Dịch giả: Thái Kim Lan
Tin lạ từ một hành tinh

     ại một trong các tỉnh miền Nam trên hành tinh đẹp đẽ của chúng ta vừa phải chịu một nỗi bất hạnh to lớn. Kèm theo với giông tố bão táp và lụt lội khủng khiếp, trận động đất đã phá hủy ba ngôi làng, tất cả vườn tược, ruộng đồng, rừng rậm và cây cối tan hoang.
Nhiều người và súc vật tử nạn. Nhưng điều buồn nhất là trong vùng không còn đủ số hoa cần thiết để tẩm liệm người chết và trang hoàng tươm tất nơi yên tĩnh cuối cùng cho kẻ xấu số.
Sau khi tin ghê sợ được loan ra, lập tức đã có sứ giả các vùng láng giếng vội vàng đến viếng, chuyến những lời thăm hỏi thân ái đến mọi người. Từ các lầu chuông đã nghe văng vẳng tiếng những người diễn ca hát câu thơ bi thiết làm não lòng người, câu thơ dâng lên nữ thần từ bi theo tục lệ từ xưa và người nghe không thể cầm lòng bi lụy. Ngay sau đó các chuyến tàu chớ người ủy lạo [1] và cứu trợ tự nguyện từ các thành phố cũng như các vùng quê tấp nập đến. Họ hỏi han thân tình những kẻ bất hạnh mất hết nhà cửa, ưu ái mời họ đến ở tạm nhà mình. Từ mọi nẻo, thức ăn và áo quần, ngựa xe, các dụng cụ, đá, gỗ và nhiều nhiều thứ khác được đưa đến trợ giúp. Những người già, đàn bà và trẻ con được những người cứu trợ an ủi, ân cần dìu đi nơi khác. Một số người lo rửa ráy, băng bó cẩn thận cho những người bị thương, tìm kiếm người chết dưới đống gạch vụn. Một số người đã bắt tay vào dọn dẹp những mái nhà bị sụp đổ, chống đỡ các bức tường xiêu vẹo với xà ngang và chuẩn bị các thứ cần thiết để xây nhanh nhà mới. Mặc dù thoáng hãi hùng đến từ nỗi bất hạnh kia vẫn còn giăng mắc trong không gian, vẫn để tang và mặc niệm kính cẩn người chết, nhưng trên nét mặt và trong giọng nói của mọi người đã thấy rõ nét hoan hỉ; bởi lẽ sự chung sức làm những điều đẹp đẽ và đáng tri ân như thế đã làm cho niềm phấn chấn chảy tràn trong mọi trái tim. Ban đầu, mọi sự có đôi chút e dè và câm lặng, nhưng liền sau đó đã nghe vắng lên tiếng nói vui tươi, một điệu hát nhẹ đệm theo công việc cộng đồng, và như ta có thể tưởng tượng được, trong tất cả những điệu được hát, dẫn đầu là hai câu thơ ngụ ngôn cổ truyền: “Hạnh phúc thay, giúp được người trong cơn túng quẫn; như khu vườn hạn hán đang uống cơn mưa đầu tiên, phải chăng trái tim bạn cũng đang uống các nghĩa cử và đền đáp bằng những đóa hoa tri ân?” Hay câu thơ khác: “Niềm vui thánh thiện tuôn trào từ sự chung sức chung lòng hành động”.
Lúc bấy giờ, chỉ còn một điều duy nhất đáng phàn nàn là làng đang thiếu những bông hoa để tẩm liệm người chết. Thật ra người ta cũng đã dùng hoa và cành lá còn sót lại trong các khu vườn bị tàn phá đem tẩm liệm cho những người chết được tìm thấy trước. Sau đó, họ đi thu nhặt tất cả hoa từ các vùng gần đó. Nhưng rủi ro làm sao, chính ba làng vừa bị tàn phá lại có những khu vườn lớn nhất và đẹp nhất trồng các loài hoa theo từng mùa. Mỗi năm dân chúng thường nô nức đến các làng hoa này để ngắm hoa thủy tiên và hoa khai xuân (Krokus). Không nơi đâu sánh bằng những làng này: nhiều hoa thưởng thức không hết, có nhiều loại hoa được chăm sóc và nhuộm màu tuyệt diệu, thế mà giờ đây tất cả đều bị tàn phá và hư hại. Mọi người đều bối rối không biết làm sao thực hành giới điều của tục lễ dành cho người chết. Từ xưa tục lệ ở đây là mỗi một người chết hay mỗi con thú chết phải được trang hoàng bằng hoa theo từng mùa một cách lộng lẫy, cái chết càng đột ngột và bi thảm chừng nào thì đám tang lại càng phải phong phú mỹ lệ với hoa chừng ấy.
Vị trưởng lão lớn tuổi nhất trong tỉnh, người đến trong nhóm cứu trợ đầu tiên, đã đánh xe đến ngay chỗ tai nạn. Tới nơi, lập tức ông bị bao vây bởi những câu hỏi, những yêu cầu và than vãn đến nỗi ông khó mà giữ được bình tĩnh và vui tươi. Nhưng tim ông vẫn giữ được bình thản, mắt ông vẫn nhân hậu, thân thiết, giọng nói vẫn trong sáng và lịch sự, đôi môi dưới bộ râu bạc không bỏ quên một giây nào nụ cười yên lặng và thân thiện; nụ cười cho thấy ông đáng là nhà hiền triết và quân sư.
“Các bạn của tôi,” ông nói, “bất hạnh đã đến với chúng ta, nhưng tôi nghĩ, bất hạnh này là sự thử thách mà các vị thần muốn thử chúng ta. Chúng ta có thể xây dựng lại ngay tất cả những gì bị hủy diệt và trao lại cho người anh em của chúng ta, tôi cám ơn thần linh còn cho tôi trong tuổi hạc khá cao này có thể chứng kiến được cảnh tất cả các bạn đã đến đây, đã bỏ dở việc nhà, đến giúp các người anh em của chúng ta như thế này. Nhưng giờ đây chúng ta lấy đâu ra được những bông hoa, để có thể trang hoàng cho người chết thật đẹp đẽ và đường hoàng cho buổi lễ hóa thân của họ? Bởi vì chúng ta còn ở đây và còn sống, chúng ta không nỡ lòng nào để xảy ra sự cố có người, dù chỉ là một người duy nhất trong những kẻ hành hương mệt mỏi này được chôn cất mà không có vòng hoa phúng điếu đúng đắn. Có lẽ đây cũng là ý kiến của các bạn”.
“Vâng,” mọi người đều kêu lên, “đó cũng là ý kiến của chúng tôi”.
Vị trưởng lão nói với giọng của người từ phụ: “Thưa các bạn; bây giờ tôi muốn nói chúng ta phải làm gì. Chúng ta phải đem tất cả những người chết lên tận trên đền thờ mùa hạ trong dãy núi, ở đó tuyết chưa tan, hôm nay chúng ta không thể mai táng họ được. Như thế thi thể họ được an toàn và sẽ không bị biến đổi cho đến khi chúng ta tìm được hoa cúng họ. Nhưng hiện nay chỉ có MỘT NGƯỜI có thể giúp chúng ta có được hoa. Người đó là nhà vua chứ không ai khác. Bởi thế chúng ta phải gửi người của chúng ta đến nhà vua xin vua giúp sức”.
Mọi người đều gật đầu đồng tình: “Phải! Phải! Đến xin vua!”
Vị trưởng lão tiếp lời: “Như thế đấy!” Mọi người vui sướng nhìn thấy nụ cười đẹp đẽ của ông lấp lánh dưới chòm râu. “Nhưng chúng ta nên cử người nào đến gặp nhà vua đây? Người ấy phải trẻ trung và khỏe mạnh, vì đường đến đó xa xôi, và chúng ta phải dành cho anh ta con ngựa tốt nhất. Nhưng anh ta cũng phải tuấn tú, có lòng tốt và ánh mắt sáng ngời làm cho trái tim của nhà vua không cưỡng lại nổi. Anh ta không cần tốn nhiều lời, nhưng đôi mắt phải có thể nói thay lời. Thật tình có lẽ tốt nhất là gửi một em bé đến, đứa bé đẹp nhất của vùng chúng ta, nhưng làm thế nào một đứa trẻ có thể đi một chuyến du hành xa đến thế được. Các bạn phải giúp tôi, các bạn ạ, và nếu có người nào đó muốn lãnh sứ mạng này, hay nếu có ai quen hoặc biết người nào, tôi yêu cầu các bạn hãy báo giúp cho”.
Vị trưởng lão ngưng lời, nhìn xung quanh với đôi mắt tinh anh, nhưng chắng có ai tiến lên và cũng không có tiếng người báo hiệu.
Khi ông nhắc lại câu hỏi thêm lần nữa, đến lần thứ ba, có một chàng trai chen ra khỏi đám đông tiến đến gần ông, một chàng trai mười sáu tuổi nhưng dáng dấp còn vẻ trẻ thơ. Chàng nhìn xuống đất, mặt đỏ bừng khi cất tiếng chào vị trưởng lão.
Vị trưởng lão nhìn anh ta chăm chú và trong nháy mắt, ông nhận ra ngay đây là sứ giả đích thực. Nhưng ông mỉm cười và nói: “Hay quá, con muốn làm sứ giả cho chúng ta. Nhưng cớ sao trong số nhiều người như thế mà con lại là người đứng ra nhận lãnh chuyện này vậy?”
Lúc ấy chàng trai ngước mắt nhìn người trưởng thượng nói: “Nếu không có người nào khác muốn đi, xin ngài hãy cho tôi đi”.
Trong đám đông có người kêu lên: “Trưởng lão! Ngài hãy cử cậu ta đi, chúng tôi biết cậu ta. Cậu ta xuất thân từ làng này và trận động đất đã tàn phá vườn hoa của cậu ấy, vườn hoa đẹp nhất trong vùng chúng tôi đấy”.
Vị trưởng lão thân ái nhìn sâu vào mắt chàng trai hói: “Con thương tiếc những bông hoa lắm phải không?”
Chàng tuổi trẻ trả lời với giọng rất nhỏ nhẹ: “Con rất buồn, nhưng không phải vì thế mà con đến đây tình nguyện xin đi. Con đã có một người bạn thân và cũng có một con ngựa yêu đẹp, cả hai đều chết trong trận động đất và thi thể còn nằm trong sảnh, cho nên con phải tìm cho đủ số hoa để cả hai được chôn cất”.
Vị trưởng lão đặt hai tay lên đầu chàng trai ban phước lành. Ngay sau đó người ta chọn con ngựa tốt nhất cho chàng. Chàng trai nhanh như chớp nhảy lên lưng ngựa, vỗ vào cổ ngựa, gật đầu chào tạm biệt mọi người, phi nước đại ra khỏi làng, băng qua những cánh đồng hoang tàn, ướt sũng rồi biến dạng.
Chàng trai mải miết phóng ngựa suốt cả ngày. Để đến kinh đô và vào gặp nhà vua nhanh hơn, chàng chọn con đường băng qua rặng núi, chạy mãi đến chiều, khi trời bắt đầu tối đen, chàng cầm cương dẫn ngựa lần theo một con đường dốc qua cánh rừng và hốc đá.
Một con chim kếch sù màu đen tuyền, trong đời chàng chưa bao giờ thấy một loài chim như thế, bay trước. Chàng đi theo cho đến khi con chim bay đến đậu trên mái của một ngôi đền nhỏ bỏ ngỏ. Chàng trẻ tuổi thả ngựa trong vùng cỏ dại và đi giữa hai hàng cột gỗ vào trong bệ thờ đơn sơ. Trên bệ thờ bằng đá chỉ thấy có một tảng đá kỳ lạ, trên tảng đá có khắc biểu tượng dị kỳ của một vị thần mà người sứ giả trẻ chưa hề biết: một trái tim và một con chim rừng đang rỉa trái tim.
Chàng cung kính hành lễ, đặt trên bệ thờ vật hiến dâng: một đóa hoa hình chuông màu xanh chàng đã hái ở chân núi và giấu trong áo của mình. Sau đó chàng đặt mình xuống một góc đền. Chàng đã mệt nhoài và cần phải ngủ.
Nhưng chàng không tìm được giấc ngủ thường đến ngay như mọi khi. Đóa hoa chuông trên tảng đá hay chính tảng đá đen, hay cái gì khác đang ngào ngạt tỏa ra một hương thơm lạ lùng, xoáy sâu gợi cảm giác đau đớn. Trong sảnh đường tối om, cái biểu tượng kỳ dị của vị thần lóng lánh một cách ma quái. Trên mái đền, con chim đứng lù lù, thỉnh thoảng đập sàn sạt đôi cánh khổng lồ của nó như bão táp rung chuyển rào rào cây cối chung quanh.
Đến nửa đêm, chàng trai nhổm dậy, đi ra khỏi đền, ngước nhìn con chim. Con chim đập đôi cánh, nhìn người trai trẻ.
“Tại sao chú mày không ngủ hở?” Con chim hỏi.
Chàng trai trả lời: “Tôi không biết. Có lẽ tại vì tôi đang buồn khổ”.
“Chú mày buồn khổ nỗi gì?”
“Bạn tôi và con ngựa yêu của tôi bị tử nạn”.
“Chết lại xấu đến thế cơ à?” Con chim hỏi lại có vẻ mỉa mai.
“Ồ không, chim lớn ạ, chết không phải là xấu, chết chỉ là một cuộc tạm biệt, nhưng tôi không buồn vì điều ấy. Chỉ tệ hại là chúng tôi không thể chôn cất bạn tôi và con ngựa đẹp của tôi được vì chúng tôi không còn hoa nữa”.
“Còn có những điều tệ hại hơn điều ấy nữa, chú ạ”. Con chim nói và bực bội đập đôi cánh sàn sạt.
“Không chim ạ, chắc chắn không có điều gì tệ hơn điều đó đâu. Kẻ nào được chôn cất mà không có hoa dâng cúng, kẻ đó sẽ bị ngăn chặn không được tái sinh theo ước muốn của lòng mình. Còn kẻ nào chôn cất người chết của mình mà không làm lễ hoa cho người chết, kẻ đó sẽ thấy bóng dáng của người chết trong giấc mộng. Chim có thấy không, chính tôi không ngủ được, bởi vì những người thân của tôi đang còn nằm kia mà không có hoa”.
Con chim kêu lên khọt khẹt với cái mỏ cong của nó.
“Này này chú nhỏ ơi, nếu chú không có kinh nghiệm gì khác hơn điều ấy thì thật chú chưa biết gì về đau khổ cả. Chú chưa bao giờ nghe nói về những xấu xa thậm tệ trên đời sao? Về hận thù, về giết người, về ghen tuông?”
Nghe những lời này thốt ra từ con chim, chàng trai tưởng mình đang nằm mơ. Nhưng rồi chàng sực nhớ và nói một cách khiêm tốn: “Đúng thế, này chim ơi, tôi nhớ ra rồi; trong lịch sử cổ và trong các chuyện thần tiên có viết về điều ấy. Nhưng điều ấy thật ra không có thật, hay có lẽ thuộc về thời xa xưa trên trái đất, khi chưa có hoa trên trần thế và không có các vị thần thiện hảo. Ai mà còn nghĩ đến chuyện ấy nhỉ!”
Con chim cười khẽ với giọng sắc cạnh. Rồi nó vươn mình cao lên hẳn và nói với chàng trai:
“Và bây giờ chú mày muốn đi đến nhà vua và ta phải chỉ đường đến đó cho chú mày phải không?”
Chàng trai kêu lên mừng rỡ:
“Ồ, chim đã biết điều ấy rồi sao, vâng, nếu chim muốn, thì tôi xin chim hãy dẫn đường cho tôi đi”.
Không một tiếng động, con chim bay sà xuống đứng trên mặt đất, giang rộng đôi cánh của nó êm ru và ra lệnh chàng trai hãy để con ngựa lại đó rồi cùng với nó đi đến nhà vua.
Chàng sứ giả bèn ngồi lên lưng chim, cưỡi chim bay đi.
“Hãy nhắm mắt lại!” Con chim ra lệnh. Họ bay qua bóng đêm của bầu trời, êm ru và mềm mại như đường bay vịt trời, chỉ có gió lạnh phần phật thổi qua tai chàng trai. Họ bay, bay mãi suốt cả đêm trường.
Vào buổi sớm mai, nghe gió bên tai lặng lờ; chim và người dừng lại. Chim kêu lên: “Hãy mở mắt ra!” Chàng trai trẻ mở choàng mắt. Lúc ấy chàng thấy mình đang đứng ven một khu rừng, dưới chân chàng, trong tia sáng ban mai đầu tiên, một đồng bằng đang lấp lánh đằng xa; ánh sáng chói lóa cả mắt.
“Ở đấy, trong khu rừng này, chú mày sẽ tìm thấy lại ta”. Con chim kêu lên. Nó vụt phóng mình lên cao như một mũi tên và chẳng bao lâu mất hút trong khoảng cao xanh.
Chàng trai càng lúc càng cảm thấy lạ lùng kỳ dị khi rời khu rừng đi vào trong đồng bằng thênh thang. Chàng không biết mình đang tỉnh hay mơ. Những cánh đồng cỏ và cây cối trông giống như ở quê nhà, mặt trời chiếu sáng, gió đùa trong đám cỏ đang nở hoa, nhưng chẳng thấy cả người lẫn thú vật đâu cả; nhà cửa vườn tược cũng không, ở đây có vẻ như vừa có một cuộc động đất xảy ra như ở quê nhà của chàng; bởi vì những đống gạch vụn của các dinh thự, những cành cây gãy và những cây bị đánh ngã, những hàng rào bị tàn phá và những dụng cụ nhà nghề đang nằm vương vãi đó đây trên mặt đất. Thình lình chàng thấy đằng kia, ngay chính giữa cánh đồng; một người chết, không được tẩm liệm và xác đang thối rữa. Trước cảnh tượng ấy, chàng trai cảm thấy vô cùng kinh hoàng, một thoáng buồn nôn trào trong cổ họng, bởi vì chưa bao giờ chàng phải chứng kiến một cảnh tượng như thế. Mặt người chết không được đắp lấy một mảnh khăn nào; và hình như đã bị lũ chim và sự thối rữa tàn phá đi một nửa. Chàng vừa ngoảnh mặt không dám nhìn vừa mang những lá xanh và một vài bông hoa đến phủ lên mặt người chết.
Một mùi hôi ghê tởm lan tỏa nồng nặc và dai dẳng trên khắp đồng cỏ làm cho tim chàng thắt lại. Trong có lại thấy một xác chết bị đám quạ vây quanh, một con ngựa không đầu, xương cốt của người hay vật, mọi thứ đều bị bỏ rơi nằm đó phơi dưới mặt trời, không ai nghĩ đến buổi lễ hoa hay tẩm liệm xác chết.
Chàng trai thảng thốt, có lẽ một tai họa không thể lường được đã giết chết tất cả xứ này. Xác chết nhiều đến nỗi chàng trai phải ngừng đi bẻ hoa và phủ mặt cho họ. Run sợ, chàng tiếp tục đi với đôi mắt nửa nhắm nửa mớ. Từ mọi phía, mùi thây rữa và mùi máu tanh xông lên, và từ hàng nghìn chỗ gạch đá đổ nát và nhà quàn xác người, ngọn sóng của cảnh khốn cùng và đau khổ không tả xiết càng lúc càng ồ ạt, tràn ngập khắp nơi. Người sứ giả tưởng như mình đang lạc vào một cơn ác mộng và cảm nhận trong đó lời khuyến cáo của các thiên thần, bởi vì những người chết của chàng còn chưa có cuộc lễ hoa và chưa được chôn cất. Chàng sực nhớ đến điều mà con chim tối hôm qua đã nói trên mái đền thờ: “Có nhiều thứ còn tệ hại xấu xa hơn nữa”.
Chàng nhận ra con chim đã đưa mình đến một hành tinh khác; tất cả những gì mà mắt chàng đang thấy ở đây đều là sự thật và chân lý. Chàng nhớ lại cảm giác của mình thời thơ trẻ mỗi khi nghe kể chuyện cổ tích rùng rợn. Chính cái cảm giác ấy giờ đây chàng đang có: một cảm giác kinh hãi rợn tóc gáy. Nhưng ngày xưa, cùng với nỗi kinh hãi lại nghe trong tim có một tia an ủi vui mừng thầm lặng, biết rằng tất cả những điều kinh dị xảy ra trong truyện cổ may sao đã trôi qua từ lâu và đã xa lắc xa lơ. Hôm nay ở đây mọi thứ đều như một truyện cổ tích quái đản, cái thế giới hoàn toàn lạ lùng đầy kinh hoàng với xác chết và quạ rỉa thây. Thế giới này hình như lệ thuộc vào những quy luật khó hiểu, chắng có nghĩa mà cũng không có nhân, những quy luật điên cuồng, điều ác, điều điên dại, điều xấu xa xảy ra thay cho điều thiện mỹ.
Chàng chợt thấy có một người đang đi trên cánh đồng bên kia; một người nông dân hay một kẻ làm thuê, chàng bèn chạy lại và gọi. Nhưng khi lại gần nhìn rõ người ấy, chàng giật mình kinh hãi, tim choáng ngợp nỗi thương hại, bởi vì người nông dân ấy trông xấu xí đến kinh sợ, hầu như không còn là con người đứng dưới mặt trời nữa. Hắn trông giống như một kẻ có thói quen chỉ nghĩ đến riêng mình, một người luôn cho rằng mọi nơi chỉ có điều giả dối, và xấu xa, một người luôn luôn chỉ sống trong những giấc mơ đầy sợ hãi. Trong mắt và trên toàn gương mặt cũng như cả thân xác của kẻ ấy chẳng có chút gì vui tươi hay lương thiện, chẳng có chút gì của sự tri ân và tin cẩn, đức hạnh đơn giản nhất và hiển nhiên nhất đều thiếu nơi con người bất hạnh ấy.
Chàng trai thu hết can đảm, đến gần người nọ với dáng điệu thân thiện, chào người ấy, mỉm cười bắt chuyện. Kẻ xấu xí đứng trơ như phỗng, nhìn ngơ ngác ngạc nhiên với đôi mắt mở lớn đục ngầu. Giọng nói của hắn thô kệch và không có âm điệu, như tiếng rống của một thứ sinh vật hạ cấp; tuy nhiên hắn không thể cưỡng lại vẻ vui tươi và tin cậy khiêm tốn trong ánh mắt của chàng trai. Khi hắn ta nhìn sững chàng trai; bỗng nhiên trên gương mặt thô tháp và nhăn nheo nở ra một nụ cười hay một nét miệng nhoẻn ra - khá xấu xí, nhưng lại hiền hòa và ngạc nhiên, như nụ cười nhỏ bé đầu tiên của một linh hồn tái sinh vừa trở về từ vùng sâu nhất của trái đất.
“Chú muốn hỏi tôi điều gì?” Người ấy hỏi chàng trai trẻ.
Theo tục lệ của quê hương mình, chàng trai đáp: “Bạn ơi, tôi cám ơn bạn và tôi xin bạn cho tôi biết tôi có thể làm gì cho bạn được?”
Người nông dân lặng yên, ngỡ ngàng rồi cười bối rối. Chàng sứ giả hỏi tiếp: “Bạn ơi, bạn hãy nói cho tôi hay điều gì đã xảy ra ở đây mà khủng khiếp và kinh hoàng thế kia?” Vừa nói chàng vừa chỉ quanh mình.
Người nông dân có vẻ không hiểu chàng trai nói gì. Chàng nhắc lại câu hỏi, hắn nói: “Chú chưa bao giờ thấy điều ấy sao? Đó là chiến tranh. Đó là bãi chiến trường”. Hắn đưa tay chỉ một đống gạch vụn đen ngòm và kêu lên: “Nơi đó là nhà của tôi”. Chàng trai nhìn vào đôi mắt đục ngầu của hắn với sự thông cảm nồng nhiệt, hắn cúi đầu nhìn xuống đất.
Chàng trai hỏi tiếp: “Các người không có vua hay sao?” Người nông dân nói có, chàng ta lại hỏi: “Ông ta ở đâu vậy?” Người nọ đưa tay chỉ về phía bên kia, ở đằng xa tít thấy mờ mờ một doanh trại nhỏ. Chàng sứ giả bèn đưa tay để lên trán người kia chào tạm biệt rồi đi về hướng ấy. Còn người nọ thì đưa hai tay lên sờ trán mình, lắc lắc cái đầu nặng nề một cách lo lắng và đứng đó trố mắt dõi theo chàng trai lạ.
Chàng trai mải miết đi và đi, băng qua tro tàn và khủng khiếp, cho đến khi tiến gần sát doanh trại. Khắp doanh trại có nhiều lính đứng canh gác, đi đi lại lại, không ai để ý đến chàng. Chàng chen giữa những người đàn ông, đi qua các lều trại cho đến khi tìm thấy một căn lều to nhất, đẹp nhất, đó là căn lều của vua. Chàng bèn bước vào.
Trong lều, vua đang ngồi trên một chỗ ngủ tạm, thấp, đơn sơ, tấm áo choàng đặt bên cạnh, sau lưng ông một tên hầu ngồi chồm hổm trong bóng tối mờ mờ; hắn đã ngủ khoèo lúc nào. Ông vua ngồi cúi người đắm mình trong suy tư. Mặt ông đẹp và buồn, một mớ tóc bạc phất phơ trên vầng trán nhuốm màu nâu sạm, thanh gươm nằm trước mặt trên nền đất.
Chàng trai trẻ lặng lẽ cung kính cúi mình chào hệt như khi chàng chào vị vua của nước mình. Với hai cánh tay chéo nhau để trên ngực, chàng đứng yên chờ đợi cho đến khi vị vua nhìn thấy chàng.
“Ngươi là ai?” Vị vua nghiêm nghị hỏi và nhíu đôi lông mày lại với nhau, nhưng tia nhìn của ông dừng lại nơi nét mặt trinh nguyên và tươi sáng của người mới đến. Chàng trai nhìn ông với vẻ tín cẩn và thân ái chân thành, đến nỗi giọng của vị vua bỗng trở nên mềm dịu.
“Ta đã gặp nhà ngươi một lần rồi,” vị vua vừa nói vừa ngẫm nghĩ, “hay là nhà ngươi trông giống một người nào đó mà ta đã gặp trong thời thơ ấu của ta”.
Người sứ giả nói: “Thưa, hạ thần là một kẻ xa lạ”.
“Thế thì đó là một giấc mơ rồi,” ông vua nói giọng nhỏ nhẹ mơ hồ, “nhà ngươi nhắc ta nhớ đến mẫu thân của ta. Này hãy nói cho ta nghe. Hãy kể cho ta nghe”.
Người thiếu niên bắt đầu: “Một con chim đã đưa con đến đây. Trong xứ con vừa có một trận động đất, chúng con muốn chôn cất những người chết, nhưng chúng con không có hoa”.
“Không có hoa hả?” Vị vua hỏi.
“Thưa không, không còn một đóa hoa nào nữa. Và có phải thế không, thưa ngài, thật là tệ hại nếu khi người ta phải tẩm liệm một người chết mà không thể dâng cúng cho người ấy một lễ rước hoa; bởi vì người ấy nên được bước vào cuộc hóa thân của mình trong lộng lẫy và hân hoan”.
Đột nhiên chàng trai sực nhớ, ngoài kia còn biết bao người chết chưa được tẩm liệm nằm la liệt trên cánh đồng khủng khiếp, chàng dừng lại, và ông vua nhìn chàng, gật đầu thở dài khó nhọc.
“Con định đi đến nhà vua của chúng con để xin ngài thật nhiều hoa,” người sứ giả nói tiếp, “nhưng khi con ở trong cái đền trên núi thì có một con chim bay đến bảo rằng nó muốn mang con đến nhà vua và nó đã đưa con qua nhiều tầng khí quyến đến ngài. Ồ, thưa nhà vua thân mến, đó là một cái đền thờ vị thần vô danh, trên mái đền có con chim đậu và vị thần ấy đã để một biểu tượng kỳ lạ trên tảng đá thờ: một trái tim và một con dã điểu đang rỉa trái tim. Trong đêm, con đã trò chuyện với con chim khổng lồ kia, và mãi đến bây giờ con mới hiểu được những lời của nó, bởi vì nó nói rằng, trên thế gian còn có những khổ đau và tàn ác nhiều hơn con biết. Và bây giờ con ở đây, băng qua cánh đồng lớn đến đây và đã thấy trong giờ phút này vô số khổ đau và bất hạnh, ôi, nhiều nhiều hơn cả những điều khủng khiếp nằm trong các truyện cổ tích. Thế rồi con đến trình ngài, ôi, thưa hoàng thượng, con xin hỏi ngài, con có thể phục vụ được gì cho ngài không?”
Vị vua, nãy giờ chăm chú ngồi nghe, tìm cách mỉm một nụ cười, nhưng gương mặt đẹp đẽ của ông quá nghiêm trang và quá buồn bã đắng cay đến nỗi ông không còn mỉm cười được nữa.
“Cám ơn con,” ông bảo, “con không phục vụ cho ta được một tí gì cả. Con làm ta nhớ đến mẹ của ta, ta cám ơn con điều ấy”.
Chàng trai buồn rầu vì ông vua không thể mỉm cười. Chàng nói với vị vua:
“Ngài buồn bã quá. Có phải do lỗi của chiến tranh không?”
Vị vua bảo: “Phải”.
Chàng trai không thể nhịn được, đành tỏ ra vô phép đối với con người đầy nỗi âu lo nhưng - như chàng cảm nhận - rất cao quý trước mặt mình và đặt một câu hỏi đường đột:
“Nhưng xin ngài hãy nói cho con biết, và con yêu cầu ngài giải thích tại sao các người lại gây chiến tranh trên hành tinh của các người? Ai là người có lỗi? Ngài có lỗi trong đó không?”
Vị vua sững người nhìn sứ giả, ông ta có vẻ không bằng lòng với sự đường đột hỗn xược của câu chất vấn. Tuy nhiên, ông tự thấy yếu đuối, không thể đối chọi thật lâu cái nhìn đen tối của mình với cái nhìn sáng rỡ và vô tư của chàng trai.
Vị vua bảo:
“Nhà ngươi còn là một đứa trẻ, và những chuyện kia nhà người không thể hiểu được. Chiến tranh không do lỗi của ai cả, nó tự đến như bão táp và sấm chớp, tất cả chúng ta, những người phải chiến đấu không phải là kẻ gây nên nó, mà là nạn nhân của nó”.
“Như thế thì các người chết rất dễ dàng phỏng?” Chàng trai hỏi. “Ở xứ chúng tôi, người ta cũng không sợ cái chết lắm đâu, phần đông ra đi một cách tự nguyện và nhiều người ra đi một cách vui vẻ vào sự hóa thân đổi kiếp, nhưng không bao giờ có một người nào dám cả gan giết một người khác. Trên hành tinh của quý ngài xem ra khác hẳn”.
Vị vua lắc đầu.
“Ở chỗ chúng ta không hiếm chuyện giết người,” ông bảo, “nhưng chúng ta xem giết người là tội ác trầm trọng. Chỉ duy trong chiến tranh thì được phép giết người, bởi vì trong chiến tranh không ai giết người vì thù ghét hay ganh tị theo quyền lợi riêng của mình cả, mà tất cả làm điều đó vì cộng đồng đòi hỏi họ phải giết người. Nhưng sẽ là một sai lầm, nếu nhà ngươi tưởng họ chết dễ dàng. Nếu nhà ngươi nhìn kỹ những gương mặt những người chết, nhà ngươi có thể thấy điều đó. Họ chết khó khăn và miễn cưỡng”.
Chàng trai trẻ lắng nghe những lời ấy, ngạc nhiên về nỗi buồn bã và khó khăn của cuộc sống mà những người trên hành tinh này đang phải chịu. Chàng còn muốn đặt thêm nhiều câu hỏi nữa, nhưng lại biết rõ là sẽ không bao giờ hiểu được hết sự dính líu chằng chịt giữa những điều đen tối và dễ sợ ấy, chàng cũng cảm thấy trong tâm không có đủ ý chí để hiểu chúng. Hoặc là những sinh linh đáng thương này thuộc về một tầng trật tự thấp kém, không có những vị thần sáng suốt và bị các ma quỷ điều khiển hay là trên hành tinh này có một rủi ro riêng, một lỗi lầm và sai lầm đang chế ngự. Chàng thấy ngượng ngùng và tàn nhẫn, nếu tiếp tục chất vấn, bắt buộc ông vua phải trả lời và thú nhận; mà mỗi câu trả lời hay mỗi thú nhận chỉ có thể là đắng cay và hạ nhục mà thôi. Những con người này đã sống u minh trong sự sợ hãi cái chết, nhưng lại đánh chết nhau hàng loạt, trên mặt những con người này lộ rõ sự thô thiển như nét mặt của người nông dân chàng gặp, hay hằn lên của nỗi tang tóc buồn bã sâu xa và khủng khiếp như nét mặt ông vua. Họ làm cho chàng thấy thương hại, nhưng họ cũng là những thực thể lạ lùng, hầu như buồn cười, buồn cười và điên khùng một cách mâu thuẫn, họ vừa đáng thương vừa đáng hổ thẹn.
Nhưng có một câu hỏi chàng không thể bỏ qua. Nếu những sinh linh khốn khổ này là những kẻ bị bỏ lại, những đứa con đến trễ của một hành tinh chậm trễ, vô hòa bình, nếu cuộc sống của những con người này diễn ra như một chứng bệnh động kinh và chấm dứt bằng những cú đấm chết người tuyệt vọng, nếu họ bỏ những người chết phơi thây trên bãi chiến, có lẽ nếu họ ăn luôn người chết - bởi vì trong các truyện cổ tích quái đản của thời xưa cũng có nói về điều ấy - nhưng dù sao đi nữa họ cũng phải có một linh cảm về tương lai, một giấc mơ về các vị thần, một điều gì đó như một hạt mầm của linh hồn nằm sẵn trong con người của họ chứ. Nếu không thì cả thế gian hoàn toàn không đẹp đẽ này chỉ là một sự sai lầm, chẳng có ý nghĩa gì cả.
“Thưa nhà vua, xin ngài thứ lỗi,” chàng nói với giọng vuốt ve, “hãy thứ lỗi cho con, nếu con còn đặt một câu hỏi nữa trước khi con lại rời khỏi xứ sở kỳ lạ này”.
“Hãy hỏi đi”, vị vua khích lệ, ông cảm thấy hay hay lạ lạ với chàng trai không quen này; bởi vì trong nhiều điều, hắn có vẻ là một bộ óc tinh tế, chín chắn và thông hiểu sâu xa, nhưng trong những điều khác, hắn lại giống như một đứa trẻ mà người ta phải nâng niu và không nên nghiêm khắc quá đỗi.
“Thưa vị vua xa lạ,” người sứ giả nói, “ngài đã làm cho con buồn bã. Ngài hãy xem, từ một xứ khác con đến đây. Thế mà con chim khổng lồ trên mái đền đã có lý: xứ của ngài có vô số nỗi khốn cùng đến nỗi con chưa bao giờ có thể tưởng tượng được. Cuộc sống các ngài tựa như một ác mộng đầy lo âu sợ hãi, và con không biết các ngài được các vị thần hay ma quỷ trị vì. Thưa nhà vua, ở xứ con có một truyện thần thoại, và trước kia con cho đó là chuyện hão huyền và khói mây. Chuyện kể rằng xưa kia ở xứ chúng con những điều như thế đều phổ biến, những điều như chiến tranh, giết người và tuyệt vọng. Nhưng từ lâu tất cả những chữ ghê rợn này chúng con không còn biết đến nữa, chúng con chỉ đọc được trong các sách cổ tích xưa và thấy chúng khủng khiếp nhưng cũng khá buồn cười. Hôm nay con đã thấy rõ tất cả những điều này là sự thực, là thực tế, con nhìn thấy được ngài và những người của ngài làm điều ấy và đang đau khổ. Nhưng xin ngài hãy nói cho con hay: các ngài có cảm thấy trong tâm hồn một linh cảm nào cho rằng các ngài làm điều không đúng không? Các ngài không có một hoài vọng về những vị thần trong sáng và vui tươi; về những kẻ lãnh đạo và điều khiển đầy hiểu biết và chan chứa lạc quan hay sao? Phải chăng trong giấc ngủ, các ngài không bao giờ nằm mơ về một cuộc sống khác hơn và đẹp đẽ hơn, ở đó không có ai muốn điều mà mọi người không muốn, ở đó lý trí và trật tự chế ngự, ở đó con người gặp gỡ nhau với niềm vui sướng và nhường nhịn nhau? Các người không bao giờ có được ý nghĩ rằng thế giới nên là một khối toàn thể? Và kính trọng cái toàn thể bằng linh ứng cũng như phục vụ cái toàn thể bằng tình yêu sẽ đem hạnh phúc và an lành hay sao? Các ngài không biết gì về điều mà xứ chúng tôi gọi là âm nhạc và thờ phụng thần linh và hạnh phúc ân huệ hay sao?”
Trong lúc nghe những lời này, vị vua gục đầu xuống. Khi ông ngẩng đầu lên, gương mặt của ông đã biến đổi, như được viền sáng bằng một ánh mờ của nét cười, trong lúc đôi mắt ông đẫm đầy nước mắt.
Vị vua bảo:
“Chú bé đẹp đẽ kia, ta không biết thật sự ngươi là một đứa bé hay một nhà hiền triết hay là một thần linh. Nhưng ta có thể trả lời cho ngươi rằng chúng ta đều biết tất cả các điều mà nhà ngươi vừa nói và mang chúng trong linh hồn. Chúng ta linh cảm được hạnh phúc, tự do, thần thánh. Chúng ta cũng có truyền thuyết của một nhà hiền triết thời tiền sử, người đã nhận ra được tính nhất thể của thế giới như một tương quan hòa hợp giữa các khoảng đất trời. Thế đã đủ cho nhà ngươi chưa? Hãy xem, có thể nhà ngươi là một kẻ phúc ân đến từ thế giới bên kia; hay nhà ngươi có lẽ chính là Thượng đế đi nữa, thì trong tim của ngươi không có một hạnh phúc nào, một thế lực nào, một ý chí nào, mà linh cảm và phản ánh hay bóng dáng của nó lại không sống trong tim của chúng ta”.
Rồi đột nhiên ông ta đứng hẳn lên, chàng trai hoàn toàn bất ngờ, bởi vì trong khoảnh khắc gương mặt ông vua, như vừa hụp lặn trong niềm vui, hiện ra sáng rỡ và trinh bạch như tia nắng ban mai.
Ông hướng về chàng trai dõng dạc:
“Thôi đi đi, hãy đi đi, để mặc chúng ta chiến đấu và giết nhau! Ngươi đã làm ta mềm lòng. Ngươi đã nhắc ta nhớ đến thân mẫu của ta. Đủ; đủ rồi, chú bé yêu quý và xinh đẹp kia. Hãy đi đi và trốn cho mau trước khi trận đánh mới bắt đầu! Ta sẽ nhớ đến ngươi, khi máu chảy và thành phố bốc lửa; và ta sẽ nhớ rằng thế giới là một toàn thể, mà sự điên cuồng, thịnh nộ, dã man của chúng ta không phân rẽ được chúng ta ra khỏi cái toàn thể ấy. Chào vĩnh biệt, hãy chào hành tinh của nhà ngươi hộ ta, và vị thần linh nọ mà biểu tượng là trái tim với con dã điểu đang rỉa rói! Ta biết trái tim ấy và con chim kia rõ lắm. Và này người bạn tuấn tú từ phương xa kia, hãy ghi nhớ: nếu khi nào ngươi nghĩ đến người bạn của ngươi, đến ông vua khốn khổ đang ở trong trận chiến, nhà ngươi không nên nhớ đến cái người đã ngồi trên đệm và đắm mình trong buồn bã tang thương, mà hãy nhớ đến kẻ đã mỉm cười với nước mắt lưng tròng và máu bết trên đôi tay”.
Nói xong, không đánh thức người hầu dậy, ông vua tự tay vén tấm màn cửa lều tiễn chàng trai lạ ra khỏi lều. Trong tâm trạng mới, chàng trai băng qua đồng bằng theo hướng cũ. Hướng về chân trời, trong ánh nắng chiều, chàng thấy một thành phố lớn đứng trong lửa đỏ, chàng leo qua người chết và tử thi tan rã của ngựa, đi mải miết cho đến khi trời tối hắn, chàng đến được bìa rừng cũ.
Ở đó con chim lớn vừa hạ cánh từ trên mây, nó mang chàng trai trên đôi cánh và họ bay trở về suốt cả đêm, êm ru không tiếng và mềm như lối bay của vịt trời.
Khi choàng thức dậy từ một giấc ngủ bất an, chàng trai thấy mình đang nằm trong ngôi đền nhỏ trong núi, trước đền, con ngựa của chàng đang đứng trong cỏ ướt và hí lên chào ngày mới rạng. Những gì về con chim lớn, về chuyến du hành đến hành tinh xa lạ; về ông vua và bãi chiến trường chàng không còn nhớ mảy may. Một bóng đen mơ hồ đọng lại trong tâm hồn chàng; một niềm đau nhỏ bé thầm kín tựa như một mảnh gai nhọn mong manh, - đau như một nỗi thương hại bơ vơ làm đau - đến cùng với một ao ước mong manh; chưa thành, thứ ước mơ thường đòi đoạn hành hạ người trong giấc mộng, cho đến khi cuối cùng ta gặp được người ao ước, bày tỏ tình yêu thương cho người, chia sẻ niềm vui với người, mà nụ cười của người ấy chính là nỗi ước ao thầm kín bấy lâu trong giấc mơ...
Người sứ giả leo lên ngựa, phóng đi suốt ngày trường, cuối cùng đến được kinh kỳ vào chầu vua. Bấy giờ mới thấy chàng đúng là người sứ giả mà mọi người chờ đợi ở chàng. Bởi vì nhà vua đã tiếp chàng với lời chào ban ân huệ qua cử chỉ đưa hai tay chạm vào trán người trẻ tuổi, ngài kêu lên:
“Đôi mắt của nhà ngươi đã nói với trái tim của ta, và tim ta trả lời ‘được’. Yêu cầu của nhà ngươi đã được thỏa mãn ngay trước khi ta nghe nhà ngươi trình bày”.
Lập tức người sứ giả được vua ban đặc ân cho phép nhận được tất cả những bông hoa trên khắp đất nước mà chàng cần có. Rồi đoàn tùy tùng, đoàn sứ giả, đoàn phục vụ lũ lượt kéo theo, nào ngựa nào xe tháp tùng. Sau vài ngày khi chàng trai trở về đến làng của mình trên con đường vòng quanh rặng núi, thì mọi người thấy chàng đem theo nào xe, nào thùng, nào giỏ, nào ngựa nào lừa, cái nào cũng chất đầy những bông hoa đẹp nhất của các vườn cây và nhà ươm giống có rất nhiều trên miền Bắc. Hoa rất nhiều, đủ để làm vòng hoa quàng thân người chết và trang hoàng các ngôi mộ, cũng như đủ để trồng một cây hoa, một khóm cây và một cây ăn quả tưởng niệm cho mỗi người chết theo tục lệ ở xứ ấy. Nỗi đau khổ mất bạn và con ngựa yêu đã nguôi ngoai và lắng dịu dần trong niềm tưởng nhớ thầm lặng và trong sáng, sau khi chàng đã trang hoàng và chôn cất người và vật cũng như trồng cho họ hai cây bông, hai khóm cây và hai cây ăn quả.
Hoàn thành xong bổn phận, chàng trai thấy thỏa lòng, bấy giờ hoài niệm về chuyến đi trong đêm nọ bắt đầu xao động khơi dậy trong tâm. Chàng xin người thân cho chàng được một ngày đơn độc. Chàng ngồi một ngày một đêm dưới bóng cây để suy tưởng, hồi tưởng trong trí nhớ một cách trung thực và rõ ràng những hình ảnh mà chàng đã thấy ở trên hành tinh nọ. Một ngày sau đó, chàng tìm đến vị trưởng lão xin được nói chuyện riêng và kể cho ông nghe tất cả.
Vị trưởng lão lắng nghe, suy nghĩ hồi lâu, rồi hỏi: “Này chú bạn, con đã chính mắt thấy tất cả các điều ấy hay đó chỉ là một giấc mơ?”
Chàng trai trả lởi:
“Con không biết. Nhưng con tin có thể đó là một giấc mơ. Tuy nhiên, xin ngài cho phép con nói thật, hình như đối với con mơ hay thật chả có một khác biệt nào, nếu câu chuyện ấy xúc tiếp với giác quan của con trong thực tế. Một bóng đen buồn bã vẫn còn lưu lại trong tâm con, và ngay giữa hạnh phúc của cuộc đời, ngọn gió lạnh lẽo từ hành tinh kia vẫn còn bơ phờ thổi đến. Bởi thế con xin hỏi ngài, người con kính ngưỡng, con nên làm gì?”
Vị trưởng lão bảo:
“Ngày mai, con hãy đi một lần nữa lên rặng núi, chỗ mà con tìm thấy ngôi đền. Cái biểu tượng của vị thần xem ra kỳ lạ, ta chưa bao giờ nghe nói về nó cả, và rất có thể đó là một vị thần của hành tinh khác. Hoặc có lẽ ngôi đền ấy và vị thần của nó đã xưa lắm rồi, xuất xứ từ tổ tiên đầu tiên của chúng ta hay từ thời xa xưa, lúc mà đối với nhau, con người còn có vũ khí, kinh hãi và nỗi lo âu tử thần. Con thương mến, hãy đi đến ngôi đền nọ, và hãy đem hoa, mật và các bài ca dâng lên vị thần”.
Chàng trai trẻ cám ơn và làm theo lời khuyên của vị trưởng lão. Chàng lấy một chén đựng thứ mật ngon quý, thứ mật người ta thường đem dâng cho khách danh dự trong các buổi lễ ong mật và không quên mang theo cây đàn cổ nguyệt. Trong núi, chàng tìm thấy chỗ chàng đã hái đóa hoa hình chuông màu xanh, tìm thấy đường dốc vách đá dẫn lên cao trong khu rừng, và nơi mà mới đây chàng đã dẫn ngựa lần bước. Nhưng chàng không thể tìm ra chỗ của ngôi đền và cả ngôi đền, bệ đá thờ màu đen, những cột lớn bằng gỗ, mái đền và con chim đậu trên mái, không người nào biết được để có thể chỉ ngôi đền mà chàng tả cho họ.
Chàng trai trở bước ra về, khi đi ngang qua đền thờ tưởng niệm thần Nhân Ái, chàng bước vào, dâng chén mật cúng dường, cất tiếng hát theo điệu đàn và chuyển đạt lên đài tưởng niệm giấc mộng của chàng, ngôi đền và con chim lớn, người nông dân nghèo khổ và những người chết trên bãi sa trường và nhất là về ông vua trong căn lều chiến. Sau đó với tâm hồn nhẹ nhõm, chàng trở về nhà, treo trong phòng ngủ biểu tượng về sự nhất thể của vũ trụ ngủ một giấc dài và sâu, xả hết những ấn tượng đã trải qua trong ngày. Ngày hôm sau, chàng bắt đầu giúp mọi người khỏa lấp những dấu vết cuối cùng của trận động đất trong vườn và ruộng đồng, vừa làm vừa ca hát.
Chú thích:
[1] Thăm hỏi (bằng lời nói, vật phẩm) những người chịu mất mát hoặc vất vả, khó khăn. (BT).