Dịch giả: Bá Kim
Chương 12
CATHERINE
Washington 1945-1946

Một buổi sáng ngày 7 tháng Năm năm 1945, tại Reims nước Pháp, Đức quốc xã đã đầu hàng vô điều kiện trước quân đội Đồng Minh. Ách thống trị kéo dài hàng ngàn năm của Đế chế thứ Ba kia đã chấm hết. Những người trong cuộc đã từng biết đến cuộc tàn phá khốc lệt của Pearl Harbour, những người đã từng chứng kiến trận Dunkirk suýt nữa lỡ cơ hội đi vào lịch sử như một trận Waterloo của nước Anh và khả năng phòng thủ lỏng lẻo của London đến mức nào nếu vấp phải một cuộc tấn công toàn diện của không quân Đức Luftwaffe. Tất cả những người như vậy đều thấy được hàng loạt kỳ tích mang lại thắng lợi cho quân đội Đồng minh, đồng thời cũng biết rõ ranh giới giữa thắng bại rất chống chênh nếu tiến hành khác đi. Những thế lực của cái ác hầu như đã nổi lên đắc thắng, và quan điểm này thật là phi lý, thật là quá mâu thuẫn với đạo đức của đạo Cơ đốc là cái Thiện phải chiến thắng, cái ác phải quy thuận, đến nỗi bọn chúng đã sợ hãi làm ngơ đi và cảm ơn Chúa đã phù hộ và che giấu những việc làm xằng bậy của bọn chúng, không để cho các thế hệ mai sau được biết, trong hàng đống những hồ sơ được ghi dấu TỐI MẬT.
Thế giới tự do lúc này đã chuyển sự chú ý sang phía Viễn Đông. Những người Nhật với thân hình ngắn cũn, mắt cận thị, mặt vẻ hài hước, đang sống mái bảo vệ từng tấc đất họ chiếm giữ được, cuộc chiến có vẻ sẽ còn kéo dài và tổn phí nhiều xương máu.
Thế rồi sau đó vào ngày 6 tháng Tám, một trái bom nguyên tử đã ném xuống Hiroshima. Sự tàn phá vượt quá sức tưởng tượng. Chỉ sau vài phút đồng hồ, phần lớn dân cư của thành phố lớn này đã nằm chết la liệt, họ là nạn nhân của một cuộc tàn sát còn lớn hơn tất cả các cuộc chiến tranh và dịch bệnh ở thời Trung cổ gộp lại.
Ba ngày sau, ngày 9 tháng Tám, quả bom nguyên tử thứ hai lại được ném xuống đất Nhật, lần này xuống Nagasaki. Kết quả còn tồi tệ hơn nữa. Cuối cùng nền văn minh đã đạt tới thời điểm đẹp nhất. Người ta có thể đạt tới nạn diệt chủng mà tính được bằng tỷ số số nhân những triệu người trong một giây đồng hồ. Đối với người Nhật, thế là quá đủ rồi, và ngày 2 tháng Chín năm 1945, trên tàu chiến Missouri, tướng Mỹ Douglas Mac Arthur đã nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Chính phủ Nhật Bản.
Cuộc thế chiến thứ hai đã chấm dứt.
Khi tin tức loan đi, toàn thế giới nín thở một lúc lâu, sau đó rộ lên tiếng tung hô nhiệt thành vui mừng. Các thành phố và làng mạc trên khắp hành tinh rầm rộ những cuộc tuần hành sôi sục của dân chúng tổ chức chào mừng chiến tranh chấm dứt, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến…
Ngay ngày hôm sau, thông qua một nguồn tin kỳ lạ mà Bill Fraser không bao giờ giải thích cho Catherine rõ, ông có thể làm một cú phôn tới Larry Douglas đang đóng trên một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương. Làm như vậy mới khiến cho Catherine ngạc nhiên. Fraser bảo nàng nán đợi ông tại văn phòng nàng để trưa hôm đó họ sẽ đi ăn cùng nhau. Vào lúc 2 giờ 30 chiều, nàng gọi cho Bill qua máy bộ đàm.
- Anh định đưa em đi đâu ăn trưa thế? - Nàng hỏi - Sắp đến giờ ăn chiều rồi còn gì.
- Cứ ngồi yên đợi - Fraser đáp - Anh sẽ đến chỗ em ngay bây giờ.
Năm phút sau, ông gọi cho nàng:
- Có một cú phôn cho em ở đường dây số một đấy.
Catherine nhấc ống nghe lên:
- Allô!
Nàng nghe có tiếng xoẹt xoẹt và rào rào như tiếng sóng từ một đại dương xa xăm. Nàng nhắc lại.
Một giọng nam nói:
- Bà Larry Douglas đấy phải không?
- Vâng - Catherine lúng túng đáp - Ai đấy?
- Xin bà đợi cho một lát.
Qua ống nghe, nàng nhận thấy một giọng rất cao. Lại tiếng rào rào, sau đó là tiếng nói:
- Cathy đấy à?
Nàng ngồi, tim đập mạnh, không thể nói nên lời:
- Larry? Anh Larry?
- Đúng đấy, cưng ạ.
- Trời ơi, anh Larry? - Nàng bật khóc, toàn thân nàng run rẩy.
- Em thế nào, hở cưng?
Nàng lấy móng tay ấn và cánh tay mình cố làm cho mình đau để ngăn chặn sự mừng rỡ thái quá đang bỗng nhiên ập đến với nàng.
- Em… em vẫn khỏe - Nàng đáp - Anh… anh đang ở đâu vậy?
- Nếu anh nói rõ nơi anh ở, anh sẽ bị "cúp" máy ngay. Anh đang ở một nơi giữa Thái Bình Dương.
- Thế cũng là gần rồi? - Nàng cố kiềm chế giọng nói - Anh vẫn khỏe đấy chứ?
- Khoẻ.
- Bao giờ anh về nhà?
- Sắp rồi - Chàng hứa hẹn.
Catherine lại nước mắt lưng tròng:
- Được, được chúng ta hãy… khớp giờ đồng hồ của nhau nhé.
- Em khóc đấy à?
- Đúng, em khóc đấy, anh ngốc ạ! Em mừng là anh không chứng kiến mặt em nước mắt đầm đìa. Ôi, anh Larry… Larry…
- Anh nhớ em lắm, cưng ạ! - Chàng bảo.
Catherine nghĩ lại những đêm dài đằng đẵng, cô đơn kéo hết tuần này qua tháng nọ, năm kia mà vắng bóng chàng, không có vòng tay của chàng, không được gần kề tấm thân khoẻ mạnh, tuyệt vời cửa chàng, thiếu sự vuốt ve, mơn trớn, yêu đương của chàng. Nàng bảo:
- Em nhớ anh vô cùng.
Một giọng đàn ông xen vào đường dây:
- Xin lỗi đại tá. Chúng tôi sắp phải cắt máy bây giờ.
- Đại tá ư?
- Thế mà anh không cho em biết là anh đã được vinh thăng.
- Anh ngại em sẽ băn khoăn lo lắng cho anh.
- Trời, anh yêu, em mà…
Tiếng gào của biển cả mỗi lúc một to hơn rồi đột nhiên im lặng, đường dây đã ngưng hoạt động. Catherine ngồi ở bàn, trừng trừng ngó nhìn vào máy điện thoại. Sau đó nàng gục xuống cánh tay, bật khóc nức nở.
Mười phút sau, giọng Fraser vang lên trong máy nội đàm.
- Cathy, tôi đã chuẩn bị xong rồi, đang đợi cô đây - Ông nói.
- Giờ thì em rất sẵn sàng - Nàng vui vẻ đáp - Cho em mười phút chuẩn bị nhé.
Nàng mỉm cười nồng nhiệt khi nghĩ đến việc Fraser vừa mới thực hiện và chắc hẳn ông đã tốn rất nhiều công sức mới làm được như vậy. Ông là người thân yêu nhất trên đời mà nàng từng biết. Tất nhiên là phải xếp sau Larry rồi.
Catherine thường tưởng tượng quá nhiều đến ngày về của Larry cho nên chính cái ngày về đó lại trở nên quá bình thường. Bill Fraser giải thích cho nàng hay rằng Larry có thể trở về trên một chuyến máy bay vận tải hàng không hoặc cũng có thể là một máy bay MATS mà những chuyến bay này không có giờ giấc cố định như lịch bay của hãng hàng không thương mại. Chàng có thể cứ lên phắt một chuyến máy bay nào đó, rồi bất chấp sự việc gì xảy ra, không cần biết đường bay sẽ đi tới đâu miễn là bay đúng theo hướng chính đã định.
Catherine ngồi ở nhà suốt cả ngày để đợi chờ Larry. Nàng cố đọc sách song hồi hộp quá không đọc nổi. Nàng ngồi lại, nghe tin tức qua đài phát thanh và nghĩ đến việc Larry trở về, lần này chàng sẽ về vĩnh viễn. Tới nửa đêm vẫn chưa thấy tăm hơi chàng đâu. Đến hai giờ sáng, Catherine không còn căng mắt được nữa, nàng đã ngủ thiếp đi.
Nàng bị một bàn tay nắm lấy cánh tay nàng, lay nàng dậy và khi nàng mở mắt ra thì chàng đang đứng đó. Larry của nàng đang đứng đó, cúi xuống nhìn nàng, bộ mặt đen xạm, gầy guộc nở toét một nụ cười và như một tia chớp Catherine lao ngay vào vòng tay chàng. Mọi lo âu, cô đơn, buồn phiền của bốn năm trời đã tan hết sạch trơn giữa niềm vui tràn trề như sóng lớn, dường như thấm đến từng đường gân thớ thịt trên cơ thể nàng. Nàng ghì chặt lấy chàng cho đến khi nàng có thể làm gẫy xương nàng mới thôi. Nàng muốn cứ như thế này mãi không bao giờ cho chàng ra đi lần nữa.
- Nghỉ chút đã, em nhé - Cuối cùng Larry bảo. Chàng đẩy nàng ra xa nụ cười vẫn còn tươi rói trên môi.
- Báo chí mà viết như thế này thì nghe ra ngộ thật đấy chứ: "Phi công chiến đấu trở về nhà an toàn, song lại bị vợ ôm ghì đến chết ngạt".
Catherine bật hết đèn lên, không sót một ngọn nào, làm cho căn phòng sáng trưng để nàng có dịp nhìn ngắm chiêm ngưỡng nuốt chửng lấy chàng. Khuôn mặt chàng lại có thêm một vẻ trưởng thành mới. Quanh khóe mắt và miệng chàng đã xuất hiện những đường nhăn mà trước đây không hề có. Ấn tượng này lại khiến chàng thêm đẹp trai hơn.
Catherine lắp bắp nói:
- Em muốn đi đón anh quá, song không biết đón ở đâu. Em có gọi cho Phi đoàn song họ không cho em biết một tin tức gì vì vậy em phải ngồi đợi ở nhà và thế là…
Larry tiến đến sát nàng và chặn lời nói giữa chừng của nàng bằng một chiếc hôn. Chiếc hôn mạnh mẽ về thể xác đối với chàng song nàng ngạc nhiên vì nhận ra việc làm này không phải như vậy. Nàng rất yêu Larry song nếu nàng chỉ ngồi đó chuyện trò với chàng nàng thấy càng hài lòng hơn chứ không phải làm chuyện ân ái như nàng đang háo hức đòi hỏi. Nàng đã chôn vùi những cảm xúc tình dục lâu quá rồi đến mức chúng bị chôn chặt quá sâu và phải mất một số thời gian mới có thể khơi dậy và lôi chúng ra được. Song Larry không cho nàng có đủ thì giờ làm việc đó. Chàng giật phăng quần áo nàng ra, mà bảo:
- Cathy, lạy Chúa, em không biết là anh mong chờ giây phút này như thế nào. Anh phát điên lên được. Bây giờ gặp lại em, anh thấy em còn xinh đẹp hơn hình ảnh anh ghi nhớ rất nhiều.
Nàng có cảm giác như một kẻ xa lạ đẩy nàng lăn ra giường, và thật đáng tiếc là Larry không cho nàng đủ thì giờ để làm quen với cảnh chàng có mặt trong nhà. Còn Larry không qua những động tác chuẩn bị trước, cứ xấn xổ làm tới mà nàng biết là nàng chưa chuẩn bị gì cho chàng, nàng cắn tay để khỏi bật lên tiếng khóc.
- Thế là chồng nàng đã về nhà.
Một tháng liền sau đó, do ân sủng của Fraser, Catherine đã được vắng sở để ở nhà. Nàng cùng Larry hầu như lúc nào cũng cặp kè bên nhau. Nàng nấu cho chàng ăn tất cả những món chàng thích, họ cùng nhau nghe đĩa hát rồi ngồi trò chuyện liên miên không dứt cố để bù đắp những khoảng trống của những năm họ đã bị mất mát.
Tối tối họ đi dự tiệc tùng, đi nhà hát và khi về đến nhà, họ lại cho nhau những ân ái vợ chồng. Bây giờ thân xác nàng đã sẵn sàng dành cho chàng và nàng lại phát hiện ở chàng một người tình đầy hấp dẫn như ngày xưa. Song vẫn gần như xưa thôi.
Nàng không dám thừa nhận dù chỉ là với bản thân nàng, song nàng thấy Larry đã có thay đổi thế nào đó, khó xác định nổi. Chàng chỉ đòi hỏi nhiều mà ít chiều chuộng nàng. Trước khi ân ái vẫn có những chuẩn bị, song chàng làm như một cái máy, tuồng như đó là nghĩa vụ phải làm trước khi chàng lao vào cuộc tấn công. Và đó là một cuộc tấn công man thú, một cuộc chiếm đoạt dữ dội, như cơ thể chàng tìm đến sự trả thù về một chuyện gì đó, trừng phạt việc gì đó. Cứ mỗi lần họ làm xong thì Catherine cảm thấy thâm tím, đau nhừ người như nàng vừa qua một trận đòn. Nàng biện hộ cho chàng rằng có lẽ nguyên nhân là vì đã lâu chàng không đi lại với một người đàn bà nào.
Ngày trôi qua, chuyện ân ái của chàng vẫn thế và cũng chính vì vậy mà cuối cùng Catherine chỉ mong mỏi có những sự thay đổi ở Larry. Nàng cố tìm hiểu chàng một cách bình tĩnh, cố quên đi một sự kiện rằng chàng là người chồng mà nàng vẫn yêu quý. Nàng nhận thấy đây là một người đàn ông cao lớn, vững chãi, tóc đen với đôi mắt đen và sâu, một khuôn mặt đẹp đáng sợ. Song có lẽ không nên dùng chữ "đẹp" vào chỗ này. Những đường hằn quanh miệng đã làm cho vẻ mặt của chàng thêm thô ráp. Khi nhìn con người xa lluyện. Đó là một buồng nhỏ có hình dạng buồng lái của máy bay, được đặt trên cái bệ chuyển động tạo những điều kiện cho người phi công ngồi trong khoang lái có thể điều khiển máy bay theo bất kỳ thao tác nào bao gồm động tác nhào tắt máy, nhào xoáy ốc, xoay tròn và bay vòng tròn. Người ta đặt một nắp che màu đen trên đỉnh khoang lái để phi công không nhìn thấy gì trong khi bay và chỉ sử dụng những thiết bị trước mặt người phi công. Huấn luyện viên ở bên ngoài phòng luyện tập sẽ ra mệnh lệnh cho người phi công, ra chỉ dẫn cho anh ta cất cánh và hạ cánh trong tình hình tốc độ gió mạnh, có bão tố, có những rặng núi trước mặt và cứ cách một lần lại đến một lần xuất hiện một nguy hiểm tưởng tượng phải giải quyết. Đa số các phi công ít kinh nghiệm khi mới bước vào phòng luyện tập có cảm giác đầy tự tin, song ngay lập tức họ nhận ra rằng khoang luyện tập nhỏ bé khó thao tác hơn nhiều so với điều kiện người ta tưởng. Trong một buồng lái nhỏ người ta thấy xuất hiện một cảm giác cô đơn lạ lùng, họ cảm thấy bị tách rời hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài.
Larry là một học viên có năng khiếu. Chàng rất chăm chú nghe giảng trong lớp và lĩnh hội mọi điều người ta truyền đạt. Chàng làm hết toàn bộ các bài tập ở nhà và làm hết sức đầy đủ, cẩn thận. Chàng không hề tỏ ra nóng ruột, bứt rứt hoặc chán ngán gì cả. Trái lại, chàng là một học sinh rất chăm chỉ trong khoá học và chắc chắn là học sinh xuất sắc nhất. Chỉ có một lĩnh vực mới mẻ đối với Larry đó là thiết bị phi cơ DC-4. Những loại máy bay qua tay Douglas là loại máy bay dài, bóng láng với một số thiết bị chưa từng có khi chiến tranh bắt đầu. Larry bỏ ra nhiều giờ để khảo sát các máy bay, từng inch một, nghiên cứu cách lắp ráp chúng với nhau và cách thức chúng hoạt động. Tối tối chàng cặm cụi với hàng chục cuốn sách giáo khoa về sử dụng máy bay.
Một đêm khuya sau khi tất cả các học viên đã rời khỏi xưởng để máy bay, Sakowits còn bắt gặp Larry ngồi trong một chiếc DC-4, chàng đang nằm ngửa ra dưới buồng lái để xem xét hệ thống dây điện.
- Thú thực với anh là thằng khốn nạn này đang tìm cách tranh việc của tôi đấy - Sáng hôm sau Sakowits bảo với Carl Eastman như vậy.
Eastman cười.
- Cứ như cách y đang làm thì rồi đây y có thể đạt được đấy.
Kết thúc tám tuần lễ, người ta tổ chức một lễ nho nhỏ mừng tốt nghiệp. Catherine đầy tự hào đáp máy bay tới New York để chứng kiến việc người ta gắn cho Larry phù hiệu đôi cánh của người hoa tiêu lên áo của chàng.
Chàng cố tỏ ra xem thường việc này.
- Cathy ạ, cái mảnh vải họ treo cho anh chỉ là chuyện vớ vẩn, cần phải nhớ rằng cái chính là công việc khi bước vào khoang lái.
- Ấy anh chớ nói vậy - Nàng bảo - Em đã trao đổi với đại uý Sakowits, ông ấy cho biết rằng anh là học viên xuất sắc.
- Cái thằng Ba Lan ngậm hột thị đó biết gì mà nói! - Larry bảo - Thôi ta đi tổ chức ăn mừng đi.
Tối hôm đó Catherine và Larry cùng với bốn học viên cùng lớp với Larry và các bà vợ của họ đi tới ăn tối tại câu lạc bộ Hai mươi mốt ở phố Năm mươi hai Đông. Căn phòng lớn đông nghịt người, chủ tiệm cho họ hay rằng nếu không có việc đặt trước thì sẽ không có bàn.
- Cái tiệm khốn nạn? - Larry bảo - Thôi ta sang tiệm Toots Shor bên cạnh.
- Khoan đã - Catherine nói. Nàng tiến đến người bồi trưởng, hỏi xin gặp Jerry Berns.
Một lát sau, một người thấp bé, gầy gò với đôi mắt xám xoi mói, hối hả tiến ra, nói:
- Tôi là Jerry Berns. Bà cần gì tôi giúp ạ?
Catherine giải thích:
- Vợ chồng chúng tôi cùng mấy người bạn, chúng tôi có mười người cả thẩy.
Ông ta lắc đầu:
- Nếu như các vị không đặt chỗ trước…
- Tôi là cộng sự của ông William Fraser - Catherine nói.
Jerry Berns nhìn sang nàng trách móc.
- Thế mà bà không nói ngay cho tôi hay. Xin đợi cho mười lăm phút để tôi thu xếp.
- Cảm ơn ông - Catherine đáp, vẻ biết ơn.
Nàng quay lại chỗ cả tốp kia đang đứng đợi.
- Lạ chưa? - Catherine nói - Chúng ta có bàn rồi đấy?
- Em làm thế nào xoay sở được thế? - Larry hỏi.
- Dễ thôi mà. Em nhắc đến tên của William Fraser. - Nàng nhìn thấy cái nhìn là lạ trong đôi mắt Larry. - Anh ấy thường tới đây. - Catherine nói tiếp rất nhanh - Và anh ấy có dặn em nếu như có đến đây, cần bàn ăn ngay thì cứ nhắc đến tên anh ấy.
Larry quay lại những người kia:
- Thôi, chuồn khỏi đây ngay. Chỗ này chỉ dành cho các đôi uyên ương.
Tốp người tiến ra cửa. Larry quay lại Catherine:
- Đi chứ?
Catherine lưỡng lự nói:
- Thì đi. Em chỉ muốn cho họ biết rằng chúng ta không…
- Mẹ cha chúng nó? - Larry nói to - Em có đi không nào?
Mọi người đổ dồn nhìn về phía họ. Catherine cảm thấy mặt đỏ bừng.
- Vâng - Nàng đáp. Nàng quay lại, bước theo sau Larry ra cửa.
Họ tới một tiệm ăn Italia ở Đại lộ thứ Sáu và ăn một bữa rất tồi. Bề ngoài Catherine tỏ ra như không hề có chuyện gì xảy ra, song bên trong nàng giận sôi người.
Nàng giận Larry vì chàng đã cư xử như con nít và vì đã nhục mạ nàng giữa chỗ đông người.
Khi họ về đến nhà, nàng đi thẳng và phòng ngủ không nói một lời, cởi xống váy, tắt đèn, đi ngủ ngay. Nàng nghe thấy Larry ở phòng khách đang pha rượu uống.
Mười phút sau, chàng bước vào phòng ngủ, bật đèn lên rồi tiến tới bên giường:
- Cô định tự hành hạ mình đấy à? - Chàng hỏi.
Nàng ngồi dậy, nổi đoá:
- Anh đừng bắt em phải tự vệ. Thái độ của anh tối hôm nay không thể tha thứ được. Cái gì len vào anh vậy?
- Thì cũng cái thằng đó len vàoạ này, Catherine thường nghĩ. Đây có thể là một con người ích kỷ, tàn nhẫn, lạnh lùng. Tuy nhiên nàng lại tự nhủ rằng nàng đang có một nhận định lố bịch. Đây là chàng Larry đáng yêu tốt bụng và sâu sắc cơ mà.
Nàng rất hãnh diện khi giới thiệu chàng với tất cả các bạn bè của nàng và những người cùng làm với nàng, tuy nhiên họ có vẻ chỉ quấy rầy chàng mà thôi. Trong các buổi tiệc chàng thường lẩn tránh ra xa một góc và cả buổi tối chỉ uống rượu. Catherine có cảm giác rằng chàng không muốn cố gắng thân mật chan hoà với mọi người. Một buổi tối nàng cố tranh cãi với chàng về chuyện này thì bị chàng quật lại:
- Việc gì phải như vậy. Lúc anh phải giơ "gáo" ra cho chúng phạt thì tất cả cái lũ béo ú này đang chui lẩn ở đâu vậy.
Đôi ba lần Catherine có đề cập đến việc Larry dự định sẽ làm gì trong tương lai. Nàng tưởng rằng chàng muốn ở lại trong Phi đoàn Không quân, song không ngờ việc làm đầu tiên của Larry sau khi chàng trở về là chàng xin được giải ngũ.
- Quân đội là nơi dành cho bọn nịnh bợ. Người ta chỉ có mỗi một lối thoát là đi xuống - Chàng nói.
Hầu như vẫn cái phong cách nhạo đời như trong lần đầu tiên nàng nói chuyện với chàng tại Hollywood. Chỉ khác là lúc đó chàng nói bông đùa.
Catherine phải tìm cách trao đổi việc này với ai đó, và cuối cùng nàng quyết định nói chuyện với Bill Fraser.
Nàng thuật lại cho ông nghe những sự việc đang làm nàng băn khoăn, tất nhiên không đề cập đến những chuyện riêng tư kia. Fraser động viên:
- Nếu như em coi đây là một điều an ủi, thì em cần nhớ rằng trên khắp thế giới này có hàng triệu phụ nữ cũng đang trải qua những điều như em trải qua lúc này. Chuyện này cũng đơn giản thôi, Catherine ạ. Em đang có một người chồng xa lạ đó thôi.
Catherine nhìn ông, không nói gì cả.
Fraser ngừng lại để nhồi thuốc vào tẩu rồi châm lửa hút.
- Em sẽ không thể hy vọng lấy lại được những gì em đã bỏ dở khi Larry ra đi cách đây bốn năm. Cái khoảng trống đó không còn tồn tại nữa. Em đi qua rồi mà Larry cũng qua rồi. Sự thành công của một cuộc hôn nhân một phần chính là do ở chỗ người chồng và người vợ có những kinh nghiệm chung với nhau. Họ trưởng thành bên nhau và cuộc hôn nhân của họ cũng trưởng thành. Em sẽ phải tìm kiếm lại mảnh đất chung cho cuộc tái ngộ này.
- Anh Bill ạ, ngay cả khi thảo luận chuyện đó em cũng cảm thấy không tự tin ở mình.
Fraser mỉm cười, nhắc nàng:
- Anh biết em trước nhất. Em có nhớ không nhỉ?
- Em nhớ.
- Anh tin rằng Larry cũng có cách riêng của anh ấy. Anh ấy đã sống chung với hàng ngàn đàn ông trong bốn năm trời và bây giờ lại phải tập làm quen với việc sống bên một người phụ nữ.
Nàng mỉm cười:
- Những điều anh nói ra đều đúng cả. Lẽ ra em phải được nghe người khác góp ý cho như vậy.
Fraser nhận xét:
- Ai cũng có những lời khuyên hữu ích để chăm sóc cho người bị thương tổn, song có những vết thương không bộc lộ ra ngoài. Đôi khi nó lắng vào trong. - Ông nhìn thẳng vào mắt Catherine, rồi nói thêm rất nhanh - Tôi không có ý ám chỉ chuyện gì nghiêm trọng đâu mà chỉ muốn nói về những nỗi kinh hoàng mà những người lính chiến đấu thường trải qua. Trừ phi con người ta hoàn toàn điên khùng không nói làm gì, còn thì nhất định sự kinh hoàng để lại một hiệu quả to lớn đối với thế giới quan của người ta. Cô có hiểu tôi định nói gì không?
Catherine đáp:
- Em hiểu. Song vấn đề ở đây là ảnh hưởng như thế nào?
Cuối cùng Catherine trở lại sở làm việc, mọi người ở công ty gặp lại nàng đều hết sức mừng rỡ. Trong ba ngày đầu trở lại làm việc nàng hầu như chỉ rà soát lại các chương trình vận động, mở những tài khoản mới và nắm lại các tài khoản cũ. Nàng làm việc từ sáng sớm tới khuya để bù lại những thời gian đã mất, sách nhiễu những người viết quảng cáo và các hoạ sĩ phác thảo và thuyết phục các khách hàng dao động. Nàng rất có khiếu trong công tác bởi nàng cũng yêu thích công việc này.
Tối tối Larry thường đợi Catherine trở về nhà. Lúc đầu nàng còn hỏi han xem lúc nàng đi vắng chàng làm những công việc gì, song dần dần câu trả lời của chàng lúc nào cũng chung chung và cuối cùng nàng cũng thôi không hỏi nữa. Chàng dựng nên một bức tường và nàng không biết làm cách nào để xuyên qua được. Chàng lấy làm phật ý hầu như với bất kỳ chuyện gì mà Catherine nói ra, thế rồi họ thường xuyên cãi vã vì những chuyện không đâu vào đâu. Thỉnh thoảng họ ăn tối với Fraser và nàng luôn luôn cố hết sức mình để làm sao những buổi tối này được thú vị và vui vẻ khiến cho Fraser khỏi nghĩ đến việc gia đình nàng đang có gì không ổn.
Song Catherine phải đối diện với một sự thật là đang có chuyện gì đó rất phiền toái. Nàng cảm thấy một phần là do nàng đã thất bại. Nàng vẫn còn yêu Larry. Nàng yêu hình dáng của chàng, yêu cái cảm giác về chàng và cả những hồi ức cũ về chàng song nàng nhận thấy rằng nếu như chàng cứ tiếp tục nhù vậy tình hình sẽ đưa cả hai người đến chỗ tan vỡ.
Lúc này nàng đang ngồi ăn trưa với William Fraser:
- Larry thế nào? - Ông hỏi.
Phản xạ không điều kiện kiểu Pavlov thúc đẩy nàng trả lời liền là "tốt", sau đó nàng ngừng lại và đáp hững hờ:
- Anh ấy cần một việc làm.
Fraser ngả người ra sau, gật đầu:
- Anh ấy có thấy buồn bực khi không có việc gì làm không?
Nàng ngập ngừng, song không muốn nói dối ông.
- Anh ấy chẳng thích làm gì cả - Sau đó thận trọng nói thêm - Cần phải tìm một việc thích hợp.
Fraser chăm chú quan sát nàng, cố tìm ra ý nghĩa thực sự đằng sau những lời nàng nói.
- Cậu ấy có thích làm phi công không?
- Anh ấy không muốn trở lại không quân nữa.
- Tôi đã nghrổ tài cho nàng thấy, cho nên mới chèo kéo nàng đi trên chuyến phi cơ do chàng dẫn đường. Thế mà suýt nữa nàng làm hỏng hết cả dự định này. Nàng nắm lấy tay chàng, nhìn chàng, mỉm cười:
- Chúng ta còn đợi gì nữa nhỉ? Em đến chết đói bây giờ!
Paris không thiếu gì trò du hý. Larry đã bố trí nghỉ phép một tuần. Catherine có cảm tưởng là bất kể ngày hoặc đêm, giờ nào nàng cũng có việc để làm. Họ lưu trú tại một khách sạn nhỏ xinh xắn ở bên bờ tả ngạn sông Senie.
Ngay buổi sáng đầu tiên ở Paris, Larry đưa Catherine tới một nhà hàng ở Champs Elyséls, tại đây chàng cố tìm mua rất nhiều hàng cho nàng. Song nàng chỉ mua những thứ mà nàng cần vì những thấy choáng váng trước tình hình thứ gì ở đây cũng đắt.
- Em có biết em được thoải mái chọn không? - Larry hỏi - Em quá áy náy về chuyện tiển nong đấy. Nhưng em đang đi hưởng tuần trăng mật cơ mà.
- Vâng, thưa ngài. - Nàng đáp. Song nàng từ chối mua một chiếc áo dài dạ hội vì nàng thấy không cần. Khi nàng hỏi gặng xem Larry lấy đâu ra nhiều tiền như vậy thì Larry gạt đi không chịu giải thích, song cuối cùng nàng cứ một mực đòi được biết.
- Anh được tạm ứng lương - Larry bảo - Cũng khá đấy chứ?
Nhưng Catherine không dám bày tỏ ý kiến gì. Về vấn đề tiền nong, chàng như một đứa trẻ, rộng rãi, vô tư lự, và một phần tình hình thoải mái của chàng là ở đây. Tính cách này cũng thấy được ở cha nàng trước đây.
Larry đi tham quan một vòng quanh Paris, thăm bảo tàng Louvre, Tuileries và Les Invalides, thăm mộ chí của Napoléon. Chàng đưa nàng tới một nhà hàng trang trí sặc sỡ ở gần Sorbonne. Họ đi tới Les Halles, đến chợ nhiều tầng của Paris, ngắm nhìn cảnh rau quả và thịt tươi được mang từ các nông trại khắp nước Pháp tới đây. Họ trải qua buổi chiều chủ nhật cuối cùng tại Versailler, sau đó ăn tối tại khu vườn tuyệt đẹp ở Cog Hardi ngoại ô Paris. Thật là một tuần trăng mật tuyệt đẹp lần thứ hai của họ.
Hai Sakowits đang ngồi trong văn phòng, mở xem các báo cáo nhân sự hàng tuần. Trước mặt ông lúc này là báo cáo về Larry Douglas. Sakowits ngả người ra sau, nghiên cứu bản báo cáo, bặm môi suy nghĩ. Cuối cùng ông lại nhổm dậy và bấm náy nội đàm, bảo:
- Cho anh ta vào.
Một lát sau, Larry bước vào, trong bộ đồng phục của hãng Pan American, khoác theo một chiếc túi bay. Chàng mỉm cười với Sakowits, nói:
- Xin chào sếp.
- Mời ngồi.
Larry nặng nhọc ngồi xuống ghế đối diện chiếc bàn rồi châm điếu thuốc, hút. Sakowits bảo:
- Tôi có trong tay một báo cáo cho biết rằng thứ hai tuần trước ở Paris anh đã đăng ký để xin chuyến bay chậm hơn ấn định bốn mươi lăm phút.
Nét mặt Larry bỗng biến sắc:
- Tôi bị kẹt vì một cuộc diễu binh ở Champs Elysées. Song chiếc phi cơ vẫn cất cánh đúng giờ. Tôi không biết là ở đây người ta quản lý một trại con trai tồng ngồng.
- Chúng tôi quản lý một hãng máy bay - Sakowits lặng lẽ nói - Và chúng tôi quản lý theo điều lệnh.
- Thôi được - Larry bực dọc đáp - Từ nay tôi sẽ không đến gần Champs Elysées nữa. Còn gì nữa không?
- Còn đại uý Swift cho rằng anh đã làm một hai ly trước khi cất cánh trong hai chuyến bay gần đây.
- Hắn nói xạo? - Larry quát lại.
- Cớ gì mà hắn phải nói xạo?
- Bởi vì hắn sợ tôi sẽ tranh mất việc của hắn - giọng Larry càng thêm bực dọc - Thằng chó đẻ đó chỉ đáng là một con mụ đầy tớ già bẽn lẽn, đáng ra phải về hưu cách đây mười năm rồi.
- Anh đã từng bay với bốn trưởng cơ khác nhau, Sakowits nói - Vậy anh thích bay với ai nhất?
- Chẳng thằng nào hết - Larry đáp lại. Chàng nhận ra cái bẫy, song đã quá muộn. Lập tức, chàng vớt vát lại. - À, không… Họ đều tốt cả. Tôi không có gì phản đối họ.
- Họ cũng chẳng thích bay với anh đâu - Sakowits nói đều đều - Anh làm cho họ luôn lo lắng.
- Nói thế là quái gì?
- Nghĩa là khi có tình huống khẩn cấp, anh cần phải đảm bảo cho người ngồi ở ghế bên cạnh anh. Người ta không tin anh.
- Lạy Chúa? - Larry nổi khùng - Tôi đã từng sống qua bốn năm trong tình trạng khẩn cấp trên bầu trời nước Đức và vùng Nam Thái Bình Dương, hàng ngày phải giơ cái "gáo" ra hứng đạn, trong khi đó bọn chúng ru rú ngồi nhà, hưởng lương bẫm béo múp míp, thế mà bây giờ bọn chúng lại không tin tôi? Anh muốn giỡn tôi đấy hả?
- Ai cũng biết là anh rất xuất sắc trên máy bay tiêm kích rồi - Sakowits đáp nhỏ nhẹ. - Nhưng ở đây chúng ta đang điều khiển các máy bay hành khách. Đây là một cuộc chơi bóng kiểu khác.
Larry ngồi, hai tay nắm chặt, cố kiềm chế cơn giận dữ:
- Thôi được - Chàng cau có nói - Tôi đã nhận được thông điệp bay. Ông đã trao đổi xong chưa để tôi còn cho chuyến bay cất cánh sau vài ba phút nữa.
- Đã có người khác tiếp quản việc đó rồi - Sakowits nói - Anh đã bị sa thải.
Larry nhìn ông ta, kinh ngạc:
- Tôi làm sao?
- Douglas ạ, xét về một phương diện nào đó thì đây chính là lỗi tại tôi. Lẽ ra ngay từ đầu tôi không được thuê mướn anh mới phải.
Larry đứng vụt dậy, đôi mắt chàng bừng lên lửa giận dữ.
- Thế tại sao ông lại thuê tôi? - Larry gặng hỏi.
- Bởi vì vợ anh có một người bạn tên là Bill Fraser.
Larry bước sang phía bên kia bàn, chàng giáng thẳng vào mặt Sakowits một trái đấm. Cú đấm đã làm Sakowits lảo đảo đập vào tường. Ông dùng sức bật trở lại đấm Larry hai cú liền, sau đó lùi lại thế thủ. Ông quát lên:
- Cút ngay khỏi đây! Cút ngay!
Larry nhìn ông ta trừng trừng, mặt chàng méo xệch vì căm giận, thét lên:
- Đồ chó đẻ. Mày có lạy tao tao cũng không quay về lại cái hãng máy bay của mày nữa!
Chàng quay người, lao nhanh ra khỏi văn phòng.
Sakowits đứng nhìn theo. Cô thư ký của ông vội vào văn phòng, trông thấy chiếc chế tựa bị đổ và môi Sakowits chảy máu.
- Ông có sao không?
- Thật kinh khủng. Cô mời ông Eastman đến cho tôi gặp.
Mười phút sau Sakowits kể cho Cart Eastman nghe về sự việc vừa rồi.
- Anh thấy Douglas có gì không ổn? - Eastman hỏi.
- Nói thực nhé? Tôi nghĩ hắn là một thằng bị bệnh tâm thần.
Eastman nhìn ông bằng cặp mắt xanh, xoi mói:
- Nhận định hơi nặng đấy, Sak ạ. Trong khi bay, hắn không say bao giờ. Mà cũng chưa có ai chứng minh được rằng khi ở dưới đất hắn cũng uống rượu. Vả lại người ta ai cũng có lúc chậm trễ chút đỉnh.
- Nếu chỉ có vậy thì tôi đã không sa thải hắn Carl ạ. Douglas có điểm sôi thấp. Thú thật với anh hôm nay tôi đã cố tình chọc tức hắn, và cũng không khó gì. Giá như hắn chịu đựng được áp lực, có thể tôi đã liều một phen giữ hắn lại xem sao. Anh có biết tôi băn khoăn chuyện gì không?
- Chuyện gì?
Sakowits kể:
- Cách đây vài hôm, tôi có gặp một thằng bạn cũ đã từng bay với Douglas hồi trong không quân Hoàng gia Anh. Y có kể cho tôi nghe một chuyện rất điên rồ. Hình như hồi Douglas ở phi đoàn Phượng hoàng, hắn có yêu một cô bé người Anh, mà cô ả lại đính hôn với một thằng cha tên là Clark ở cùng phi đoàn với Douglas. Douglas tìm hết cách để len vào, song cô ả không chịu. Trước hôm cô ả với Clark tổ chức đám cưới một tuần, phi đoàn có bay đi làm nhiệm vụ yểm trợ cho một tốp máy bay B-17 tiến hành oanh tạc vùng Dieppe. Douglas bay ở cuối Phi đoàn. Sau khi các pháo đài bay đã trút hết bom, họ quay trở về căn cứ. Khi bay qua biển Manche thì họ đụng phải lũ Messerschmidt và Clark bị bắn rơi.
Nói tới đây, Sakowits dừng lại suy nghĩ. Eastman chờ đợi ông nói tiếp. Cuối cùng Sakowits nhìn thẳng vào Eastman:
- Theo như thằng bạn tôi cho biết, khi Clark bị bắn rơi thì không hề có một chiếc Messerschmidt nào bay bên cạnh.
Eastman nhìn ông trừng trừng không tin:
- Lạy Chúa? Anh muốn nói là Larry Douglas…
- Tôi không nhận định gì cả. Tôi chỉ thuật lại cho anh nghe một chuyện lý thú mà tôi nghe được. Có thế thôi.
Ông ta lại lấy khăn tay chấm lên môi. Máu đã ngừng chảy Khó có thể khẳng định chuyện gì đã xảy ra trong trận không chiến đó. Có thể Clark đã bị hết nhiên liệu cũng nên. Chỉ có một điều khẳng định là hắn đã bị xui.
- Chuyện gì đã xảy ra với cô ả?
- Douglas đã chuyển đến sống với ả cho đến khi hắn về Mỹ thì hắn cũng cho ả rơi luôn - Ông ta nhìn Eastman vẻ đăm chiêu. - Tôi xin cam đoan với ông một điều. Tôi thấy thương hại cho cô vợ của Douglas.
Catherine đang ở trong phòng họp giữa lúc có cuộc họp toàn thể công nhân viên thì cửa phòng bật mở, Larry bước vào.
Mắt chàng thâm tím, và sưng vù, một bên má bị rách toạc Nàng vội đi ra phía chàng hỏi:
- Anh Larry, chuyện gì thế?
- Anh bỏ việc rồi - Chàng lẩm bẩm.
Catherine đang ở trong phòng, tránh những cặp mắt tò mò nhìn theo của những người khác. Nàng đắp một miếng vải mát lên mắt và má chàng. Nàng cố kiềm chế nỗi bực tức trước việc người ta gây cho chàng, rồi hỏi:
- Anh hãy kể em nghe xem nào.
Cathy ạ, bọn chúng theo dõi anh một thời gian rồi.
Anh nghĩ chúng ghen tức với anh vì anh đã đi chiến đấu còn chúng thì không. Dù sao, hôm nay cũng là ngày cao điểm. Sakowits gọi anh tới, cho anh biết lý do duy nhất để chúng đuỏi anh trước hết chính là vì em là bồ của Bill Fraser.
Catherine nhìn chàng, im lặng.
- Anh đánh hắn - Larry nói - Anh không chịu được.
- Thế hả? - Catherine bảo - Em rất tiếc.
- Sakowits còn ân hận hơn - Larry đáp - Anh đã nện hắn rất đau. Còn việc hay mất việc, chẳng thành vấn đề. Anh không thể để cho bất kỳ đứa nào nói về em như thế?
Nàng ôm chầm lấy chàng, an ủi:
- Thôi anh đừng bận tâm làm gì. Anh có thể đi làm cho bất kỳ hãng hàng không nào trong toàn quốc, lo gì.
Điều dự đoán của Catherine rất ít có cơ sở. Larry đã xin việc tất cả các hãng hàng không, một vài hãng cho anh được phỏng vấn, song không đưa lại kết quả gì.
Bill Fraser ăn trưa cùng với Catherine và nàng đem chuyện vừa rồi ra kể cho ông nghe. Fraser không nói gì, song ông suy nghĩ rất nhiều trong suốt bữa ăn. Có đôi lần nàng cảm thấy ông muốn nói với nàng điều gì, nhưng lại thôi ngay. Cuối cùng ông mới lên tiếng:
- Anh quen biết rất nhiều người, Cathy ạ. Em có đồng ý để anh giới thiệu Larry đến một nơi khác nữa không?
- Cảm ơn anh - Catherine đáp - Nhưng theo em không cần thiết. Để bọn em tự quyết định lấy.
Fraser nhìn nàng một lúc lâu gật đầu:
- Bao giờ em thay đổi ý kiến, em hãy cho anh biết ngay.
- Vâng! - Nàng tán thành - Có vẻ như cứ khi nào em có vấn đề là em lại tìm đến cầu cứu anh.
HÃNG AN NINH TUYỆT ĐốI
2402 phố "D"
Washington, D. C.
Về vụ việc 2-179- 210
Ngày 1 tháng Tư năm 1946
Ông Barbet kính mến,
Cảm ơn ông về lá thư đề ngày 15 tháng ba năm 1946 cùng tấm hối phiếu của ông.
Kể từ sau lần tôi báo cáo với ông gần đây, đối tượng đã tìm được việc làm phi công cho Công ty vận tải Flying Whees, đó là một công ty nhỏ, độc lập, hoạt động ở Long Island. Một cuộc kiểm tra qua cơ quan Dun và Bradstreet cho thấy vốn của họ là 750.000 đô-la. Trang bị của họ gồm một máy bay B-26 và một máy bay DC3 được cải tiến dùng cho dân sự. Họ có số dư nợ ngân hàng là 400.000 đô-la.
Ngài Phó chủ tịch ngân hàng Paris đóng trụ sở ở New York, nơi mà họ có tài khoản chính tại đây, khẳng định với tôi rằng công ty này có tiềm năng và tương lại phát triển rất tốt. Ngân hàng đang xem xét khả năng cấp tín dụng cho họ đủ tiền mua thêm máy bay dựa trên thu nhập hiện nay của họ là 80.000 đô-la mỗi năm với mức tăng dự kiên hằng năm là 30% trong thời gian năm năm tới.
Nếu ông muốn biết thêm chi tiết về triển vọng tài chính của công ty này, xin ông báo cho tôi hay.
Đối tượng đã bắt đầu làm việc vào ngày 19 tháng ba năm 1946. Ông giám đốc phụ trách nhân sự (cũng là một trong số các chủ của công ty này) đã cho cộng tác viên của tôi biết ông cảm thấy rất may mắn có được một phi công như đối tượng làm việc cho ông. Tôi sẽ cung cấp thêm chi tiết sau.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị
Banque De Paris
Thành phố New-York, bang New York
Philipe Chardon Chủ tịch Ban quản trị
Cô Noelle thân mến(1)
Cô thật là ác! Tôi không biết người đó đã có hành động gì với cô, nhưng dù thế nào chăng nữa, người ta cũng đã trả tiền thuê anh ta rồi. Hãng Flying Wheels đã mở rộng cửa đón anh ta, và ông bạn tôi có cho tôi biêí rằng anh đang gặp khủng hoảng cần được giúp đỡ.
- Tôi mong có dịp tới Athens và được gặp cô.
Mặc dù tôi có những quan hệ bằng hữu với Costa, song tôi mong cô hãy ban cho một chút ân huệ nhỏ là hãy giữ kín chuyện bí mật giữa chúng ta.
Thương yêu.
Philipe
HÃNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 Phố "D"
Washington D.C
Về việc 2-179-210
Ngày 22 tháng 5 năm, 1946
Ông Barbet kính mến,
Đây là báo cáo tiếp theo của tôi đề ngày mùng 1 tháng năm 1946.
Ngày 14 tháng Năm năm 1946, đối tượng bị sa thải khỏi công ty Vận tải Flying Wheels. Tôi đã tìm hết cách khéo léo điều tra nguyên nhân, song lần nào cũng vấp phải một bức tường đá. Không một ai muốn nhắc đến việc đó.
Tôi chỉ có thể giả định rằng đối tượng đã làm việc gì đó tự bôi nhọ mình vì thế họ không muốn nhắc đến.
Đối tượng đang cố tìm một công việc trong hàng không, song rõ ràng trước mặt hiện nay chưa có triển vọng gì.
- Tôi sẽ cố gắng thu nhập thêm tin tức về lý do tại sao y bị sa thải.
Kính chào ông,
R. Ruttenberg Giám đốc quản trị
Ngày 29, tháng Năm 1946
ĐIỆN TÍN
Christian Barbet Cable Christbar
Paris, France
Đã nhận được tin điện, Sẽ chấm dứt ngay việc điều tra lý do đối tượng bị sa thải. Sẽ tiếp tục các công việc khác như cũ.
Kính R. Ruttenberg
 HÃNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1 402 Phố "D"
Washington, D. C.
Về việc 2-179-210
Ngày 16 tháng Sáu, 1946
Kính gửi ông Barbet,
Cảm ơn ông về lá thư của ông đề ngày 10 tháng 6 và tấm hồi phiếu của ông.
Ngày 15 tháng Sáu, đối tượng đã nhận việc làm phi công bay kép của hãng Global Airways, hãng máy bay tiếp vận khu vực hoạt động giữa Washington, Boston và Philadelphia.
Hãng Global Airways là một hãng mới, nhỏ với trang bị ba chiếc máy bay quân sự được cải tiến thành dân dụng và theo những tin tức tôi có thể khẳng định họ chưa đủ vốn và đang mắc nợ. Ông phó chủ tịch công ty nay cho tôi biết Ngân hàng Quốc gia số một Dallas có hứa cấp tín dụng trong vòng sáu mươi ngày nữa, với số tiền này họ có đủ vôn củng cố và phát triển sự nghiệp công ty.
Đối tượng được người ta đề cao và có lẽ sẽ có tương lai tốt đẹp tại đây.
Xin ông cho hay ông có cần tin tức gì thêm về Golbal Airways nữa không.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị.
HÃNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 Phố "D"
Washington, D.C.
Về việc 2-197-210
Ngày 20 tháng 7, 1946
Kính gửi ông Barbet, Hãng Golbal Airways bất ngờ tuyên bố phá sản và sắp chấm dứt hoạt động. Theo tôi biết, động tác này là do tác động của việc Ngân hàng Quốc gia số một Dallas đã từ chối không cho họ vay tiền đã hứa trước. Đối tượng lại một lần nữa bị mất việc và quay về với kiểu hành vi như tôi đã nêu ra trong các báo cáo trước đây.
Tôi sẽ không theo đuổi việc điều tra lý do tại sao ngân hàng lại từ chối không cho vay cũng như điều tra các khó khăn tài chính của Golbal Airways, trừ phi ông đặc biệt đề nghị tôi tiến hành việc này.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị.
Noelle cất giữ toàn bộ các báo cáo và những tin cắt từ các báo trong một chiếc túi da đặc biệt và chỉ có nàng có chìa khoá duy nhất. Chiếc túi đó lại cất trong một valy khoá kỹ và đặt phía sau chiếc tủ áo trong phòng ngủ của nàng, sợ Demiris tọc mạch những tài liệu của nàng bởi vì nàng biết ông rất thích âm mưu vụng trộm. Đây là mối tử thù riêng của Noelle, nàng muốn rằng Demiris sẽ đóng một vai trong vở kịch báo thù của nàng, song ông không bao giờ biết gì cả. Noelle nhìn lại lần cuối cùng bản mục lục giấy tờ rồi khoá lại, đầy vẻ thoả mãn.
Nàng đã sẵn sàng bắt tay vào việc.
Bắt đầu là một cú điện thoại.
Catherine và Larry đang ngồi ăn tối trong một không khí im lặng bứt rứt. Gần đây Larry rất ít khi trở về nhà, và mỗi khi trở về nhà, chàng lại cau có, thô bạo. Catherine thông cảm với sự bất hạnh của chàng.
- Cứ như có quỷ dữ bám sau lưng anh vậy - Chàng đã nói như thế với nàng khi hãng Golbal Airways bị phá sản.
Mà đúng thế thật. Chàng đã gặp vận xui liên tục khó mà tin được. Catherine cố tìm cách động viên Larry, cố ôn lại thời kỳ chàng còn là một phi công đại tài và những ai có được chàng đến cộng tác thì thật là đại phúc. Nhưng Catherine cũng cảm thấy nàng đang sống bên một con sư tử bị trọng thương. Nàng không biết trước lúc nào thì chàng sẽ lớn tiếng chừi mắng nàng và vì nàng không muốn làm cho Larry rối chí, nàng cố tìm hiểu những cơn giận dữ điên khùng của chàng và cố gạt chúng sang bên.
Lúc nàng đang dọn món tráng miệng thì có tiếng chuông điện thoại. Nàng nhắc ống nghe nói lên.
- Alô.
Đầu dây đằng kia là một giọng nói của người Anh:
- Larry Douglas có nhà không ạ? Tôi là Ian Whitestone đây.
- Ông đợi cho một lát - Nàng giơ ống nói ra cho Larry - Họ gọi anh đấy, Ian Whitestone.
Chàng nhíu mày, lúng túng:
- Ai nhỉ? Đột nhiên nét mặt chàng rạng ngời - Lạy Chúa tôi. Chàng tiến lên cầm ống nói từ tay Catherine - Ian đấy à? - Lạy Chúa, thế là đã gần bảy năm rồi đấy nhỉ? Làm thế nào mà cậu lùng ra được tớ?
Catherine quan sát thấy Larry gật đầu và mỉm cười trong lúc nghe điện thoại. Sau khoảng năm phút mới thấy chàng đáp:
- Bồ ạ, nghe hay đấy. Được, mình làm được. Ở đâu thế? - Chàng lại nghe - Được. Nửa giờ nữa nhé. Mình sẽ gặp cậu sau.
Chàng đặt ống nghe xuống, vẻ trầm tư suy nghĩ
- Bạn cũ của anh? - Catherine hỏi.
Larry quay lại phía nàng:
- Không, không hoàn toàn như vậy. Thế mới lạ chứ.
- Hắn là một thằng cùng bay với anh hồi trong không quân Hoàng gia. Chưa bao giờ hai đứa hợp với nhau. Thế mà bây giờ hắn nói hắn có một việc làm cho anh.
- Việc gì thế? - Catherine hỏi.
Larry nhún vai:
- Lúc anh trở về anh sẽ cho em rõ.
Gần ba giờ sáng Larry trở về nhà. Catherine đang ngồi trong giường đọc sách. Larry xuất hiện ở cửa phòng ngủ.
- Chào em!
Có chuyện gì đó đã xảy ra làm chàng vui mừng phấn chấn khác thường, một tâm trạng đã lâu lắm Catherine không thấy được ở chàng. Chàng tiến đến bên giường.
- Cuộc gặp mặt của anh ra sao?
- Theo anh thì tuyệt vời - Larry nói có cân nhắc - thực tế là rất tuyệt đến mức anh không thể tin nổi. Có lẽ anh sẽ kiếm được một việc làm.
- Làm cho Ian Whitestone?
- Không. Ian chỉ là một phi công. Anh đã kể với em là bọn anh đã từng bay với nhau.
- Vâng.
- Số là sau chiến tranh, một thằng bạn người Hy Lạp của hắn đã kiếm cho hắn công việc làm phi công tư cho Demiris.
- Đại tư bản ngành tàu biển?
- Demiris thống trị nửa thế giới. Cả tàu biển, khai thác dầu lửa và vàng. Whitestone đã có một chỗ êm ấm ở đó.
- Rồi sao?
Larry nhìn nàng, cười ha hả:
- Whitestone đã bỏ việc. Hắn sắp sang Australia. Một người quen sắp dựng cho hắn một doanh nghiệp riêng bên đó.
- Em vẫn chưa hiểu - Catherine nói - Thế nhưng chuyện như vậy có liên quan gì đến anh?
- Whitestone có nói với Demiris rằng anh sẽ thế chân hắn: Hắn bỏ đi rồi. Demiris không có cơ hội nào để tìm ra người thay thế. Whitestone cho rằng anh rất sẵn sàng nhận công việc này - Chàng ngập ngừng Cathy ạ, em không biết được công việc này sẽ có ý nghĩa với anh như thế nào đâu.
Catherine nhớ lại những lần khác, những công việc khác và nàng nhớ lại người cha nàng, nhớ đến những giấc mơ trống rỗng của ông, nàng cố giữ một giọng bình thản không muốn làm cho Larry phải nuôi hy vọng giả tạo, tuy nhiên nàng cũng không muốn dội một gáo nước lạnh lên sự nhiệt tình của chàng.
- Anh chẳng nói là anh với Whitestone trước đây không phải là bạn bè thân thiết đặc biệt sao?
Chàng ngập ngừng:
- Đúng thế?
Một thoáng ưu tư gợn lên trên trán chàng. Quả thực chàng và Ian Whitestone chưa bao giờ mến nhau. Cú phôn tối nay khiến chàng hết sức ngạc nhiên. Trong cuộc gặp mặt này, Whitestone tỏ ra bồn chồn một cách lạ lùng. Khi anh giải thích hoàn cảnh, Larry bảo:
- Mình ngạc nhiên rằng tại sao cậu lại nghĩ đến mình.
Im lặng lúng túng một lát, Whitestone bảo:
- Demiris cần có phi công xuất sắc và người đó phải là cậu.
Dường như Whitestone ấn công việc đó cho chàng và Larry làm việc này là làm một ân huệ. Anh ta có vẻ rất thoải mái khi Larry nói rằng chàng quan tâm đến công việc và sau đó anh ta có vẻ bồn chồn ra về ngay. Tóm lại đó là một cuộc gặp mặt rất kỳ quặc.
- Đây có thể là một cơ hội cho cả cuộc đời - Larry bảo - Demiris đã trả cho Whitestone mười lăm ngàn drachma(2) một tháng. Tức là năm trăm đô-la và anh ta đã sống như một ông hoàng ở bên đó.
- Thế nghĩa là anh sẽ phải sống ở bên Hy Lạp?
- Chúng ta sẽ sang sống bên Hy Lạp - Larry sửa lại lời Cathy - Với số tiền như vậy thì chỉ sau một năm chúng ta có thể tiết kiệm đủ sống độc lập. Anh đã nhận lời rồi đấy.
Catherine ngập ngừng, thận trọng tìm lời để nói:
- Larry ơi, bên đó quá xa, hơn nữa anh lại không hiểu con người Constantin Demiris ra làm sao. Ở đây cũng có công việc cho anh chứ…
- Không! - Giọng chàng trở nên hung tợn. - Ở đây chẳng có đứa chó nào biết giá trị của một phi công giỏi như thế nào. Chúng chỉ chăm chăm vào việc người ta đã đóng bao nhiêu tiền vào quỹ nghiệp đoàn chết tiệt của chúng. Ở bên đó anh sẽ hoạt động độc lập Cathy ạ, anh mơ ước điều đó đã từ lâu rồi. Demiris có cả một đội phi cơ, em không thể tưởng tượng nổi, và thế là anh lại được bay, cưng ạ. Anh chỉ cần làm vừa lòng có mỗi một người, đó là Demiris, và theo như Whitestone nói thì ông ta yêu quý anh lắm.
Nàng lại nhớ đến chuyện Larry đã làm cho hãng Pan American và những hy vọng chàng đã ấp ủ với hãng đó, rồi những thất bại của chàng với các hãng máy bay nhỏ. Nàng nhủ thầm: Lạy Chúa! Mình phải tham gia vào đó như thế nào? Như thế có nghĩa là nàng phải từ bỏ sự nghiệp mà nàng đã gây dựng và nếu như nàng muốn giữ vững cuộc hôn nhân này, nàng sẽ phải đến sống cùng một chỗ với chàng. Nếu công việc suôn sẻ thì thật là đẹp biết bao.
Chàng sẽ trở lại là một Larry như trước đây. Một người đàn ông mà lúc cưới nàng, chàng đáng yêu, hấp dẫn, tuyệt diệu biết nhường nào. Nàng phải liều một phen xem sao.
Catherine nói:
- Tất nhiên em sẽ theo anh chứ. Anh bay sang gặp Demiris xem sao. Nếu công việc ổn thoả, em cũng sẽ bay sang với anh ngay.
Chàng mỉm cười, nụ cười tươi tỉnh như con nít:
- Anh biết là em đáng tin cậy mà, cưng - Em cởi chiếc áo ngủ ra hay để anh làm cho vậy.
Trong lúc Catherine từ từ cởi áo, nàng nghĩ đến việc ngày mai nàng phải nói gì với Bill Fraser.
Sáng hôm sau, Larry bay sang Athens để gặp Constantin Demiris.
Suốt mấy ngày liền sau đó Catherine không hề bắt được tin tức gì của chàng. Một tuần trôi qua, nàng nghĩ rằng công việc ở bên Hy Lạp không suôn sẻ và Larry sắp quay về. Thậm chí chàng có tìm được việc làm ở chỗ Demiris chăng nữa, cũng không thể nói trước công việc kéo dài bao lâu. Chắc chắn chàng có thể tìm được một việc ở ngay trên đất Hoa Kỳ.
Larry đi được sáu ngày. Catherine nhận được một cú phôn từ hải ngoại gọi về.
Catherine đấy à?
- Alo, chào anh.
- Chuẩn bị hành lý lên đường. Em đang nói chuyện với phi công tư mới được Constantin Demiris tuyển dụng đây.
Mười ngày sau Catherine lên đường sang Hy Lạp.
Chú thích:
(1) Đoạn thư này nguyên văn bằng tiếng Pháp (người dịch).
(2) Đơn vị tiền Hy Lạp.

Truyện Phía bên kia nửa đêm Lời cảm tạ Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 ĩ đến khả năng làm cho một hãng hàng không. Tôi hiện có một người bạn đang điều hành hãng Pan American. Được một phi công giàu kinh nghiệm như cậu ấy thì họ may mắn lắm đấy.
Catherine ngồi ngẩn người ra suy nghĩ về chuyện này, nàng cố đặt mình vào địa vị Larry. Chàng yêu nghề lái máy bay hơn bất cứ chuyện gì trên đời. Nàng đáp thận trọng:
- Nghe ra… cũng hay đấy. Liệu anh có thể kiếm việc đó cho anh ấy không, anh Bill?
- Để tôi cố thử xem. Nhưng trước hết cô hây thăm dò Larry đi để xem cậu ấy phản ứng ra sao.
- Vâng, em sẽ làm - Catherine nắm lấy tay ông, tỏ vẻ biết ơn - Cảm ơn anh rất nhiều.
- Về chuyện gì? - Fraser hỏi lại, hững hờ.
- Về chuyện anh luôn luôn có mặt mỗi khi em cần đến anh.
Ông đặt tay lên bàn tay nàng:
- Trong phạm vi của anh mà thôi.
Tối hôm đó, khi Catherine thuật lại cho Larry về điều Bill Fraser gợi ý, chàng bảo:
- Từ hôm anh về đến giờ mới được nghe một ý kiến hay như vậy.
Và hai ngày sau chàng có cuộc tiếp kiến với Carl Eastman tại trụ sở của hãng Pan American ở Manhattan.
Catherine đã là lại một bộ com lê cho Larry, chọn một chiếc sơ mi, một chiếc cà vạt và đánh bóng đôi giày của chàng cho đến khi gần như soi gương được trên lớp da giày mới thôi.
- Anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay để cho em biết tình hình ra sao.
Chàng hôn nàng, nở một nụ cười ngây thơ kiểu cười của chàng rồi bỏ đi.
Catherine nghĩ: Larry vẫn giống như một đứa trẻ. Chàng có thể hay nóng nảy, cáu bẳn, song chàng vẫn là người đáng yêu và hào hiệp. Mình thật là hên - Catherine thở phào - Mình đáng ra phải là một người hoàn hảo nhất trên đời.
Trước mắt nàng đang có một chương trình làm việc bận rộn, song nàng không hề nghĩ được gì khác ngoài Larry và cuộc gặp gỡ của chàng. Đây không chỉ đơn thuần là một công việc. Nàng có cảm giác rằng toàn bộ cuộc hôn nhân của nàng phụ thuộc vào những gì sắp xảy ra.
Ngay hôm đó là một ngày dài nhất trong cuộc đời nàng.Trụ sở của Pan American đặt trong một cao ốc hiện đại ở Đại lộ số Năm và Phố số Năm mươi ba. Văn phòng của Carl Eastman rộng rãi, với đồ đạc tiện nghi. Rõ ràng ông ta giữ một địa vị quan trọng trong hãng:
Khi Larry bước vào phòng, ông ta chào hỏi:
- Xin mời vào, mời ông ngồi.
Eastman khoảng ba mươi lăm tuổi, đầu cắt gọn, má hõm, đôi mắt xanh xoi mói không bỏ qua chi tiết nào. Ông ta đưa Larry tới một chiếc tràng kỷ sau đó ngồi xuống chiếc ghế tựa đối diện với chàng.
- Ông dùng cà phê?
- Không, xin cảm ơn - Larry đáp.
- Tôi biết là ông muốn làm việc cho hãng chúng tôi.
- Vâng, nếu ở đây có chỗ trống.
- Hiện đang có chỗ khuyết - Eastman đáp - Nhưng có đến một ngàn chàng dô kề cao ngỏng đâm đơn vào - Ông lắc đầu ảo não - Thật khó mà tin được. Ngành Không quân đào tạo ra hàng ngàn thanh niên thông minh để đi lái những loại máy bay hết sức phức tạp từ trước đến nay. Rồi đến khi họ làm được việc, mà làm rất tốt nữa kia thì Không quân lại sa thải họ, không tạo cho họ việc gì để làm nữa - Ông ta thở dài - Khó mà tin được những người lũ lượt kéo tới đây suốt một ngày. Không thiếu gì những phi công cự phách, loại "át chủ" như ông. Chỉ có một chỗ khuyết mà có một ngàn đơn đâm vào… và tất cả các hãng hàng không khác cũng đang diễn ra một tình trạng như vậy.
Larry cảm thấy thất vọng tràn trề:
- Thế tại sao ông còn hẹn gặp tôi? - Chàng hỏi xẵng.
- Vì hai lý do. Một là cái ông ở trên kia bảo tôi phải làm.
Larry thấy giận bừng bừng.
- Tôi không cần…
Eastman ngả người về phía trước:
- Thứ hai là vì ông có thành tích bay rất cừ.
- Cảm ơn - Larry đáp hờ hững.
Eastman quan sát kỹ chàng:
- Ông sẽ qua một chương trình đào tạo tại đây. Sự thể cũng giống như trở lại nhà trường ấy.
Larry lưỡng lự, không biết là câu chuyện đang đi về đâu.
- Xem chừng cũng được - Chàng thận trọng đáp.
- Ông sẽ dự lớp huấn luyện ở New York, ngoại ô La Guardia.
Larry gật đầu, chờ đợi.
- Sẽ có bốn tuần học ở trường dưới đất, sau đó một tháng huấn luyện bay.
- Vậy là lái loại DC-4 sao? - Larry hỏi.
- Chính thế. Bao giờ xong lớp huấn luyện, chúng tôi sẽ trả cho ông ba trăm năm mươi đô-la hàng tháng.
Thế là chàng đã có việc làm. Gã khốn nạn này đã đưa ra hàng ngàn phi công xếp hàng sau chàng để doạ chàng. Nhưng chàng vẫn có việc làm rồi? Chàng lo lắng về chuyện gì kia chứ? Không một phi công nào trong cái binh chủng Không quân khốn khiếp kia có được một thành tích cao hơn chàng cơ mà.
Larry cười ngượng:
- Ông Eastman, tôi bắt đầu bằng công việc hoa tiêu cũng không sao, song nên nhớ tôi là phi công. Thế bao giờ thì bắt đầu.
Eastman thở dài:
- Các hãng máy bay đang được hợp nhất. Cách duy nhất để cho người ta tiến lên là phải có nhiều thâm niên. Phía trước anh còn rất nhiều người. Anh có muốn thử không?
Larry gật đầu:
- Tôi có gì để mất đâu?
- Đúng thế - Eastman nói - Tôi sẽ thu xếp mọi thủ tục cho anh. Tất nhiên anh sẽ phải qua kiểm tra sức khoẻ.
- Còn vấn đề gì nữa không?
Larry cười:
- Bọn Nhật không phát hiện ra ở tôi một thiếu sót nào.
- Sớm nhất thì đến bao giờ anh có thể đi làm?
- Ngay chiều nay có sớm quá không?
- Thôi để thứ hai nhé - Eastman viết cái tên lên một tấm thiếp rồi trao cho Larry - Đây. Họ sẽ đợi anh vào lúc chín giờ sáng thứ hai tới.
Larry gọi điện cho Catherine kể lại cho nàng về cái tin vừa qua, song giọng nói của chàng quá xúc động khiến Catherine không hiểu gì một hồi lâu. Nàng nhận thấy rằng mọi chuyện sẽ đâu vào đó.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 12 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--