là một người chiến sỹ cách mạng bấy nhiêu. Nhất là một đảng viên, con càng phải làm thế nào thể hiện vai trò của mình trước quần chúng, sẵn sàng là một viên đạn xả xuống đầu thù, góp phần vào thắng lợi lớn là giải phóng dân tộc.
Mẹ! Còn về sức khoẻ hiện nay, con vẫn khoẻ. Còn anh Ước và Bổn, phân tán mỗi người một nơi. Đến nay con không biết. Chắc Ước và Bổn cũng khoẻ. Vào khoảng đầu tháng 4/1967 con gặp anh Ngọc nhà ông giáo Cầm làm giao liên ở đất Lào (Xa va na khét). Hai anh em nói chuyện với nhau cả ngày, cả đêm về tình hình nhà.
Mẹ ơi! Nếu mẹ có nhận đợc lá thư này, mẹ cho con biết tin nhà ngay nhé. Những lá thư con viết ở dọc đường, mẹ đã nhận được chưa? Hồi Tết con về, có chụp mấy pô ảnh, nhờ anh Các ở Đông Trù lấy hộ, mẹ có nhận được không? Gửi cho con mấy chiếc, cả ảnh mẹ và các em nữa, gói cẩn thận, gửi vào cho con. Nếu gửi vào, thì một lá thư gồm 2 phong bì, phong bì ở trong là gửi cho con, đề hòm thư là 44318 BK, còn phong bì ngoài đề là: Kính gửi hòm thư 43:910 KP là tới.
Thôi, thời gian không cho phép, con còn chuẩn bị đi làm nhiệm vụ. Cuối cùng, con chúc mẹ luôn khoẻ! Vì điều kiện, con không thể viết nhiều, mong mẹ thông cảm!
Chiều Tây Nguyên - Kon Tum 25/6/1967
Mấy chục năm chiến tranh vệ quốc, biết bao hy sinh, máu lửa, bao người con xả thân vì nước, bao bà mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng, rất nhiều người không bao giờ còn được gặp lại ngời thân của mình nữa và còn biết bao sự hy sinh thầm lặng, dai dẳng khác. Trong 10 năm (1966-1975) nhân dân Lại Đà đã gần 30 lần tổ chức tiễn đưa cho 116 thanh niên lên đường ra mặt trận, các anh chiến đấu tại các chiến trường: miền Nam, Lào, Căm Pu Chia và liệt sỹ đầu tiên thời kỹ chống Mỹ là Nguyễn Văn Cửu, hy sinh ngày 27/10/1965. Trong các cuộc kháng chiến, thì thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, làng ta có 149 người tham gia quân đội, trong đó 33 bộ đội chống Pháp, 116 bộ đội chống Mỹ, có 6 thương binh thời kỳ chống Pháp và 16 thương binh thời kỳ chống Mỹ; trong tổng số 60 liệt sỹ, thì thời chống Pháp là 15 liệt sỹ, chống Mỹ là 37 liệt sỹ và 8 liệt sỹ trong chiến tranh Biên giới. Trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp cá ba vị tham gia quân ngũ, ở hàm Trung tá là ông Nguyễn Xuân Tĩnh (nhập ngũ 1947), Nguyễn Huy Kha (nhập ngũ 1949) và Vương Khắc Tăng (nhập ngũ 1963) và Thượng tá là ông Vương Hữu Nguyên (nhập ngũ 1971).
Và còn rất, rất nhiều người, nhiều sự kiện, mà cuốn sách này chưa nếu hết được. Sự hy sinh, mất mát của họ, Tổ quốc, Quê hương mãi mãi trân trọng.
Khấu đội súng máy cao xạ bốn nòng 14 ly 5
Bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, lực lượng dân quân du kích Lại Đà được tăng cường và biên chế thành một đại đội, gồm một trung đội du kích và 2 trung đội dân quân, với biên chế tới 120 chiến sỹ, chia thành 3 bộ phận: bộ phận cứu thương, bộ phận cứu sập hầm và bộ phận trực chiến (tổ trực chiến đợc trang bị 1 tiểu liên, 20 súng K44)
Do tầm quan trọng của tuyến đường cùng 2 bến đò: Đông Trù và Đông Ngàn và để tăng cường hoả lực chiến đấu với máy bay Mỹ, Bộ tư lệnh quân khu Thủ Đô đã tăng cường cho xã Đông Hội một khẩu pháo 14 ly 5 bốn lòng và hai khẩu trung liên. Ngoài ra còn 6 đơn vị pháo phòng không đặt ở nhiều vị trí trên địa bàn của xã.
Xã đội cho xây dựng trận địa và lập khẩu đội pháo phòng không ngay trên dốc bến đò Đông Trù. Với hàng trăm dân quân ngày đêm đào đắp ụ pháo, hầm hào xung quanh trận địa, chỉ trong vòng vài ngày, khẩu pháo đã hiên ngang đứng giữa trận địa. Khẩu đội biên chế gồm 12 người, do đ/c Ngô Duy Tiên làm Chính trị viên, đ/c Lương Xuân Cổn - Xã đội phó, trực tiếp làm khẩu đội trưởng. Khẩu đội chia làm 3 ca, trực chiến 24/24 một ngày. Lại Đà chọn những người con quả cảm tham gia khẩu đội: Nguyễn Thị Diện, Vương Thị Hoà, Nguyễn Thị Thái, Ngô thị Hương, Nguyễn Thị Thảo,... Họ đã thực sự như những người lính, chỉ có điều khác là họ mang gạo nhà đến "thổi cơm chung"
Với tinh thần "hậu cần tại chỗ", họ đã san đất trồng rau, bắt cá tôm để cải thiện. Những lúc bình yên họ hò hát, chuyện trò trong lều dã chiến. Mỗi khi có báo động, khẩu 14 ly5 lại hiên ngang cùng hàng trăm tay súng phòng không, tạo thành lới lửa bủa vây máy bay giặc, bắt chúng phải vọt lên cao, tạo điệu kiện để tên lửa vít cổ chúng xuống.
Một số lần địch rải bom vào trận địa, như trận ném bom ngày 29/4/1966, nhưng các chiến sỹ vẫn hiên ngang bám trụ, không một phút giây rời bỏ trận địa. Một lần cả khẩu đội đang liên hoan, chợt có tiếng kẻng báo động, mọi người nhanh chóng lao vào vị trí chiến đấu. Lúc đó đ/c Ngô Thị Hương đang từ nhà ra trận địa. Mặc cho máy bay địch quẩn đảo, gầm rú trên đầu, chị vẫn băng mình ra trận địa.
Chiến công dũng cảm của khấu đội 14 ly 5 đã góp lửa cùng quân dân Đông Anh bắn rơi 6 máy bay Mỹ. Khấu đội được Huyện đội Đông Anh tặng bằng khen; trong số các đ/c đợc Bộ tư lệnh Quân khu Thủ Đô tặng bằng khen có Nguyễn Thị Diện.
Hội mẹ chiến sỹ
Trong không khí "cả nước lên đường", để gánh vác một phần công việc nặng nề của lớp trai trẻ ngoài mặt trận, Hội mẹ chiến sỹ Lại Đà đã ra đời.
Hội mẹ chiến sỹ khá đông đảo, tới gần 100 hội viên. Hội được chia thành nhiều tổ, biến chế theo xóm, ngõ. Mỗi dịp trong làng có đợt tuyển quân, các mẹ phân công nhau đến từng gia đình tìm hiểu hoàn cảnh riêng tư của từng nhà, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, động viên anh em yên tâm, phấn khởi lên đường. Các mẹ còn sáng tác những bài thơ, những câu ca để động viên chiến sỹ; đảm nhận công việc nội trợ cho con cái sản xuất, chiến đấu; dạy bảo con cháu chăm chỉ học hành, xứng đáng với cha anh đang chiến đấu ngoài mặt trận. Các mẹ còn tổ chức thăm hỏi, tặng quà các đơn vị bộ đội đóng quân ở địa phương, tổ chức khâu vá quần áo cho các chiến sỹ. Với những gia đình neo đơn, con em đang chiến đấu ngoài mặt trận, các mẹ phân công nhau đến thăm hỏi, động viên, giúp đỡ một số công việc gia đình.
Thật khó mà tả hết tình cảm và cả sự hy sinh của những người mẹ. Xin giới thiệu những dòng nhật ký của cụ Vương Thị Thu, "tâm sự" với con trai là Nguyễn Phú Quyền, nhập ngũ ngày 16/7/1968:
Nhật ký viết ngày 5/9/1968: " Đã đến ngày con phải về đơn vị rồi. Con tôi đã lớn hơn ngày ở nhà. Trông thấy con mà phấn khởi, mừng vui, nhưng không khỏi băn khoăn. Con bước đi mỗi bước một xa nhà, để cho mẹ xót xa thương nhớ. Về phần con phải làm đầy đủ trách nhiệm của một thanh niên trong lúc nớc nhà có chiến tranh, phải dấn bước ra đi, xa nhà, xa quê hương, làng xóm. Biết đến bao giờ con mới trở lại? Căm thù đế quốc Mỹ!"
Nhật ký ngày 4/10/1968: "Còn thiếu bốn ngày nữa là sinh nhật lần thứ 17 của con. Không biết con có nhớ không?Hiện nay con đã đi chưa, mẹ cứ thắc mắc hoài. Bước vào năm học mới, trông thấy các bạn của con, mẹ lại nghĩ đến con. Nếu con ở nhà cũng sẽ cùng các bạn cắp sách đến trường.
Quên làm sao được những buổi con đi học về, mẹ chờ cơm. Các em đòi ăn, mẹ bắt phải chờ anh về đã. Những khi con đi học tối mới về, mùa đông tháng giá, mẹ chờ con ăn uống xong mới đi ngủ. Vì hoàn cảnh thiếu thôn, nên con đi học ăn mặc cũng sơ sài, mẹ chẳng may mặc được gì cho con đẹp đẽ. Nghĩ mẹ cứ ân hận. 17 tuổi mà mẹ vẫn coi con còn bé. Đánh đùng một cái, con đi bộ đội, thế là không bé nữa rồi."
Nhật ký viết chiều 30 tết năm 1968: " Chiếu nay sao nhớ con giai thế! Nhớ lại buổi chiều 30 tết năm ngoái, con hớn hở mừng tết, mà mẹ cha kịp may quần áo mới cho con. Con mặc bộ quần áo của bố dài rộng lụng thụng, mẹ nói đùa, vừa rồi, con tưởng thật, xúng xính mặc đi chơi. Thắng bộ quần áo mới suốt ngày mồng một, tối mới về. Ngây thơ tuổi 16, con còn đang độ tuổi vui chơi."
Tuổi cao không thể trực tiếp tham gia chiến đấu, nhưng các mẹ vẫn thường xuyên có mặt ở trận địa cao xạ 14 ly 5, kịp thời đồng viên các chiến sỹ. Một lần máy bay địch oanh tạc vào trận địa, giữa lúc khói bom còn mù mịt, đoàn đại biểu Hội mẹ chiến sỹ đã có mặt để động viên anh em trong khẩu đội. Đó là các mẹ: cụ Bảy- Hội trưởng, cụ Hiếu, cụ Uyển, cụ Vi, cụ Chử, cụ Phi, cụ Biểu, cụ Nội, cụ Giáo Ngạn, cụ Bỉnh, cụ Mục, cụ Trưởng Nhớn, cụ Mùi, cụ Đô, cụ Dụng Cả,... Món quà mà các mẹ mang ra cho anh em thật đơn giản, nhng chứa chan tình cảm, như ấm nước chè, nải chuối, nắm xôi,...
Tiêu biểu cho phong trào ngày ấy, không thể quên đợc là mẹ Bảy, mẹ Vi. Mẹ Bảy có người con trai duy nhất, vẫn sẵn sàng cống hiến cho tổ quốc. Còn nhớ hình ảnh người mẹ già như con thoi, từ xóm này sang xóm kia, tổ chức, vận động quyên góp, rồi ra trận địa pháo động viên anh em chiến đấu. Mẹ Phi, mẹ Thơi, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đã từng nuôi giấu cán bộ, du kích, từng chịu đựng bao trận tra tấn dã man, nay vẫn không quản nặng nhọc, vất vả, tham gia công việc. Có thể nói, trong chiến công chung, có một phần đóng góp không nhỏ của các mẹ trong Hội mẹ chiến sỹ.
Hội phụ lão bạch đầu quân cùng Hội mẹ chiến sỹ nhiều lần được huyện Đông Anh tặng giấy khen, lên huyện báo cáo điển hình về thành tích sản xuất, chiến đấu, động viên con cháu làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.
Kinh tế sau năm 1954
Vui mừng sau giải phóng 1954, nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với biết bao khó khăn mà quân thù để lại: trâu bò bị bắn giết, nông cụ bị phá hoại, nên thiếu sức kéo, thiếu phơng tiện sản xuất; dồng ruộng bị hoang hoá, như cánh đồng Vang của làng; xung quanh các đồn bốt trong vùng, còn dầy đặc bom mìn, hàng trăm nhà cửa bị đốt phá, bà con tản cư từ vùng tự do về làng không có chỗ ở, nhiều người không có công ăn việc làm. Thêm vào đó là trận hạn hán mùa hè năm 1954, làm cho hàng trăm gia đình lâm vào cảnh thất bát, nạn đói rình rập dân làng.
Năm 1955 vụ mùa bội thu đầu tiên, đánh dấu sự thắng lợi của chủ trơng khai hoang phục hoá. Nhân dân Lại Đà hăng hái đóng thuế nông nghiệp. Phong trào giao lương diễn ra sôi nổi. Từng đoàn người nườm nượp gồng gánh thóc lúa vào Từ Sơn, hay qua đò sang Gia Lâm nộp thóc vào kho.
Giữa năm 1955 tổ đổi công được hình thành ở Lại Đà. Tháng 12/1958 xã Đông Hội một mặt tiếp tục củng cố và phát triển tổ đổi công, vần công, mặt khác chuẩn bị cho việc xây dựng thí điểm một hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN). Đ/c Nguyễn Khắc Hảo, chi uỷ viên được cử đi dự lớp tập huấn 12 ngày về hợp tác hoá nông nghiệp, do huyện Từ Sơn tổ chức. Đầu năm 1959, đại diện chi bộ xã Đông Hội, là các đ/c Ngô Bá Chinh và Nguyễn Khắc Hảo kết hợp với tổ đảng thôn Lại Đà tiến hành đợt vận động để thành lập HTXNN tại Lại Đà. Đây là HTX.NN đầu tiên của xã. HTX lúc đầu mới thành lập có 34 hộ, do ông Nguyễn Khắc Hảo làm chủ nhiệm. Ngay khi ra đời, ban quản trị HTX đã triển khai vụ lúa mùa 1959. Trên cơ sở bài học từ HTX Lại Đà, xã Đông Hội tiếp tục vận động các thôn còn lại thành lập HTX và đến  đầu năm 1960 toàn xã có 8 HTX, trong đó riêng Lại Đà có 2 hợp tác xã (HTXNN Lại Đà có khoảng 40 hộ và HTXNN Lam Sơn do ông Ngô Duy Lộc làm chủ nhiệm). Cuối năm 1962 Nghị quyết 8 của Trung ương đảng về "Cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật", xã thực hiện làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ 1963 đến giữa năm 1964, kiện toàn lại quy mô và hệ thống quản lý HTX, hai HTX của Lại Đà sáp nhập lại thành một HTX; giai đoạn 2 từ tháng 7/1964 đến cuối năm 1965, từ HTX thôn bậc thấp chuyển lên HTX bậc cao. Trong giai đoạn này, việc thuỷ lợi hoá được đẩy mạnh. Nhiều lợt xã viên được huy động dùng cuốc, xẻng, quang gánh triển khai cải tạo cánh đồng, phá bờ nhỏ đi, đắp đường trục chính và trục phụ. Kết quả là đồng ruộng được quy hoạch thành các bờ vùng, bờ thửa theo lối ô vuông bàn cờ. Cũng trong dịp này, hệ thống kênh mơng được khơi đào để lấy nước từ sông đào Hà Bắc, đó là mương nước chạy qua cánh đồng phía Tây Nam Lại Đà.
Ngày 22/4/1976 đại hội đại biểu xã viên 6 thôn ra quyết nghị sáp nhập 6 HTX quy mô thôn làm một, để chính thức thành lập HTX cao cấp quy mô toàn xã và mang tên là HTXNN Đông Hội. HTX gồm 1153 hộ, 2.000 lao động và 5.487 nhân khẩu, do ông Ngô Duy Tiên, người Lại Đà làm chủ nhiệm.
Đầu năm 1981 chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng về thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Theo cơ chế khoán này, HTX đảm nhận 5 khâu, là làm đất, giống, thuỷ lợi, phân bón và bảo vệ; xã viên đảm nhận 3 khâu, là gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. 10/1988 Bộ Chính trị trung ương Đảng ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, còn gọi là Khoán 10. Quá trình thực hiện Khoán 10 và đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp ở Đông Hội thực sự bắt đầu từ quý I/1989. Trước hết HTX tiến hành tinh giản biên chế và ngành nghề, các ngành nghề phụ, như lò gạch, cơ khí, dệt thảm, làm đậu, mua bán, tín dụng lần lượt được giải thể. HTX chỉ duy trì hai nghề là trồng trọt và nuôi cá. Từ 13 đội trồng lúa trước đây, giảm xuống con 6 đội, trong đó Lại Đà là một đội. Bộ máy gián tiếp được tinh giản từ 38 người trước Khoán 10, thì vào năm 1989 xuống còn 25 người và còn 19 người năm 1992 và cuối năm 1999 chuyển đổi thành HTX Dịch vụ nông nghiệp.
Từ sau giải phóng 1954 tới nay, nhiều người Lại Đà đã tham gia những cương vị chính quyền và Đảng bộ xã Đông Hội, từng là Bí thư xã có các ông: Ngô Bá Chinh (1962), Ngô Thiệu Nhã (1974), Ngô Duy Tiên (1982); chủ tịch xã có các ông: Ngô Duy Thọ (1963), Ngô Thiệu Nhã (1970), Ngô Duy Tiên (1974). 
Bước vào thời kỳ đổi mới, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể của thôn được củng cố, tăng cường. Vai trò và sự đóng góp của các tổ chức này trong những năm vừa qua đã thể hiện rất rõ nét. Về tổ chức ở thôn có Chi bộ gồm 55 đảng viên, do Bí thư chi bộ và cấp uỷ lãnh đạo; giúp việc cho chính quyền xã có Trưởng thôn và Phó trưởng thôn; bên cạnh đó còn có 5 chi hội đoàn thể là: Ban công tác mặt trận, Chi hội Người cao tuổi, Chi hội Cựu chiến binh, Chi hội Phụ nữ, Chi hội Nông dân, Chi đoàn Thanh niên.
Nghề làng xa và nay
Lại Đà nằm giữa một vùng đất trũng, chiêm khê, mùa thối. Hai chữ Lại Đà đã hàm ý cảnh sông nước. Làng lại thuộc diện người nhiều, ruộng ít. Người xưa có câu: Nhân sinh bách nghệ, ý nói trên đời có tới trăm nghề, song quy lại có 4 loại: sỹ, nông, công, thương.
Nghề làm ruộng: Đó là nghề phổ biến ở làng.
Ruộng đất của cả làng xưa có độ hơn 400 mẫu, với hơn 50 mẫu xâm canh ở Trung Thôn, nên bình quân đất đai trên đầu người khá thấp. Ruộng đất công (công điền) - làng quản khoảng 50 mẫu, làng cho thuê lấy tiền xung công quỹ; ruộng hậu, ruộng xóm chừng 30 mẫu.
Người giàu thuộc loại điền chủ có tới hai, ba mươi mẫu. Điền chủ thuê nông dân đến cày cấy, gặt hái, trả công người làm thuê bằng thóc hoặc bằng tiền. Loại phú nông. Họ có chừng năm bảy mẫu. Một phần do gia đình làm, một phần họ thuê mướn thợ cày thợ cấy, thuê người cắt cỏ, chăn trâu vào lúc "nông vụ chí kỳ" gấp gáp. Loại trung nông có độ một, hai mẫu ruộng, công việc đồng áng đều do gia đình làm là chính, có thể thuê mướn thêm người theo mùa vụ. Loại bần nông: Ruộng đất có vài ba sào, cấy cày không đủ ăn, họ phải cày thuê cuốc mướn, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm, quanh năm vẫn nghèo đói. Cố nông: Họ hoàn toàn không có ruộng đất, phải cày thuê, cuốc mướn và làm đủ nghề, cuộc sống rất cơ cực.
Là vùng đất chiêm trũng, trước đây điều kiện canh tác ở làng ta rất khó khăn. Về mùa gặt, lúa chín phải bó thành lượm, rồi bốc vào thuyền, theo luồng chở lúa về làng. Đến tối, thợ gặt dùng néo, néo các lượm lúa, đập lên cối đá hay tấm ván. Mùa gặt nông dân đập lúa bì bạch đến khuya.
Lại Đà là một làng nông nghiệp, nhưng không phải là làng thuần nông, mà còn có một số nghề khác. Chính vì hoàn cảnh thiên nhiên ngặt nghèo, ông cha ta đã phải tìm đủ cách để bơn trải, bảo đảm cho cuộc sống. Ngoài nghề làm ruộng, làng còn nhiều nghề: Nghề thợ mộc làm các loại: nhà tre, nhà gỗ, đóng đồ gỗ, đóng thuyền, làm đàn cho các kép hát ca trù; thợ may, cắt quần áo; thợ xây; thợ cúp tóc; thợ dệt vải; thợ sơn; thợ chạm; thợ nhuộm; thợ làm vàng mã; đan lát; đóng gạch ngói; nghề buôn bè; nghề hàng xén; nghề bán mật đường; nghề hàng xáo; nghề đúc đồng; nghề thêu ren; nghề bán giải khát: với đôi quang gánh toòng teng đi khắp hội này đến chợ khác khắp vùng; nghề hát ca trù; nghề địa lý, để đất cát mồ mả, đặt hướng làm nhà cửa cho thiên hạ. Xin giới thiệu một cái nghề khá đặc biệt xuất hiện ở làng ta vào những năm sau đại chiến thế giơí lần thứ II - nghề chiếu ống nhòm. Khi kỹ thuật chiếu bóng đang du nhập mạnh vào nước ta, điện ảnh mới mẻ đến đất Hà Thành. Ông phó nhòm mua những cuộn phim đã hết hạn sử dụng, đem về cắt ra thành từng cảnh, lắp vào hệ thống quang học trong hộp kín. Người xem ghé mắt nhìn qua ống nhòm, hình được phóng to: cảnh duyệt binh, cảnh đánh nhau. Người xem đa một xu, được nhòm mấy cảnh. Ông phó đi hết chợ này, đến chợ khác, tuy vốn liếng bỏ ra không nhiều, nhưng thu được cũng khá. Nghề này đến cách mạng tháng 8/1945 thì "giải nghệ"
Có thể cha thống kế hết được các nghề xa ở Lại Đà, nhưng có 2 nghề thu hút nhiều người làng tham gia, là nghề làm bỏng và trồng rau cần. Nghề làm bỏng gạo đã giúp nhiều gia đình có kế sinh nhai, có nhà còn phong lưu, xây cất được "nhà ngói cây mít". Chính nghề này mà làng có tên Cói Bỏng. Xin nêu một vài chi tiết về "chuyện nghề" bỏng: Bỏng gạo Lại Đà từ thứ "công đất trời cho", đó là thứ nếp quê. Gạo nếp vừa mới xay xong, đem đồ xôi, rồi phơi nắng cho khô, tiếp đó sàng xảy sạch trấu, cất vào chum, đậy kín. Đến khi làm bỏng, nhà hàng cho vào chảo, rang nổ thành hạt bỏng. Khi chảo mật đã đun nóng già, thì đổ bỏng vào trộn đều, sau đó đổ ra một cái mâm vuông, san cho đều và phẳng. Mặt trên rải một lợt giấy bản, lại lấy mẻ khác, đổ tiếp lên. Lấy miếng neo cau hình thang, to độ bằng bàn tay, phết đều một lượt. Sau cùng áp thước gỗ và dùng dao cắt đều thành từng miếng. Mỗi mâm cắt đợc 110 miếng, cứ năm miếng một xếp vào thùng. Mỗi thùng có bốn mâm, gánh bỏng có tám mâm. Thùng bỏng Lại Đà có kiểu dáng riêng biệt, thùng ken bằng nứa lột, cuốn hình tròn, đáy tròn, nắp tròn, phía trong và ngoài phết sơn cho kín. Để tránh bỏng hút ẩm, trước khi xếp bỏng, quanh thùng quây một lớp lá chuối khô. Người làm bỏng kị nhất là thùng hở, gió lùa vào, làm bỏng rời ra, cho nên có câu:
Ai làm cho cả gió nồm
Cho bỏng kẹo tôi chảy, cho mồm tôi nhai
Người bán bỏng Lại Đà gánh bộ đi khắp chợ gần, chợ xa, đến tận Thái Nguyên, chợ Chu - Bắc Cạn, chợ Chũ - Bắc Giang, Hội Phủ Giầy- Nam Định,...
Nghề trồng rau cần: Rau cần Lại Đà ngon có tiếng trong vùng. Nghề trồng rau cần khá vất vả, nên làng ta có câu ca:
Làm thân con gái Lại Đà
Mới mùng hai tết đã sà xuống ao.
Cũng vì có nghề trồng rau cần nên làng ta có tên là Cói Rau Cần.
Ngày nay một số nghề cũ ở làng đã mất đi, song một số nghề mới xuất hiện. Là một làng quê với những con người cần cù, năng động, hơn chục năm gần đây, khi thị trường có nhu cầu bao gói hàng, ở làng đã xuất hiện nghề làm bao túi giấy. Nghề thợ xây cũng có rất nhiều người làm. Ngoài làm ở làng, nhiều kíp thợ ra Hà Nội và các vùng xung quanh để xây dựng nhà cửa. Từ năm 1995, làng xuất hiện nhiều cửa hàng tạp hoá, cửa hàng ăn uống, cửa hàng bán thực phẩm, cửa hàng sửa chữa xe đạp, xe máy, máy khâu, dịch vụ cho mợn đồ hiếu hỷ, dịch vụ vận tải, chụp ảnh, đóng đồ gỗ,... Ngay giữa làng, chỗ cây sanh, từ sáng đến chiều đã hình thành một khu chợ, phục vụ các nhu cầu của dân làng.
Đời sống ngày nay của dân làng
Hơn 15 năm đổi mới, bộ mặt làng quê Lại Đà đã đổi thay nhanh chóng, song vẫn phải nhắc lại quá khứ, để chúng ta thấy hết được những đổi thay hôm nay. Trong trận đói năm ất Dậu 1945, làng ta có tới 15 người bị chết đói. Không nói đâu xa, vào những năm 80 của thế kỷ trước, làng xóm còn nhiều gia đình mái tranh vách đất. Vào dịp giáp vụ, cảnh đứt bữa, chạy ăn từng buổi, hay vay mượn nhau, diễn ra rất phổ biến. Một trong những nguyên nhân mà xa kia dân làng phải lưu tán, tha phương cầu thực ở nhiều nơi, có nguyên nhân là do đói khổ.
Giờ đây bộ mặt quê hương có rất nhiều đổi thay. Hãy nói về sản xuất nông nghiệp: Là một vùng đất ngập úng, những ngày nay hệ thống thuỷ lợi từ kênh cấp I đến hệ thống kênh cấp nước khác hết sức thuận tiện. Chỉ cần qua loa truyền thanh thông báo lịch cấp nước, bà con có thể chủ động lấy nước vào ruộng nhà mình. Ngoài sức kéo là trâu bò, hiện nay còn có máy cày, máy bừa phục vụ. Cũng không còn cảnh kẽo kịt gánh phân, gánh lúa, mà nay là xe cải tiến, xe trâu, xe công nông đảm nhận. Ít ai tưởng tượng nổi cảnh nông dân phi xe máy ra đồng thăm lúa. Mùa thu hoạch, không còn cảnh làng xóm đêm khuya vẫn bì bọp tiếp đập lúa. Ngay trên cánh đồng, đã có máy tuốt phục vụ. Cối xay, cối giã gạo đã thành dĩ vãng, trong làng nay có nhiều máy xay sát phục vụ. Năng suất cây trồng tăng lên nhiều lần so với trước. Nếu trước 1945, mỗi ha chỉ đạt khoảng trên 2 tấn, thì nay đã đạt trên 10 tấn/ha. Nhiều giống lúa mới, nhiều loại cây trồng xuất hiện trên đồng ruộng Lại Đà.
Nếu như trước đây, đau ốm, ngời ta chỉ biết cầu trời, khấn phật, hay tìm mớ lá lẩm trong vườn điều trị, thì ngày nay đã có trạm ý tế của xã và bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh. Phụ nữ và trẻ em được chăm sóc y tế chu đáo. 100% phụ nữ sinh đẻ tại trạm y tế, không còn cảnh mụ vườn đỡ đẻ tại nhà. Thời kỳ mang thai, phụ nữ được thăm khám, chăm sóc. 100% trẻ em được tiêm chủng 6 loại vác xin, phòng các bệnh cơ bản.
Hệ thống giáo dục cũng rất phát triển. Hiện thôn có nhà trẻ trông nom các cháu, bước vào 6 tuổi các em đợc cắp sách tới trường. Lớp tuổi từ 55 trở xuống đều biết chữ và hầu hết từ tuổi 15 đến 45 có trình độ học vấn cấp II. Hiện nay số trẻ em của làng đến trường, từ mẫu giáo đến các cấp phổ thông, có khoảng gần 600 em.
Năm 1989 trạm biến thế điện ở trung tâm xã được nâng cấp. Năm 1993 thôn cải tạo hệ thống cột điện và đường dây tải điện, bảo đảm điện dân sinh, điện sản xuất đến các hộ gia đình, cùng hệ thống đèn  chiếu sáng đường làng, ngõ xóm. Cũng trong năm 1993 nhà văn hoá thôn được hoàn thành. Năm 1994 đường làng được bê tông hoá, có hệ thống thoát nước mưa, nước thải. Lại Đà là thôn đầu tiên trong xã thực hiện việc bề tông hoá đường làng. Một số công trình công cộng đợc quy hoạch và xây dưng, như khu sân vận động ở phía Tây của làng; nhà trẻ và mẫu giáo; trụ sở thôn; điểm tập kết vật liệu xây dựng ở hai đầu làng; bãi tập kết rác thải, hàng ngày có xe đi thu góm rác sinh hoạt; hai phía đầu làng có hai khu nghĩa trang.
Làng có hệ thống truyền thanh, tiếp âm đài TNVN, đài phát thanh huyện Đông Anh và hàng ngày, nếu làng, xã có hoạt động, hay những vấn đề quan trọng, sẽ loan báo lên hệ thống loa truyền thanh. Ngay đầu đoạn đường rẽ vào làng, có điểm bưu điện văn hoá xã, trạm y tế xã, trường cấp I và trường cấp II xây cao hai, ba tầng.
Bắt đầu từ năm 1995 và đặc biệt sau năm 2000, nhà cửa được xây dựng khang trang. Hiện nay 100% gia đình là nhà ngói, hay mái bằng, nhiều nhà xây theo kiểu biệt thự. Trước năm 2000, nhiều gia đình khoan giếng, có bể lọc. Nhiều gia đình mắc điện thoại, mua sắm máy vi tính cho con học hành. Gần như 100% gia đình có ti vi, radio, nhiều gia đình dùng bếp ga. Hầu hết các gia đình  có xe máy, thậm chí có nhà có cả ô tô.
Ngoài việc đời sống của người dân nâng lên, đã xuất hiện nhiều điển hình gia đình làm ăn thịnh đạt, như gia đình các ông bà: Vương Khắc Tiếu, một chủ doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong xây dựng; Vương Khắc Nhâm; Nguyễn Phú Tưởng; Ngô Bá Hoàn; Ngô Quý Tuấn; Ngô Quý Việt,...
Xu thế đô thị hoá đã lan nhanh tới vùng quê Lại Đà. Do việc quy hoạch của thành phố và dự án xây dựng một số tuyến đường và cây cầu qua sông Đuống, sông Hồng, nên gần đây ở làng, tốc độ xây dựng nhà cửa, đường xá diễn ra nhanh chóng. Giá đất ở làng tăng cao, có gia đình giá trị bất động sản ước tính lên tới vài ba tỷ đồng. Những tín hiệu trên là điều đáng mừng, nhưng cũng chứa đựng những mầm mống gây xáo trộn về văn hoá - kinh tế làng quê. Kinh tế thị trường len lỏi vào từng gia đình, quan hệ nông thôn truyền thống bị ảnh hưởng. Tốc độ xây dựng diễn ra nhanh chóng, làng xóm thành "đô thị", đang đe doạ "bức tranh" làng cổ Lại Đà, mà trước hết là đường làng, đường ngõ, vườn cây, hồ ao, luỹ tre, đặc biệt là những ngôi nhà cổ - đang đứng trước nguy cơ bị phá rỡ, để thay vào đó bằng nhà tầng, biệt thự.
Đó là những vấn đề đang đặt ra với Lại Đà.