Dịch giả: Anh Vũ
Chương 69
Những người thợ

Khoảng nửa đêm. Charles nghe tiếng rầm rầm rất to ở dưới cửa sổ: đó là tiếng búa rìu chan chát, tiếng kìm cặp ken két và tiếng cửa xẻ xoèn xoẹt.
Charles để nguyên quần áo nằm lăn ra giường và vừa mới chợp mắt thì tiếng ồn ào khiến ông choàng dậy.
Ngoài tiếng vang nghe thấy, tiếng ồn kia còn dội tiếng vang tinh thần khủng khiếp trong tâm hồn ông và những ý nghĩ ghê sợ tối hôm qua lại đến công kích ông.
Một mình trước bóng đêm và sự cô đơn, ông không đủ sức chịu đựng nổi sự tra tấn ấy, nó không có trong chương trình những hình phạt đối với ông. Ông bèn bảo Parry ra bảo lính canh nói với những người thợ làm nhẹ tay hơn và hãy thương đến giấc ngủ cuối cùng của kẻ đã từng là vua của họ.
Lính canh không muốn rời vị trí của họ, nhưng để cho Parry đi.
Sau khi đi vòng quanh lâu đài đến gần cửa sổ, Parry trông thấy ở ngang bằng với bao lớn đã dỡ rào sắt đi, một đoạn đầu đài đang làm dở nhưng người ta đã bắt đầu đóng đinh chắng bằng một tấm rèm bằng nỉ đen.
Đoạn đầu đài dựng cao ngang tầm cửa sổ tức là gần hai mươi bộ có hai tầng ở dưới. Nhìn cảnh tượng thật là dể sợ, nhưng Parry vẫn cố tìm trong đám đông bảy tám người thợ đang dựng cái máy thê thảm ấy xem chỗ nào gây tiếng ồn nhức óc nhất cho vua.
Trên sàn thứ hai, bác trông thấy hai người đang dùng kìm gõ nốt những thanh sắt cuối cùng của bao lớn. Một người cao lớn như ông hộ pháp thay cái chiên cụ phá cổng thành ngày xưa làm việc xô đổ những bức tường. Mỗi lần anh ta ra tay, gạch đá bay tứ tung. Người kia quỳ đang cạy từng tảng đá lung lay.
Rành rành là những người này gây ra tiếng động khiến vua kêu la.
Parry trèo thang đến chỗ họ. Bác nói:
- Các bạn ơi, xin các bạn làm nhẹ nhàng hơn một chút có được không? Vua đang ngủ và cần được ngủ.
Người thợ dùng kẹp ngừng tay và quay nghiêng lại, nhưng do bác ta đứng nên mặt bị khuất trong bóng tối dày đặc gần sàn và Parry trông không rõ.
Người đang quỳ cũng quay lại và do thấp hơn người kia, nên mặt được ánh đèn chiểu sáng và Parry trông rõ. Người ấy chằm chằm nhìn Parry và để một ngón tay lên miệng.
Pary kinh ngạc lùi lại.
- Được thôi, được thôi, - Người thợ nói tiếng Anh rất cừ, - Bác hãy trở về nói với vua rằng, nếu đêm nay khó ngủ thì đêm mai sẽ ngủ ngon hơn.
Những lời nói ấy cứ theo nghĩa đen có một ý nghĩa thật ghê gớm, được những người thợ làm ở phía bên cạnh và tầng dưới tiếp nhận bằng một trận cười ầm ĩ.
Parry rút lui, ngờ rằng mình đang chiêm bao.
Charles sốt ruột đợi hắn.
Lúc bác trở về, tên lính canh cửa tò mò ngó đầu vào xem vua đang làm gì.
Vua đang chống khuỷu tay lên giường.
Parry đóng cửa và đi đến bên vua, mặt vui mừng rạng rỡ.
- Thưa Hoàng thượng, Hắn khẽ nói, - Ngài có biết những người thợ đang làm ồn ồn đó là ai không?
Charles lắc đầu buồn bã, nói:
- Không, làm sao tôi biết được điều đó? Tôi có quen những người ấy không?
Parry cúi sát xuống giường chủ và nói nhỏ hơn nữa:
- Thưa Hoàng thượng, đó là bá tước De La Fère và đồng đội của ông.
- Họ dựng đoạn đầu đài cho tôi à? - Vua ngạc nhiên hỏi.
- Vâng họ vừa dựng đài vừa đục một lỗ thủng vào tường.
- Suỵt - Vua vừa nói vừa hoàng hốt nhìn quanh. - Ngươi trông thấy họ à?
- Tôi đã nói với họ.
Vua chắp hai tay lại và ngước mắt lên trời. Sau một lời cầu nguyện thành kính và ngắn ngủi ông nhảy ra khỏi giường và đi đến cửa sổ, vén rèm lên những lính canh vẫn ở đấy, phía xa ngoài bao lớn một bãi phẳng trải rộng và bọn lính đi qua như những cái bóng.
Charles không phân biệt được gì cả, nhưng cảm thấy ở dưới chân những nhát búa chấn động của các bạn mình. Mỗi nhát đó lúc này đáp lại tận đáy lòng ông.
Parry không lầm, bác đã nhận rõ Arthos. Chính anh được Porthos giúp sức đang đục một lỗ hổng để đặt các xà ngang.
Cái lỗ ấy ăn thông vào một cái hầm nhỏ đào ngay dưới sàn của phòng vua. Hầm đó giống như một tầng trệt, khi vào trong đó rồi, chỉ cần một cái kìm và đôi vai thật khỏe là có thể nậy một tấm ván sàn lên, việc này có Porthos lo. Vua sẽ lách qua lỗ hổng ấy cùng những người cứu mình chui vào một ngăn ở dưới đoạn đầu đài, mặc một bộ quần áo thợ đã chuẩn bị sẵn, chẳng e sợ gì, đàng hoàng đi ra với bốn người bạn.
Những lính canh chẳng nghi ngờ gì, thấy những người thợ vừa mới làm ở đoạn đầu đài sẽ để họ đi qua.
Còn cái tàu buồm như chúng tôi đã nói vẫn sẵn sàng ngoài bến.
Cái kế hoạch to lớn, đơn giản và dễ dàng, giống như mọi điều này sinh từ một quyết định táo bạo.
Đôi bàn tay trắng muốt và nuột nà của Arthos toạc ra để bốc những tảng đá mà Porthos đã nậy bật ra. Anh đã có thể thò đầu xuống dưới những vải trang trí bàn ở bao lớn. Hai giờ nữa anh sẽ lách được cả người qua. Trước khi trời sáng cái lỗ hổng sẽ được đục xong và khuất sau tấm rèm bên trong mà d'Artagnan sẽ căng lên.
D'Artagnan làm như một người thợ Pháp và đóng những cái đinh rất đều đặn như một người căng thảm khéo léo nhất. Aramis cắt những chỗ vải thừa của tấm nỉ xoà xuống đất và che bộ khung của giàn giáo.
Một ngọn lửa than bùn đã giúp những người thợ qua được cái giá rét thấu xương đêm hôm 29 rạng ngày 30 tháng Giêng(1). Những người thợ mải miết nhất chốc chốc cũng ngừng tay để sưởi. Riêng Arthos và Porthos không rời công việc của mình. Cho nên trời vừa rạng sáng và soi tỏ các nóc nhà thì cái lỗ chui đã hoàn thành. Arthos vào đó mang theo quần áo dành cho vua bọc trong một mảnh nỉ đen. Porthos đưa anh một cái kìm, d'Artagnan căng một tấm nỉ rộng ở bên trong, kể cũng khá xa xỉ đấy, nhưng rất có ích vì nó che lấp hẳn cái lỗ hổng ở tường.
Arthos chỉ còn phải làm hai tiếng đồng hồ nữa để thông được đến chỗ vua. Theo dự kiển của bốn người bạn, họ còn cả một ngày rộng rãi, bởi vì thiếu đao phủ người ta buộc phải đi kiếm đao phủ ở Bristol.
D'Artagnan lại mặc bộ đồ hạt dẻ, Porthos mặc áo chẽn đó, Còn Aramis đến nhà ông Juxon để nếu có thể thì cùng ông đi vào tận chỗ vua.
Cả ba người hẹn gặp nhau vào giữa trưa ở quảng trường toà Đại sảnh trắng để xem tình hình ra sao.
Trước khi rời đoạn dầu đài, Aramis đã đến gần chỗ Arthos nấp để báo rằng anh sẽ cố gặp lại  nhà vua.
- Vậy thì xin tạm biệt và can đảm lên nhé, - Arthos nói. - Hãy cho vua biết tình hình đến đâu rồi. Dặn vua là khi nào không có ai ở trên thì gõ xuống sàn để tôi yên trí tiếp tục công việc. Nếu Parry giup tôi gỡ sẵn cái tấm lót dưới lò sưởi, chắc là một tấm đá lát, ra được thì hay lắm. Còn cậu Aramis, cố gắng không rời vua.
Hãy nói to, nói thật to, vì ở ngoải cửa sẽ có người nghe. Nếu trong phòng có một lính canh thì cậu giết ngay không chờ đợi gì cả.
Nếu có hai tên thì cậu giết một, Pary giết một. Nếu có ba tên thì các cậu hãy liều chết, nhưng hãy cứu lấy nhà vua.
- Cứ yên trí, - Aramis nói, - Tôi sẽ mang đi hai con dao găm và đưa cho Parry một con. Hết rồi chứ?
- Ừ đi đi. Nhưng dặn kỹ là đừng có hào hiệp hão. Trong khi các cậu đánh nhau, thì vua phải trốn ngay. Khi phiến đá đã đậy lại trên đầu vua thì cậu ở lại chiến đấu dù sống hay chết, người ta cũng phải mất ít ra mười phút để tìm ra cái lỗ tẩu thoát. Trong mười phút ấy chúng tôi đi được khối đường đất và vua sẽ được cứu thoát.
- Mọi việc sẽ như cậu dặn, Arthos ạ. Đưa tay đây, vì có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa.
Arthos đưa hai tay ra quàng lấy cổ Aramis và hôn bạn.
- Tôi hôn cậu đây, - Anh nói, - Bây giờ nếu tôi chết hãy nói với d'Artagnan rằng tôi yêu nó như con tôi và ôm hôn nó hộ tôi. Ôm hôn cả cái cậu Porthos dũng cảm và tốt bụng của chúng ta nữa. Vĩnh biệt! - Vĩnh biệt, - Aramis nói. - Bây giờ thì chắc nhà vua sẽ trốn thoát, cũng chắc chắn như đang siết chặt bàn tay trung hậu nhất trên đời.
Aramis rời Arthos, xuống khỏi đoạn đẩu đài và trở về khách sạn vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát ca tụng Cromwell. Anh thấy hai bạn mình đang ngồi gần lò sưởi cháy rựng rực, uống một chai rượu vang ports và ăn ngấu nghiến một con gà ướp lạnh. Porthos vừa ăn vừa tuôn ra ông ổng những lời chửi rủa bọn nghệ sĩ đê tiện, d'Artagnan cứ im lặng ăn, nhưng trong óc vẫn  nghĩ đến những kế hoạch táo bạo nhất.
Aramis kể lại tất cả những điều đã thoả thuận với Arthos, d'Artagnan tán thành bằng cái đầu, còn Porthos bằng tiếng nói:
- Hoan hô! - Anh kêu lên, - Vả lại chúng ta sẽ ở đấy khi vua trốn. Nấp dưới đoạn đầu đài thì kín quá rồi và chúng ta có thể trông vào đó. Với d'Artagnan, tôi, Grimaud và Mousqueton, chúng tôi đủ sức diệt tám tên. Tôi không kể Blaisois, hắn chỉ giữ nổi ngựa. Hạ một tên mất hai phút, hai lần mất bốn phút. Cho Mousqueton thêm một phút là năm, trong năm phút ấy, các cậu có thể phóng được một phần tư dặm.
Aramis ăn vội một miếng, uống một cốc rượu vang và thay quần áo.
- Bây giờ tôi đi đến ngài tổng giám mục. Porthos chuẩn bị vũ khí, d'Artagnan canh gác cẩn thận gã đao phủ nhé.
- Yên trí, Grimaud đã thay phiên Mousqueton và chặn chân lên cẩn thận rồi.
- Kệ cứ phải canh gác thật cẩn mật và không được một phút ngồi rồi.
- Ngồi rồi ư? Bạn thân mến ơi, cậu hãy hỏi Porthos xem. Tôi có ở yên đâu. Lúc nào tôi cũng ở trên đôi cẳng và có vẻ một người ham nhảy múa. Mẹ kiếp! Lúc này đây tôi yêu quí nước Pháp biết chừng nào. Có một tổ quốc cho riêng mình thật là sung sướng, khi mình đang khốn khổ trên tổ quốc những người khác. Aramis rời các bạn như đã rời Arthos, nghĩa là ôm hôn họ. Rồi anh đến giám mục Juxon và trình bày yêu cầu của mình. Do đã được báo trước là cần một linh mục để làm lễ ban thánh thể và nhất là trong trường hợp vua muốn được dự lễ messe, nên Juxon càng dễ dàng bằng lòng mang theo Aramis.
Mặc y phục giống như Aramis hôm trước, giám mục lên xe.
Aramis đổi dạng vì vẻ mặt xanh xao và rầu rĩ hơn là vì bộ y phục trợ tế, leo lên ngồi cạnh Juxon. Cỗ xe dừng lại trước cổng toà Đại sảnh trắng lúc gần chín giờ sáng. Chẳng có vẻ thay đổi gì cả: Các tiền sảnh, các hành lang vẫn dẫy lính canh như hôm trước. Hai lính gác ở cửa phòng vua, hai tên khác đi đi lại lại trước bao lớn trên sàn của đoạn đầu đài đã kê sẵn chiếc thớt.
Nhà vua lòng đầy hi vọng, gặp lại Aramis, niềm hi vọng ấy biến thành mừng rỡ. Ông ôm hôn Juxon và bắt tay Aramis. Juxon giả vờ nói to và trước mặt mọi người về cuộc gặp gỡ với nhà vua hôm trước.
Vua đáp lại rằng nhưng lời mà giám mục nói với ông trong cuộc hội kiến ấy đã khai hoa kết Pomme-de- Pinvà ông mong muốn một cuộc hội đàm nữa tương tự. Juxon quay về phía những người có mặt ở đấy và yêu cầu được ở lại một mình với vua. Mọi người rút lui.
Cửa vừa mới khép lại, thì Aramis vội nói:
- Thưa Hoàng thượng? Ngài được cứu thoát rồi! Tên đao phủ London đã biến mất; người phụ việc của hắn hôm qua bị gẫy đùi dưới cửa sổ phòng ngài. Tiếng kêu mà chúng ta đã nghe thấy là của hắn. Chắc hẳn người ta đã biết tin đao phủ mất tích, chỉ có đao phủ ở Bristol và phải có thời gian để tìm kiếm hắn.
- Chúng ta còn thì giờ tới tận ngày mai.
- Thế bá tước de La Fère đâu? - Vua hỏi.
- Ở cách ngài hai bộ. Ngài hãy lấy cây gắp than gõ vào lò ba tiếng sẽ thấy ông ấy đáp lại.
Vua đưa bàn tay run rẩy cầm lấy cây gắp than gõ ba tiếng cách đều nhau. Lập tức từ dưới sàn những tiếng gõ đáp lại vang lên đùng đục và dè đặt.
- Như vậy, - Vua nói, - Người đáp lại cho tôi là…
Là bá tước de La Fère, - Aramis nói. - Ông ta sửa soạn đường để Hoàng thượng trốn. Parry sẽ nhắc tấm đá lát kia và một lối đi sẽ mở ra.
- Nhưng tôi chẳng có một dụng cụ nào. - Parry nói.
- Hãy cầm lấy con dao găm này, - Aramis bảo, - Nhưng đừng làm cùn nó quá vì rằng bác sẽ cần dùng nó để đào cái khác hơn là đá.
Charles quay về phía giám mục và nắm lấy hai tay ông mà nói:
- Ôi, Juxon, hãy nhớ lời cầu nguyện của kẻ đã từng là vua của ông.
- Người ấy vẫn là vua và sẽ mãi mãi là vua, - Juxon hôn tay ông hoàng và nói.
- Ông hãy cầu nguyện suốt đời cho người quý tộc mà ông trông thấy đấy, cho người kia mà ông nghe thấy ở dưới chân và cho hai người khác nữa, dù đang ở đâu họ cũng chăm lo đến việc cứu thoát tôi.
- Thưa Hoàng thượng, - Juxon đáp, - Ngài sẽ được tuân theo.
- Chừng nào tôi còn sống thì mỗi ngày sẽ có một lời cầu nguyện của Chúa cho những người bạn trung thành này của ngài.
Người thợ đào hầm tiếp tục công việc một lát nữa và người ta cảm thấy nó không ngừng nhích gần lại. Chợt một tiếng động bất ngờ vang lên trong hành lang. Aramis vờ lấy cây gắp than và ra hiệu ngừng việc.
- Tiếng động ấy đến gần và nghe rõ tiếng những bước chân đều dặn. Bốn người đứng im lặng và chằm chằm nhìn ra cửa. Cánh cửa mở ra từ từ và trang trọng.
Lính thị vệ dàn thành hàng rào trong gian phòng ở phía trước phòng vua. Một ủy viên của Nghị viện vận y phục đen và đầy vẻ trịnh trọng báo điểm gả bước vào chào vua và mở một tờ chiếu ra đọc cho ông nghe bản phán quyết như người ta thường làm đối với tội phạm sắp bước lên đoạn đầu dài.
- Thế này là thế nào? - Aramis hỏi Juxon.
Juxon ra hiệu như nói rằng ông cũng hoàn toàn mù tịt như anh.
Với vẻ xúc động chỉ riêng Juxon và Aramis cảm nhận thấy vua hỏi:
- Việc ấy thi hành hôm nay à?
- Ngài không được báo trước là làm sáng nay ư? - Người mặc áo đen hỏi lại.
Vua nói:
- Thế ta phải chết như một tội phạm bình thường do tay đao phủ London sao?
- Thưa ngài, - Vị uỷ viên Nghị viện đáp,
 -Đao phủ London biến mất, nhưng một người khác xin thay thế. Như vậy là việc hành quyết chỉ chậm lại trong khoảng thời gian ngài yêu cầu để sắp xếp những công việc vật chất và tinh thần mà thôi.
Một chút mồ hôi lâm tấm ở chân tóc là dấu hiệu xúc động duy nhất của nhà vua khi nghe tin ấy.
Còn Aramis thì tái nhợt hẳn. Tim anh ngừng đập. Anh nhắm mắt lại và vịn tay lên bàn. Nhìn thấy nỗi đau đớn sâu sắc ấy, Charles như quên bẵng nỗi đau của mình. Ông đến cạnh Aramis, nắm lấy tay anh. Với một nụ cười dịu dàng và buồn bã, ông nói:
- Bạn ơi! Hãy can đảm lên nào rồi quay về phía uỷ viên, ông nói:
- Tôi đã sẵn sàng, ông ạ. Ông thấy đấy, tôi chỉ mong muốn hai điều và nó cũng chẳng làm các ông chậm trễ bao nhiêu đâu: một là nhận lễ ban thánh thể; hai là ôm hôn các con tôi và nói với chúng lời vĩnh biệt cuối cùng. Chẳng hay có được phép không?
- Thưa ngài, được ạ, - Vị ủy viên Nghị viện đáp.
Và ông đi ra…
Aramis hồi tỉnh lại, bấm móng tay vào thịt mình, một tiếng rên rền rĩ thoát ra từ lồng ngục anh. Anh nắm lấy tay Juxon và kêu lên:
- Ôi! Thưa Đức ông, Chúa ở đâu? Chúa ở đâu?
- Con ơi, - Giám mục đĩnh đạc nói, - Con không trông thấy Chúa đâu, bởi vì những dục vọng của cõi trần che khuất Chúa.
- Con ơi, - Vua bảo Aramis, - Con đừng buồn phiền làm chi. Con hỏi Chúa làm gì ư? Chúa chứng giám lòng tận tụy của con và việc tuẫn tử của ta, hãy tin rằng cả hai điều ấy đều sẽ được ân thưởng. Vậy thì hãy cáo buộc những con người, chứ không phải Chúa, về những việc xảy ra. Chính là những con người làm con phải khóc.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, ngài nói đúng, - Aramis đáp.
- Chính là những con người mà tôi phải công kích, chính là những con người mà tôi sẽ công kích.
Vua quỳ xuống và bảo Juxon:
- Juxon, hãy ngồi xuống. Bây giờ chỉ còn có việc ông nghe tội và tôi xưng tội với ông.
Thấy Aramis toan rút lui, ông nói:
- Ông cứ ở lại. Parry cứ ở lại. Trong việc bí mật của việc sám hối, ta cũng chẳng có gì mà không thể nói trước mặt mọi người, các bạn cứ ở lại; và ta chỉ tiếc có một điều là tất cả thiên hạ không được nghe ta nói như các bạn và cùng với các bạn.
Juxon ngồi xuống, và vua quỳ trước mặt ông ta như kẻ kinh cẩn nhất trong các tín đồ, bắt đầu việc xưng tội.

Truyện Hai mươi năm sau chạy khắp người như những cơn ớn lạnh mà tử thần ném lên mình ta như ném chiếc áo choàng đầu tiên của nó.
Thế là trong căn phòng nhắc nhở với ông biết bao kỷ niệm đế vương và đã từng chứng kiến biết bao cận thần vào ra và biết bao điều phỉnh phờ nịnh hót, giờ đây một mình ông cùng với một tên đầy tớ buồn phiền mà linh hồn yếu đuối không thể nâng đỡ linh hồn ông nhà vua buông rơi lòng can đảm của mình xuống ngang tầm của sự yếu đuổi ấy, của những bóng đêm ấy, của cái giá lạnh mùa đông ấy.
Và liệu người ta có sẽ nói ra không? Cái ông vua ấy chết thật cao cả, thật tuyệt vời, với nụ cười nhẫn nhục trên môi, đã lau trong bóng tối một giọt nước mắt rơi xuống bàn và rung rinh trên tấm thảm thêu vàng lỏng lánh.
Bỗng nhiên có tiếng chân bước ngoài hành lang, rồi cửa bật mở và gian phòng bừng lên trong ánh sáng khói um của những ngọn đuốc Một giáo sĩ vận y phục chủ giáo bước vào có hai tên lính gác theo sau. Charles khoát tay một cách khần thiết cho hai tên lính và chúng đi ra. Căn phòng trở lại tối tăm.
- Juxon! - Charles reo lên, - Juxon? Cảm ơn người bạn cuối cùng của tôi, ông đến rất kịp thời.
Vị giám mục đưa mắt lo ngại nhìn nghiêng sang phía người dân ông đang thổn thức ở góc lò sưới.
- Nào, Parry, đừng khóc nữa, - Vua nói, - đây là Chúa đến với chúng ta.
- Nếu là Parry thì tôi chẳng có gì phải lo ngại, - Giám mục nói. - Vậy thì tôi xin phép kính chào Hoàng thượng và thưa với ngài tôi là ai và đến đây vì việc gì.
Nhìn lại người và nghe giọng nói ấy, suýt nữa Charles kêu lên, nhưng Aramis đặt ngón tay lên môi và kính cẩn cúi chào ông vua Anh quốc.
- Ông hiệp sĩ, - Charles lẩm bẩm.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Aramis ngắt lời và lên cao giọng, vâng tôi là giám mục Juxon, người hiệp sĩ trung thành của Chúa Giêsu, đến đây theo nguyện vọng của Hoàng thượng.
Đã nhận ra D'Herblay, Charles chắp hai tay, kinh ngạc và ngẩn người ra trước những người ngoại quốc này, họ chẳng có động cơ nào khác ngoài nghĩa vụ mà tự lương tâm họ đặt ra, chiến đấu chống lại ý nguyện của một dân tộc và chống lại số mệnh của một ông vua.
- Ông đấy à! - Vua nói, - Ông làm thế nào mà tới được đây? Lạy Chúa, nếu họ nhận ra ông thì ông nguy to.
Parry đứng gần đấy, tất cả con người hắn biểu hiện một niềm khâm phục hồn nhiên và sâu sắc.
Vừa tiếp tục ra hiệu cho vua im lặng, Aramis vừa nói:
- Xin ngài đừng lo gì cho tôi, và chỉ nên lo cho ngài thôi. Các bạn bè của ngài chăm lo cho ngài, ngài thấy đấy; chúng tôi sẽ làm gì, tôi cũng chưa biết; nhưng bốn con người  đầy lònh cương quyết đó có thể làm được rất nhiều việc. Trong khi chờ đợi, ngài chớ nhắm mắt ban đêm, chớ ngạc nhiên về chuyện gì cả và sẵn sàng với mọi việc có thể đến.
Charles lắc đầu nói:
- Bạn ơi, các ông có biết rằng chẳng còn mấy thời giờ nữa đâu, và nếu các ông muốn hành động thì phải gấp lắm ư? Các ông có biết rằng đến mười giờ sáng mai là tôi phải chết không?
- Thưa ngài, từ giờ đến lúc ấy, một điều gì đó sẽ xảy ra khiến việc hành quyết không thể thực hiện được.
Vua nhìn Aramis với vẻ ngạc nhiên.
- Đúng lúc ấy ở phía dưới cửa sổ phòng vua vang lên một tiếng động lạ như tiếng bốc dỡ một xe chở gỗ.
- Ông có nghe thấy không? - Vua hỏi.
- Tiếng động kia kèm theo một tiếng kêu đau đớn.
- Tôi có nghe, - Aramis đáp, - Nhưng tôi không hiểu rõ tiếng động ấy là gì và nhất là tiếng kêu kia.
- Tôi không biết ai đã thốt ra tiếng kêu ấy, Vua nói: nhưng về tiếng động tôi sẽ nói để ông rõ. Ông có biết rằng tôi sẽ bị hành quyết ở ngay ngoài cửa sổ kia không? - Vua nói và giơ tay về phía bãi tối chỉ có toàn lính gác.
- Vâng, thưa ngài, tôi có biết, - Aramis đáp.
- Đấy! Những gỗ mang đến là những cột kèo người ta dùng để dựng đoạn đầu đài cho cho tôi đấy. Có người thợ nào đó bị thương khi bốc dỡ.
Aramis bất giác rùng mình.
- Các ông thấy đấy, - Charles nói, - Các ông có khăng khăng làm nữa cũng vô ích mà thôi. Tôi đã bị kết án, hãy đề tôi cam chịu số phận của mình.
Lấy lại sự bình tĩnh bị quấy động trong giây lát, Aramis nói:
- Thưa ngài họ có thể dựng một đoạn dầu đài nhưng họ sẽ không tìm được một đao phủ.
- Thế nghĩa là thế nào? - Vua hỏi.
- Nghĩa là vào lúc này, thưa ngài, tên đao phủ đã bị bắt cóc hoặc dụ dỗ đi. Ngày mai đoạn đầu đài sẽ sẵn sàng, nhưng không còn đao phủ, người ta sẽ phải hoãn việc hành quyết đến ngày kia.
- Thế thì sao? - Vua hỏi.
- Thì đêm mai chúng tôi sẽ bốc ngài đi, - Aramis đáp.
Một tia chớp vui mừng bất giác lóe lên gương mặt vua. Ông reo lên:
- Thế là thế nào?
Parry chắp hai bàn tay lẩm bẩm:
- Ôi, ông ơi! Cầu Chúa ban phước lành cho ông và các bạn ông.
- Thế là thế nào? - Vua nhắc lại, - Tôi cần phải biết để nếu cần tôi còn hỗ trợ các ông chứ.
- Thưa ngài, tôi thật không biết gì cả, - Aramis nói, - Nhưng cái người khôn khéo nhất, dũng cảm nhất, tận tâm nhất trong bốn chúng tôi đã bảo khi chia tay rằng: "Hiệp sĩ, hãy nói với vua rằng ngày mai vào lúc mười giờ tối, chúng tôi cướp vua đi". Bởi vì ông ấy đã nói, ông ấy sẽ làm.
- Hãy cho tôi biết tên của ông bạn hào hiệp ấy, - Vua nói, - Để tôi giữ một niềm biết ơn ông ấy mãi mãi, dù ông ấy có thành công hay không.
- D'Artagnan, thưa ngài. Chính ông ấy đã suýt cứu được ngài thì đại tá Harrison vào thật là không đúng lúc.
- Quả thật các ông là những con người kỳ diệu! - Vua nói. - Người ta đã kể cho tôi nghe những chuyện tương tự về các ông mà tôi không tin.
- Giờ đây xin ngài hãy nghe tôi - Aramis nói. - Không một lúc nào ngài quên rằng chúng tôi chăm lo việc cứu ngài; một cử chỉ nhỏ nhặt, một tiếng hát khe khẽ, một dấu hiệu thoảng qua của những người sẽ đến gần ngài, phải rình hết, nghe hết, thật bình tỉnh.
- Ôi, hiệp sĩ! - Nhà vua kêu lên, - Tôi biết nói gì với ông đây? Không một lời nào, dù từ đáy lòng tôi thốt ra, có thể biểu hiện hết niềm biết ơn của tôi. Nếu các ông thành công - Tôi sẽ không nói rằng các công cứu một ông vua, không, nhìn từ doạn đầu đài như tôi đang nhìn đây thì, tôi xin thề rằng, vương vị chẳng có nghĩa lý gì cả; nhưng các ông giữ gìn được một người chồng cho vợ, một người cha cho các con của ông ta. Hiệp sĩ ơi, hãy cầm lấy tay tôi, đó là tay một người bạn sẽ yêu quý ông cho đến hơi thở cuối cùng.
Aramis muốn hôn tay vua, nhưng vua nắm lấy tay anh và áp vào tim mình.
Lúc ấy một người đi vào không buồn gõ cửa. Aramis toan rụt tay về, nhưng vua giữ lại.
Đó là một trong những tín đồ thanh giáo nửa thày tu nửa lính đầy rẫy quanh Cromwell.
- Ông cần gì? - Vua nói.
- Tôi muốn xem việc xưng tội của Charles Stuart đã xong chưa, - Người mới vào đáp.
- Điều ấy can hệ gì đến ông? - Vua nói, - Chúng ta không cùng một tôn giáo.
- Tất cả mọi người đều là anh em, - Người thanh giáo nói. - Một người anh em của tôi sắp chết, tôi đến khích lệ anh ta đi đến cái chết.
- Thôi đủ rồi, - Parry nói - Đức vua không cần đến những điều khích lệ của ông.
- Thưa ngài, - Aramis nói nhỏ, - Hãy nhẹ nhàng với hắn, chắc hẳn đó là một tên do thám.
- Thưa ông, - Vua nói, - sau vị tiến sĩ giám mục tôn kính, tôi sẽ vui lòng nghe ông.
Người có cái nhìn lấm lét rút lui và không quên quan sát Juxon với một vẻ chú ý không thoát khỏi con mắt nhà vua. Khi cửa đóng rồi, vua nói:
- Hiệp sĩ ạ, tôi chắc rằng ông nói đúng và cái người kia đến đây với y đồ xấu. Khi ra khỏi đây ông hãy coi chừng kẻo vướng vào tai hoạ.
- Xin cảm ơn Hoàng thượng, - Aramis nói, - Nhưng ngài hãy yên tâm. Dưới làn áo dài này tôi mặc một áo giáp sắt và giấu một con dao.
- Thôi, ông đi đi, và cầu Chúa che chở cho ông, như tôi vẫn thường nói khi còn làm vua.
Aramis đi ra. Charles tiễn anh ra ngưỡng cửa, Aramis vừa đi vừa ban phước khiến những tên lính gác cúi rạp mình, anh đưởng bệ đi qua các tiền sảnh đầy lính tráng, bước lên cỗ xe có hai tên hầu đi theo và trở lại toà giám mục, hai tên hầu cáo biệt anh, Juxon đợi chờ lo lắng.
- Thế nào? - Ông vội hỏi thì thấy Aramis vào.
- Thưa ngài, mọi việc đều hoàn thành như tôi cầu mong. Dọ thám, lính gác, sai nha đều tưởng tôi là ngài, nhà vua thì ban phước cho ngài trong khi chờ đợi ngài ban phước cho vua.
- Cầu Chúa che chở cho con, vì rằng tấm gương của con đem lại cho ta hi vọng và can đảm.
Aramis mặc lại y phục và áo choàng của mình ra đi và báo trước cho Juxon rằng anh sẽ còn nhờ vả ông một lần nữa.
Đi ra phố mới độ mươi bước anh đã nhận thấy rằng mình bị một người khoác chiếc áo choàng lớn bám theo sau; anh rờ tay vào con dao găm và đứng lại. Người kia đi thẳng tới anh. Đó là Porthos.
- À, ra cái anh bạn thân mến này, - Aramis nói và chìa tay ra cho bạn.
- Bạn thân mến, cậu thấy đấy, - Porthos nói, - Mỗi người chúng ta có nhiệm vụ của mình; nhiệm vụ của tôi là canh gác cho cậu và tôi đã làm. Cậu có gặp vua không?
- Có mọi việc tốt cả. Bây giờ các bạn chúng ta đâu?
- Chúng ta hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ.
- Thế thì của còn bao lâu nữa đâu.
Quả thật, chuông nhà thờ Saint Paul điểm mười giờ.
Tuy nhiên do hai người bạn làm chu tất mọi việc nên đến nơi hẹn trước.
Sau đó, Arthos vào.
- Mọi việc tốt cả, anh nói trước khi các bạn kịp hỏi.
- Cậu đã làm gì? - Aramis hỏi.
- Tôi đã thuê một chiếc tàu buồm hẹp như cái thuyền thoi, nhẹ như cánh én, nó đợi chúng ta ở Greenwich, trước mặt đảo Những con Chó. Tàu có một chủ và bốn người làm, họ nhận năm mươi livres sterling và để tuỳ ý chúng ta sử dụng trong ba đêm liền. Sau khi đưa vua lên thuyền, lợi dụng nước triều chúng ta xuôi sông Tamise và hai giờ sau là ra đến biển khơi. Lúc ấy, như những tên cướp thực thụ chúng ta đi men bờ biển, trú ở các vách núi, hoặc nếu mặt biển tự do chúng ta sẽ dong buồm thẳng đến Boulogne-sur-Mer. Nếu tôi có chết thì hãy nhớ ông chủ tàu là thuyền trưởng Roger và tàu gọi là Tia chớp. Cứ thế là sẽ tìm ra. Một cái khăn tay buộc ở bốn góc là ám hiệu nhận ra nhau.
Một lát sau d'Artagnan về.
- Các cậu hãy dốc túi ra cho đủ một trăm livres sterling, vì rằng túi tôi…
Và anh lộn các túi rỗng không của mình ra.
Số tiền được góp xong ngay, d'Artagnan đi ra một lát rồi quay về. Anh nói:
- Vậy, mọi việc đã xong xuôi. Nhưng cũng chẳng phải là dễ dàng.
- Gã đao phủ đã rời London chưa? - Arthos hỏi.
- Ấy! Như thế chưa phải là chắc chắn đâu. Hắn có thể ra cửa này và lại vào cửa khác.
- Thế bây giờ hắn ở đâu?
- Ở trong hầm
- Trong hầm nào?
- Trong hầm của ông chủ quán chúng ta! Mousqueton ngồi canh ở ngưỡng cửa, chìa khoá đây.
- Hoan hô! - Aramis nói. - Nhưng cậu làm thể nào mà định đoạt người ấy biến đi được?
- Giống như người ta định đoạt mọi thứ ở đời này. Bằng tiền bạc. Việc này tôi phải trả giá đắt lắm, nhưng hắn đã đồng ý.
- Thế cậu phải trả bao nhiêu? - Arthos hỏi, - Bởi vì cậu hiểu đấy, bây giờ chúng ta hoàn toàn không còn là những anh chàng ngự lâm quân nghèo xác không nhà không cửa, cho nên những việc chi tiêu của chúng gid=23">Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 & 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 CHương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chhương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 & 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Đoạn kết.