Cuộc chiến Sáu Ngày

Bộ chỉ huy quân sự Israel bàn cách đánh..
8h sáng 5/6/1967, hầu như toàn bộ máy bay thuộc không lực Israel nhất loạt cất cánh, hướng về các phi trường của Ai Cập. Chỉ trong vòng 80 phút, sân bay El Arich, Djebel Libni, Bir Gafagfa, Bir Tamda và một loạt căn cứ không quân trên bờ tây kênh đào Suez đã bị san phẳng. Xác máy bay ngổn ngang. Sự kiện đó mở đầu cho kỳ tích sáu ngày của Israel.
Hoàn toàn bị bất ngờ, Cairo không kịp trở tay. Thế trận trên không mà quân đội Ai Cập dày công xây dựng vỡ vụn: Gần 400 máy bay cùng các ụ pháo cao xạ bị phá hủy. Israel giành quyền làm chủ bầu trời. Lúc này, bộ binh Do Thái mới chia ra 3 mũi, vượt bán đảo Sinai (Ai Cập) tiến sát tới thủ đô nước láng giềng. Cùng lúc, ở mặt trận phía bắc và đông đối đầu với Syria và Jordan, đại bác Israel khai hỏa.
Trong 6 ngày khó tin từ mồng 5 tới 11/6/1967, quân đội Do Thái làm cỏ bán đảo Sinai (Ai Cập), chiếm Dải Gaza, khu Bờ Tây sông Jordan, trong đó có thành cổ Jerusalem, cao nguyên Golan. Tối 7/6, khi xe tăng Israel chỉ còn cách thủ đô Amman 10 km, vua Jordan buộc phải chấp nhận yêu cầu đình chiến. Hôm sau, Đại sứ Ai Cập tại LHQ Mohammed Awad El Kouni không giấu nổi sự nghẹn ngào khi thông báo tại Hội đồng Bảo an rằng chính phủ của ông bằng lòng ngừng chiến. Lực lượng vũ trang Syria cầm cự được thêm hai ngày nữa rồi cũng phải buông súng vào mồng 10/6. Chiến dịch quân sự phòng ngừa chớp nhoáng (pre-emptive action) của Israel kết thúc thắng lợi.
Trên thực tế, Tel Aviv đã đi một nước cờ hết sức mạo hiểm khi chủ động tấn công các láng giềng Ảrập. Làm như vậy, Israel sẽ mang tiếng gây hấn trước, phải một lúc thọ địch ở cả 3 phía (sau lưng là biển) - chống lại liên minh Ai Cập, Jordan và Syria mà chỉ riêng Ai Cập đã có 70 triệu dân. Trong khi đó, tổng động viên già trẻ lớn bé Do Thái mới chỉ được 2,5 triệu người. Mặt khác, Israel đứng trước nguy cơ bị cô lập hoàn toàn nếu khiêu chiến. Liên Xô và các nước thuộc khối cộng sản đã hứa đứng về phe Ảrập. Ngày 2/6, De Gaulle, tổng thống Pháp khi đó, tuyên bố sẽ không tán thành nước nào động thủ trước, chứ đừng nói là ủng hộ. Mỹ thì đang mắc kẹt ở Việt Nam nên không muốn can thiệp vào Trung Đông.
Tổng thống Ai Cập Nasser.
Trong khi đó, tình hình khu vực xấu đi nghiêm trọng. Sau khi giành thắng lợi trong chủ trương quốc hữu hóa kênh đào Suez, buộc Anh, Pháp và Israel phải rút quân và trả lại những vùng đất chiếm đóng, uy tín của tổng thống Ai Cập Nasser tăng đột biến. Các nước Ảrập xem ông như một nhà lãnh đạo có khả năng dẫn dắt họ nhổ cái gai Israel và rửa mối nhục thất bại trong cuộc chiến tranh năm 1948. Năm 1966, Ai Cập và Syria ký hiệp ước liên minh. Ngày 31/5/1967, vua Hussein của Jordan quyết định gia nhập hiệp ước trên. Như vậy, cả 3 nước láng giềng của Israel ở đông, nam, bắc đã bắt tay nhau. Lúc này, Ai Cập tập trung 270.000 quân sát biên giới với quốc gia Do Thái (trong đó 100.000 binh sĩ đồn trú trên bán đảo Sinai, ngay cạnh sườn Israel), với những vũ khí tối tân do Liên Xô và Tiệp Khắc cung cấp. Syria cũng điều đến cao nguyên Golan - hơn 60.000 người. Về phần mình, sau khi gia nhập liên minh, Jordan cử 60.000 quân lên biên giới và đặt dưới quyền chỉ huy của một tướng Ai Cập. Ngoài ra, Libăng cũng gửi tới một đạo binh nhỏ. Các nước Ảrập khác như Iraq, Algeria, Kuwait tuyên bố sẵn sàng viện trợ quân sự khi cần thiết. Theo ước tính, vào thời điểm năm 1967, liên minh tay ba có tổng cộng 465.000 binh lính, hơn 2.880 xe tăng và 810 máy bay, trong tư thế sẵn sàng bóp cổ Israel.

Bản đồ các mũi tiến công của
Israel.
Tổng thống Ai Cập Nasser nhận thấy tình hình chưa bao giờ thuận lợi như vậy đối với khát vọng trừ bỏ nhà nước Do Thái. Cairo tuyên bố thẳng thừng: "Mục tiêu cơ bản của chúng tôi là hủy diệt Israel. Nhân dân Ảrập muốn chiến tranh". Nasser tự tin yêu cầu LHQ rút toàn bộ 3.400 binh sĩ thuộc Lực lượng khẩn cấp khỏi bán đảo Sinai. Đội quân này vốn làm nhiệm vụ ngăn cách hai chú bò hăng đấu Ai Cập Israel sau chiến tranh 1956.
Bầu không khí bỏng rẫy. Nhất là khi vào ngày 23/5, Ai Cập đưa hải quân tới phong tỏa eo Tiran, ngăn cản tàu Do Thái tới Elath, cửa ngõ ra Hồng Hải. Bị chặn ở phía đó, Israel như bị cắt mất một lá phổi. Chiến tranh là không thể tránh khỏi.
Tel Aviv liền huy động tất cả lực lượng dự bị động viên. Đồng thời, chính quyền Do Thái phát động chiến dịch ngoại giao. Ngay đêm Ai Cập phong tỏa eo Tiran (cửa vịnh Akaba), nội các Israel nhóm họp và ra tuyên bố kêu gọi phương Tây giúp đỡ bảo đảm con đường thông thương trên biển cho tàu bè Do Thái. Ngoại trưởng Abba Eban lên đường sang Pháp, Anh và Mỹ mong tranh thủ sự ủng hộ của các cường quốc này. Paris cảnh cáo Israel không được nổ súng trước. Còn tổng thống Johnson nói thẳng: Washington không muốn Tel Aviv hành động đơn phương. Mỹ đề xuất thành lập một lực lượng hải quân quốc tế để buộc Ai Cập mở cửa vịnh Akaba. Tuy nhiên, kế hoạch này không thành.
Khi các biện pháp ngoại giao rõ ràng không giải quyết được gì, Chính phủ Do Thái vào ngày 4/6 cho phép Bộ Quốc phòng thực hiện kế hoạch tấn công phòng ngừa để xóa bỏ mối nguy lơ lửng trên đầu dân tộc. Tel Aviv quyết định vời vị tướng lão luyện Moshe Dayan - có biệt hiệu là Độc long tướng quân - về làm Bộ trưởng Quốc phòng. Ông Dayan vốn thân cận với cựu thủ tướng Ben Gurion, thuộc phe đối lập với chính phủ đương nhiệm của Eshkhol. Tuy nhiên, dưới sức ép của nhân dân và trước mối nguy Ảrập, nội các Eshkhol buộc phải hy sinh quyền lợi riêng. Cỗ máy chiến tranh được phát động.
Israel đã tính đúng. Ai Cập tự tin liên minh Ảrập có thể dễ dàng áp đảo quân Do Thái với số quân và vũ khí vượt trội. Thêm nữa, Nasser chắc bụng khi chiến tranh nổ ra, Liên Xô và khối XHCN sẽ hỗ trợ. Matxcơva đã long trọng hứa trong bữa tiệc đón Bộ trưởng Quốc phòng Ai Cập, rằng Liên Xô sẽ giữ tình thân và tiếp tục giúp đỡ Ai Cập. Chính vì thế, Nasser đã yêu cầu quân LHQ rút đi, định buộc Israel ra tay trước.
Tuy nhiên, Mỹ và Nga không hề có ý định can thiệp vào chảo lửa Trung Đông. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến dịch quân sự năm 1967 của Israel.
Mặt khác, xét về thực chất, Israel có nhiều lợi thế. Mặc dù khối Ảrập tập trung tới hơn 450.000 quân nhưng chỉ có nhiều nhất 300.000 người có thể dự chiến. Quan trọng hơn, sau những cuộc thanh trừng chính trị nội bộ, hàng ngũ tướng tá của phe Ai Cập bị xáo trộn. Những nhân vật mới lên đều thiếu kinh nghiệm. Binh sĩ tuy đông nhưng chưa qua huấn luyện kỹ càng. Việc phối hợp hậu cần hết sức bê bối. (Có trường hợp một nhóm quân Ai Cập bị bỏ đói khát suốt 3 ngày, khi được lính Israel cho một ca nước, họ đã mừng rơi nước mắt).
Người Do Thái lại ở trong cái thế không có chỗ lùi. Họ bị bao vây 3 mặt, sau lưng là biển. Chính vì thế, tinh thần chiến đấu của sĩ tốt Israel rất hăng. Tổng cộng, Tel Aviv nắm trong tay một đội ngũ gần 300.000 quân rất có kỷ luật. Mặt khác, hoạt động tình báo của Israel bấy giờ hết sức hiệu quả. Theo giới sử học, các điệp viên Do Thái gửi về nước thông tin chi tiết về hải lục không quân đối phương. Ví dụ, họ biết được số lượng phi cơ và binh lính ở các sân bay, kiểu máy bay, đường bay, sĩ quan chỉ huy, giờ giấc hoạt động, chỗ nào là máy bay thật, chỗ nào chỉ nghi binh thôi. Tướng Moshe Dayan phải khen rằng: "Bất kỳ một quân đội nào trên thế giới cũng phải tự hào khi có một cơ quan tình báo như vậy".
Độc long tướng quân Moshe
Dayan.
Quan trọng nhất, Israel có được Bộ trưởng Quốc phòng biết điều binh khiển tướng hết sức tài ba. Độc long tướng quân Moshe Dayan là vị chỉ huy chưa hề biết đến thất bại. Ông đã chiến đấu trong quân đội Anh hồi Thế chiến II, rồi chỉ huy cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc 1948-1949, làm tư lệnh quân lực Israel từ năm 1954 đến năm 1958. Ông chủ trương buộc các sĩ quan từ tướng tá trở xuống luôn phải xung phong trước quân sĩ để nêu gương. Bên cạnh Dayan còn nổi lên các gương mặt như Yitzhak Rabin (người sau này làm thủ tướng Israel), tướng Yigael Yadin và tướng Mordekhai Hod, tư lệnh không quân.
Vấn đề còn lại là lập ra một phương án tác chiến hợp lý để giành thắng lợi tối đa trong khoảng thời gian ngắn nhất. Tel Aviv biết rằng, các cường quốc sẽ không ngồi yên mãi nhìn 4 quốc gia Trung Đông thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau.
Moshe Dayan quyết định dùng chiến thuật đánh thốc: tập trung một đoàn thiết giáp ồ ạt tiến lên, mở đường xuyên qua phòng tuyến địch, tấn công vào một vị trí. Khi một lỗ hổng được mở, xe tăng xông lên và tiến tới không ngừng nghỉ. Bên cạnh đó, bộ binh và đặc nhiệm sẽ nhảy dù xuống khu vực kênh Suez.
Ngoài ra, radio Israel còn tung những tin tức thất thiệt để đánh lừa địch, tạo sự hỗn loạn trong hàng ngũ tướng lĩnh đối phương. Khi nghe tin quân sự qua làn sóng đài Do Thái, Bộ chỉ huy tối cao Ảrập lầm tưởng rằng quân Israel đang cùng quẫn trên sa mạc Neguev hay trên Dải Gaza, trong khi trên thực tế, Cairo bị uy hiếp đến nơi. Có một lần các máy bay Ảrập đua nhau hạ cánh xuống phi trường Al Arish. Chẳng có gì đáng ngờ cả, cờ Ai Cập vẫn phấp phới trước gió và đài kiểm soát không lưu vẫn lanh lảnh giọng phát thanh viên Ảrập. Mà có thông tin nào về việc Israel đã chiếm được phi trường này đâu. Thế là, quân Do Thái tóm gọn cả một phi đội.
Độc long tướng quân Moshe
Dayan.
Chiến dịch quân sự diễn ra theo đúng dự kiến của Bộ Quốc phòng Israel. Đòn phủ đầu sấm sét được tung ở Ai Cập. Sau những loạt bom, rocket và liên thanh của Israel, Cairo hầu như không còn một chiếc máy bay nào chiến đấu được. Phải mất 1 tiếng đồng hồ sau, nội các Nasser mới hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tất cả thế giới ngạc nhiên, không hiểu tại sao phi công Israel lại nhằm trúng đích một cách tài tình như vậy. Báo chí hồi đó đồn đại Tel Aviv có một khí giới bí mật nào đó. Tuy nhiên, những bức ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy các sân bay đều bị san phẳng bởi bom và rocket thường. 
Trên bộ, Moshe Dayan vẫn dùng chiến thuật từ năm 1956: chia 3 mũi tấn công. Tới ngày 8/6, toàn bán đảo Sinai đã lọt vào tay Israel. Eo Tiran và vịnh Akaba được giải tỏa. Quân Israel tiến không ngừng. Cho tới lúc đình chiến tối 8/6, Ai Cập thiệt hại 10.000 quân, 5.000 người bị bắt làm tù binh, gần 500 phi cơ tan xác, 400 xe tăng bị hủy, 300 chiếc khác bị cướp. Còn phía Israel có 275 binh sĩ tử trận, 800 người bị thương, 61 tăng bị phá hủy.  
Vì ngày đầu phải đem quân diệt Ai Cập - quốc gia đứng đầu liên minh tay ba - nên ở mặt trận Jordan phía đông, Tel Aviv không mở đợt tấn công ồ ạt ngay được. Cuộc chiến đấu giành giật cổ thành diễn ra ác liệt trên từng khúc đường, từng căn nhà. Rốt cuộc, ngày 7/6, quân Israel chiến được Đông Jerusalem. Trong lúc đó, một cánh quân Do Thái khác chiếm Naplouse, Djenine và tiến vào bờ tây sông Jordan. Chiều 7/6, vua Hussein đành chịu thua. Trên 6.000 người của phía Jordan bị chết hoặc mất tích, 760 bị thương, 460 bị bắt làm tù binh, khoảng 1/3 trong tổng số 300 chiến xa bị phá hủy, máy bay hư hỏng toàn bộ. Quân Do Thái tổn thất 350 người. 300 binh sĩ khác bị thương.
Trong 3 nước Ảrập, Syria chiến đấu hăng hơn cả. Damascus dồn lên biên giới lực lượng khá mạnh: 75.000 quân được trang bị đầy đủ với 400 xe tăng. Syria lại có lợi thế cao nguyên Golan hiểm trở với nhiều thành lũy kiên cố do Đức, rồi Nga xây cất. Israel bị tổn thất khá nặng trên chiến trường này dù ngay từ đầu họ làm chủ không phận. Tel Aviv dùng chiến thuật tiêu hao và tấn công bất ngờ. Họ dùng máy bay dội bom dồn dập vào phòng tuyến đối phương, nã đại bác suốt 5 giờ liền, rồi từ thung lũng sông Jordan đánh thốc lên cao. Khi cửa đã mở, xe tăng lập tức xung trận. Tổng kết cuộc giao tranh, Syria có 200 người chết, 5.000 người bị thương, 80 xe tăng bị phá hủy, 40 bị cướp. Còn Israel thiệt 115 quân, 306 bị thương. 18h ngày 10/6, hai bên ngưng chiến theo lệnh của LHQ. Bộ trưởng Ngoại giao Syria đau lòng tuyên bố "Syria thua vì không được không quân yểm hộ" (không lực Ai Cập tan rã ngay từ đầu).

Bản đồ các mũi tiến công của quân Israel năm
1967.
Vậy là khối Ảrập thêm một lần bại trận trước Israel. Tel Aviv đã tranh thủ cuộc chiến 1967 để chiếm thêm nhiều đất của phe Ai Cập. Cao nguyên Golan, khu Bờ Tây, Dải Gaza màu mỡ về tay Israel. Sau khi đình chiến, các nước Ảrập đứng trước tình thế hết sức khó khăn: Nội bộ bất ổn, kinh tế yếu ớt. Nước nào cũng thiếu tiền. Kênh Suez buộc phải đóng cửa khiến Ai Cập thiệt mỗi tuần cả 1,5 triệu đôla. Jordan mất đi thành cổ Jerusalem - nguồn lợi du lịch đem lại 34 triệu USD mỗi năm. Cả khu Bờ Tây trù phú cung cấp 80% sản lượng dầu ô liu, 65% rau trái cho nước này cũng bị quân Do Thái chiếm mất. Các quốc gia khác như Ảrập Xêút, Iraq, Kuwait cũng mất nguồn tiền bán dầu khi tức giận cắt quan hệ với phương Tây. Khối Ảrập bị chia rẽ mạnh. Hội nghị Khartoum (tháng 8/1967) do Ai Cập chủ xướng thất bại trong việc tìm ra một giải pháp chung buộc Israel rút quân.
Về phần mình, quốc gia Do Thái chiếm được nhiều đất, tạm thời loại bỏ được mối nguy từ các nước Ảrập. Tuy nhiên, điều này làm sâu sắc thêm sự hằn thù dân tộc ở Trung Đông. Sau chiến tranh, rất nhiều người Israel đem gia đình tới lập khu định cư ở Bờ Tây và Dải Gaza. Cho tới nay, 2% dân số quốc gia Do Thái (khoảng 400.000 người) đang ngụ tại khu vực này. Giải quyết bài toán đảm bảo cuộc sống cho những người định cư và kiến tạo hòa bình với Ảrập từ đó luôn làm Tel Aviv vò đầu bứt tai. Thực tế, nội bộ Israel luôn chia rẽ trên vấn đề đó. Những người cánh hữu cảm thấy vùng đất mới là chiến lợi phẩm hợp lý trong cuộc chiến chính nghĩa, trong khi cánh tả cho rằng nên đổi nó lấy hòa bình.
Một lần nữa, chiến thắng quân sự lại khiến người ta lo ngại hơn cho số phận của đất nước Do Thái. Sự xấu hổ và phẫn nộ của thế giới Ảrập từ thất bại ê chề trên đã đẻ ra phong trào Hồi giáo quá khích ở Trung Đông. Chiến tranh cũng dẫn tới một cuộc tái thiết hoạt động du kích và sự xuất hiện của lực lượng kháng chiến Palestine thực sự khi thêm nhiều người trở thành dân tị nạn.
Sau năm 1967, uy tín của Liên Xô suy giảm ở Trung Đông do nước này không can thiệp để cứu Ai Cập. Còn Mỹ và phương Tây giành thắng lợi lớn về tinh thần. Một loạt nước Ảrập (tiêu biểu là Jordan) quyết định ngả hẳn sang phe Washington.